Các công ty niêm yết nên có chương trình công bố thông tin tài chính theo định kỳ, thường xuyên và tự nguyện.
Việc công bố các thông tin định kì và thường xuyên sẽ tránh được hậu quả do ảnh hưởng của những thông tin sai lệch về các công ty. Người đầu tư thường xuyên tiếp nhận thông tin công bố chính thức sẽ có những cơ sở để nhận định được đúng hoặc sai khi thị trường xuất hiện những thông tin không chính thức, gây bất lợi cho các công ty niêm yết.
Bên cạnh những thông tin về tổ chức niêm yết phải công bố theo qui định, tổ chức niêm yết có thể tiến hành công bố thông tin tự nguyện. Công bố thông tin tự nguyện là việc tổ chức niêm yết tự nguyện công bố những thông tin không thuộc những vấn đề phải công bố. Tổ chức niêm yết có thể vận dụng công bố thông tin tự nguyện vừa góp phần cung cấp thông tin cho thị trường, vừa là một hình thức quảng cáo cho chính mình. Cụ thể là, bên cạnh các thông tin về kết quả đạt được, các công ty niêm yết nên công bố kế hoạch hoạt động trong tương lai, những thay đổi về chiến lược kinh doanh, các dự án sẽ thực hiện,.trong các buổi gặp gỡ trực tiếp các nhà đầu tư để họ có nhận thức tương đối về hoạt động của công ty trong thời gian tới. Đồng thời, các công ty niêm yết nên thiết lập Website riêng để tạo mối liên hệ trực tiếp với công chúng đầu tư và qua đó nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn.
Ở các nước trên thế giới, việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động SXKD và tình hình quản lý, điều hành công ty. Những thông tin này phải đáng tin cậy và được phổ biến rộng rãi cho công chúng đầu tư một cách kịp thời và công bằng. Đó là điều kiện để những người sử dụng thông tin ra quyết định đúng đắn về công ty, trong đó có việc mua bán chứng khoán. Thực vậy, TTCK là nơi thực hiện việc xã hội hoá đầu tư, qua đó thể hiện sự đánh giá của xã hội đối với giá trị công ty nên chất lượng công bố thông tin sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành giá cả chứng khoán một cách hợp lý hay lệch lac.
Công bố thông tin là yếu tố quyết định sự phát triển lành mạnh của TTCK, góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh và sự hấp dẫn của một nền kinh tế trước con mắt nhà đầu tư trong và ngoài nước.
91 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1829 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Mối quan hệ giữa phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc ra quyết định đầu tư. Những hạn chế này xuất phát chủ yếu từ những vấn đề còn tồn tại dưới đây:
Hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính của Việt Nam chưa hoàn thiện
Hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính của Việt Nam còn chưa hoàn thiện xét trên nhiều khía cạnh. Trong phạm vi của đề tài chỉ xin đề cập đến sự không thống nhất giữa hệ thống kế toán, kiểm toán của Việt Nam với chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế. Đây là một bất cập rất lớn ảnh hưởng đến chất lượng thông tin đầu vào đối với các nhà đầu tư chứng khoán.
Về vấn đề kế toán
Trong thời gian gần đây, công tác kế toán ở Việt Nam có nhiều cải thiện đáng kể. Hệ thống chế độ kế toán Việt Nam (HTCĐKTVN) hiện nay đã tương đối đầy đủ nếu xét trên phương diện các văn bản về chế độ như Pháp lệnh kế toán thống kê, Điều lệ kế toán Nhà nước, Điều lệ kế toán trưởng... Hệ thống các biểu mẫu BCTC cũng được ban hành với Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh BCTC. Hệ thống biểu mẫu này đưa ra những tiêu chí tương đối đầy đủ, phản ánh được toàn diện hoạt động của doanh nghiệp.
Gần đây nhất Bộ Tài Chính vừa mới ban hành 4 chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam, bao gồm các chuẩn mực 02-Hàng tồn kho; 03-TSCĐ hữu hình; 04-TSCĐ vô hình và 14-Doanh thu và thu nhập khác.
Tuy đã có những tiến bộ như vậy, nhưng trên thực tế, HTCĐKTVN vẫn chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế (CMKTQT). HTCĐKTVN vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, chưa được ban hành đầy đủ, dẫn đến việc áp dụng chế độ kế toán thống kê chưa thống nhất trong các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề và thành phần kinh tế khác nhau.
Nếu so sánh HTCĐKT hiện hành của Việt Nam với CMKTQT, chúng ta có thể thấy chế độ kế toán Việt Nam có rất nhiều điểm cần được cải tiến. Điều có thể nhận thấy đầu tiên là chế độ kế toán của Việt Nam nghiêng về khía cạnh phục vụ công tác quản lý Nhà nước hơn là phục vụ các cổ đông của công ty. Các công ty cổ phần vẫn đang phải áp dụng chế độ kế toán được thiết kế dành cho công ty Nhà nước. Sự khác biệt này làm cho việc đánh giá và so sánh hoạt động SXKD của các công ty cổ phần Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Thông thường, những điểm khác biệt đó sẽ làm cho lợi nhuận của các BCTC được lập theo HTCĐKT Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các BCTC này được lập theo CMKTQT. Do vậy mà các nhà đầu tư nhiều khi lầm tưởng họ có thể được nhận toàn bộ lợi nhuận như trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong khi một phần rất lớn trong khoản lợi nhuận này đã được trả cho các cán bộ quản lý, các khoản thưởng, phúc lợi cho nhân viên hay trả thuế.
Sự khác biệt giữa HTCĐKTVN và CMKTQT cũng sẽ gây khó khăn rất lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tham gia đầu tư vào TTCK Việt Nam. Đồng thời, các nhà đầu tư sẽ rất khó so sánh, đánh giá kết quả hoạt động, SXKD của các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia niêm yết trên TTCK Việt Nam.
Về vấn đề kiểm toán
Nhà nước đã ban hành một loạt các văn bản pháp quy trong lĩnh vực kiểm toán. Bộ Tài Chính cũng đã ban hành 10 chuẩn mực kiểm toán và theo kế hoạch, đến năm 2003 sẽ ban hành khoảng 30 chuẩn mực kiểm toán. Tuy nhiên, cũng giống như hệ thống kế toán, hệ thống kiểm toán Việt Nam cũng chưa thực sự phù hợp với các thông lệ kiểm toán quốc tế.
Ngoài ra, còn một vấn đề tồn tại rất lớn trong chế độ kiểm toán hiện nay là việc thiếu vắng cơ chế kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, do vậy độ tin cậy của các báo cáo kiểm toán chưa cao. Trong khi chất lượng kiểm toán rõ ràng là vấn đề hệ trọng, có liên quan đến hiện tượng "sức khoẻ" của các doanh nghiệp được kiểm toán và ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư.
Điển hình là tháng 11 vừa qua, Công ty Tư Vấn Tài chính, Kế toán và Kiểm toán (AASC) là công ty kiểm toán đầu tiên bị xử phạt vì những sai phạm của đơn vị này trong việc kiểm toán sổ sách tài chính của Công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long (Halong Canfoco). Việc AASC không phát hiện và ngăn chặn các gian lận tài chính trong Công ty Halong Canfoco do AASC kiểm toán, dù với lý do gì, cũng là bằng chứng cho thấy chất lượng kiểm toán yếu kém của đơn vị này. Vậy mà BCTC của Công ty vẫn "bình yên" lưu hành trong tay nhà đầu tư. Vậy đối với các nhà đầu tư mới đến sàn, đọc BCTC và đưa ra quyết định mua cổ phiếu CAN thì ai sẽ chịu trách nhiệm về rủi ro từ "phần mờ" trong hoạt động của Halong Canfoco?
