Khóa luận Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới

LỜI NÓI ĐẦU Hội nhập kinh tế trong điều kiện nền kinh tế có xuất phát điểm kém, chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn trước sự cạnh tranh, tìm kiếm, giành giật thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam với một thực trạng yếu kém về quy mô, công nghệ, năng lực tài chính, năng lực quản lý, lại thụ động chưa có chiến lược kinh doanh chủ động, lâu dài, nên khi thâm nhập thị trường quốc tế gặp phải những khó khăn về khả năng cạnh tranh, các cản trở về pháp luật, kiểm soát của chính phủ, sự khác biệt về văn hoá, ảnh hưởng về địa lý, khí hậu, sự thay đổi ý thích của người tiêu dùng và một loạt các yếu tố không kiểm soát được. Làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam đứng vững và phát triển được trong thời gian tới, ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp cũng cần có sự quan tâm không thể thiếu của các cơ quan quản lý vĩ mô. Cần thiết tạo ra một môi trường thông thoáng để thúc đẩy các doanh nghiệp đi tới lựa chọn chiến lược cạnh tranh chủ động, thay thế cho sự thụ động, ỷ lại hiện nay. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu "Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới". Ngoài phần mở đầu, kết luận cùng danh mục tài liệu tham khảo đề tài được kết cấu gồm 3 chương sau: Chương 1: Tổng quan về môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương 3: Định hướng phát triển xuất khẩu và một số kiến nghị về hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu của Việt nam đến năm 2010.

pdf98 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 73 thuế) một cách rõ ràng, thay đổi phương pháp tính thuế theo giá tối thiểu bằng phương pháp tính theo giá trong hợp đồng thương mại. - Về tín dụng: xoá bỏ cơ chế kết hối ngoại tệ, áp dụng tỷ giá thanh toán cho hàng xuất khẩu phù hợp với biến động thực tế trên thị trường. Thực hiện chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ, nhưng thủ tục hành chính phải thuận lợi và nhanh chóng, không gây phiền hà cho xuất khẩu. Ngày 27 tháng 9 năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 195/1999/QĐ- TTg về việc lập, sử dụng và quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ này sẽ thay thế Quỹ thưởng xuất khẩu tồn tại từ trước. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được sử dụng với các mục đích chủ yếu là hỗ trợ về tài chính, tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tín dụng cho một số sản phẩm xuất khẩu để nâng cao khả năng cạnh tranh hoặc bù đắp những rủi ro khách quan, đồng thời giúp các doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.. Hiện nay Chính phủ đã quy định thưởng xuất khẩu với hình thức thưởng bằng tiền, tuy nhiên cần áp dụng thêm các biện pháp thưởng khuyến khích khác như: bằng khen, danh hiệu doanh nghiệp có tín nhiệm trên thương trường để tăng thêm uy tín cho các doanh nghiệp xuất khẩu giỏi. 1.4 Cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Vấn đề đầu tư cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu tăng nhanh nguồn hàng với số lượng lớn và chất lượng cao, tạo đựơc nhiều ngành hàng chủ lực, đáp ứng đúng nhu cầu thị hiếu trên thị trường ngoài nước là yếu tố hết sức quan trọng. Đây là biện pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi tuy xuất khẩu đã được đưa lên vị trí ưu tiên và được coi là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nhưng trên thực tế sản xuất thay thế nhập khẩu vẫn được ưu tiên hơn, hay ít ra là ngang bằng so với sản xuất hàng xuất khẩu. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành từ năm 1994 và có hiệu lực thi hành từ năm 1995 nhưng tác dụng của Luật này đối với đầu tư Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 74 phát triển sản xuất hàng xuất khẩu còn khá nhỏ bé. Những hình thức ưu đãi đầu tư được áp dụng chung cho cả sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (như dầu ăn và nước giải khát). Hệ quả là các nhà máy đường, bia, xi măng… xuất hiện trong khi ngành rau quả và thủy sản phải rất khó khăn mới tìm được vốn để xây dựng một nhà máy bao bì hiện đai. Vị trí thứ yếu của xuất khẩu còn được thể hiện ở chỗ không có các hình thức để đảm bảo rủi ro cho các nhà xuất khẩu khi họ gặp trắc trở trên thị trường ngoài, trong khi các nhà máy giấy, kính, thép… bất cứ lúc nào cũng có thể nhận được sự hỗ trợ của các biện pháp "tình thế" như hạn chế hoặc tạm ngừng nhập khẩu. Tình trạng trên chủ yếu bắt nguồn từ tư duy chiến lược không rõ ràng giữa hướng về xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu và trong nhiều trường hợp quá nhấn mạnh một vế đề nào đó. Để xuất khẩu có được nguồn vốn đầu tư cần thiết trong hoàn cảnh tích lũy có hạn, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng này. Việc cải thiện môi trường đầu tư cần tập trung vào xử lý các vấn đề sau: • Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã được đề cập trong Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (Luật năm 1998). • Xóa bỏ các thủ tục xét duyệt phiền hà đối với đầu tư tư nhân, đặc biệt là việc phê duyệt nhập khẩu maý móc thiết bị. • Rà soát lại danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư. Những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất đã tương đối đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước cần được xem xét để đưa ra khỏi danh mục này, tránh khuyến khích tăng thêm đầu tư mới, kể cả đầu tư nước ngoài. Về lâu dài, nên xem xét tìm cách khắc phục vấn đề này bằng cách hợp nhất hai bộ luật về đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước thành luật đầu tư đồng thời Chính phủ nên xem xét một số biện pháp sau đây để tăng nguồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp: Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 75 - Nới lỏng các qui định về bảo lãnh trong các trường hợp vay vốn nước ngoài để đầu tư công nghệ như doanh nghiệp nước ngoài cho thanh toán nợ vay bằng sản phẩm. - Phát huy tác dụng của hình thức thuê mua thiết bị. Hiện nay các Công ty cho thuê tài chính đã xuất hiện nhưng chưa được giải quyết thấu đáo về mặt thủ tục pháp lý cũng như môi trường kinh doanh nên chưa phát huy được tác dụng. