Kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu có liên quan trực tiếp tới việc sử dụng ngoại tệ. Vấn đề liên quan đến việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán nhiều khi rất phức tạp vì nó liên quan đến tỷ giá hối đoái. Thông thường đồng tiền thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu là các đồng tiền mạnh như đồng đôla Mỹ, đồng yên Nhật, đồng EURO. Việc lựa chọn đồng tiền nào làm đồng tiền thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu cũng rất quan trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Khi một đồng ngoại tệ nào đó đang biến động mạnh thì rủi ro trong việc sử dụng đồng tiền đó để thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ lớn hơn so với việc sử dụng đồng ngoại tệ ổn định. Thực tế công ty luôn phải đứng trước thực trạng là tỷ giá hối đoái luôn biến động thất thường, cho nên tính hiệu quả của mỗi thương vụ là mang tính tương đối. Tại thời điểm này khi sự biến động của tỷ giá là nhỏ hoặc hầu như không biến động gì thì thương vụ thu được lãi trong khi tại một thời điểm khác thì thương vụ là lỗ. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng tín dụng trong thanh toán hợp đồng nhập khẩu, công ty cần phải nghiên cứu và cân nhắc kỹ việc lựa chọn đồng tiền thanh toán. Công ty nên sử dụng đồng ngoại tệ phổ biến và ít biến động về tỷ giá trên thị trường, có như vậy mới nâng cao được hiệu quả trong thanh toán và khi đó mới nâng cao được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Thực tế cho thấy rằng vấn đề chênh lệch tỷ giá trong các hợp đồng của công ty hiện nay còn tương đối lớn, nên đây cũng là khâu quan trọng công ty cần phải lưu ý.
Hiện nay phương thức thanh toán chủ yếu của công ty vẫn là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, chủ yếu là phương thức L/C trả ngay. Công ty nên áp dụng phương thức thanh toán L/C trả chậm đối với hợp đồng nhập khẩu. Tuy nhiên cùng với phương thức L/C trả chậm thì điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng giá bán hàng hoá trong hợp đồng nhập khẩu. Vấn đề đặt ra là công ty phải tính toán xem mức tăng giá đó có phù hợp hay không. Nếu mức tăng giá đó thấp hơn lãi vay từ ngân hàng mà tỷ giá hối đoái trên thị trường không biến động mấy thì có thể áp dụng phương thức L/C trả chậm. Đây chính là một loại hình tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu. Công ty cần phải triệt để tận dụng hình thức này cho mỗi thương vụ kinh doanh. Phương thức này có thể mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Chính vì vậy, Công ty cần đề ngay kế hoặch cho việc áp dụng phương pháp tín dụng chứng từ. Để áp dụng tốt đòi hỏi công ty phải theo dõi thường xuyên sự biến động của tỷ giá, mức lãi suất ngân hàng, từ đó nắm bắt thời điểm thích hợp cho việc sử dụng phương pháp thanh toán bằng L/C trả chậm.
Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá tạo cho các doanh nghiệp nghiệp nhiều cơ hội phát triển song cũng đặt nhiều thách thức. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nhanh chóng có chiến lược phù hợp để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Đối với công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí, một công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, thì việc áp dụng L/C trả chậm cũng phần nào giúp công ty kinh doanh hiệu quả hơn. Trong thời gian vừa qua, công ty thường xuyên áp dụng phương thức thanh toán bằng L/C trả ngay là một hạn chế đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
85 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu ở công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí ELMACO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động(5=3:1)
3,21
2,44
4,33
6,88
-0,77
1,89
2,54
(Hội thảo về phương hướng đào tạo cán bộ công nhân công ty ELMACO tháng 2/2002)
Mức doanh thu bình quân 1 người lao động giai đoạn 1998-2001:
(314,32+246,49+435,71+597,50):4 = 403 (triệu đồng)
Khả năng sinh lợi bình quân của một lao động giai đoạn 1998-2001:
(3,21+2,44+4,33+6,88):4 = 4,2 (triệu đồng)
Qua bảng phân tích trên ta thấy hiệu quả sử dụng lao động của công ty một cách rõ rệt. Mức doanh thu bình quân một người trong giai đoạn 1998-2001 là 403 triệu đồng, trong khi mức sinh lợi bình quân một lao động trong một năm là 4,2 triệu đồng.