Những nhà đầu tư chuyên nghiệp thường dựa vào các chỉ số tài chính (đã được kiểm toán) của doanh nghiệp để thực hiện các quyết định đầu tư của mình. Trong khi đó, bản thân các công ty kiểm toán là những pháp nhân được pháp luật công nhận, hoạt động theo các chuẩn mực kiểm toán được quy định và dựa trên sự tín nhiệm của khách hàng. Thế nhưng khi có "sự cố" xảy ra, chính các nhà đầu tư lại là người chịu thua thiệt chứ không phải là các công ty kiểm toán.
Những bất cập trong chế độ kế toán, kiểm toán nêu trên là những yếu tố gây cản trở cho việc lập BCTC và minh bạch và công khai hoá thông tin. Vấn đề lẩn tránh công khai tài chính còn khá phổ biến do hiện nay. Pháp lệnh về kế toán và thống kê không quy định bắt buộc tất cả các công ty cổ phần phải công khai BCTC và thực hiện kiểm toán độc lập đối với các báo cáo này. Mặt khác Pháp lệnh cũng không quy định BCTC phải bao gồm báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Hiện nay ở nước ta có gần 800 doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá, trong khi mới chỉ có 19 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Như vậy, còn vô vàn cổ phiếu chưa niêm yết đang trôi nổi trên thị trường.
Chính vì lí do đó, khó có thể phân tích được BCTC của các doanh nghiệp chưa niêm yết trên TTCK (vì chỉ có công ty niêm yết trên TTCK mới có nghĩa vụ công khai các BCTC). Đồng thời, nếu có BCTC thì các báo cáo này cũng chưa được kiểm toán, vì vậy nếu chỉ dựa vào thông tin trên bảng cân đối kế toán và báo cáo hoạt động kinh doanh thì nhà đầu tư chưa thể nào chắc chắn về tình hình tài chính của công ty.
Tóm lại, do đặc điểm hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà đầu tư trên TTCK rất khó có thể sử dụng kĩ năng phân tích BCTC để quyết định đầu tư vào những cổ phiếu dù đã niêm yết hay chưa niêm yết.
Cơ quan quản lý chưa bao quát hết những vấn đề quản lý công bố thông tin và tuyên truyền phổ biến thông tin
Vì TTCK Việt Nam mới ở giai đoạn đầu hình thành nên các cơ quan quản lý, cụ thể là UBCKNN còn "non nớt" trong việc quản lý các vấn đề công bố thông tin và tuyên truyền phổ biến thông tin. Trong các Vụ quản lý của UBCKNN thì chưa có Vụ chuyên trách quản lý công ty niêm yết, do vậy vấn đề quản lý công bố thông tin và tuyên truyền phổ biến thông tin của công ty niêm yết còn nhiều bất cập. ở đây, xin đưa ra hai ví dụ.
Vụ gian lận tài chính tại Halong Canfoco được giới đầu tư bình chọn là vụ "xì căng đan" gây hoang mang nhất trong "lịch sử" TTCK. Tuy thế, cơ quan quản lý lại có vẻ lúng túng trong việc xử lý và công khai vụ việc. Nhiều đánh giá cho rằng quyết định của UBCKNN cho cổ phiếu CAN được giao dịch lại là hơi vội, vì mặc dù sự việc chưa rõ "trắng đen" thế nào nhưng riêng việc gian lận được trên 7 tỷ đồng tiền hoàn thuế khống thì doanh thu khống của Công ty này là bao nhiêu tỷ đồng! Vậy nhưng trong BCTC của Halong Canfoco không có bất cứ lời cảnh báo kèm theo nào của cơ quan quản lý.
Bên cạnh đó, nếu quan sát chặt chẽ thị trường sẽ thấy có một số thông tin về công ty niêm yết, mặc dù chưa được công bố chính thức, nhưng trên thị trường đã có những biến động. Điều này cho thấy, đã xuất hiện kênh thông tin từ các công ty niêm yết "chạy trước" hệ thống công bố thông tin chính thức trên TTCK. Hậu quả của việc thu nhận những thông tin "không chính thức" là có một lượng lớn các nhà đầu tư nhỏ dao động, thậm chí mất phương hướng đầu tư đã đưa ra các quyết định mua bán chạy theo "tâm lí chung của thị trường". Điều này tất yếu dẫn đến thua lỗ hoặc mất cơ hội hưởng mức tăng giá chứng khoán, đồng thời gây ra những biến động giả tạo trên thị trường.
UBCKNN là cơ quan trung tâm trong việc quản lý vấn đề thông tin của các công ty niêm yết. Chính vì thế trong thời gian tới cần có những biện pháp khắc phục để đảm bảo tính công khai, minh bạch và hiệu quả của hoạt động thị trường.
Công ty chứng khoán chưa làm tốt trách nhiệm về phân tích đầu tư chứng khoán và định hướng đầu tư
Khi nói đến TTCK không thể không nhắc tới vai trò của một thành viên quan trọng, có mặt thường xuyên trên thị trường là các công ty chứng khoán. Sở dĩ các công ty chứng khoán có vai trò quan trọng là do công ty chứng khoán hoạt động trên nguyên tắc cơ bản của TTCK là nguyên tắc trung gian.
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán là hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán, góp phần vào quá trình luân chuyển vốn giữa các tổ chức, cá nhân nhà đầu tư và quyết định tính thanh khoản của thị trường. Nhiệm vụ của các công ty chứng khoán không chỉ đơn thuần là nhận và chuyển lệnh giao dịch của khách hàng vào hệ thống giao dịch của TTGDCK. Các công ty chứng khoán còn có nhiệm vụ rất quan trọng là đưa ra những phân tích và những ý kiến tư vấn giúp khách hàng quyết định việc mua bán chứng khoán. Các công ty chứng khoán có thể thực hiện chuyển ý kiến phân tích, nhận xét của mình bằng văn bản thông qua các bản tin thị trường hàng ngày hoặc thông qua tư vấn trực tiếp của cán bộ Quản lý tài khoản (Cán bộ môi giới). Đối với những TTCK phát triển mà ở đó kỹ năng tư vấn, phân tích chứng khoán có vai trò quan trọng thì tư vấn đầu tư trong hoạt động môi giới chứng khoán trở nên không thể thiếu.
TTCK càng phát triển càng cho thấy vai trò quan trọng của các công ty chứng khoán. Với chức năng trung gian, các công ty chứng khoán đã giải quyết được cả vấn đề đầu ra và đầu vào của thị trường, đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư và cho cả các tổ chức phát hành, từ đó tạo động lực khuyến khích công chúng đầu tư tham gia vào thị trường, thúc đẩy TTCK nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung phát triển.
Tuy vậy, trong bối cảnh TTCK còn non yếu, cũng như trình độ của các nhà đầu tư còn rất hạn chế các công ty chứng khoán lại chưa làm tốt nhiệm vụ phân tích đầu tư chứng khoán và định hướng đầu tư.
Như đã phân tích ở trên, do trình độ kiến thức, kinh nghiệm còn rất hạn chế cộng với sự "nghèo nàn" về thông tin, nhìn chung các nhà đầu tư chưa đủ khả năng tự mình phân tích các BCTC. Họ cần có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính trung gian, phổ biến là các công ty chứng khoán. Nhưng thực tế hiện nay hầu như các công ty chứng khoán đều không làm tốt được việc này. Dường như chưa có công ty chứng khoán nào đáp ứng được nhu cầu tư vấn của nhà đầu tư và đạt được sự tín nhiệm của họ. Thực tế nhiều nhân viên tư vấn chỉ giới thiệu qua loa về tình hình thị trường, cung cấp vài bản cáo bạch, BCTC với những lời giải thích sơ sài trong khi tất cả các nhà đầu tư đều muốn được tư vấn về cách sử dụng hiệu quả đồng vốn của mình. Chưa có công ty chứng khoán nào có khả năng tư vấn cho khách hàng xây dựng được danh mục đầu tư chứng khoán tối ưu giúp nhà đầu tư có định hướng một cách bài bản, khoa học. Chưa có công ty chứng khoán nào đưa ra được những đánh giá về ngành nghề, đánh giá cụ thể về từng loại cổ phiếu, cách phân loại và xếp hạng cổ phiếu cũng như lượng hoá khả năng tăng giảm giá trong tương lai.