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân và các Công ty trách nhiệm hữu hạn, được tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng, đề nghị đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho khu vực dân cư, bởi quyền sử dụng đất vẫn là tài sản thế chấp lớn nhất mà họ có. Việc phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung, được xây dựng với cơ sở hạ tầng đầy đủ, sẽ là tác nhân kích thích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện về tài chính cho hoạt động của các ban quản lý khu công nghiệp. Hiện nay các ban quản lý các khu công nghiệp đều sử dụng nguồn chi từ ngân sách Nhà nước theo qui định chi tiêu rất phức tạp, chưa được tự chủ trong hoạt động tài chính (một phần nguồn thu từ lệ phí cấp giấy phép, thuế xuất khẩu nên được giữ lại dành cho chi tiêu của Ban quản lý khu công nghiệp nhằm trang trải cho các hoạt động xúc tiến đầu tư ngày càng tăng). • Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí như tính chất chủ lực, cấp độ chế biến…để không lặp lại tình trạng khuyến khích dàn đều, không có định hướng xây dựng ngành hàng chủ lực và định hướng chuyển đổi cơ cấu các hàng xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Một hiện tượng tương đối phổ biến hiện nay là khuyến khích đầu tư một cách chung chung và dàn đều. Sự khuyến khích dàn đều mang lại 4 điều Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 76 bất lợi. Thứ nhất, là không nêu bật được định hướng xuất khẩu cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ hai, là thiếu tính thực tiễn bởi ngân sách không đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu ưu đãi trên diện rộng. Thứ ba, là không tạo được định hướng vĩ mô đúng đắn cho sự dịch chuyển của các yếu tố đầu vào (đồng vốn, đất đai và sức lao động vẫn tiếp tục dồn vào những lĩnh vực không có hiệu quả hoặc kém hiệu quả, dẫn đến lãng phí vô cùng to lớn). Thứ tư, là nếu tăng được xuất khẩu thì cũng chỉ là trên phương diện lượng, không mang lại được các thay đổi về chất nhờ đầu tư đổi mới công nghệ. Để khắc phục các nhược điểm trên đây, cần nghiên cứu phân chia ưu đãi đầu tư thành nhiều cấp độ theo hướng dành khuyến khích mạnh cho các ngành hàng chủ lực và cho các dự án đầu tư nhằm nâng cao cấp độ chế biến của hàng hóa. Cụ thể, nếu dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô một cách thông thường (chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít. Nếu có đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hóa thì, tùy theo mức độ, sẽ được ưu đãi nhiều hơn. Trong việc lựa chọn công nghệ và thiết bị đầu tư cần có sự kết hợp hài hòa giữa đồng vốn, trình độ công nghệ, khả năng kết hợp với các yếu tố đầu vào khác (như sử dụng lao động), khả năng tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn phải đi đôi với hiệu quả kinh doanh. Do vậy không nhất thiết phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại nhất cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở. Trong chừng mực nhất định, việc đầu tư vượt quá yêu cầu cần thiết cũng có tác hại tương tự như việc đầu tư công nghệ thiết bị lạc hậu. Trong một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới thì nhất thiết phải chú trọng nhập khẩu thiết bị tiên tiến nhằm kiến tạo cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu. Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành lập Ngân hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã được làm nhưng quy mô còn nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết về sự Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 77 tồn tại của một trung tâm như vậy. Tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến các doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư. Nhà nước cần tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá đặc biệt. Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn được khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trường công nghệ cần có cơ chế chính sách khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng. 1.5 Tăng cường các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm tiếp cận và mở rộng thị trường. Đàm phán thương mại (song phương và đa phương) bao gồm đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế là sự hỗ trợ rất quan trọng của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Với hơn 60 Hiệp định thương mại song phương được ký kết trong thời kỳ 1991-2000. Nhà nước đã khẳng định được vai trò đàm phán mở rộng thị trường ở tầm vĩ mô. Tại hầu hết các thị trường trọng điểm, hàng hoá của Việt Nam đều được hưởng chế độ tối huệ quốc hoặc GSP. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam- EU được ký kết vào năm 1995, mở ra triển vọng mới trong quan hệ hợp tác với EU, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu dệt may, giày dép, thuỷ sản vào thị trường này. Nhật Bản cũng đã dành cho ta chế độ thuế nhập khẩu tối huệ quốc vào năm 1999. Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ được ký kết và có hiệu lực đã và đang thúc đẩy xuất khẩu Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 78 của ta sang thị trường này, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình đàm phán gia nhập WTO. Song song với đàm phán mở cửa thị trường mới, Nhà nước cần triệt để sử dụng nguyên tắc cân bằng thương mại để đòi hỏi các nước này phải mở hơn nữa thị trường để tiến tới cân bằng cán cân thương mại một cách hợp lý. Ngoài ra, cần tăng cường đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế. Trong thời gian tới cần tổ chức lại hệ thống thông tin về thị trường thế giới có ở nhiều Bộ, ngành. Tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung - cầu hàng hoá và dịch vụ … Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của Bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề. Khi đã có sản phẩm hàng hoá, thì việc tổ chức thị trường và hoạt động xúc tiến cụ thể là rất quan trọng. Thông qua hai khâu này sản phẩm xuất khẩu mới đến được thị trường nhập khẩu, đến với người tiêu dùng. Vì vậy, tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại phải trở thành một chức năng quan trọng của Bộ Thương mại và tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán phải là tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Nhà nước có thể hỗ trợ việc thâm nhập và mở rộng thị trường thông qua việc khuyến khích thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất "chìa khoá trao tay". Đây là một giải pháp cần chú trọng bởi lẽ các tập đoàn xuyên quốc gia là những người đi đầu trong lĩnh vực chuyên môn hoá và hợp tác hoá. Các sản phẩm sản xuất ra tại một nước thường nằm trong một dây chuyển sản xuất, tiêu thụ mang tính toàn cầu. Vì vậy, thông qua thu hút đầu tư của các tập đoàn này sẽ đảm bảo được thị trường xuất khẩu qua hệ thống phân phối toàn cầu. Ngoài ra, cần tăng cường Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 79 thu hút đầu tư của các nhà sản xuất "chìa khoá trao tay" (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin) để góp phần chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất xám và hàm lượng công nghệ cao. Nhà nước cần sớm có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra thị trường bên ngoài, nhất là đầu tư trong khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm (thí dụ như chế biến và đóng gói chè, mỳ ăn liền…) để tránh các hàng rào thuế và phi thuế do nước nhập khẩu đặt ra. Ngoài ra, nên xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trênt thị trường ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào thị trường ngoài thông qua các biện pháp điều tiết nguồn cung và điều tiết tiến độ xuất khẩu. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), cần tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi. Các Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi chính phủ, tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, do đặc thù của nước ta, các doanh nghiệp có quy mô lớn, là thành viên chủ chốt của Hiệp hội đều là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tạo điều kiện và hỗ trợ nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành. Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 80 2. Hoàn thiện môi trường vi mô 2.1 Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và khả năng lựa chọn, định vị thị trường và mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp. a. Thị trường Châu Á * Thị trường Nhật Bản: Để mở rộng thị trường xuất khẩu sang Nhật Bản cần triển khai một số biện pháp sau: - Chính phủ cần có sự trao đổi, bàn bạc cụ thể (trong khuôn khổ song phương bởi dự kiến đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam có thể còn kéo dài) để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của Việt Nam qui chế MFN đầy đủ. - Bên cạnh việc có chỉ đạo cụ thể cho tham tán thương mại trong việc thu thập thông tin, Bộ Thương mại cần phối hợp với JETRO (Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản) tại Việt Nam để tăng cường hơn nữa công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật tới các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh, vào một thị trường có đòi hỏi cao như thị trường Nhật. - Trong tiến trình cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, Nhà nước cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản bởi lý do "xuất khẩu trở lại". Trong chừng mực nào đó có thể vượt khỏi nguyên tắc không phân biệt đối xử để giải quyết những yêu cầu riêng của nhà đầu tư Nhật Bản. Trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật trong những năm tới đây sẽ là hàng dệt may, hải sản, giày dép và sản phẩm da, than đá, cao su, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ. Để tăng cường xuất khẩu hàng dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hơn nữa đến sản phẩm dệt kim bởi khoảng 70% kim ngạch Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 81 nhập khẩu hàng dệt may của Nhật là hàng dệt kim. Mục tiêu sẽ là thị trường đại chúng, chưa phải là thị trường quần áo cao cấp bởi năng lực sáng chế mẫu mã của ta chắc chắn chưa thể có biến chuyển mạnh mẽ trong thời gian tới. Hải sản của Việt Nam, nhất là tôm được thị trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Để nâng cao giá bán và tăng tính hấp dẫn đối với mạng lưới nhập khẩu và phân phối tại Nhật, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến khâu chất lượng và vệ sinh thực phẩm. Trong đó việc lấy xác nhận trước về chất lượng đóng vai trò hết sức quan trọng. Kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào Nhật còn khá khiêm tốn. Trong thời gian tới, sau khi đã được hưởng chế độ thuế MFN, các doanh nghiệp cần hết sức quan tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật bởi việc này vừa tạo điều kiện phát triển ngành, vừa giúp cho ngành tránh được sự áp đặt quota của EU. Trước đây đã có thời gian ta xuất cho Nhật một lượng cao su khá lớn nhưng tới nay chỉ xuất được khoảng 4-5 ngàn tấn/ năm là tối đa dù thuế nhập khẩu của Nhật là 0%. Lý do chủ yếu là do chủng loại cao su của ta không thích hợp với thị trường Nhật. Vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu cao su vào Nhật, cần nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm trong ngành cao su, giảm tỷ trọng cao su 3L, tăng tỷ trọng của cao su 3R và cao su RSS. Các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh là những mặt hàng hoàn toàn có khả năng thâm nhập và đứng vững trên thị trường Nhật, Việt Nam mới bán được cho Nhật khoảng 7-8 triệu USD rau quả 1 năm, chiếm chưa đầy 0,3% thị phần. Tiềm năng phát triển các mặt hàng này là rất lớn bởi người Nhật có nhu cầu cao về một số loại rau quả được trồng phổ biến ở nước ta. Do thực phẩm nhập khẩu vào Nhật phải qua các khâu kiểm tra hết sức khắt khe về vệ sinh thực phẩm nên ngoài việc thực hiện các biện pháp đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh của Nhật, các doanh nghiệp nên chú trọng hợp tác liên doanh với Nhật để đáp ứng đúng thị hiếu tiêu dùng. Đồ gốm sứ cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất lớn tại thị trường Nhật. Đồ gốm sứ của Việt Nam đã có mặt tại Nhật Bản nhưng kim Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 82 ngạch còn nhỏ (khoảng 5 triệu USD/năm) dù thuế xuất nhập khẩu đồ gốm sứ rất thấp (0-3%). Đây là mặt hàng ta có thể nâng kim ngạch lên mức độ cao nếu các nhà