Trong năm 1998 số lao động trong công ty là 426 người nhưng mức doanh thu bình quân mỗi lao động trong năm vẫn cao hơn so với năm 1999 vì doanh thu nhập khẩu năm 1998 cao hơn năm 1999. Năm 1998 doanh thu nhập khẩu đạt 133.902 triệu đồng trong khi năm 1999 doanh thu nhập khẩu đạt 110.665 triệu đồng.
Sang năm 1999 số lao động định biên trong công ty giảm xuống chỉ còn 420. Số lao động trong công ty thì giảm ít nhưng doanh thu mà hoạt động kinh doanh nhập khẩu mang lại giảm nhanh hơn lượng giảm về lao động. Chính điều này là nguyên nhân của việc mức doanh thu bình quân một lao động trong năm giảm, chỉ tiêu này giảm 16% so với năm 1998 và giảm một lượng tuyệt đối tức giảm 50,8 triệu đồng một người một năm. Con số này chứng tỏ hiệu quả sử dụng lao động trong công ty còn chưa cao.
Cùng với các năm trên, nếu xét hiệu quả sử dụng lao động của công ty ở một tiêu thức khác là mức sinh lời bình quân một lao động trong năm thì ta sẽ thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng lao động của công ty.
Năm 1998, mức sinh lợi bình quân của một lao động là 3,21 triệu đồng, nhưng sang năm 1999 mức sinh lợi bình quân một lao động giảm 0,77 triệu đồng, chỉ bằng 76% so với năm 1998. Như vậy chứng tỏ cùng với việc giảm doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu, dẫn đến việc giảm mức doanh thu bình quân một lao động thì công ty ELMACO cũng chưa chú trọng và chưa có giải pháp trong việc nâng cao mức lợi nhuận đạt được bình quân trên một lao động, nên mức sinh lời đã giảm xuống qua các năm 1998, 1999. Năm 1998 công ty có cố gắng trong việc giảm biên chế lao động từ 426 người xuống 420 người nhưng mức suy giảm về doanh thu và lợi nhuận nhập khẩu tương đối lớn nên cũng không thể làm cho mức doanh thu và mức sinh lợi bình quân đầu người giữ cố định hoặc tăng lên được.
Trái ngược với năm 1999, năm 2000 là năm đánh dấu một bước quan trọng những nỗ lực và cố gắng của công ty để nâng cao các chỉ tiêu này. Năm 2000 tình hình tiến triển khá tốt, bình quân doanh thu một lao động trong năm là 435,71 triệu đồng, tăng 65% so với năm 1999 và tăng 38,4% so với năm 1998. Bên cạnh đó, mức sinh lơị bình quân một lao động cũng tăng lên rõ rệt, tăng 77%, về mặt tuyệt đối tăng 1,89 triệu so với năm 1998. Có được kết quả khả quan này là do lợi nhuận và doanh thu của công ty tăng cao tương ứng với mức tăng năm 1999 là 65,36% và 77,38% trong khi đó số lao động trong công ty vẫn giữ nguyên là 420 người. Đồng thời năm 2000 công ty đã biết sử dụng hợp lý lực lượng lao động, phân công bố trí công việc phù hợp với trình độ năng lực của mỗi người, quản lý lao động một cách chặt chẽ hơn so với các năm trước. Chính vì vậy mà mức doanh thu và mức sinh lợi bình quân của mỗi lao động đã được nâng lên, cải thiện được đời sống của người lao động và phần nào nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
Sang năm 2001 doanh thu và mức sinh lợi bình quân mỗi lao động tiếp tục tăng lần lượt là 37% và 59% so với năm 2000 và tăng 190% và 214% so với năm 1998. Sở dĩ đạt được kết quả này là do năm 2001 công ty bắt đầu thực hiện cơ chế khoán đến từng đơn vị tham gia kinh doanh trong toàn công ty và mọi hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ... đều có phương án tính đủ các chi phí, đảm bảo có lãi ở mức tối thiểu cho phép, quy rõ trách nhiệm cho từng cá nhân tham gia phương án kinh doanh. Chính vì vậy mà doanh thu và lợi nhuận hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty đã tăng lên đáng kể trong năm 2001. áp dụng cơ chế khoán là một quyết định rất đúng đắn của Ban giám đốc và toàn thể lao động của công ty ELMACO trong cải tiến công tác quản lý kinh doanh có hiệu quả.