Thậm chí có công ty chứng khoán tung ra những bản phân tích tài chính của công ty niêm yết không có chữ ký của người phân tích. Đó là những thông tin tuỳ tiện, có dụng ý khích giá lên, vi phạm nguyên tắc thống nhất và bình đẳng cung cấp và nhận thông tin.
Trong số các công ty chứng khoán chỉ có Công ty chứng khoán Đệ Nhất (FSC) và Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) là tích cực đưa các bài phân tích tài chính các công ty niêm yết lên trang Web của công ty mình. Tuy nhiên những bài phân tích này còn rất sơ sài và không thường xuyên, trong khi TTCK lại biến động không ngừng.
Bên cạnh đó, đội ngũ nhân viên của các công ty chứng khoán rất hạn chế về kinh nghiệm và kiến thức, khả năng giao tiếp với khách hàng, nên các hầu như không thực hiện được hay thực hiện không hiệu quả nghiệp vụ tư vấn đầu tư, thông qua đó giúp định hướng các nhà đầu tư lựa chọn các cổ phiếu có chất lượng cao.
Thực tế, trong nhiều đợt biến động của thị trường, các công ty chứng khoán lại hoàn toàn thụ động mặc cho thị trường diễn ra theo cảnh "nước nổi bèo nổi'", dẫn tới tâm lý hoang mang và hoài nghi trong giới đầu tư. Nhiều nhà đầu tư cho rằng TTCK chỉ là canh bạc may rủi và giá trị cổ phiếu chỉ là giá trị ảo. Điều mà nhà đầu tư đòi hỏi ở các công ty chứng khoán lúc này không chỉ là các dịch vụ mang tính chất thao tác kỹ thuật mà cao hơn nữa là các tiện ích, các dịch vụ mang tính chuyên nghiệp, hàm chứa lượng trí tuệ cao để có thể tư vấn và hỗ trợ cho họ trong việc lựa chọn đầu tư trên thị trường bậc cao này.
Công ty niêm yết còn bỡ ngỡ với chế độ công khai tài chính trên TTCK
Niêm yết chứng khoán là một quá trình không đơn giản, chỉ những doanh nghiệp nào thực sự hiểu biết về nó và có sự chuẩn bị tốt mới có thể tham gia niêm yết thành công và đạt được tối đa các lợi ích mà việc niêm yết chứng khoán sẽ mang lại. Đây là một lĩnh vực mới mẻ tại Việt Nam nên không ít doanh nghiệp còn rất nhiều bỡ ngỡ khi triển khai thực hiện.
Về cơ bản, các công ty niêm yết đều cố gắng đáp ứng các quy định của UBCKNN đề ra, bộ máy Quản lý công tác tài chính kế toán của công ty niêm yết đã được chú trọng, nhất là chất lượng BCTC. Tuy nhiên, TTCK vừa đi vào hoạt động được hơn hai năm, do vậy các công ty niêm yết còn chưa quen với chế độ công khai tài chính. Các tổ chức niêm yết chưa thấy được hết tầm quan trọng của việc công bố thông tin trên TTCK, chỉ chú trọng việc cung cấp các thông tin tốt, còn các thông tin gây bất lợi thì không muốn công bố ra thị trường. Một số công ty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin, hầu hết các công ty chỉ chú trọng vào thông tin định kỳ và thông tin phải cung cấp theo yêu cầu, chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan tới hoạt động của công ty.
Một số công ty chưa đủ năng lực lập BCTC do Luật doanh nghiệp không quy định ràng buộc những người đứng ra thành lập doanh nghiệp phải hiểu biết về tài chính kế toán. Mặt khác, doanh nghiệp cũng chưa có thói quen thuê các công ty tư vấn tài chính kế toán thực hiện nghĩa vụ lập BCTC.
Bên cạnh đó, tổ chức niêm yết chưa có nhân viên chuyên trách việc công bố thông tin. Hoặc nếu có thì các nhân viên công bố thông tin chưa chủ động trong việc thực hiện cung cấp thông tin, chưa nắm vững các qui định về chế độ công bố thông tin của UBCKNN và TTGDCK. Hiện nay, các tổ chức niêm yết chủ yếu cung cấp các thông tin theo yêu cầu của UBCKNN và TTGDCK mà không nhận thức được tầm quan trọng của việc chủ động cung cấp thông tin. Đây là những rào cản rất lớn để các nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin từ công ty niêm yết kịp thời, chính xác và đầy đủ.
Trong điều kiện thông tin không đầy đủ như vậy cộng với trình độ kiến thức và kinh nghiệm còn yếu kém của các nhà đầu tư, tất yếu dẫn tới thực tế trong thời gian qua hiệu quả việc áp dụng thông tin từ phân tích BCTC là rất thấp. Chỉ số ít những nhà đầu tư có kiến thức, kinh nghiệm mới có ý thức và đủ khả năng sử dụng những kỹ năng phân tích BCTC doanh nghiệp trong quyết định lựa chọn loại cổ phiếu nào để đầu tư. Đây thực sự là một rào cản nhà đầu tư đến với TTCK Việt Nam.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn
Một trong những vấn đề còn tồn tại hiện nay của TTCK Việt Nam là cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất nghèo nàn. Đây là một trở ngại không nhỏ đối với các nhà đầu tư. Điều này thể hiện qua hệ thống giao dịch còn bán thủ công, chưa có hệ thống giao dịch tự động, nối mạng với công ty chứng khoán và đặt lệnh từ trụ sở chứng khoán. Hệ thống đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ còn thô sơ, chưa có trung tâm lưu ký chứng khoán hoạt động tách biệt với trung tâm giao dịch chứng khoán. Hệ thống giám sát tự động và hệ thống công bố thông tin qua mạng chưa có, hạn chế việc công khai hoá thông tin cho mọi nhà đầu tư và giám sát thị trường một cách hiệu quả. Vì vậy, hoạt động giám sát và công bố thông tin của TTGDCK còn nhiều bất cập.
*
* *
Những vấn đề bất cập đề cập trên đây là những rào cản không nhỏ đối với các nhà đầu tư trong việc áp dụng phân tích BCTC để ra quyết định đầu tư trên TTCK. Trước những bất cập đó chúng ta cần có những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư, giúp họ có thể vận dụng tốt những kỹ năng phân tích BCTC để ra quyết định đúng khi đầu tư vào TTCK.