sản xuất quan tâm hơn nữa đến khâu tạo hình và đặc điểm của hệ thống phân phối trên thị trường Nhật. Sản phẩm Gỗ cũng có thể thâm nhập tốt vào thị trường Nhật, Người Nhật có nhu cầu sử dụng đồ gỗ khá lớn. Đây là mặt hàng ta có lợi thế, lại không phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh nên các doanh nghiệp cần tận dụng. Sự chuyển hướng sang thị trường Nhật sẽ giúp các doanh nghiệp tránh được các quy định ngày càng khắt khe của EU và Mỹ về bảo vệ rừng, tận dụng được nguồn gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia (một số nước EU không chấp nhận mua sản phẩm làm từ gỗ Campuchia). * Thị trường Trung Quốc: Trong thời gian tới đây để mở rộng thị trường, giải pháp phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc như sau: - Tiếp tục tăng cường quan hệ thương mại với Trung Quốc. Đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các công ty lớn theo tập quán quốc tế. Đối với buôn bán biên giới, cần có sự tổ chức tốt hơn bởi đây là đầu ra của hàng loạt mặt hàng khó xuất (hoặc tạm thời khó xuất). - Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tạm nhập - tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu với khách hàng Trung Quốc nhưng có biện pháp để đảm bảo an toàn hàng hoá và an toàn thanh toán cho các hoạt động này. - Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu biện pháp tăng cường vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán mậu dịch biên giới. Vấn đề hàng đầu hiện nay chưa phải là đồng tiền thanh toán mà là thanh toán qua ngân hàng để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các lô hàng xuất khẩu. Hoạch định kế hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, xây dựng các chợ biên giới để định hướng hoạt động cho các mô hình tổ chức thị trường vùng biên giới, đảm bảo lợi ích của ta. Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 83 Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian tới đây sẽ là: cao su, hải sản, rau quả, hạt điều, dầu thực vật và hàng bách hoá. Trung Quốc là nước nhập khẩu cao su lớn trên biên giới, hàng năm có nhu cầu nhập khẩu từ 800 ngàn đến 1 triệu tấn cao su thiên nhiên và cao su tổng hợp. Hiện nay Trung Quốc là bạn hàng mua cao su số 1 của Việt Nam, do thị trường Trung Quốc chấp nhận sử dụng các sản phẩm cao su được làm từ mủ cao su chất lượng trung bình. Chất lượng cao su 3L, của ta đáp ứng được nhu cầu của Trung Quốc, lại có giá thấp hơn chủng loại RSS nên thay vì mua RSS, Trung Quốc chuyển sang mua cao su 3L của Việt Nam. Hiện nay phía Trung Quốc đang mở cửa thị trường cao su theo các cam kết với các nước trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Theo Tổng Công ty Cao su thì hàng năm có thể tiêu thụ 100.000 tấn cao su sang Trung Quốc. Lượng hải sản tiêu thụ sang Trung Quốc đang tăng với tốc độ cao, Trung Quốc mua của ta một số lượng lớn các loại hải sản khô (mực khô, cá khô), chủ yếu qua đường biên mậu. Do đó có thể đẩy mạnh xuất khẩu cả hải sản đông lạnh và hải sản khô vào Trung Quốc. Vấn đề tồn tại hiện nay là đồng tiền thanh toán và an toàn thanh toán. Các doanh nghiệp thuỷ sản thường bán thu ngoại tệ tự do chuyển đổi, nay đưa vào Trung Quốc để nhận lại nhân dân tệ theo một phương thức không mấy an toàn nên không yên tâm. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật cần quan tâm giải quyết cho doanh nghiệp. Mặt hàng quả tươi, là mặt hàng thu được nhiều lợi ích nhất trong việc phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc. Trung Quốc có thể nhập khẩu nhiều loại trái cây khác nhau của Việt Nam. Tuy nhiên, khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cần có sự theo dõi hoạt động của đối thủ cạnh tranh trực tiếp là các doanh nghiệp của Thái Lan. Cho đến nay Trung Quốc vẫn là bạn hàng số 1 của ta về hạt điều. Việc tiêu thụ hạt điều sang Trung Quốc không gặp khó khăn gì, thậm chí còn được giá hơn là xuất sang các thị trường khác (giá USD danh nghĩa). Tuy nhiên thanh toán bằng Nhân dân tệ để rồi phải nhập hàng tiêu dùng, hàng có chất Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 84 lượng trung bình về bán thu lại tiền Việt là không có lợi cho nền kinh tế cũng như dễ mang lại rủi ro cho doanh nghiệp. Theo số liệu của Trung Quốc, hàng năm Trung Quốc nhập của Việt Nam từ 40.000 đến 50.000 tấn dầu thực vật các loại. Đây là mặt hàng có khả năng phát triển trong thời gian tới. Hàng Bách hoá (bánh kẹo, đồ uống, chất tẩy rửa…) đã xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần lưu ý đến việc không ngừng cải tiến chất lượng hàng hoá đưa sang Trung Quốc để giữ vững thị trường và qua thị trường Trung Quốc làm quen dần với việc tiến ra thị trường ngoài trong những năm tới đây. * Thị trường Hàn Quốc: Trong thời gian tới đây, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, cần tập trung xử lý các vấn đề sau đây: - Do ta nhập siêu với Hàn Quốc rất lớn (từ 800 - 900 triệu USD/năm) nên có thể sử dụng yếu tố này để thuyết phục Hàn Quốc có những nhân nhượng thực sự về mở cửa thị trường. - Với kim ngạch nhập khẩu hàng năm bằng 1/2 Nhật Bản, Hàn Quốc là thị trường nhiều tiềm năng. Hơn nữa, đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc và tăng tỷ trọng của Hàn Quốc trong kim ngạch xuất khẩu sẽ giúp chúng ta tránh được nguy cơ phụ thuộc vào một khối thị trường nào đó. Trong thời gian tới nước ta có thể duy trì và đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng: dệt may, hải sản, giày dép, rau quả, than đá, dược liệu, dừa và sản phẩm dừa. Khi tiếp cận khách hàng tiềm tàng ở Hàn Quốc, doanh nghiệp Việt Nam nên gửi cho họ catalogue hoặc mẫu hàng kèm theo bảng giá và điều kiện giao hàng cụ thể. Không nên rút lại hoặc thay đổi các dữ kiện trong bản chào hàng nếu bản chào hàng đó vẫn còn trong thời hạn hiệu lực bởi khách hàng Hàn Quốc thường coi chào hàng là hợp đồng, dù hợp đồng chính thức chưa được ký. Sau khi thành công thương vụ đầu tiên, nếu nhận thấy khả năng phát triển là có thì doanh nghiệp Việt Nam nên mở chi nhánh tại Hàn Quốc hoặc thuê một đại lý Hàn Quốc để khuếch trương công việc kinh doanh. Tại Hàn Quốc Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 85 có một Hiệp hội gọi là Hiệp