2.2.4. Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu
Việc xem xét chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu cũng cho phép ta đánh giá được sơ bộ hiệu quả của việc kinh doanh nhập khẩu. Đem so sánh chỉ tiêu này với tỷ giá hối đoái giữa VND và đồng ngoại tệ sẽ cho ta xác định được việc nhập khẩu có lợi hay không.
TS ngoại tệ NK =
Doanh thu nhập khẩu (nội tệ)
Chi phí nhập khẩu (ngoại tệ)
Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu là số lượng nội tệ thu được khi phải chi một đơn vị ngoại tệ.
Công ty nhập khẩu có lợi nếu thoả mãn:
Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu > Tỷ giá hối đoái
Bảng 9 Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu
Đơn vị: VND/USD
Chỉ tiêu
Năm
So sánh
1998
1999
2000
2001
1999/1998
2000/1999
2001/2000
ST
TT
ST
TT
ST
TT
Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu
14750,7
14888,0
14498,7
15174,6
137,3
1,01
60,64
1,00
225,93
1,02
Tỷ giá hối đoái
14600
14750
14800
15000
150
-
50
-
200
-
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty ELMACO cuối từ năm 1998 đến năm 2001)
Qua bảng tính toán số liệu trên ta thấy các tỷ suất này tăng liên tục qua các năm, cùng với sự gia tăng của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái bình quân giữa VND và USD qua các năm 1998-2001 tương ứng là 14.600 VND/USD, 14.750 VND/USD, 14.800 VND/USD, 15.000VND/USD ta thấy công ty đều thoả mãn bất đẳng thức trên. Xét trong năm 2001, với tỷ giá hối đoái 15000 VND/USD công ty đạt tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu tính theo USD là 15.175 VND/USD, như vậy cứ một USD chi phí nhập khẩu công ty lãi được
15175,7-15.000=175,7 VND
2.2.5. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí
Một doanh nghệp thực hiện các hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong những điều kiện cụ thể về trang thiết bị, trình độ kỹ thuật, khả năng tài chính, năng lực tổ chức và quản lý… khi đưa các sản phẩm của mình ra thị trường với mức chi phí cá biệt nhất định và doanh nghiệp luôn muốn tiêu thụ hàng hoá của mình với giá cao nhất, đạt được hiệu quả cá biệt cao nhất. Tuy vậy khi đưa hàng hoá của mình ra thị trường, với cùng một loại sản phẩm doanh nghiệp phải căn cứ vào giá thị trường cũng như xu hướng vận động của giá cả, cung cầu thị trường và các nhân tố khác ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với công ty ELMACO vấn đề giảm chi phí đang là một đòi hỏi cấp thiết. Trong giai đoanh 1998-2001, mặc dù công ty đã có nhiều cố gắng song nhìn chung tình hình sử dụng chi phí vẫn chưa được khả quan (xem bảng 10)
Bảng 10: Hiệu quả sử dụng chi phí
Chỉ tiêu
Năm
So sánh
1998
1999
2000
2001
1999/1998
2000/1999
2001/2000
ST
TL
ST
TL
ST
TL
1.DTNK
133.902
110665
183.000
239.000
-23.237
-17,35%
72.337
65,36%
56.000
30,06%
2.CPNK
132.534
109.639
181.180
236.250
-22.898
-17,27%
71.541
65,25%
55.070
30,39%
3.TSF
98,97%
99,07%
99%
98,85%
4. DTSF
-
-
-
-
0,1%
-0,07%
-0,15%
5.M
-
-
-
-
191
-181
-472,5
TSF = CPNK : DTNK
DTSF= TSF1- TSF0
M= DTNK1 x DTSF
M>0: Công ty bội chi một khoản chi phí bằng M
M< 0: Công ty tiết kiệm một khoản chi phí bằng M
Qua bảng phân tích trên ta nhận thấy công ty sử dụng chi phí chưa hiệu quả. Giả sử năm 1999 tỷ suất phí không thay đổi so với năm 1998, tức vẫn giữ ở mức 98,9%. Như vậy để tạo ra doanh thu nhập khẩu là 110665 triệu đồng thì chi phí cho hoạt động nhập khẩu sẽ là: 98,9%x110665=109448 triệu đồng. Nhưng thực tế công ty đã bỏ ra 109639 triệu đồng. Vậy số tiền thực tế bỏ ra lớn hơn số tiền bỏ ra cho phép, và vì vậy công ty đã lãng phí một khoản tiền là 191 triệu đồng. Sang đến năm 2000 và 2001 công ty đã có nhiều tiến bộ trong việc quản lý chi phí và tiết kiệm được một khoản tiền tương ứng là 181 triệu đồng và 472,5 triệu đồng. Như đã phân tích ở trên, năm 1998 và năm 1999 là năm làm ăn kém hiệu quả của công ty, hiệu quả sử dụng chi phí cũng rất kém.