Chương III:
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu Quả Phân tích BCTC doanh nghiệp để ra quyết định đầu tư chứng khoán trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Để hoạt động có hiệu quả, các thị trường đều dựa trên cơ sở là những thông tin đáng tin cậy và được phổ biến rộng rãi. Khi có điều kiện này, môi trường kinh doanh được coi là có tính thị trường. Thị trường tài chính và TTCK nói riêng là một môi trường phức tạp, và do đó đòi hỏi khối lượng thông tin lớn cho người sử dụng phải được công bố đầy đủ. Nhà đầu tư - những người sử dụng thông tin, bên cạnh trình độ kiến thức và kinh nghiệm, cũng cần được đảm bảo về độ tin cậy của thông tin được cung cấp, để thông qua đó biết được tình hình hoạt động của công ty có minh bạch không. Do đó, có ba yếu tố cần đáp ứng để đạt được tính toàn vẹn của thị trường, thông qua đó nhà đầu tư có thể dựa trên kiến thức phân tích tài chính doanh nghiệp để đưa ra các quyết định đúng:
các nhà quản lý và điều hành thị trường cần thiết lập ra các tiêu chuẩn cao đối với việc công bố thông tin kịp thời, chính xác và đáng tin cậy.
các thành viên thị trường (đặc biệt là các công ty niêm yết) phải đáp ứng được các tiêu chuẩn đó.
lòng tin của nhà đầu tư được củng cố. Những người tham gia vào thị trường phải được đảm bảo rằng thị trường là minh bạch, công bằng và mở cửa.
Trên cơ sở những phân tích ở trên, dưới đây tôi xin nêu ra những kiến nghị nhằm đảm bảo tính hiệu quả của TTCK Việt Nam, trên cơ sở đó các nhà đầu tư có thể sử dụng những thông tin có được từ phân tích BCTC để ra quyết định đầu tư.
Kiến nghị ở tầm vĩ mô
1. Đối với Nhà nước
Xây dựng Luật kế toán, Luật kiểm toán và ban hành đầy đủ các Chuẩn mực kế toán, kiểm toán
Kế toán và kiểm toán là một trong những công cụ quản lí tài chính không thể thiếu đối với công tác quản lí tài chính. Đây là những công cụ có vai trò tích cực trong quản lí, điều hành, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của một tổ chức kinh tế.
Về chế độ kế toán
Hiện nay cơ sở pháp lý trong lĩnh vưc kế toán là Pháp lệnh kế toán thống kê năm 1988 và Quyết định 1141/QĐ-CĐKT ngày 11/12/1995 của Bộ Tài Chính ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp. Cho dù đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng vẫn có nhiều điểm chưa phù hợp và khác biệt giữa hệ thống kế toán Việt Nam và chuẩn mực quốc tế.
Trước khi TTCK Việt Nam đi vào hoạt động, Bộ Tài Chính đã phối hợp với UBCKNN xây dựng chế độ kế toán áp dụng cho TTGDCKTPHCM và chế độ kế toán áp dụng cho các công ty chứng khoán. Đây cũng là bước đi trước, đón đầu trong công tác quản lý của Nhà nước. Chúng ta cũng đã ban hành được 4 chuẩn mực kế toán, bước đầu tạo sự thống nhất giữa hệ thống chế độ kế toán Việt Nam và chuẩn mực quốc tế...
Tuy nhiên, cho tới nay, chúng ta vẫn chưa có Luật kế toán, trên cơ sở đó xây dựng các chuẩn mực kế toán. Chỉ khi có Luật và Chuẩn mực kế toán, việc ghi chép, sử dụng và cung cấp các thông tin của các doanh nghiệp mới có căn cứ pháp lý vững chắc và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Như đã đề cập, thông tin tài chính minh bạch là một điều kiện tiên quyết để có thể có được một chế độ quản trị công ty tốt phục vụ lợi ích của các cổ đông hiện tại và thu hút được sự quan tâm của các cổ đông tương lai. Do vậy, trong thời gian tới cần thiết phải thực hiện một số công việc sau:
Một là, để tăng cường tính pháp lý và tạo môi trường thuận lợi cho Việt Nam hội nhập kế toán quốc tế và khu vực, Pháp lệnh kế toán cần được nâng cấp thành Luật kế toán, trong đó nội dung của văn bản này cần được xây dựng phù hợp với tiến trình hội nhập; phù hợp với các chuẩn mực, nguyên tắc và thông lệ và tập quán quốc tế về chế độ kế toán.
Hai là, để nâng cao chất lượng cũng như tính chất chuyên nghiệp của lĩnh vực kế toán, văn bản này cần coi hoạt động kế toán là một nghiệp vụ độc lập, theo đó người hành nghề, tổ chức dịch vụ hành nghề phải tuân theo các quy định về hành nghề kế toán.
Ba là, để nâng cao trách nhiệm trong việc công khai hoá tài chính, một điều đặc biệt quan trọng là các văn bản này cần quy định bắt buộc tất cả loại hình doanh nghiệp phải công khai BCTC với sự xác nhận của kiểm toán độc lập; các quy định về BCTC cần phải chặt chẽ về nội dung, thời gian, căn cứ, yêu cầu, nguyên tắc và trách nhiệm lập báo cáo.
Bốn là, quy định về cách thức và hình thức lập BCTC của chế độ kế toán Việt Nam cũng còn rất nhiều điểm cần phải được cải tiến. Các khoản mục trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doah, báo cáo luồng tiền mặt và thuyết minh BCTC cần phải được quy định chi tiết hơn. Bộ Tài Chính và UBCKNN có thể phối hợp để soạn thảo và áp dụng thí điểm việc thay đổi một số vấn đề liên quan đến chế độ hạch toán và kế toán đối với các công ty đang niêm yết để mang lại cho các nhà đầu tư trên thị trường những thông tin chính xác hơn.
Năm là, giảm bớt yêu cầu báo cáo những thông tin kế toán không cần thiết nhằm đơn giản hoá thủ tục lập BCTC và tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các công ty cổ phần thực thi trách nhiệm báo cáo của mình.
Về chế độ kiểm toán
Hiện nay Bộ Tài Chính chưa xây dựng và ban hành đầy đủ các chuẩn mực kiểm toán. Căn cứ pháp lý cao nhất trong lĩnh vực kiểm toán là Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ ban hành Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, hiệu lực pháp lý của công tác kiểm toán chưa cao. Chúng ta mới chỉ ban hành 6 chuẩn mực kiểm toán.
Hoạt động kiểm toán BCTC doanh nghiệp ở nước ta hiện nay được coi là một nhân tố quan trọng tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tế vững chắc của đất nước nói chung và TTCK nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động này còn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được niềm tin cho những người sử dụng thông tin trên BCTC doanh nghiệp.
Việc công bố thông tin tài chính của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào quy định tại Luật kiểm toán và chuẩn mực kiểm toán. Hiện nay, chưa có Luật kiểm toán nên công tác kiểm toán định kỳ của doanh nghiệp chưa được quy định chặt chẽ. Việc doanh nghiệp có kiểm toán hay không là điều kiện không bắt buộc ngoại trừ các doanh nghiệp cổ phần niêm yết tại TTGDCK. Đây cũng là sự thua thiệt cho các công ty niêm yết. Mặt khác, nó cũng dẫn tới sự mất bình đẳng trong các quy định của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
Một là, cần sớm ban hành Luật kiểm toán, hệ thống chuẩn mực kiểm toán đầy đủ phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo công bằng trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp niêm yết và doanh nghiệp chưa niêm yết.
Hai là, thiết lập một cơ chế kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động kiểm toán thông qua hình thức nội kiểm và ngoại kiểm.
Đối với hoạt động kiểm toán BCTC doanh nghiệp, việc phát triển hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp sẽ giúp nâng cao hiệu quả kiểm toán, giảm rủi ro kiểm toán. Đặc biệt trong điều kiện tin học hoá công tác kế toán đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, cần có qui định riêng về kiểm soát nội bộ trong môi trường xử lí thông tin bằng máy tính. Điều này sẽ giúp cho kiểm toán viên có cơ sở để đánh giá mức độ đạt được của các thủ tục kiểm soát nội bộ tại đơn vị so với yêu cầu, từ đó có thể xác định mức độ tin cậy để đi đến lựa chọn cách tiếp cận kiểm toán thông qua máy tính nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán.