hội các Đại lý Ngoại thương Hàn Quốc (AFTAK), được chính phủ Hàn Quốc cho thành lập vào năm 1970 để quy tụ các doanh nghiệp chuyên làm đại lý cho các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài. * Thị trường Đài Loan: Nhiều chuyên gia dự báo rằng: Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, Đài Loan cũng sẽ tìm mọi cách vận động để gia nhập WTO với những cam kết về mở cửa thị trường còn rộng hơn Trung Quốc. Để đẩy nhanh tiến trình gia nhập, có thể Đài Loan sẽ đơn phương giảm bớt hàng rào thuế và phi quan thuế (hiện đã làm một phần). Đây cũng sẽ là một thuận lợi cho việc đẩy mạnh thâm nhập thị trường Đài Loan. Để nâng cao ảnh hưởng của mình trên trường Quốc tế, Đài Loan có xu hướng đẩy mạnh hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo thông qua các chương trình hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, thậm chí cho vay cải thiện cán cân thanh toán. Trong chừng mực nhất định, doanh nghiệp của Việt Nam có thể tận dụng xu hướng này của Đài Loan để đẩy mạnh xuất khẩu hoặc để trợ giúp doanh nhân Đài Loan tại Việt Nam xuất khẩu đi nước thứ ba. Thời gian tới đây, cần đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè, các sản phẩm như cơ khí và điện gia dụng do cơ sở có vốn đầu tư của Đài Loan sản xuất tại Việt Nam. * Thị trường Hồng Kông: - Hải sản hiện đang là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch xuất khẩu sang Hồng kông, thường xuyên chiếm 10-11% tổng kim ngạch xuất khẩu hải sản của Việt Nam. Việc duy trì và phát triển thị trường này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành thuỷ sản. Gần đây Cục vệ sinh Hồng Kông có đưa ra một số yêu cầu về vệ sinh thực phẩm đối với hàng thuỷ sản tươi sống Bộ Thuỷ sản cần phổ biến các yêu cầu này tới các doanh nghiệp xuất khẩu hải sản để họ có biện pháp bảo đảm chất lượng hải sản xuất khẩu vào Hồng kông. Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 86 - Mặt hàng rau quả cũng là mặt hàng có thể phát triển xuất khẩu sang Hongkong trong thời gian trước mắt. Điều đáng chú ý là nên tập trung vào quả tươi bởi không thể cạnh tranh được với Trung Quốc về rau. - Sau rau quả, mặt hàng nước chấm, mà chủ yếu là nước mắm, là mặt hàng có thể và cần đẩy mạnh xuất khẩu sang Hồng kông. Dung lượng thị trường là hơn 35 triệu lít/năm, tương đương 64 triệu USD. Thái Lan đang bán vào Hồng kông khoảng 11 triệu lít/năm trong khi Việt Nam chỉ bán được khoảng 250 ngàn lít. Đây là mặt hàng mà ta bị Thái Lan chèn ép trên toàn thế giới, không riêng gì tại Hồng kông. Trong thời gian tới cần chú ý các biện pháp cải tiến chất lượng, bao bì, giành lại thị trường từ tay Thái Lan. - Hạt điều cũng là mặt hàng có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào Hồng kông. Hiện nay Việt Nam đang chiếm vị trí số 1 trong số các nước bán hạt điều vào Hồng kông và chiếm khoảng 45 % thị phần. Các doanh nghiệp có thể nâng thị phần nay lên hơn nữa để thu ngoại tệ chuyển đổi thay vì bán sang Trung Quốc thu Nhân dân tệ. * Thị trường các nước ASEAN: ASEAN là thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu (năm 2000 nhập siêu từ ASEAN là 1,9 tỷ USD, bằng 73% kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này). Trong bối cảnh đó, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu cho ASEAN để tiến tới thương mại cân bằng là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, các loại hàng mà ta có thế mạnh thì các nước ASEAN cũng có, sức cạnh tranh của một số mặt hàng trong số đó thậm chí còn mạnh hơn ta. Để có thể tiến tới thương mại cân bằng với ASEAN, cần phải có một số giải pháp như sau: Hàng năm Việt Nam nhập khẩu một số lượng linh kiện xe máy và phân bón rất lớn từ thị trường ASEAN (gần 80% kim ngạch linh kiện xe máy và hơn 50% kim ngạch phân bón). Đây là hai mặt hàng nhập khẩu có điều kiện nên có thể thay đổi theo hướng không cấp 100% chỉ tiêu cho các doanh nghiệp, nhà nước nên thu về ít nhất là 50% để tổ chức đấu thầu hàng đổi hàng, Indonesia và Philippines sử dụng BULOG và NFA để quyết định mua Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 87 hay không mua gạo của ta và mỗi lần muốn xuất gạo cho họ đều phải đàm phán với hai tổ chức này. b. Thị trường Châu Âu * Liên minh châu Âu (EU) Trong thời gian tới đây, để phát triển xuất khẩu sang EU, cần thực hiện một số giải pháp lớn như sau: - Chế độ quản lý nhập khẩu của EU hết sức phức tạp nên việc thu thập thông tin và phổ biến thông tin đến các doanh nghiệp là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, các nước đang phát triển chỉ thực sự sử dụng được 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP. Nếu không làm tốt công tác thu thập và phổ biến thông tin thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể tận dụng được mọi cơ hội để thâm nhập vào thị trường EU. - Chế độ ưu đãi GSP đang mất dần ý nghĩa do EU hàng năm đều tiến hành giảm thuế MFN theo quy định của vòng đàm phán Uruguay. Chế độ hạn ngạch cho hàng dệt may cũng hết hiệu lực vào năm 2005. Vì lý do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giữ gìn uy tín của mình trong việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo duy trì được toàn bộ các mối quan hệ bạn hàng nhằm chuẩn bị cho thời kỳ "hậu GSP" và "hậu hạn ngạch " nói trên. Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành hữu quan, tiến hành đàm phán và thoả thuận với EU về các vấn đề còn tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam - EU. Chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau đây: - Phối hợp với EU trong việc kiểm soát lượng giày dép mang xuất xứ Việt Nam xuất khẩu vào EU, tránh nguy cơ EU áp đặt hạn ngạch cho Việt Nam. - Tìm hiểu rõ các quy định của EU về điều kiện nuôi trồng và chế biến thuỷ sản để trình Chính phủ cấp vốn cho các doanh nghiệp nâng cao thiết bị, cải thiện môi trường, đáp ứng các yêu cầu của EU về vệ sinh thực phẩm. Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 88 - Đề nghị EU áp dụng trở lại mức thuế 12% cho mặt hàng bánh đa nem và tăng hạn ngạch thuế quan của mặt hàng sắn lên 6 vạn tấn/năm. - Đề nghị EU sớm cùng ta xem xét lại Hiệp định dệt may để nâng hạn ngạch lên từ 30% đến 50% cho từng chủng loại và nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN từ 10% lên 20%. - Khuyến khích hoạt động của CLB doanh nhân EU tại Việt Nam để qua đó nắm bắt thêm thông tin về thị trường EU và tăng cường khả năng lobby của ta với các cơ quan có thẩm quyền của EU. * Thị trường Liên bang Nga: Là một thị trường lớn, giàu tiềm năng nhưng Nga còn đang ở vào giai đoạn khó khăn. Khó khăn lớn nhất khi đi vào thị trường này là vấn đề vốn của các doanh nghiệp Nga. Đại đa số các doanh nghiệp Nga, kể cả doanh nghiệp nhà nước, đều gặp khó khăn về vốn nên rất thiếu ngoại tệ, khả năng mở L/C theo thông lệ quốc tế rất yếu. Hiện nay các nhà kinh doanh hàng nhập ở Liên bang Nga thường đề nghị người xuất khẩu giao hàng về kho ngoại quan, bán đến đâu thanh toán đến đấy. Như vậy rủi ro trong xuất nhập khẩu vẫn rơi vào người xuất khẩu vì nếu không tiêu thụ được hàng thì mọi chi phí lưu kho cũng như giải quyết hàng tồn đều do người xuất khẩu chịu. Do môi trường kinh doanh và luật pháp ở Liên bang Nga chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên trong hoạt động xuất nhập khẩu hiện tượng lậu thuế diễn ra phổ biến. Rất nhiều công ty xuất khẩu nước ngoài và công ty kinh doanh hàng nhập khẩu tại Nga ít nhiều đều dính líu đến việc man khai giá trị, chủng loại, C/O hàng hoá để trốn thuế, lậu thuế. Vì vậy, nếu hàng nhập vào Liên bang Nga theo đường chính thống, trả đúng quy định các khoản thuế thì khó tiêu thụ và không cạnh tranh được với hàng nhập lậu theo các con đường khác nhau. Khâu vận tải và vấn đề nan giải lớn đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Phương tiện vận tải duy nhất hiện nay chỉ còn là container nên chi phí vận tải rất cao, không phù hợp với những lô hàng lớn và hàng không có giá trị cao. Cước phí cao cộng thêm chi phí vận tải nội địa, chi phí thủ tục hải quan và cảng phí đắt đỏ đã làm cho giá Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 89 hàng của Việt Nam nhập vào Liên bang Nga bị đội lên, nhiều khi quá mức chấp nhận của thị trường và thời gian vận chuyển giữa hai nước, có lưu ý yếu tố tỷ giá ngoại tệ không ổn định thì trong nhiều trường hợp đưa hàng tiêu dùng có tính thời trang, thời vụ vào thị trường Liên bang Nga trở nên rất rủi ro. Vấn đề thâm nhập và mở rộng thị trường Nga với trọng tâm về hàng hoá là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Việt Nam và Liên bang Nga có thể thoả thuận tiếp tục nhập vật tư thiết bị năng lượng theo phương thức thanh toán một phần bằng tiền, một phần bằng hàng xuất khẩu của Việt Nam để tạo đầu ra cho một số mặt hàng xuất khẩu. Cần chú ý đây chỉ là sự trợ giúp ban đầu của nhà nước đối với các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho hàng hoá của họ xuất hiện trên thị trường Nga. Các doanh nghiệp cần nắm bắt cơ hội này để tìm hiểu nhu cầu đích thực của thị trường về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, giá thành… từ đó có chiến lược thâm nhập cụ thể. Không nên coi xuất khẩu trả nợ là cơ hội đẩy đi những mặt hàng thấp cấp và kém chất lượng. Một số hàng có thể xuất khẩu sang thị trường Nga như gạo, thịt, cao su, chè, hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng khác. Để buôn bán với Nga, nhất định phải có luồng tàu biển hợp lý, với cước phí vận tải ở mức chấp nhận được. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ phương án tăng cường phương thức chuyển đi Odessa và Vladivostok với mức giá cạnh tranh hoặc Nhà nước phải hỗ trợ một phần giá cước. Thời gian đầu (có thể là 1,2 năm), Chính phủ sẽ hỗ trợ một phần cước phí cho doanh nghiệp. Những tàu chạy tuyến Nga sẽ được miễn mọi khoản thu của Nhà nước như phí cập cầu, phí hoa tiêu, thuế vốn thậm chí hoàn thuế nhiên liệu (nếu có)… để giảm chi phí. Đồng thời có biện pháp bảo lãnh tín dụng, để xuất khẩu hàng hoá sang Nga được thuận lợi, an toàn. * Thị trường Đông Âu và SNG: Hàng xuất khẩu sang Đông Âu và SNG của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng may mặc, giầy dép, thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ, gạo, cà Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 90 phê, cao su (số lượng nhỏ) và thuỷ sản. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Đông Âu và SNG đang giảm dần. Diện bạn hàng cũng đang bị thu hẹp. Số nước nhập khẩu hàng của Việt Nam với kim ngạch đáng kể, đủ để xuất hiện trong danh bạ thống kê, đã rút từ 7 nước xuống còn 4 nước (Ba Lan, Ucraina, Sec và Slovakia). Các nước Anbani, Bungary, Hungary, Belarussia hầu như không có kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam hoặc có nhưng do đi theo đường gián tiếp. Do các nước Đông Âu và SNG đều gặp khó khăn về tài chính nên một trong những hướng cần nghiên cứu là tăng cường thương mại hàng đổi hàng với từng nước Cộng đồng người Việt tại các nước Đông Âu và một số nước SNG là cộng đồng lớn nhưng tạm thời chưa có những biểu hiện phức tạp như cộng đồng người Việt tại Liên bang Nga. Nhiều người, đặc biệt là ở Séc và Ba Lan, đã tạo dựng được các cơ sở kinh doanh của riêng mình, một số có tầm cỡ khá, Đây là một lợi thế trong việc thâm nhập thị trường cần phải được duy trì và phát triển. c. Thị trường châu Mỹ: Trọng tâm của khu vực Bắc Mỹ là thị trường Hoa Kỳ. Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới nhưng lại không đòi hỏi quá khắt khe như người tiêu dùng ở Châu Âu hay Nhật Bản nên tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, đều cố gắng tăng cường xuất khẩu sản phẩm của mình sang Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết trong năm 2000 là một nhân tố quan trọng tạo thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Năm 2001 Hiệp định đã được phê chuẩn và bắt đầu thể hiện tác dụng của Hiệp định từ năm 2002. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Dự kiến trong 10 năm tới nhu cầu nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục tăng ở mức trên dưới 10% năm. Trong những năm tới đây, mặt hàng cà phê còn có triển vọng Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 91 tăng kim ngạch trên thị trường Hoa Kỳ do thuế MFN và chi phí MFN đều bằng 0%. Hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu một số lượng lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay, Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu trực tiếp vào thị trường Hoa Kỳ mà không phải qua trung gian trên thị trường. Dự kiến Việt Nam sẽ vượt qua các nước như Trung Quốc và Tây Ban Nha để trở thành 1 trong 5 nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất vào Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu cả chè đen và chè xanh với kim ngạch bình quân khoảng 130 triệu USD/năm (riêng năm 1998 nhập 170 triệu USD). Chè đen chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng 80%) trong tổng lượng chè nhập khẩu. Do thuế nhập khẩu chè đen là 0% cho cả MFN và phi MFN nên nếu có cải tiến về chất lượng, chè đen của ta còn có khả năng tăng kim ngạch trên thị trường Hoa Kỳ. Mức tăng bình quân có thể đạt tới trên 20%/năm. Riêng chè xanh khi Hiệp định Thương mại được thông qua đã có mức phát triển tốt do mức thuế phi MFN chênh lệch quá lớn so với thuế MFN (20% so với 7%). Hoa Kỳ là nước nhập khẩu hải sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản. Các loại hải sản được nhập khẩu nhiều là tôm, tôm hùm, sò và cua, trong đó tôm có giá trị lớn nhất (trên 2 tỷ USD/năm). Với dung lượng thị trường lên tới gần 3 tỷ USD/năm, triển vọng tăng xuất khẩu tôm là khá lớn nếu vấn đề sinh thực phẩm được quan tâm chu đáo. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu nhiều thực phẩm chế biến. Loại thực phẩm chế biến chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ hiện nay là tôm chế biến. Kim ngạch xuất khẩu thực phẩm chế biến nói chung và tôm chế biến nói riêng có thể tăng ở mức trên 30%/năm và tới năm 2005 có thể trở thành nước thứ hai (sau Thái Lan) trong số các nước xuất khẩu thực phẩm chế biến vào Hoa Kỳ. Dung lượng thị trường gốm sứ tại Hoa Kỳ là lớn theo dự báo nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng từ 7% đến 15%/năm. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ của ta vào Hoa Kỳ vẫn còn rất nhỏ bé, chiếm chưa đầy 0,1% kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Nguyên nhân chính là do thuế phí MFN quá Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 92 chênh lệch so với thuế MFN. Khả năng tiêu thụ hàng của Việt Nam là tương đối tốt bởi mẫu mã của Việt Nam không kém gì hàng Trung Quốc. Khi được hưởng thuế nhập khẩu MFN như hàng Trung Quốc thì kim ngạch có thể đạt tới hàng trăm triệu USD/năm. Hoa Kỳ là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Hàng dệt may của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường Hoa Kỳ nhưng kim ngạch còn rất nhỏ so với tiềm năng, chủ yếu là do mức chênh lệch giữa thuế MFN và phi MFN quá lớn, thường từ 30% đến 40%. Do có lợi thế về giá nhân công nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ dự kiến sẽ tăng mạnh khi Hiệp định Thương mại được thông qua. Tuy nhiên, mức tăng trưởng có thể sẽ bị hạn chế trong những năm tiếp theo bởi Hoa Kỳ thường có những quyết định đơn phương để kìm hãm xuất khẩu hàng dệt may khi họ không muốn. Hiện nay, xuất khẩu ngành hàng giầy dép vào Hoa Kỳ có thuận lợi là thuế phí MFN không cao như đối với hàng dệt may, mức chênh lệch giá thuế MFN và phi, MFN cũng không lớn như đối với hàng dệt may. Sau khi Hiệp định Thương mại được thông qua, do không bị áp đặt hạn ngạch, kim ngạch xuất khẩu giày dép sẽ tăng trưởng mạnh với tốc độ tăng tương đối bền vững qua các năm. d. Thị trường AUSTRALIA. Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Australia đã không tăng lên nhưng mức tăng này chủ yếu là nhờ tăng xuất khẩu dầu thô. Các mặt hàng khác có kim ngạch tương đối khá là dệt may, hải sản, giầy dép và hạt điều. Xuất khẩu giày dép sang Australia có thuận lợi là mức thuế nhập khẩu thấp (trung bình khoảng 18%) lại không quá thiên về giày cao cấp như thị trường Nhật. Tuy nhiên, do dân số ít nên các đơn hàng thường là có trị giá nhỏ và đòi hỏi mẫu mã đa dạng. Để tăng xuất khẩu, việc hạ giá thành để cạnh Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 93 tranh với giày Trung Quốc là việc khá khó khăn, do vậy có thể xuất khẩu theo hình thức nhập nguyên liệu chính và sản xuất trong nước để xuất khẩu. Về hải sản, mặc dù là nước xuất khẩu lớn nhưng Austrailia cũng nhập khá nhiều hải sản tươi và chế biến. Việt Nam hàng năm đã xuất được vào Austrailia 15 - 16 triệu USD hải sản nhưng mới chỉ chiếm khoảng 5% kim ngạch nhập khẩu hải sản của thị trường này. Cộng đồng người Việt định cư tại Austrailia là cộng đồng lớn, có nhu cầu rất cao về hải sản chế biến truyền thống như nước mắm, mắm tôm, mắm cá và hải sản khô. Về hàng may mặc, Australia nhập khẩu hàng năm khoảng 1 tỷ USD, chủ yếu từ Trung Quốc, Fiji, New Zealand và Ấn Độ. Tuy không có hạn ngạch (bãi bỏ từ năm 1993) và thuế nhập khẩu vẫn được giảm đều qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này vẫn không tăng lên được do gặp phải sự cạnh tranh mạnh với Trung Quốc và những nước có quan hệ đặc biệt với Australia từ nhiều năm qua như Fiji và New Zealand. Đặc điểm kinh doanh của các nhà bán buôn, bán lẻ Australia là thích nhập qua trung gian, ít khi tự mình đi tìm thị trường để nhập khẩu trực tiếp. Ngoài ra, khi đã quen làm với ai thì thương nhân Australia thường gắn bó với người đó, hiếm khi bỏ khách hàng này để chuyển sang khách hàng khác. Đây là đặc điểm tâm lý rất quan trọng của người dân Australia. Đối với họ, quan hệ cá nhân mật thiết, hữu hảo có ý nghĩa quan trọng. Vì lý do đó, nếu không biết cách giữ chữ tín và giữ quan hệ tốt với khách hàng Australia thì sẽ rất khó làm ăn với thị trường này, đặc biệt là trước một đối thủ mạnh cả về giá cả, cả về chữ tín trong kinh doanh như Trung Quốc. e. Thị trường trung cận Đông và Nam á. Hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu được một số mặt hàng vào hai khu vực thị trường này (như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, hàng may mặc, điện tử…) nhưng chủ yếu là thông qua một nước thứ ba. Kim ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé. Một điểm cần lưu ý là toàn bộ các nước trong khu vực, kể cả Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 94 những nước đã từng phát triển theo đường lối kế hoạch hoá tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và hiện đang