Khóa luận Mở rộng hoạt động Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội

Chính phủ cần chỉ đạo xúc tiến nhanh hơn nữa việc thực hiện chính sách thương mại nhằm khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu, đảm bảo ổn định cán cân thanh toán quốc tế. Cần có sự kết hợp giữa các cơ quan hữu quan: Tổng cục Hải quan, Bộ Công nghiệp, Tòa án Nhân dân, nhằm tạo ra sự nhất quán trong việc ban hành cũng như thi hành các văn bản pháp lý về TTQT của Việt Nam. Các văn bản này phải phù hợp với điều kiện và đặc điểm kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính phủ cần nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại bằng cách mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, duy trì mở rộng thị phần trên những thị trường quen thuộc, xâm nhập và phát triển các thị trường tiềm năng. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp điều kiện của nước ta, đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ quốc tế. Đẩy nhanh hơn nữa hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại và tiếp cận thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp. Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, XNK hàng hóa, dịch vụ khai thác triệt để tiềm năng và tài nguyên, nguồn nhân lực, phát triển các hàng hóa dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1789 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Mở rộng hoạt động Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, chưa tạo được vị trí trong lĩnh vực này, và vì chưa nhiều kinh nghiệm tham gia TTQT nên khách hàng cũng ít được tìm hiểu và biết tới dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Một thực trạng nữa ở SHB là tỷ trọng đóng góp của doanh số TTQT vào tổng thu nhập tại SHB mới chỉ là 16,61%, trong khi tỷ trọng này ở các ngân hàng lớn khác cùng địa bàn đạt trên 30, 40%; bên cạnh đó, sản phẩm dịch vụ TTQT mà SHB cung cấp mới chỉ dừng lại ở những sản phẩm, dịch vụ cơ bản nhất. Ngoài các nghiệp vụ chính như chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ thì SHB mới chỉ có thêm dịch vụ liên quan đến TTQT như: hỗ trợ du học, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh quốc tế… So với những ngân hàng khác vững mạnh về TTQT như Vietcombank, , BIDV, Eximbank… thì SHB chưa có khả năng cạnh tranh và thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng, khi mà hoạt động TMQT ở nước ta càng ngày càng phát triển hơn. Dù ngân hàng đã có những định hướng và chiến lược riêng để phát triển kinh tế nhưng như đã phân tích, hiện nay TTQT chưa phải là thế mạnh của SHB, và đây vẫn là một lĩnh vực còn mới mẻ đối với bản thân ngân hàng. So với các ngân hàng khác trên địa bàn và toàn quốc, SHB là một ngân hàng nhỏ mới tham gia TTQT, thời gian hoạt động chưa lâu nên chưa có nền tảng và điều kiện để tăng cường hơn nữa các sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 2.2.3.2. Đánh giá về hoạt động TTQT tại SHB a, Kết quả đạt được Từ năm 2006 phòng TTQT của SHB - Hội sở chính mới đi vào hoạt động, thời gian hoạt động còn chưa lâu và đây thực sự là một lĩnh vực mới mẻ đối với Ngân hàng nên kinh nghiệm chưa nhiều nhưng hoạt động TTQT của Ngân hàng luôn được quan tâm, và ngày càng nâng cao về cả số lượng và chất lượng, nhanh chóng tạo niềm tin đối với khách hàng. Sau 3 năm đi vào hoạt động SHB đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Thứ nhất, hoạt động TTQT đóng góp ngày càng tăng vào thu nhập của ngân hàng. Cụ thể, xem lại bảng 2.2 “Kết quả doanh số toàn hàng TTQT của SHB từ năm 2006 – 2008, ta thấy doanh số TTQT tăng dần theo các năm, đạt 985,04 nghìn USD năm 2008, tăng so với 332,26 nghìn USD trong năm 2006 – là năm đầu tiên đi vào hoạt động TTQT của ngân hàng. Doanh số tăng có nghĩa là phần đóng góp vào tổng thu nhập tăng, điều phản ánh rõ ràng nhất kết quả mà hoạt động TTQT đạt được đối với ngân hàng. Đạt được kết quả trên một phần nhờ SHB có lợi thế dồi dào về nguồn vốn. Đây là bởi số lượng thanh toán xuất khẩu tại SHB rất ổn định, đảm bảo nguồn ngoại tệ lớn. Không như những ngân hàng khác phải vay hoặc mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng, SHB có sẵn nội lực này nhờ hai khách hàng lớn chuyên về xuất khẩu là TKV và KRV. Nhờ vào lượng khách hàng truyền thống ổn định này, không những SHB luôn sẵn có nguồn ngoại tệ ổn định phục vụ kinh doanh mà vì thế, SHB còn tạo được lợi thế của mình trong TTQT. Đó là tiết kiệm chi phí hoạt động TTQT, giảm chi phí dịch vụ TTQT cũng như tiến hành nghiệp vụ với thời gian nhanh nhất vì không phải chờ đợi, phụ thuộc vào việc mua bán ngoại hối như các ngân hàng khác. Ưu thế này giúp SHB lôi kéo được thêm các khách hàng tiềm năng đến giao dịch với mình. Thứ hai, hoạt động TTQT phát triển đã thúc đẩy các hoạt động liên quan phát triển theo. Giữa các nghiệp vụ của ngân hàng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, sự phát triển của nghiệp vụ này sẽ hỗ trợ cho các nghiệp vụ khác phát triển theo. TTQT cung cấp ngoại tệ cho nghiệp vụ tín dụng có yếu tố nước ngoài. Nguồn ngoại tệ này có được từ nghiệp vụ nguồn vốn của ngân hàng. Phần lớn các nhu cầu TTQT của khách hàng tại SHB cần có sự hỗ trợ vốn ngoại tệ của ngân hàng. Chính sự phát triển của hoạt động TTQT đã làm tăng thêm nhu cầu vay mượn của ngân hàng, là cơ sở tạo điều kiện cho việc tăng dư nợ cho vay ngoại tệ. Những khoản vay ngoại tệ này thông qua TTQT sẽ giảm bớt được rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đối với ngân hàng. Ngân hàng tạo được mối tin cậy với nhiều ngân hàng đại lý trên thế giới, do vậy đã khai thác rất tốt nguồn vốn ngoại tệ kiều hối, làm tăng doanh thu mua ngoại tệ và chuyển tiền. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ phát hành thẻ quốc tế và các nghiệp vụ khác liên quan đến dịch vụ khách hàng nhằm thu hút khách hàng nước ngoài tham gia hoạt động TTQT cũng đã tạo điều kiện cho TTQT tại SHB được mở rộng. Thứ ba, SHB luôn quan tâm đến hoạt động TTQT và đã mở rộng, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng về thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu và các nhu cầu tài chính quốc tế khác. Ngân hàng đã đa dạng hóa các loại hình dich vụ dựa trên việc ứng dụng các công nghệ hiện đại vào TTQT, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ TTQT. Bên cạnh các hoạt động kinh doanh truyền thống như mở L/C, thông báo L/C, chuyển tiền … thì ngân hàng đã đáp ứng các nhu cầu phát sinh thêm của khách hàng bằng các dịch vụ khác liên quan đến kinh doanh ngoại hối. Thứ tư, Ngân hàng đã làm tốt công tác tư vấn khách hàng về lựa chọn phương thức thanh toán, bảo hiểm rủi ro… xử lý các bộ chứng từ phức tạp. Theo báo cáo TTQT của SHB 2008, chưa có