Ba là, tăng cường tính độc lập của các tổ chức kiểm toán.
Hiện nay, có khoảng 34 công ty kiểm toán độc lập hoạt động tại Việt Nam, trong đó khoảng gần 10 công ty được UBCKNN chấp thuận được kiểm toán cho tổ chức niêm yết. Với vai trò là người đánh giá chất lượng thông tin tài chính, để TTCK phát triển đồng bộ và hiệu quả cần có sự phối hợp và nỗ lực từ phía cơ quan Nhà nước cũng như từng công ty kiểm toán trong việc nâng cao vai trò và chất lượng kiểm toán độc lập.
Ngoài ra, cần mở cửa thông thoáng hơn cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài được hoạt động bình đẳng với công ty kiểm toán trong nước. Như vậy sẽ tạo được môi trường cạnh tranh, tạo động cơ cho các công ty trong nước nâng cao chất lượng và tạo điều kiện để các công ty này tiếp cận với kinh nghiệm cũng như kỹ năng của kiểm toán quốc tế để có thể nhanh chóng hội nhập với hoạt động kiểm toán quốc tế.
Bốn là, tích cực đào tạo nâng cao chất lượng và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ kiểm toán viên.
Chất lượng kiểm toán là vấn đề hệ trọng, có liên quan đến hiện tượng "sức khoẻ" của các doanh nghiệp được kiểm toán và ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư. Cũng cần phải khẳng định rằng, năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên là những yếu tố mang tính chất quyết định đến chất lượng kiểm toán. Hiện nay, theo số liệu của Bộ Tài Chính, chỉ có 1/5 trong tổng số gần 3000 kiểm toán viên đang hành nghề tại Việt Nam có chứng chỉ kiểm toán, số còn lại chỉ được đào tạo qua loa và hoạt động "chui" do không có chứng chỉ hành nghề.
Chủ trương của Bộ Tài Chính là trong thời gian tới sẽ áp đụng chế độ kế toán và kiểm toán theo các chuẩn mực quốc tế. Hiện tại, Vụ Chế độ kế toán thuộc Bộ Tài Chính đang kết hợp với Hiệp hội ACCA, một tổ chức quốc tế của Anh chuyên kiểm tra và cấp bằng xác nhận chất lượng chuyên môn của các kế toán và kiểm toán viên, tổ chức đào tạo và thi cấp bằng cho các kiểm toán viên trong nước dựa trên các giáo trình và chuẩn mực của ACCA. Hy vọng rằng, qua chương trình hợp tác này, chất lượng kiểm toán tại Việt Nam sẽ nâng cao trong thời gian tới.
Đồng thời, cần kết hợp chặt chẽ với việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ kiểm toán viên, nhằm đảm bảo chất lượng của các BCTC được kiểm toán.
Thị trường kiểm toán ở Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng do các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp niêm yết nói riêng đang ngày càng nhận thức được vai trò của công tác kiểm toán. Mặt khác, trước yêu cầu phải có kết quả kiểm toán để đánh giá thực chất hoạt động của doanh nghiệp và báo cáo với cổ đông và công chúng đầu tư, cần phối hợp đồng bộ các biện pháp nêu trên để nâng cao chất lượng kiểm toán trong thời gian tới.
Chỉnh sửa pháp luật về chứng khoán và TTCK
Tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK, các quy định về quản lý niêm yết và quản lý công bố thông tin của tổ chức niêm yết trên thị trường chưa được đề cập. Trong khi đó, theo Quyết định 127/1998 về việc thành lập TTGDCK của Thủ tướng Chính phủ, TTGDCK chỉ có chức năng quản lý các hoạt động giao dịch chứng khoán chứ không có chức năng quản lý tổ chức niêm yết.
ở các công ty cổ phần, Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất, có đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ để thực hiện các quyền nhân danh công ty, ngoại trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. Về nguyên tắc, Hội đồng quản trị sẽ phải chịu trách nhiệm trước cổ đông về hiệu quả quản trị doanh nghiệp của mình, song việc giám sát công tác quản lý của tổ chức niêm yết hiện vẫn chưa có một "cơ quan thứ ba" nào đứng ra đảm trách. Ngay tại Nghị định 75/1996/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thành lập UBCKNN cũng không đề cập đến Vụ chuyên trách về quản lý niêm yết (Vụ Quản lý niêm yết). Rõ ràng về mặt pháp lý, TTCK nước ta hiện nay đang trống mảng pháp luật điều chỉnh việc quản lý niêm yết và quản lý công bố thông tin của tổ chức niêm yết trên thị trường, đồng thời thiếu vắng một cơ quan quản lý niêm yết. Trong khi đó, việc lập báo cáo thông tin của các tổ chức niêm yết dường như chỉ giao cho một nhân viên, không có sự cam kết của giám đốc nên khi có sự cố xảy ra không biết quy trách nhiệm cho ai. Đây là vấn đề cần khắc phục để quản lý tốt các công ty niêm yết.
Sự lỏng lẻo trong công tác quản lý của Bibica và Halong Canfoco, dẫn đến những hệ quả không tốt trong thời gian gần đây hay những vụ bê bối của các Tập đoàn lớn trên thế giới như Enron hay Worldcom là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tất cả những công ty đã, đang và sẽ niêm yết về công tác quản lý doanh nghiệp. Hơn bao giờ hết quản lý doanh nghiệp là vấn đề hệ trọng đối với các công ty niêm yết.
Chính vì vậy, hệ thống luật pháp về chứng khoán và TTCK cần hoàn thiện để tạo điều kiện phát triển thị trường vốn hiệu quả và có tính cạnh tranh, là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng cường khả năng quản lý các công ty niêm yết. Khi thị trường vốn năng động, các ban quản lý công ty buộc lòng phải thực hiện tốt và quản trị tốt công ty, nếu không sẽ bị đào thải. Luật pháp trên TTCK cũng yêu cầu việc công khai thông tin, qua đó, tăng cường khả năng giám sát của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ đối với hoạt động quản trị của công ty niêm yết. Ngoài ra, khi cơ quan quản lý chứng khoán có khả năng giám sát được hoạt động của các công ty có chứng khoán phát hành ra công chúng thì việc tăng cường quản trị công ty không chỉ dừng lại ở các công ty niêm yết mà còn bao trùm lên cả các công ty cổ phần nói chung.
Hiện nay văn bản pháp luật về lĩnh vực chứng khoán và TTCK cao nhất là Nghị đinh 48/NĐ-CP. Do hiệu lực pháp lý của văn bản này chưa cao nên còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết, nhất là những vấn đề quản trị công ty như nêu trên đây. Hiện nay Nghị định này đã được thay thế bằng một Nghị định khác nhưng thiết nghĩ, để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới cần nâng cấp Nghị định này thành Pháp lệnh và dài hạn hơn là Luật chứng khoán, trong đó cần:
đưa ra các chuẩn mực, tiêu chuẩn chi tiết hơn về chế độ công bố thông tin, áp dụng chung cho tất cả các công ty đại chúng chứ không chỉ riêng công ty niêm yết .
tạo cơ chế thông thoáng hơn cho việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư; khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài.
quy định rõ ràng và nâng cao vai trò của hội đồng quản trị trong công tác giám sát và bảo vệ quyền lợi của các cổ đông. Cần quy định phải có sự tách biệt giữa vai trò giám sát và điều hành công ty của Hội đồng quản trị; quy định bắt buộc Hội đồng quản trị phải có một số thành viên độc lập đại diện cho cổ đông bên ngoài.