có sự gắn kết với nhau thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực như khối liên minh quan thuế Nam Châu Phi, khối các nước sử dụng đồng Franc ở Tây Phi, khối Maghreb tại Bắc Phi, khối các nước vùng Vịnh…. Thương mại giữa các nước trong khối được áp dụng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do đó, trong chiến lược thâm nhập thị trường, cần chọn thị trường trọng điểm cho từng khối và lấy đó làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối như Dubai (Tiểu Vương quốc Ả rập). f. Thị trường châu phi. Tại khu vực Châu Phi, thị trường trọng điểm sẽ là Nam Phi bởi đây là thị trường có sức tiêu thụ khá dù dân số chỉ khoảng 42 triệu người. Các công ty của Nam Phi thuộc loại có uy tín trên thị trường thế giới, làm ăn nghiêm túc theo tác phong châu Âu. Các mặt hàng có khả năng xuất khẩu là hàng dệt may, giầy dép, cà phê và gạo. Hiện tại còn thiếu thông tin về thị trường Nam Phí nói riêng và toàn bộ khu vực châu Phi nói chung. Do vậy cần phải nghiên cứu kỹ về thâm nhập thị trường Nam Phi và thị trường các nước lân cận. 2.2 Tăng cường năng lực tài chính của các doanh nghiệp Vốn là một trong những vấn đề hết sức nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Đại đa số các doanh nghiệp của ta trong tình trạng ít vốn và thiếu vốn trầm trọng. Tuy đã có những nỗ lực của Chính phủ và các ngân hàng nhằm tìm cách tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc cho doanh nghiệp vay vốn để sản xuất và kinh doanh nhưng cho đến nay vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để. Vì vậy để có vốn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp thương mại cần chủ động tích cực dưới mọi hình thức để huy động mọi nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế. 2.3 Đổi mới kỹ thuật công nghệ Kỹ thuật công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp thương Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 95 mại cần có chính sách đầu tư công nghệ mới, tiên tiến, hoàn thiện công nghệ sẵn có vào các khâu như bao gói, chế biến, quản lý cũng như quản trị chiến lược Marketing... nhằm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu. 2.4 Nâng cao trình độ quản lý kinh doanh Do đặc điểm nước ta mới thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, trong bối cảnh chung như vậy năng lực quản lý kinh doanh của các cấp quản lý còn yếu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều. Các doanh nghiêp thương mại cần có chính sách ưu tiên cho công tác đào tạo, cần tranh thủ các nguồn hỗ trợ tài chính của Nhà nước và các tổ chức trong nước cũng như quốc tế cho công tác đào tạo để có được những chuyên gia giỏi đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả cao cần kết hợp cả đào tạo ở những nước tiên tiến với đào tạo và thực tập ở những nước tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu. 2.5 Nâng cao trình độ nguồn nhân lực Song song với việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý kinh doanh của các cấp quản lý, các doanh nghiệp thương mại cũng cần phải có chính sách đào tạo tương ứng cho nguồn nhân lực hiện có và cho tương lai. Cần kết hợp đào tạo cả kỹ năng, xảo, trình độ tay nghề với nâng cao thể lực, và ý thức chấp hành kỷ luật lao động của họ. 2.6 Đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp thương mại với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu Như đã nêu, thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam nói chung có qui mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý còn hạn chế..., lại thiếu kinh nghiệm thực tế trong kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, rất cần có sự liên doanh, liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp thương mại thực hiện xuất khẩu với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp thương mại ngoài thực hiện tiêu thụ hàng xuất khẩu cần có trách nhiệm: thông tin, hướng dẫn, Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 96 định hướng cho các nhà sản xuất về mặt hàng cũng như thị trường xuất khẩu; thực hiện liên doanh, liên kết với các nhà sản xuất dưới các hình thức hỗ trợ về tài chính, đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật công nghệ, giúp đào tạo kỹ năng quản lý, đào tạo nguồn nhân lực... KẾT LUẬN CHƯƠNG III Chương III đã dự báo tình hình phát triển kinh tế thế giới đến năm 2010 đồng thời vạch ra định hướng và chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam. Để thực hiện tốt được chủ trương và chiến lược phát triển kinh tế, trong đó lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng cần phải ngày càng hoàn thiện hơn nữa môi trường kinh doanh xuất khẩu. Chương III cũng đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu trên phương diện là các chính sách, các biện pháp của môi trường vĩ mô và môi trường vi mô nhằm giúp các doanh nghiệp thương mại Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 97 KẾT LUẬN Hoạt động kinh doanh trong môi trường quốc tế khác nhiều so với hoạt động trong môi trường nội địa vì vậy việc nghiên cứu các yếu tố môi trường kinh doanh xuất khẩu có một tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trong môi trường kinh doanh quốc tế, hầu hết những thành công trong giao dịch xuất khẩu đều do nghiên cứu và đánh giá đúng thị trường nước ngoài. Việc đánh giá không đúng các yếu tố môi trường kinh doanh quốc tế sẽ gây nên những thua lỗ đáng tiếc. Khóa luận đã đi sâu phân tích đánh giá môi trường kinh doanh xuất khẩu, một số thị trường quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua; đề ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô, vi mô nhằm hỗ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có cơ sở hoạch định mục tiêu, chiến lược và ra các quyết định kinh doanh xuất khẩu kịp thời, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, giúp doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lựa chọn, xác định thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Môi trường kinh doanh XK của DNTM Việt nam Nguyễn Trọng Cường, A2-CN9 98

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfMi tr4327901ng kinh doanh xu7845t kh7849u c7911a DN th432417ng mamp784.pdf
Tài liệu liên quan