bộ chứng từ nào do SHB lập và bảo lãnh bị từ chối thanh toán trong năm qua. Ngân hàng đã nhanh chóng có được sự tin tưởng, tín nhiệm của khách hàng và ngày càng thu hút nhiều khách hàng thực hiện thực hiện thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Ngân hàng áp dụng mức phí hợp lý theo chỉ đạo của Tổng giám đốc và có linh hoạt đối với khách hàng truyền thống. Với chính sách khách hàng được cải thiện, SHB đã thu hút được thêm nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu thanh toán qua ngân hàng. Ngân hàng cung cấp đầy đủ mọi yêu cầu về thanh toán và các nghiệp vụ liên quan cho doanh nghiệp với chi phí hợp lý so với ngân hàng khác. Đối với khách hàng cá nhân, ngân hàng cung cấp đầy đủ như chi trả kiều hối, chuyển tiền, thu đổi ngoại tệ một cách nhanh chóng, chính xác và thân thiện đối với khách hàng. Bằng các nỗ lực trên, ngân hàng đã duy trì được một số khách hàng truyền thống và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng mới, tăng uy tín của ngân hàng. Thứ năm, SHB có một đội ngũ cán bộ TTQT trẻ, chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm và hiểu biết rộng. TTQT là nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi cán bộ thực hiện không những phải giỏi nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải có kiến thức ngoại thương, thông thạo ngoại ngữ, nắm vững các quy định về quản lý xuất nhập khẩu hiện hành của nhà nước. Cán bộ TTQT cũng là người trực tiếp tiếp xúc khách hàng, tư vấn và hướng dẫn khách hàng thực hiện TTQT, là nhân tố quyết định sự trôi chảy và thành công của hoạt động TTQT tại ngân hàng. Đội ngũ cán bộ TTQT tại SHB hầu hết là những cán bộ giỏi có kinh nghiệm tại các ngân hàng khác được SHB mời về. Để nâng cao chuyên môn và kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro, trong quá trình công tác, SHB luôn tạo điều kiện để họ tham gia các khóa học của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng quốc tế như Citibank, ANZ… mở ra. Trong năm 2007, 2008, cán bộ TTQT được tham gia vào hội thảo mà SHB mời chuyên gia nước ngoài về giảng dạy. Cán bộ không chỉ được tìm hiểu về nghiệp vụ chính của phòng ban mình mà còn tham gia các buổi học về nghiệp vụ khác để nắm vững chức năng, hoạt động liên quan đến ngân hàng. Với đội ngũ cán bộ TTQT hiện nay, SHB thực sự đã tạo lực lượng nòng cốt, là một yếu tố quan trọng góp phần mở rộng hoạt động TTQT. b, Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế Thời gian qua, kết quả mà SHB – HSC đã đạt được trong bước đầu tiến hành dịch vụ TTQT đã chứng tỏ sự nỗ lực của của toàn bộ hệ thống. Tham gia vào hoạt động TTQT chưa lâu nhưng dịch vụ này đã được ngân hàng tiến hành thuận lợi so với một số ngân hàng khác cũng mới tham gia TTQT. Tuy nhiên, qua phân tích thực trạng hoạt động TTQT tại SHB – HSC, ta cũng nhận thấy hạn chế của ngân hàng là hoạt động này chưa được mở rộng, ngân hàng chưa chiếm lĩnh được thị trường dịch vụ này. Những con số TTQT được tiến hành qua ngân hàng chưa gây được ấn tượng với toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung cũng như trong hoạt động TMQT. Vậy, hoạt động này chưa thực sự mang lại hiệu quả chưa được tiến hành nhanh chóng theo yêu cầu của khách hàng… Đầu tiên, hạn chế trong hoạt động TTQT tại SHB thể hiện ở tổng doanh số thanh toán còn thấp, mặc dù Hà Nội là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước. Trên địa bàn thủ đô Hà Nội hiện nay có rất nhiều công ty tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các công ty có yếu tố nước ngoài có dự án TMQT, nhưng doanh số hoạt động TTQT của ngân hàng còn ở con số rất khiêm tốn, tỷ trọng nhỏ so với doanh số hoạt động trên địa bàn. Thứ hai, các sản phẩm dịch vụ TTQT chưa phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Giờ đây, SHB vẫn đang cố gắng đưa sản phẩm dịch vụ TTQT mới như thanh toán và làm đại lý séc du lịch, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế… vào hoạt động. Các sản phẩm dịch vụ TTQT truyền thống thì hoạt động nhờ thu trên vẫn phải thực hiện thông qua Ngân hàng TMCP Quân đội, còn nhờ thu kèm chứng từ thì chủ yếu là thanh toán nhờ thu từ nước ngoài gửi đến là chính. Thứ ba, tăng trưởng giữa các phương thức không đồng đều. Các khách hàng tham gia thanh toán chủ yếu bằng phương thức chuyển tiền và TDCT. Phương thức nhờ thu còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong phương thức TDCT thì chủ yếu là thanh toán L/C xuất, thanh toán L/C nhập còn ít, doanh số tham gia qua phương thức tín dụng chứng từ cũng chiếm đa số. Với phương thức chuyển tiền cũng vậy, chủ yếu là chuyển tiền đi, chuyển tiền đến chiếm tỷ trọng nhỏ. Khách hàng tham gia ở SHB – HSC ngoài hai nhà xuất khẩu chính thường yêu cầu mở thư tín dụng để đảm bảo an toàn cho họ do tính ưu việt của hoạt động thanh toán TDCT là các nhà nhập khẩu nhưng với số lượng nhỏ lẻ. Đây là một sự khác biệt của SHB so với những ngân hàng lớn khác như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Kỹ thương,… Thứ tư, Ngân hàng chưa khai thác được hết các nhu cầu của khách hàng. Số lượng khách hàng giao dịch nội tệ tại ngân hàng ngày càng đông đảo, trong đó có những khách hàng có hoạt động kinh doanh XNK nhưng họ chỉ sử dụng dịch vụ nội địa của ngân hàng, còn các nhu cầu sử dụng dịch vụ TTQT họ lạ sử dụng của các ngân hàng khác. Hoặc họ chỉ sử dụng các sản phẩm dịch vụ thanh toán XNK của ngân hàng với số lượng hạn chế. Điều này chứng tỏ SHB chưa tiếp cận và khai thác hết các nhu cầu sử dụng dịch vụ TTQT của khách hàng. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan Trước hết, nguyên nhân gây ra hạn chế của SHB – HSC là do các sản phẩm dịch vụ TTQT gia nhập thị trường muộn, thị phần còn rất nhỏ. Từ năm 1990 trở về trước, Ngân hàng Ngoại thương độc quyền trong TTQT. Sau đó, do yêu cầu đổi mới kinh tế, sự độc quyền trở bất hợp lý, vì thế, pháp lệnh số 38/LTC HĐBT của Nhà nước ra đời tháng 5/1991 cho phép các NHTM tham gia vào hoạt động TTQT. Hiện nay, khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và hòa vào xu hướng hội nhập toàn cầu, các NHTM đều triển khai hoạt động và thu được nhiều kết quả khả quan về TTQT. Tuy đã chính thức hoạt động sang năm 2009 là năm thứ 4 nhưng ngày 24/7/2007, Ngân hàng Nhà nước mới ký quyết định chính thức cho SHB được phép hoạt động TTQT, coi đây là một trong những nghiệp vụ chính của ngân hàng. SHB bắt đầu tham gia vào TTQT khi các ngân hàng khác đã ổn định hoạt động TTQT của mình. Một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh số hoạt động TTQT tại SHB vẫn còn thấp là do hoạt động này được triển khai chậm, dẫn tới cơ cấu khách hàng giao dịch tại ngân hàng phần lớn là khách hàng quen, đã có quan