2. Đối với UBCKNN
Chuẩn hoá các quy định hướng dẫn quy trình công bố thông tin tài chính doanh nghiệp
UBCKNN đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý chế độ báo cáo ở Việt Nam. UBCKNN cần cụ thể hoá các văn bản pháp quy, đưa ra những quy định rõ ràng, thống nhất, phù hợp thông lệ quốc tế nhằm chuẩn hoá quy trình công bố thông tin tài chính doanh nghiệp đối với các công ty niêm yết.
UBCKNN có thể yêu cầu các công ty niêm yết áp dụng điều lệ mẫu trong chế độ báo cáo. Mục tiêu của bản điều lệ này là bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện tại cũng như các cổ đông tiềm năng và duy trì hoạt động ổn định của công ty theo đúng pháp luật hiện hành.
Hiện nay Tổ chức quốc tế các Uỷ Ban Chứng Khoán (IOSCO) đã công bố 30 chuẩn mực kế toán quốc tế chờ thông qua để tạo điều kiện cho việc phát hành chứng khoán tại các thị trường nước ngoài. UBCKNN cần bám sát các tiêu chuẩn này để "chuẩn hoá" và "quốc tế hoá" các quy định về kế toán, phục vụ cho công cuộc hội nhập.
Tăng cường giám sát và xử lý vi phạm nghĩa vụ công khai tài chính doanh nghiệp
Pháp luật về chứng khoán và TTCK hiện đang có và sẽ có những quy định chặt chẽ liên quan đến những nguyên tắc quản trị công ty như nghĩa vụ công khai BCTC và các thông tin của công ty, việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và cổ đông công ty đối với công ty hiện đang niêm yết trên thị trường. Tuy nhiên, việc thực hiện những quy định này qua hai năm hoạt động của thị trường đang còn không ít những vấn đề bất cập. Các nhà đầu tư trên thị trường luôn ở trong tình trạng không có thông tin. Một số công ty vi phạm chế độ công bố thông tin ở các mức độ khác nhau vẫn chưa bị xử lý một cách nghiêm khắc. Để khắc phục những vấn đề này, công tác thanh tra và giám sát thị trường cần phải được tiến hành mạnh mẽ hơn nữa. UBCKNN cần xây dựng một quy chế về việc thẩm định, thanh tra và giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo của doanh nghiệp, đề ra các biện pháp thưởng phạt nghiêm minh nhằm khuyến khích áp dụng và ngăn chặn những hành vi vi phạm. Công tác thanh tra, giám sát cần phải được thực hiện theo chế độ định kỳ và bất thường song song với việc áp dụng chế độ báo cáo nghiêm ngặt.
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng thông tin liên quan đến các công ty niêm yết, những thông tin quan trọng như các dự báo về kế hoạch SXKD của các công ty phát hành và niêm yết cũng cần phải được các công ty kiểm toán độc lập xem xét và cho ý kiến trước khi công bố ra công chúng. Các văn bản pháp quy liên quan đến việc xử lý những trường hợp vi phạm chế độ công bố thông tin và vi phạm quyền lợi của các nhà đầu tư cùng cần phải được chỉnh sửa và chi tiết hoá để tạo tiền đề pháp lý cho việc xử lý việc vi phạm những nguyên tắc quản trị công ty của các công ty niêm yết trên thị trường.
Một ví dụ là mới đây, Vụ trưởng phụ trách Thanh tra của UBCKNN đã ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối cới Công ty cổ phần Đồ hộp Hạ Long (Halong Canfoco) với mức tiền phạt là 10 triệu đồng vì đơn vị này đã vi phạm quy chế công bố thông tin trên TTCK. Cụ thể là Halong Canfoco đã không công bố thông tin việc công ty này đã bán khống hoá đơn cho các doanh nghiệp khác trong năm 2001 và việc Công an Hải Phòng đã có quyết định khởi tố vụ án liên quan đến thuế giá trị gia tăng tại Halong Canfoco vào tháng 9 năm 2002.
Đồng thời, trong tháng 11 vừa qua, Chủ tịch UBCKNN đã ký quyết định xử phạt đối với công ty kiểm toán AASC, đơn vị kiểm toán cho Halong Canfoco. Theo đó, đình chỉ hoạt động kiểm toán của AASC đối với BCTC năm 2002 của Halong Canfoco, đình chỉ tư cách kiểm toán viên được chấp thuận đối với một kiểm toán viên của AASC trong 2 kỳ kiểm toán năm 2002 và 2003.
Đây là những biện pháp xử lý nghiêm minh có tác dụng rất tích cực trong việc ngăn chặn những vi phạm công khai tài chính của các công ty niêm yết trong thời gian tới.
Khuyến khích thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm dưới hình thức liên doanh với các tổ chức định mức tín nhiệm nước ngoài có uy tín
TTCK đã qua hai năm đi vào hoạt động và các tổ chức phát hành tiến tới sẽ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu ra TTCK, nhưng vẫn chưa mở ra cơ hội cho việc thành lập các tổ chức xếp hạng rủi ro tín dụng độc lập (còn gọi là các tổ chức định mức tín nhiệm độc lập) nhằm tạo lập lòng tin cho các nhà đầu tư. Theo các chuyên gia chứng khoán, hạn chế nêu trên làm cho toàn bộ việc phát hành, mua bán chứng khoán... của các công ty và nhà đầu tư trên TTCK đều diễn ra theo nhận định chủ quan.
Các tổ chức định mức tín nhiệm rất cần thiết cho hoạt động của TTCK trong việc đánh giá chất lượng hoạt động của tổ chức phát hành và đưa ra các kết quả định mức tín nhiệm của mình, qua đó có tác dụng hướng dẫn các nhà đầu tư, các tổ chức có liên quan trong việc đưa ra các quyết định đầu tư chứng khoán.
ở các nước trên thế giới, việc hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm là một nhu cầu tất yếu của TTCK. Dựa trên các tiêu chí như mức độ rủi ro, nghĩa vụ pháp lý, khả năng hoàn trả đúng hạn số tiền gốc và lãi suất chứng khoán của tổ chức phát hành... mà các tổ chức định mức tín nhiệm đưa ra các xếp hạng chứng khoán cụ thể. Điều này đã làm giảm bớt những rủi ro về "đạo đức" phát sinh bởi những nguồn thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có được các quyết sách đầu tư đúng đắn.
Việc đánh giá mức độ tín nhiệm của chứng khoán ở các nước có TTCK phát triển thường được thực hiện theo yêu cầu của các tổ chức phát hành, thậm chí ở một số nước đây là yêu cầu bắt buộc. Các tổ chức định mức tín nhiệm bị gắn trách nhiệm pháp lý khi các tổ chức phát hành không trả được nợ vay hoặc phá sản. Có thể kể ra một số tổ chức định mức tín nhiệm có tên tuổi trên thế giới hiện nay như Moody's; Standard & Poors; Fitch and Duff&Phelps...
Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, sự có mặt của các công ty kế toán, kiểm toán độc lập hiện nay ở Việt Nam có thể bù đắp được sự thiếu vắng của các tổ chức định mức tín nhiệm. Mặc dù vậy, thực tế là khả năng độc lập phản ánh thông tin về rủi ro và tình hình tài chính doanh nghiệp của các tổ chức kế toán, kiểm toán độc lập ở Việt Nam chưa cao. Chính vì thế, để có được các thông tin tài chính minh bạch đánh giá doanh nghiệp thì cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa tài liệu kiểm toán độc lập với đánh giá định mức tín nhiệm của các công ty xếp hạng rủi ro tín dụng độc lập.
Hiện nay, tổ chức định mức tín nhiệm là loại hình dịch vụ tài chính trung gian của TTCK chưa từng xuất hiện ở Việt Nam. Vì vậy, việc xem xét cho ra đời loại hình dịch vụ này trong thời gian tới nên có sự tham gia của các tổ chức nước ngoài của TTCK phát triển để cung cấp sự trợ giúp về chuyên môn. Ngoài ra, điều này còn giúp tạo uy tín cần thiết ban đầu để chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả vào thời điểm này là cần sớm có sự thừa nhận về mặt địa vị pháp lý của tổ chức định mức tín nhiệm bởi lẽ cho đến nay trong các văn bản pháp lý về chứng khoán và TTCK Việt Nam chưa thấy đề cập tới khái niệm về tổ chức định mức tín nhiệm.
Nâng cao chất lượng tuyên truyền và đào tạo chứng khoán và TTCK
Hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam chịu sự điều hành và quản lý của UBCKNN, do vậy mọi hoạt động tuyên truyền đều phải phục vụ cho công tác quản lý, điều hành sự phát triển của thị trường. Công tác tuyên truyền luôn phải đi trước hoạt động của thị trường, có tính chất định hướng cho hoạt động của thị trường, tạo lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường, đồng thời cảnh báo đối với những hoạt động đầu cơ, lũng đoạn thị trường. Trong từng thời điểm khác nhau, nội dung phương pháp tuyên truyền cũng khác nhau, nhưng luôn đảm bảo mục tiêu là thoả mãn nhu cầu thông tin của công chúng đối với lĩnh vực chứng khoán, đồng thời định hướng cho hoạt động của thị trường.
Đồng thời, công tác tuyên truyền phải gắn với hoạt động đào tạo. Để nâng cao dân trí, nâng cao sự hiểu biết của công chúng đối với lĩnh vực chứng khoán và TTCK thì việc tuyên truyền không chưa đủ mà phải gắn với đào tạo nghiệp vụ chứng khoán. Đào tạo sẽ giúp nhà đầu tư có kiến thức về chứng khoán và TTCK, các kỹ năng phân tích đầu tư chứng khoán bao gồm phân tích BCTC. Hoạt động đào tạo cũng phải được tuyên truyền quảng cáo, làm cho công chúng thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường.
Kiến nghị ở tầm vi mô
Đối với công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán chính là những đơn vị tìm kiếm và giúp các doanh nghiệp thực hiện phát hành và niêm yết trên TTCK thông qua các nghiệp vụ chính như tư vấn cổ phần hoá, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn niêm yết, tư vấn và bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán. Với trình độ chuyên môn cao và khả năng nắm sát thông tin thị trường bao gồm những thông tin liên quan tới tổ chức phát hành, các nhà đầu tư, cùng những biến động giá cả hàng ngày, các công ty chứng khoán phải đóng vai trò tích cực hơn trong việc phân tích đầu tư chứng khoán và định hướng đầu tư.
Các công ty chứng khoán - cơ quan phát triển TTCK cần củng cố và phát triển hơn nữa thông qua việc nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán. Các công ty chứng khoán nên mở rộng mạng lưới dịch vụ chi nhánh, đại lý nhận lệnh. Bên cạnh đó, một yếu tố rất quan trọng là phải hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán, hiện đại hoá hệ thống thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán với TTGDCK và nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường.
Đối với các công ty niêm yết
Chấp hành đúng nghĩa vụ công khai tài chính, thông tin công bố phải trung thực và được kiểm toán đúng quy định
Công ty niêm yết, nơi cung cấp hàng hoá cho thị trường là nơi đầu tiên biết và nắm được các thông tin về hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty. Việc yêu cầu cung cấp thông tin của các công ty niêm yết là đòi hỏi chính đáng của cổ đông nói riêng và nhà đầu tư nói chung.
Các công ty niêm yết cần phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin định kì, tức thời và theo yêu cầu. BCTC định kỳ là dạng phổ biến nhất và ít tốn kém nhất để công bố thông tin doanh nghiệp. Các BCTC định kì nên thực hiện theo đúng qui định của Bộ Tài Chính và UBCKNN về thời gian, tránh chậm trễ sẽ gây ra tình trạng mất tin tưởng hoặc hoang mang cho nhà đầu tư. Trong một số trường hợp như công ty niêm yết chậm công bố thông tin, cần công bố lí do cụ thể gây ra tình trạng chậm trễ này nhằm hạn chế những tác động bất lợi cho công ty niêm yết.
Công ty niêm yết cũng phải chú trọng tới việc cung cấp thông tin tức thời và theo yêu cầu. Trong đó, thông tin tức thời là quan trọng nhất vì có tác dụng trực tiếp đến giá chứng khoán trên thị trường. Thông tin tức thời bao gồm các thông tin tốt và không tốt của tổ chức niêm yết.
Đồng thời chấp hành đúng nghĩa vụ kiểm toán theo quy định. Không chỉ thực hiện kiểm toán đối với các BCTC định kỳ mà những thông tin quan trọng như các dự báo về kế hoạch SXKD của các công ty phát hành và niêm yết cũng cần phải được các công ty kiểm toán độc lập xem xét và cho ý kiến trước khi công bố ra công chúng
Lập bộ phận chuyên trách, chuẩn mực hoá chức vụ, tiêu chuẩn của nguời chịu trách nhiệm công khai tài chính
Các công ty niêm yết cần lập ra bộ phận chuyên trách công bố thông tin. Các cán bộ phụ trách công bố thông tin cần phải là người có thẩm quyền trong công ty, được chuẩn mực hoá chức vụ và tiêu chuẩn.
Điều này đòi hỏi trình độ quản lý và phương cách thể hiện của doanh nghiệp hay nói khác hơn là sự chuyên nghiệp hoá trong công tác công bố thông tin. Tính chuyên nghiệp trong công bố thông tin phải hội đủ các yếu tố chính xác, đầy đủ và kịp thời. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp không chỉ công bố những thông tin tốt mà còn cả những thông tin bất lợi cho doanh nghiệp.
Có chương trình công bố thông tin tài chính định kỳ, thường xuyên và tự nguyện
Các công ty niêm yết nên có chương trình công bố thông tin tài chính theo định kỳ, thường xuyên và tự nguyện.
Việc công bố các thông tin định kì và thường xuyên sẽ tránh được hậu quả do ảnh hưởng của những thông tin sai lệch về các công ty. Người đầu tư thường xuyên tiếp nhận thông tin công bố chính thức sẽ có những cơ sở để nhận định được đúng hoặc sai khi thị trường xuất hiện những thông tin không chính thức, gây bất lợi cho các công ty niêm yết.
Bên cạnh những thông tin về tổ chức niêm yết phải công bố theo qui định, tổ chức niêm yết có thể tiến hành công bố thông tin tự nguyện. Công bố thông tin tự nguyện là việc tổ chức niêm yết tự nguyện công bố những thông tin không thuộc những vấn đề phải công bố. Tổ chức niêm yết có thể vận dụng công bố thông tin tự nguyện vừa góp phần cung cấp thông tin cho thị trường, vừa là một hình thức quảng cáo cho chính mình. Cụ thể là, bên cạnh các thông tin về kết quả đạt được, các công ty niêm yết nên công bố kế hoạch hoạt động trong tương lai, những thay đổi về chiến lược kinh doanh, các dự án sẽ thực hiện,...trong các buổi gặp gỡ trực tiếp các nhà đầu tư để họ có nhận thức tương đối về hoạt động của công ty trong thời gian tới. Đồng thời, các công ty niêm yết nên thiết lập Website riêng để tạo mối liên hệ trực tiếp với công chúng đầu tư và qua đó nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn.