hệ tín dụng, gửi tiền… hoặc là các khách hàng kinh doanh trong nội địa, số lượng đơn vị có hoạt động TMQT còn rất hạn chế. TTQT là hoạt động có rủi ro cao, khách hàng luôn đặt lên hàng đầu uy tín, khả năng thực hiện nghiệp vụ, khả năng tư vấn. Bên cạnh đó, những ngân hàng khác cũng có chính sách ưu đãi để giữ khách hàng cũ, nhất là những ngân hàng lớn thì an toàn và phát triển bền vững là rất quan trọng. Vì thế, nhìn chung các khách hàng truyền thống trong lĩnh vực TMQT chính ở Việt Nam thường tập trung hầu hết ở Ngân hàng Ngoại thương và một số Ngân hàng lớn khác, do đó khó để lôi kéo được họ. Mặt khác, các sản phẩm dịch vụ thanh toán mới như séc du lịch, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, … đang trong quá trình triển khai thực hiện trong khi các sản phẩm dịch vụ cùng loại của các ngân hàng khác đã và đang trong giai đoạn phát triển chín muồi. Điều này dẫn đến việc rất khó khăn trong việc phát triển dịch vụ của mình và tìm được vị trí xứng đáng trên thị trường. Trong những năm kinh tế mở cửa gần đây, số lượng ngân hàng được thành lập tăng lên một cách nhanh chóng, đặt SHB vào tình trạng phải cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nội. Ngoài những ngân hàng lớn có tiếng tăm trong nước còn có các chi nhánh ngân hàng nước ngoài như Citibank, ANZ, HSBC… các ngân hàng này có khả năng tài chính rất mạnh, nguồn ngoại tệ dồi dào, công nghệ hiện đại làm cho khâu thanh toán được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, chính xác, an toàn với chi phí hợp lý. Như vậy, vấn đề chính gây ra hạn chế của SHB là do tham gia vào lĩnh vực TTQT sau, xuất phát điểm thấp nên chi nhánh sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc vươn lên khẳng định mình. Một nguyên nhân khác gây ra hạn chế nữa là do chính sách Marketing chưa được quan tâm đúng mức Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có đặc điểm là thị trường thông dụng, sản phẩm mang tính đồng nhất. Điều đó đòi hỏi ngân hàng phải linh hoạt thì mới có khả năng cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường. Trên cùng một thị trường, cùng một địa bàn hoạt động, các ngân hàng đều đưa ra các loại hình sản phẩm TTQT như nhau, điều đó buộc các ngân hàng phải cố gắng hết sức trong việc chào bán sản phẩm dịch vụ của mình. Vì vậy áp dụng Marketing trong hoạt động của các ngân hàng là điều tất yếu. Tại SHB, công tác Marketing chưa được tiến hành một cách có tổ chức và có hệ thống, hoạt động Marketing còn mang tính thụ động, chưa có biện pháp kích thích tiêu thụ. Bởi vậy, chưa khuếch trương được hoạt động TTQT của mình, không lôi kéo được khách hàng mới, doanh số hoạt động phần lớn tập trung vào một số khách hàng tryền thống. Nguyên nhân của việc ứng dụng hạn chế Marketing vào hoạt động TTQT còn xuất phát ở chỗ đó là vấn đề đòi hỏi rất nhiều thời gian, tiền của và con người. Vì thế không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện để thành lập phòng Marketing riêng trong khi còn hạn hẹp về nguồn vốn, hạn chế trong sự thống nhất giữa các phòng ban… Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng chưa theo kịp mức độ tiên tiến của các ngân hàng bạn cũng làm giảm sức cạnh tranh của SHB. Mặc dù SHB đã trang bị máy móc hiện đại phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng nhưng cho đến nay, các chương trình phần mềm áp dụng cho TTQT vẫn còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc đưa thông tin cần thiết cập nhật phục vụ TTQT và việc nối mạng nội bộ trong hệ thống SHB tuy được thực hiện khá muộn. Vì vậy ngân hàng chưa phát huy được tối đa lợi thế sẵn có, đảm bảo cho công việc thanh toán được tiền hành trôi chảy, rút ngắn thời gian thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và khả năng kiểm soát cao của ngân hàng Ngoài ra, SHB là một ngân hàng mới tham gia hoạt động TTQT, số lượng khách hàng giao dịch còn ít, uy tín của ngân hàng trên quốc tế chưa cao, chưa được biết đến nhiều. SHB cũng mới chỉ có chính sách ưu đãi lãi suất tín dụng đối với các khách hàng có dư nợ tín dụng cao mà chưa có chính sách khuyến khích cụ thể nào đối với những khách hàng mới, để họ thấy được lợi ích khi giao dịch tại SHB. Điều này dẫn đến việc không khuyến khích được khách hàng đã tham gia sử dụng các dịch vụ TTQT của mình. Nguyên nhân khách quan Một trong những nguyên nhân khách quan gây ra hạn chế của SHB là vì chính sách thương mại không ổn định Trong những năm gần đây, một số chính sách đối ngoại và ngoại thương đã được cải thiện như: tự do hoá ngoại thương, mức thuế quan cao nhất giảm xuống còn 8% và số lượng khung thuế quan đã giảm còn 3%. Tỷ trọng hàng nhập khẩu chịu các biện pháp phi thuế quan giảm từ 4/5 xuống 2/5. Từ khi gia nhập WTO nhà nước đã có một số cải cách chính sách thương mại và hoạt động ngoại thương như: Mở rộng quyền tự do thương mại, tự do hoá xuất khẩu và giảm thuế suất tối đa: các doanh nghiệp được XNK trực tiếp các sản phẩm nằm trong đăng ký kinh doanh mà không cần xin phép; Ban hành thông tư hướng dẫn giảm số lượng thuế suất nhập khẩu từ 26 xuống 12 và giảm thuế nhập khẩu tối đa, loại trừ 6 mặt hàng; Giảm lượng ngoại tệ bắt buộc phải kết hối từ 80% xuống 30% trên số ngoại tệ vãng lai phí. Cơ chế chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại còn nhiều bất cập, luôn có những thay đồi thường xuyên về những mặt hàng được phép xuất nhập khẩu, biểu thuế áp dụng, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Chính phủ và các bộ ngành có liên quan chưa hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là khâu tiêu thụ sản phẩm, chưa hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường, bảo vệ thương hiệu. Mặc dù gần đây Nhà nước đã có quan tâm tới việc quảng bá thương hiệu Việt trên trường quốc tế nhưng hoạt động vẫn còn nhỏ lẻ và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Nhưng qua đó ta có thể thấy, chính sách thương mại thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp bị động trong kế hoạch kinh doanh, từ đó ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và gián tiếp ảnh hưởng tới công tác TTQT của ngân hàng. Những mặt hàng được phép xuất nhập khẩu thay đổi làm cho doanh nghiệp không kịp cập nhật, biểu thuế biến động gây khó khăn cho việc tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu rườm rà làm mất thời gian, lỡ cơ hội kinh doanh của cả doanh nghiệp và ngân hàng. Nguyên nhân khách quan thứ hai tác động tới hoạt động TTQT của SHB – HSC là vì các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động TTQT chưa đồng nhất và phát huy hiệu quả Nước ta vừa gia nhập WTO, và đang trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu nên khung pháp lý mới được hình thành nhưng chưa hoàn thiện, chưa thực sự tạo ra môi trường phù hợp để thúc đẩy và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh tế. Hầu hết các nước đều thừa nhận các quy chuẩn trong hoạt động TTQT như: Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 600, các quy tắc hoàn tiền giữa các ngân hàng, quy tắc thống nhất nhờ thu bản số 522, luật về hối phiếu, luật về séc... Nhưng đây là những quy chuẩn không bắt buộc. Hiện nay các NHTM Việt Nam tham gia hoạt động TTQT đều thừa nhận và tuân theo các quy chuẩn do Phòng thương mại Paris ban hành và các điều lệ quốc tế như Incorterm 2000, UCP 600... Tuy nhiên đứng về giác độ quản lý Nhà nước thì cho tới nay, chưa có văn bản nào thừa nhận việc áp dụng các quy chuẩn trên trong hoạt động TTQT của quốc gia. Vì thế, những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia đã xảy ra trong hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Do đó đòi hỏi sớm có các văn bản hướng dẫn đầy đủ, cụ thể về TTQT để hoạt động này được phát triển hơn. Hơn nữa, thị trường ngoại hối nước ta chưa phát triển, chính sách tỷ giá không ổn định và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động TTQT của các NHTM nói chung và SHB nói riêng. Hiện nay, Việt Nam chưa có một thị trường ngoại hối hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó mà mới chỉ ở dạng sơ khai là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ song thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vẫn bộc lộ những yếu điểm, thành viên tham gia còn hạn chế và nghiệp vụ đơn giản. Hoạt động diễn ra trên thị trường này còn theo một chiều, khi ngoại tệ dư thừa thì ngân hàng nào cũng muốn chào bán, khi khan hiếm thì các ngân hàng đồng loạt chào mua, thậm chí có ngân hàng dư thừa ngoại tệ cũng không bán. Những hạn chế này dẫn đến nguồn cung cầu ngoại tệ không đủ số lượng phục vụ cho nhu cầu TTQT. Hơn nữa, các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường chưa phát triển, mới dừng lại ở một số giao dịch mua bán giao ngay, trong khi đó giao dịch mua bán kỳ hạn còn hạn chế. Chính điều này tạo khó khăn cho việc tính toán hiệu quả kinh doanh và khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp khi tham gia hoạt động TTQT. Trong năm qua, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã lan từ Mỹ sang các nền kinh tế phát triển khác, Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng nằm trong hệ thống tài chính thế giới cũng đã chịu những tác động nhất định. Trong những tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát gia tăng nhanh trong khi thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu. Chính phủ đã kịp thời triển khai 8 nhóm giải pháp lớn nhằm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng trong 6 tháng đầu năm, do biến động giá trên thị trường thế giới, nhập siêu của Việt Nam đã tăng mạnh. Tính tới cuối tháng 6, nhập siêu đã tăng lên tới 14,8 tỷ USD, đe dọa sự bền vững của cán cân thanh toán và gây áp lực lên tỷ giá USD/VND. Tới cuối quý III/2008, Chính phủ đã phần nào thực hiện các giải pháp và đạt được một số kết quả như giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã bắt đầu có tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Kinh tế chịu suy thoái dẫn đến TMQT, một bộ phận của nền kinh tế cũng bị tác động tiêu cực theo. Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân mất giá của USD và gây nên lạm phát cao ở nước ta. Ngoài ra, những biến động xấu của nền kinh tế thế giới trong năm qua đã có tác động tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước. Vì vậy nó đã làm giảm đáng kể nhu cầu nhập khẩu hàng hàng hóa và sự sụt giá của hàng xuất khẩu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới nhu cầu xuất nhập khẩu của khách hàng tại SHB giảm sút, từ đó làm giảm doanh số hoạt động TTQT. Tỷ giá đô la Mỹ biến động và chính sách tỷ giá không ổn định làm cho ngân hàng và doanh nghiệp xuất nhập khẩu không có phản ứng kịp thời, dẫn đến việc thanh toán và khai thác ngoại tệ thanh toán bị trì trệ, gây tâm lý hoang mang cho cả ngân hàng và khách hàng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SHB 3.1. Định hướng phát triển cho hoạt động TTQT của SHB – HSC Hoạt động TTQT ngày càng trở nên quan trọng và gắn bó mật thiết với các hoạt động kinh doanh khác của NHTM. Định hướng phát triển hoạt động TTQT phải dựa trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của SHB nói chung và tại Hội sở chính nói riêng. Để đạt được mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của SHB – HSC phải luôn gắn với phương châm kinh doanh “An toàn – hiệu quả”, đồng thời có những bước chuẩn bị tích cực cho quá trình mở rộng kinh doanh phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Để phấn đấu nâng cao hơn thị phần trong hoạt động TTQT, phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực; trong thời gian tới, định hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của HSC – SHB cần thực hiện tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Thứ nhất, đổi mới công nghệ thanh toán Ngân hàng. Việc đổi mới công nghệ thanh toán tại SHB được thể hiện trên các mặt: Tiếp tục kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống thanh toán. Thị trường tài chính quốc tế và khu vực là một mạng liên thông toàn cầu, dịch vụ ngân hàng đã liên kết các doanh nghiệp và nhà đầu tư với nhau trên phạm vi toàn cầu. Mỗi giao dịch như thế chỉ tính bằng thời gian rất ngắn nên để chuyển các khoản thanh toán đi và nhận các khoản thanh toán đến từ các ngân hàng đại lý không những chỉ được thiết lập với HSC mà còn cần thẳng tới các chi nhánh để rút ngắn thời gian thanh toán, không phải đi đường vòng. Cần đa dạng hóa và hiện đại hóa các dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ đã có, tiến hành nghiên cứu và từng bước đưa các sản phẩm mới vào hoạt động: dự án rút tiền tự động, dịch vụ thanh toán thẻ, dự án thanh toán điện tử, dịch vụ phát triển kiều hối, bảo hiểm, thanh toán séc... SHB tiếp tục triển khai các dự án hiện đại hóa đúng tiến độ. Tăng cường nghiên cứu và đầu tư thêm trang thiết bị mới có trọng điểm vào những nơi cần thiết, đồng thời nâng cấp hệ thống máy tính và mạng truyền tin viễn thông của ngân hàng. Bên cạnh đó, phát triển các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại để tránh sự đơn giản về nghiệp vụ, nhằm đáp ứng sự phát triển đa dạng của đời sống kinh tế xã hội, các dịch vụ cần sử dụng rộng rãi như: chiết khấu hối phiếu, các dịch vụ mua bán nợ, kinh doanh hối đoái, đại lý ủy thác... Thúc đẩy chiến lược hướng vào thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ hai, về nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế: Nghiên cứu mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng có chọn lọc để duy trì quan hệ với các ngân hàng đại lý đã có phát triển thêm các ngân hàng đại lý mới ở những nơi phát sinh nhiều giao dịch. Khảo sát, nghiên cứu để có hướng mở văn phòng đại diện ở nước ngoài. Phát triển khối lượng thanh toán xuất nhập khẩu, thu hút khách hàng, đặc biệt là những khách hàng xuất khẩu lớn để tăng nguồn thu ngoại tệ. Tiếp tục mở rộng và phát triển công tác kinh doanh ngoại tệ, tăng nguồn thu nhập về kinh doanh ngoại tệ, đảm bảo cung ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu khách hàng nhập khẩu và trả nợ nước ngoài. Ngân hàng dự định sẽ thường xuyên hơn tổ chức các buổi hội thảo, mời các tổ chức tài chính, các ngân hàng để học hỏi và tăng thiết lập mối quan hệ đại lý. Từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng nước ngoài biết đến và tin tưởng vào khả năng trong hoạt động TTQT nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của SHB. Thứ ba, SHB định hướng sẽ tham gia các điều ước quốc tế, các diễn đàn khu vực về quốc tế về tiền tệ, ngân hàng. Từ đó, phát triển quan hệ hợp tác đa phương và song phương trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng nhằm tận dụng nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý tiến tiến của nước ngoài trong hoạt động thanh toán quốc tế; phối hợp với các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý rủi ro trên phạm vi khu vực và toàn cầu. 3.2. Một số giải pháp mở rộng hoạt động TTQT 3.2.1. Tiếp tục bồi dưỡng và nâng cao trình độ của cán bộ TTQT Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh một ngân hàng muốn phát triển và hoạt động hiệu quả thì phải có một đội ngũ quản trị có năng lực, tư duy chiến lược, tinh thông về nghiệp vụ ngân hàng và có tâm huyết với nghề. Trong hoạt động thanh toán quốc tế cũng vậy, năng lực trình độ của các cán bộ làm công tác TTQT có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ. Qua tiếp xúc trực tiếp và đánh giá năng lực của cán bộ ngân hàng, khách hàng sẽ quyết định có nên sử dụng dịch vụ của ngân hàng hay không. Vì vậy, để có đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, năng lực, hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ thanh toán, Phòng TTQT của SHB mới đi vào hoạt động ba năm với đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo nhưng đây cũng chính là một điểm yếu của ngân hàng, vì đội ngũ cán bộ trẻ chưa hoặc ít kinh nghiệm về hoạt động thực tiễn. Trong khi đó, hoạt động TTQT lại khá phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Vì thế yêu cầu đối với thanh toán viên không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, dày dặn kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực ngoại thương, luật lệ, tập quán quốc tế mà còn phải biết tư vấn cho khách hàng, giúp khách hàng an tâm khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Để làm được như vậy, SHB cần có chiến lược phát triển con người. Đây là chiến lược mang tính lâu dài. Cụ thể, Ngân hàng cần phải thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức trong việc giải quyết và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT. Cử cán bộ đi khảo sát, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, học các nghiệp vụ mới về thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, bồi dưỡng kiến thức về ngoại ngữ, pháp luật, thông lệ quy ước quốc tế để bắt kịp với những thay đổi trong qui trình nghiệp vụ trong hoạt động thanh toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, Ngân hàng tích cực giáo dục triệt để cán bộ nhân viên về văn minh trong giao tiếp và văn hóa kinh doanh. Đề cao khả năng độc lập, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm cao, phẩm chất đạo đức tốt. Với kiến thức và kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, sự am hiểu luật pháp, tập quán của từng nước, nhân viên thanh toán quốc tế có thể tư vấn nhằm phục vụ tốt nhất các yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, SHB cần từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ thông qua chất lượng và hiệu quả công việc được giao. Thực hiện tốt việc phân loại cán bộ, bố trí và sử dụng nhân lực đúng người, đúng việc. Tăng cường số lượng cán bộ gắn với trình độ chuyên môn cho các phòng, tổ nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu công việc. 3.2.2. Thiết lập và mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý ở nước ngoài Thiết lập mạng lưới ngân hàng đại lý để thuận tiện cho việc thanh toán. Thường xuyên củng cố mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài đã có quan hệ lâu dài. Việc thanh toán nhanh chóng và đầy đủ sẽ giúp uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, các mối quan hệ làm ăn sẽ được tăng lên và chặt chẽ hơn. Xây dựng hệ thống phân loại và chính sách quan hệ đại lý phù hợp để nâng cao uy tín quốc tế, tạo điều kiện tốt nhất cho việc giao dịch tại ngân hàng. Đồng thời khai thác hệ thống thanh toán của ngân hàng đại lý để phục vụ nhu cầu thanh toán của SHB. Ngoài ra, SHB còn học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng nước ngoài. Để phát huy hết vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng đại lý, SHB cần tiếp tục duy trì và củng cố mối quan hệ với các ngân hàng đại lý để giữ vững uy tín của mình trên thị trường. Bên cạnh đó, SHB cần tìm hiểu, mở rộng những mối quan hệ đại lý với các ngân hàng mới tại nhiều quốc gia khác nhau. Đối với các ngân hàng nước ngoài, mặc dù đã có sự nhân nhượng và mềm dẻo trong việc thanh toán nhằm giữ uy tín và lôi kéo khách hàng nhưng không để ảnh hưởng đế lợi ích của khách hàng. Từ đó, cân bằng lợi ích bản thân ngân hàng, đối tác và khách hàng để hợp tác các bên cùng có lợi. 3.2.3. Xây dựng chính sách khách hàng và hệ thống tiếp thị nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng Mặc dù nước ta đang trong giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, nhưng sự cạnh tranh diễn ra giữa các ngân hàng đã diễn ra rất khốc liệt. Các NHTM, kể cả Ngân hàng thương mại quốc doanh và Ngân hàng thương mại cổ phần, muốn tồn tại và phát triển, tham gia vào thị trường quốc tế đều phải xây dựng cho mình uy tín thương hiệu để có thể thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của mình. Điểm khác biệt của các Ngân hàng thương mại là đều thực hiện nghiệp vụ như nhau, không có nghiệp vụ nào là độc tôn. Hơn nữa, ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài lập chi nhánh tại Việt Nam, với công nghệ hiện đại, có đội ngũ chuyên viên và nhân viên đạt chuẩn quốc tế, là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong việc thu hút khách hàng trong lĩnh vực TTQT. Khách hàng có quyền lựa chọn những ngân hàng tốt nhất, uy tín nhất để giao dịch. Vì thế, việc thúc đẩy các hoạt động Marketing trong ngân hàng, áp dụng các chiến lược Marketing linh hoạt, phù hợp nhằm mục đích từng bước tạo ấn tượng trong mắt khách hàng. Phục vụ khách hàng chu đáo, tận tình, luông mang lại sự thuận lợi, an toàn và hiệu quả nhất trong giao dịch với khách hàng. Để thực hiện tốt hoạt động Marketing, SHB phải chú trọng đến những vấn đề sau: Nghiên cứu thị trường ngân hàng: Đây là vấn đề đầu tiên cần quan tâm khi ngân hàng muốn thành công trong thị trường mà mình đã và sẽ hoạt động. Nghiên cứu thị trường để nắm bắt thói quen và nhu cầu, tập quán của khách hàng. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng khách hàng lựa chọn ngân hàng giao dịch chủ yếu dựa trên so sánh về thương hiệu, tác phong trong giao dịch của nhân viên ngân hàng, khả năng tài chính, điểm đặt trụ sở (hay chi nhánh) của ngân hàng. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thể hiện qua các mặt: - Vốn tự có của ngân hàng - Giá trị thương hiệu - Cơ sở vật chất, giá trị tài sản của ngân hàng. - Mức độ an toàn trong kinh doanh của ngân hàng. - Trình độ cán bộ, nhân viên của ngân hàng. Để đánh giá năng lực cạnh tranh tổng thể của ngân hàng, cần phải trả lời các câu hỏi sau: - Hiện nay SHB đang nắm giữ bao nhiêu % thị phần trên địa bàn. Sự thay đổi thị phần trong những năm qua do những nguyên nhân nào và có thể mở rộng thị phần như thế nào trong thời gian tới? - Chất lượng dịch vụ và giá cả dịch vụ so với mặt bằng chung của các NHTM trên cùng địa bàn hiện nay như thế nào? Ngân hàng đang cung cấp những loại hình dịch vụ nào, có sự khác biệt không? Những sản phẩm nào cạnh tranh được và những sản phẩm nào khó cạnh tranh? Nếu đưa ra các sản phẩm mới, với nhiều tiện ích thì có lôi cuốn khách hàng đến với ngân hàng hay không? - Khả năng thu hút và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao so với các ngân hàng khác. Phân tích, dự báo, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới trước khi tung ra thị trường. Từ những nghiên cứu và dự báo trên, ngân hàng đưa ra các chính sách thích hợp trong chiến lược Marketing cho hoạt động kinh doanh. Cụ thể, đó là các chính sách: Chính sách sản phẩm: cung cấp sản phẩm mới đa dạng với nhiều tiện ích cho khách hàng, hạn chế những rủi ro có thể phát sinh, nhanh chóng, chính xác, độ an toàn cao và ngày càng hướng tới tiêu chuẩn quốc tế. Chính sách giá cả: khách hàng luôn muốn sử dụng sản phẩm có chất lượng cao nhưng giá cả phải hợp lý và hấp dẫn. Vì thế, ngân hàng phải đầu tư đổi mới công nghệ, đưa ra những biện pháp, chính sách khuyến mãi, ưu đãi với khách hàng, giảm phí dịch vụ, ưu đãi đối với khách hàng lớn, có uy tín và quan hệ lâu dài với ngân hàng… Chính sách phân phối sản phẩm: để có thể cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách nhanh nhất thì yêu cầu ngân hàng phải có mạng lưới rộng khắp, bố trí hợp lý, để khách hàng có thể dễ dàng nhận biết được ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Chính sách tiếp thị, khuyếch trương sản phẩm: sử dụng các phương tiện truyền thông để quảng bá hình ảnh của ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng cần phải lựa chọn phương tiện quảng cáo phù hợp, đầy đủ, ngắn gọn, súc tích gây ấn tượng với khách hàng. Điều đó đòi hỏi nhân viên phải có khả năng giao tiếp tốt, am hiểu các nghiệp vụ để tiếp xúc với khách hàng. Có như vậy, khách hàng mới hiểu được tiện ích từ việc sử dụng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Hơn nữa, cung cách giao tiếp tốt của nhân viên tạo sự tin tưởng, an toàn và thoải mái ở khách hàng khi họ tiếp nhận dịch vụ. Bên cạnh đó, ngân hàng cần đẩy mạnh dịch vụ tư vấn cho khách hàng, cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho khách hàng về đối tác, sản phẩm, về các ngân hàng trung gian, ngân hàng đại lý tham gia trong hợp đồng thương mại quốc tế, dự báo được một phần sự biến động của thị trường trong tương lai. 3.2.4. Tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. Hoạt động thanh toán quốc tế là hoạt động hàm chứa rất nhiều rủi ro, rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Nguyên nhân xảy ra rủi ro một phần khách quan là do sự biến động không lường trước được của thị trường, một phần chính là do bản thân con người gây ra. Như vậy, có thể nói rằng, sự thiếu hiểu biết, kiến thức cộng với khả năng chuyên môn hạn chế đã khiến rủi ra ngày càng gia tăng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và SHB nói riêng. Do đó, để hoạt động kinh doanh ngân hàng được an toàn và phát triển bền vững thì cần phải thực hiện một số giải pháp: Trước hết, ngân hàng phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản, quy chế, quy trình nghiệp vụ; ban hành đầy đủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy trình nghiệp vụ phải được tổ chức nghiên cứu tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ phải nắm vững đầy đủ và thực thi chính xác các quy định đó. Bên cạnh đó, Ngân hàng phải hoàn thiện bộ máy giám sát hoạt động của mình trên cơ sở hình thành một bộ phận độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra các rủi ro, có chức năng quản lý, giám sát rủi ro cho các ngân hàng, nhận diện và phát hiện rủi ro, phân tích và đánh giá các mức độ rủi ro trên cơ sở các chỉ tiêu, tiêu thức được xây dựng, đồng thời đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro. Đồng thời, Ngân hàng cần phải có các giải pháp để đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự thay đổi về cơ chế, chính sách nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo thông lệ, các diễn biến phức tạp của cơ chế thị trường, tác động tiêu cực của các thông tin truyền thông bất cân xứng... SHB cần thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam để có thể thực hiện tốt các dự báo thị trường thế giới có liên quan đến hoạt động TTQT nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Dựa trên dự đoán về sự biến động của giá cả, tỷ giá hối đoái, thay đổi chính sách đối ngoại của các nước bạn hàng… Ngân hàng sẽ tư vấn cho khách hàng các biện pháp phòng tránh hoặc giảm thiểu rủi ro hiệu quả nhất. Để có thể hạn chế tối đa rủi ro hoạt động do những tác động tiêu cực từ những nhân tố bên ngoài, ngân hàng cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau: Tuân thủ nội dung các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của Chính phủ, các bộ ngành có liên quan trong quá trình xây dựng quy chế, quy trình, hướng dẫn nghiệp vụ cũng như trong quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện. Để thích ứng được với các yếu tố bất ngờ xảy ra trong cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ngân hàng cần phải thường xuyên cập nhật thông tin liên quan từ bên ngoài, kiểm soát được và hiệu chỉnh kịp thời các văn bản nội bộ khi phát sinh các thay đổi hoặc chủ động xây dựng các lộ trình để thực hiện các cam kết theo quy định. Hướng tới hình thành bộ phận chuyên gia về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thị trường... Nhiệm vụ của nhóm này là định kỳ đưa ra báo cáo phân tích, đánh giá tổng quan về nền kinh tế trong nước và trên thế giới, xu hướng phát triển và những tác động của nó tới hoạt động của ngân hàng. Từ đó có những hành động kịp thời trong xây dựng, điều chỉnh chính sách và định hướng chiến lược phù hợp. Hoàn thiện môi trường đầu tư tranh thủ nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính, tổ chức chính phủ và phi chính phủ, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài. Cuối cùng, tuân thủ các điều kiện bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng giúp cho SHB hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tham gia TTQT. Hoạt động TTQT đòi hỏi cao về tính an toàn và hiệu quả. Nó đánh giá khả năng và mức độ hội nhập quốc tế của ngân hàng. Càng ngày hoạt động TTQT càng đa dạng, phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Để tránh được những rủi ro trong TTQT có thể ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế thì công tác quản lý, điều hành luôn phải sát sao với hoạt động. Không chỉ dừng lại ở phát hiện sai sót mà phải quan tâm đến phát hiện các rủi ro tiềm ẩn trong nghiệp vụ TTQT để kịp thời hạn chế nhằm nâng cao chất lượng TTQT. Tiếp tục hiện đại hóa cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ hoạt động TTQT. Công nghệ là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của một ngân hàng thương mại. Công nghệ thanh toán hiện đại chính là cơ sở để một ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, đa dạng hóa các loại hình hoạt động. Công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ cho phép ngân hàng tiết kiệm được thời gian và chi phí bởi nó cho phép thực hiện giao dịch ngay tại chỗ. Từ một địa điểm, nhờ có hệ thống máy tính mà thanh toán viên có thể kiểm tra được các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, cập nhật thông tin một cách chính xác. Công nghệ thông tin còn giúp cho công tác quản lý thông tin, hồ sơ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, từ đó đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Nó cũng là một điều kiện cần thiết khi ngân hàng muốn hòa nhập vào mạng ngân hàng quốc tế. Để thực hiện được điều đó, ngân hàng cần phải: - Triển khai ứng dụng tốt chương trình hiện đại hóa ngân hàng, tiếp tục nâng cấp và bổ sung các phần mềm mới trong giao dịch với khách hàng, chương trình gửi nhiều nơi rút nhiều nơi, phần mềm kết nối thanh toán, chương trình giao dịch qua mạng Internet, SMS,…nhằm cung cấp dịch vụ tiện ích tốt nhất cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. - Áp dụng công nghệ để phát triển có hiệu quả các sản phẩm dịch vụ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh Western Union, thanh toán qua một tài khoản; ứng dụng các lợi ích của mạng kết nối chuyển mạch tài chính (Banknet), để phục vụ tốt hơn cho hoạt động TTQT. 3.2.5. Một số giải pháp khác Ngoài các giải pháp trên, còn có các giải pháp khác như: Chú trọng thực hiện tốt công tác quản lý điều hành, đa dạng hóa loại hình TTQT… Ngày nay, nhu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm dịch vụ và việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới gia tăng nhanh chóng. Ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, để không chỉ làm tăng sức cạnh tranh mà còn giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trên cơ sở đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ Ngân hàng sẽ mở rộng hoạt động TTQT cả về chiều rộng và chiều sâu. Ngân hàng cần hoàn thiện một số điểm như sau: - Đa dạng hóa các hình thức L/C - Chỉ đạo thanh toán viên tuân thủ theo quy định về nghiệp vụ TTQT. - Linh hoạt trong quan hệ ký quỹ bắt buộc, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển vòng quay vốn cho doanh nghiệp. đối với khách hàng truyền thống có thể giảm cước ký quỹ hoặc không cần ký quỹ. Kết hợp chính sách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và chính sách giá cả nhằm thu hút khách hàng, ví dụ nếu khách hàng sử dụng dịch vụ TTQT của ngân hàng sẽ được hưởng một số tiện ích khác với giá ưu đãi. Giữa các nghiệp vụ ngân hàng có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sự phát triển một nghiệp vụ này sẽ tạo điều kiện cho nghiệp vụ liên quan phát triển. Hoạt động tín dụng ngoại tệ có một mối quan hệ đặc biệt với hoạt động TTQT. Hầu hết phần lớn phục vụ cho việc TTQT của khách hàng tại SHB là nguồn vốn vay ngân hàng. Một nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với hoạt động TTQT của ngân hàng là hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hai hoạt động gắn liền và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Kinh doanh ngoại tệ vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vừa có tác dụng giải quyết nhu cầu về các loại ngoại tệ cho hoạt động thanh toán quốc tế. Hiện nay, Hội sở chính đang đóng vai trò là đầu mối kinh doanh ngoại tệ mặt của cả SHB. Cùng với sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, hoạt động thanh toán quốc tế của HSC cũng đạt được những kết quả quan trọng, doanh số các năm liên tục tăng cao. Tuy nhiên do biến động của chính sách cũng như thị trường thế giới nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng gặp phải một số khó khăn nhất định. Vì vậy, trong thời gian tới, SHB cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh ngoại tệ để có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động thanh toán, đảm bảo an toàn tài sản và tạo tiền đề thúc đẩy hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu. Để phòng tránh rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ, Sở giao dịch cần phải áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trong lĩnh vực này như: hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn (FORWARD), hợp đồng tương lai (FUTURE), hợp đồng mua bán quyền chọn (OPTION), hợp đồng hoán đổi SWAP và nghiệp vụ Acbit... vào kinh doanh ngoại tệ để có thể chủ động hơn trong việc phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại SHB – HSC như đã phân tích ở trên là chưa phát triển mạnh, chưa đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán. Để mở rộng hoạt động TTQT ngân hàng phải có sự quan tâm đúng mức đến phát triển nghiệp vụ này. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và bộ ngành liên quan Chính phủ tích cực ban hành các hệ thống văn bản pháp quy phối hợp với thông lệ quốc tế và đặc điểm của Việt Nam, làm cơ sở điều chỉnh hoạt động TTQT cho các Ngân hàng thương mại, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT. Các văn bản pháp lý cần quy định cụ thể các quy chế, quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hoạt động TTQT, mối quan hệ pháp lý giữa người bán, người mua và Ngân hàng trong việc thực hiện hoạt động TTQT từ khâu ký kết hợp đồng đến khi kết thúc quá trình thanh toán. Chính phủ cần chỉ đạo xúc tiến nhanh hơn nữa việc thực hiện chính sách thương mại nhằm khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu, đảm bảo ổn định cán cân thanh toán quốc tế. Cần có sự kết hợp giữa các cơ quan hữu quan: Tổng cục Hải quan, Bộ Công nghiệp, Tòa án Nhân dân,… nhằm tạo ra sự nhất quán trong việc ban hành cũng như thi hành các văn bản pháp lý về TTQT của Việt Nam. Các văn bản này phải phù hợp với điều kiện và đặc điểm kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính phủ cần nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại bằng cách mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, duy trì mở rộng thị phần trên những thị trường quen thuộc, xâm nhập và phát triển các thị trường tiềm năng. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp điều kiện của nước ta, đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ quốc tế. Đẩy nhanh hơn nữa hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại và tiếp cận thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp. Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, XNK hàng hóa, dịch vụ khai thác triệt để tiềm năng và tài nguyên, nguồn nhân lực, phát triển các hàng hóa dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao. Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu, giúp cho các tổ chức sản xuất có điều kiện tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hóa. Đẩy mạnh các lĩnh vực thu dịch vụ để thu ngoại tệ về cho đất nước, phát triển các ngành du lịch, xuất khẩu lao động, tài chính tiền tệ. Tiếp tục cải thi về đầu tư kinh doanh, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn vốn đầu tư đó. Cải cách mạnh mẽ và triệt để các thủ tục hành chính tạo thông thoáng cho hoạt động XNK. Giảm bớt các thủ tục phiền hà, tiết kiệm thời gian và chi phí giúp đỡ các doanh nghiệp XNK trong quá trình XNK hàng hóa. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước(NHNN) với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng thương mại, là ngân hàng của các ngân hàng và đóng vai trò định hướng trong các hoạt động của ngân hàng. NHNN tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng với tư cách là người mua bán cuối cùng và chỉ tham gia khi cần thiết. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường này là một trong những điều kiện quan trọng để NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho TTQT hoạt động một cách hiệu quả. Thông qua thị trường này NHNN điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và chính xác nhất. NHNN cần xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thị trường. Cần nới lỏng các biện pháp quản lý như: công bố tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng, biện pháp quản lý ngoại hối… để chúng trở thành động lực cho tị trường ngoại hối phát triển. Điều chỉnh linh hoạt biên độ dao động tỷ giá giao dịch USD/VND (hiện nay là 3%) để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế; cùng với cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước bằng việc sử dụng công cụ lãi suất điều tiết thị trường ngoại tệ, thúc đẩy hoạt động XNK của nước nhà. Đa dạng hóa các loại ngoại tệ các phương tiện TTQT được mua bán trên thị trường, đa dạng hóa các hình thức giao dịch như mua bán có kỳ hạn, mua bán quyền chọn, hoán đổi ngoại tệ, phát triển nghiệp vụ vay mượn trên thị trường trong nước và quốc tế. NHNN cần tính toán xây dựng một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý, có đủ khả năng điều chính thị trường ngoại tệ khi có căng thẳng về tỷ giá, đồng thời có kế hoạch quản lý nguồn ngoại tệ vào ra cũng như hoạt động mặt bằng ngoại tệ tại thị trường tự do, tránh hoạt động đầu cơ, găm giữ ngoại tệ dẫn tới cơn sốt ngoại tệ. KẾT LUẬN Trong điều kiện hiện nay, khi xu hướng hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ thì hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Hoạt động thanh toán quốc tế của mỗi ngân hàng thường nảy sinh nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp, giúp cho hoạt động này phát triển, tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng thêm thu nhập và tạo thế cạnh tranh vững chắc cho ngân hàng trên thương trường. SHB là một trong những ngân hàng Thương mại cổ phần quy mô còn nhỏ bé, thời gian hoạt động chưa lâu tại Việt Nam. Hoạt động thanh toán quốc tế của SHB tuy mới hình thành nhưng phát triển với tốc độ nhanh chóng và đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, thanh toán quốc tế cho đến nay vẫn được xem là hoạt động mới mẻ, chưa được hoàn thiện lắm về cả trình độ, công nghệ cũng như kinh nghiệm thực tế. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán của các NHTM nói chung và SHB nói riêng, em xin đóng góp một vài ý kiến của mình, hy vọng hoạt động kinh doanh đối ngoại trong đó có thanh toán quốc tế tại SHB ngày càng phát triển, góp phần khẳng định và củng cố vị thế của ngân hàng , khi mà sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng diễn ra mạnh mẽ và khốc liệt hơn. Do sự hiểu biết còn hạn chế, em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để khóa luận tốt nghiệp có điều kiện bổ sung và hoàn thiện hơn. Cuối cùng, em xin một lần nữa gửi lời cảm ơn tới cô giáo Tiến sĩ Lê Thanh Tâm đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Fredric S.Mishkin, 2001, Tiền tệ Ngân hàng & Thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 2. PGS.TS.Phan Thị Thu Hà, 2007, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. 3. PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo, 2007, Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân. 4. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2008, Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê. 5. GS.TS. Đỗ Đức Bình, 2007, Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB ĐH KTQD 6. www.saga.com.vn 7. www.shb.com.vn 8. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2006 -2007 của SHB 9. Bản cáo bạch của SHB 2008 10. Quy trình nghiệp vụ Thanh toán quốc tế tại Hội sở chính – SHB. 11. Tạp chí, báo: Tạp chí Ngân hàng, Thị trường tài chính...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21247.doc
Tài liệu liên quan