ở các nước trên thế giới, việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động SXKD và tình hình quản lý, điều hành công ty. Những thông tin này phải đáng tin cậy và được phổ biến rộng rãi cho công chúng đầu tư một cách kịp thời và công bằng. Đó là điều kiện để những người sử dụng thông tin ra quyết định đúng đắn về công ty, trong đó có việc mua bán chứng khoán. Thực vậy, TTCK là nơi thực hiện việc xã hội hoá đầu tư, qua đó thể hiện sự đánh giá của xã hội đối với giá trị công ty nên chất lượng công bố thông tin sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành giá cả chứng khoán một cách hợp lý hay lệch lac.
Công bố thông tin là yếu tố quyết định sự phát triển lành mạnh của TTCK, góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh và sự hấp dẫn của một nền kinh tế trước con mắt nhà đầu tư trong và ngoài nước.
3. Đối với công chúng đầu tư
Đầu tư vào cổ phiếu đi kèm với khả năng mang lại thu nhập cao là mức độ rủi ro tương đối lớn. Bởi lẽ nhà đầu tư lâu dài vào công ty để hưởng cổ tức không trực tiếp quản lý kinh doanh bằng tiền đầu tư của mình mà họ chỉ đặt lòng tin vào khả năng sinh lời của công ty sử dụng khoản tiền đầu tư này. Chính vì vậy, từ phía các nhà đầu tư cũng cần có những biện pháp nhằm tối thiểu hoá rủi ro có thể mang lại.
Nâng cao trình độ hiểu biết và kỹ năng đầu tư đặc biệt là kỹ năng phân tích BCTC trong đầu tư chứng khoán
Các nhà đầu tư là những người thực sự tâm huyết và đặt rủi ro đầu tư lên trên đồng tiền "xương máu" của mình. Khi mới tham gia thị trường, nhà đầu tư vì nhiều lý do chưa có điều kiện chuẩn bị tốt cho hành trang của mình về kiến thức cũng như tâm lý. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả đầu tư các nhà đầu tư cần tích luỹ thêm kiến thức chuyên sâu. Hiểu biết về chứng khoán và kỹ năng phân tích BCTC là những điều kiện tối thiểu mà nhà đầu tư cần phải có khi tham gia vào thị trường.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cần cân nhắc mỗi khi ra quyết định mua hay bán chứng khoán và kiên định hơn với chiến lược đầu tư của mình. Nhà đầu tư đến thị trường để tìm kiếm lợi nhuận, do đó họ có quyền rời bỏ thị trường nếu như họ nhận thấy việc kiếm lời là quá khó khăn. Tuy nhiên nhà đầu tư cũng phải biết kiên trì vượt qua giai đoạn ảm đạm chờ cơ hội đến. Trong giai đoạn giá cổ phiếu đã xuống mức thấp, mức cầu giảm thì các nhà đầu tư nên ưu tiên cho phương hướng đầu tư dài hạn bằng cách tìm hiểu kỹ nguồn thông tin về các công ty niêm yết, chọn các loại cổ phiếu đầu tư có kỳ vọng đem lại hiệu quả cao nhất để có thể tìm được cả hai nguồn lợi nhuận là cổ tức và chênh lệch giá do giá cả cổ phiếu tăng.
Điểm mấu chốt mà nhiều nhà đầu tư nổi tiếng trên TTCK thế giới thường khuyên mọi người là từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường. Có như vậy thì từng nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất kể tình hình giá cả trên thị trường biến động lên hay xuống.
Tăng cường giám sát bên ngoài
Đối với những nhà đầu tư hiện thời của các công ty niêm yết (hay là các cổ đông), việc tăng cường sự giám sát của cổ đông đối với hoạt động của công ty cần phải được thực hiện đồng thời với biện pháp đào tạo và phổ biến kiến thức cho các cổ đông. Có thể nói việc tăng cường giám sát bên ngoài là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để nhà đầu tư hiểu biết và đánh giá đúng công ty niêm yết để ra quyết định có tiếp tục đầu tư không.
Việc giám sát của cổ đông chỉ có thể thực hiện được và thực hiện tốt khi chính các cổ đông hiểu và đứng lên bảo vệ quyền lợi của chính mình. Do vậy, để thúc đẩy việc giám sát của các cổ đông đối với hoạt động của các công ty thì công tác đào tạo và phổ biến kiến thức cần phải được thực hiện một cách toàn diện hơn nữa. Cụ thể là:
giúp các cổ đông hiểu rõ hơn quyền lợi và những thủ tục của Đại hội đồng cổ đông-phương tiện chủ yếu để các cổ đông thực thi các quyền của mình
cho phép các cổ đông tham dự vào các Đại hội cổ đông nhiều hơn thông qua việc sử dụng những phương tiện thông tin liên lạc điện tử và cung cấp các báo cáo cũng nhưng các thông tin khác cho cổ đông bằng phương tiện điện tử.
Đầu tư chứng khoán qua quỹ đầu tư tập thể
Khi đầu tư ai cũng muốn kiếm lời nhưng để tạo ra tiền lời đó theo nguyên tắc "đầu tư có mục đích và lâu dài" thì không phải nhà đầu tư nào cũng làm được, nhất là các nhà đầu tư nhỏ. Cho nên việc cho ra đời các quỹ đầu tư, với tư cách là các định chế chuyên nghiệp để giúp các nhà đầu tư không chuyên nghiệp thực hiện đầu tư tốt nhất vào TTCK là yêu cầu cấp bách. Các quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng tập hợp rộng và tạo ra nguồn vốn mới cho thị trường. Các quỹ này sẽ chịu trách nhiệm lựa chọn danh mục đầu tư và giúp những nhà đầu tư cá nhân riêng lẻ tìm kiếm lợi nhuận.
Các quỹ đầu tư sẽ đóng vai trò là chiếc cầu nối các nhà đầu tư cá thể với TTCK thông qua các công ty môi giới chứng khoán. Đây là một trong những cách tốt nhất để nhà đầu tư làm quen với TTCK, và do đó rất thích hợp với tình hình kinh tế và thói quen của người dân Việt Nam. Nó giúp cho nhà đầu tư tiết kiệm chi phí, tận dụng kiến thức của các chuyên gia đồng thời đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán từ đó phân tán rủi ro. Đầu tư của các cá nhân vào TTCK thông qua các quỹ đầu tư chuyên nghiệp sẽ góp phần tạo lập và duy trì lòng tin của công chúng vào thị trường, tạo điều kiện quan trọng cho TTCK phát triển trong tường lai.
*
* *
Tính đến thời điểm đầu tháng 12 năm 2002 thì TTCK đang có dấu hiệu phục hồi. Chỉ số VN-Index đã vượt lên trên 180 điểm. Nhiều người cho rằng đến cuối năm nay chỉ số VN-Index sẽ đạt được 200 điểm. Qua thực tế kinh doanh, các nhà đầu tư ngày càng tích luỹ được kiến thức, kinh nghiệm và "độ nhạy" với thị trường. Chế độ công khai tài chính, cho dù còn nhiều điểm cần bàn nhưng rõ ràng trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, các công ty niêm yết trên TTCK đã thể hiện một sự minh bạch hơn hẳn, có hành lang pháp lý tương đối rõ ràng. Các công ty niêm yết đang là các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao trong thị trường của Việt Nam. Hơn nữa, BCTC, các kế hoạch phát triển kinh doanh trong tương lai, việc chia lợi nhuận của công ty tới các nhà đầu tư đã phần nào tạo sự an tâm hơn về mặt tâm lý, khuyến khích các nhà đầu tư mới tham gia thị trường.
Chính từ những triển vọng đó của các công ty niêm yết và của TTCK sẽ dẫn tới các nhà đầu tư ngày càng nâng cao nhận thức về vai trò của phân tích các BCTC. Nhà đầu tư sẽ có quyết định đúng đắn hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao thông qua sự hiểu biết và đánh giá đúng tiềm năng phát triển của các công ty niêm yết.