Năm 2001, hoạt động kinh doanh nhập khẩu có nhiều dấu hiệu khả quan và công ty chú trọng nhiều hơn đến mặt chi phí kinh doanh, giảm thiểu triệt để các khâu chi phí nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Đặc biệt trong năm 1999, công ty gặp khó khăn trong hoạt động nhập khẩu, chi phí vận chuyển tương đối lớn. Công ty vẫn chưa có mối làm ăn với các hãng vận tải, mà phần lớn là vận chuyển nhỏ lẻ nên chi phí tăng lên. Bên cạnh đó tình hình trong nước có sự thay đổi về hệ thống thuế, nên việc tiêu thụ hàng hoá gặp khó khăn, công ty phải chi nhiều cho chi phí vận chuyển trong nước giũa các chi nhánh và chi phí bán hàng, nhằm hạn chế lượng hàng tồn kho.
Nhưng sang năm 2000, đặc biệt là năm 2001 công ty đã ký kết làm ăn với nhiều hãng vận tải, tìm kiếm và lựa chọn hãng vận tải có giá vận chuyển thấp nhất. Hơn nữa công ty đã đào tạo nhân viên bán hàng có hiệu quả hơn, giảm số lượng người bán nhưng nâng cao năng lực của nhân viên, nên chi chí bán hàng cũng giảm xuống. Chi phí là bộ phận quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Doanh thu tăng cần phải tăng tương ứng với chi phí. Vì thế công ty cần phải phân tích theo dõi thường xuyên và tìm ra biện pháp giảm chi phí ở mức thấp nhất, có như vậy thì hoạt động kinh doanh nhập khẩu mới thu được hiệu quả tối ưu.
Chương III
Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu ở công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí
I. Một số nhận xét chung về công ty ELMACO.
1. Những mặt mạnh và yếu kém của công ty ELMACO
1.1 Mặt yếu kém
Trong những năm vừa qua, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty Vật liệu điện thực sự chưa mang lại hiệu quả, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu còn thấp. Bên cạnh đó công ty còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty như việc thiếu vốn kinh doanh. Vốn Nhà nước đáp ứng rất nhỏ so với nguồn vốn cho kinh doanh. Mặt khác do ngành hàng công ty là các mặt hàng thay thế, vốn và trình độ không cao nên dễ bị cạnh tranh trên thị trường từ phía các công ty nước ngoài, các doanh nghiệp Nhà nước và ngay cả các công ty tư nhân. Thị trường của nước ta đang còn trong giai đoạn chưa hoàn thiện, chưa hoàn toàn ổn dịnh nên còn gây rất nhiều khó khăn cho công ty
1.2 Những mặt mạnh của công ty ELMACO
Bên cạnh những yếu kém như đã nêu trên công ty ELMACO đã phát huy được một số điểm mạnh của mình.
_ Mặt hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí là mặt hàng quan trọng cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Kinh doanh mặt hàng này hơn 30 năm nay công ty đã thực sự gây dựng được nhiều mối quan hệ với các bạn hàng nước ngoài và thiết lập được một mạng lưới các chi nhánh khắp cả nước.
_ Quản lý nhân sự của công ty cũng đặc biệt tốt thể hiện thông qua các chính sách tiền lương, tạo động lực khuyến khích cán bộ công nhân viên trong công ty làm việc hiệu quả hơn
_ Ban lãnh đạo công ty luôn có ý thức nhập khẩu những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu trước mắt của Đất nước.
2. Những cơ hội và thách thức của công ty ELMACO
2.1 Những cơ hội
Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá Đất nước đang mở ra cho các doanh nghiệp nói chung và công ty ELMACO nhiều cơ hội kinh doanh mới:
_Nhu cầu trong nước cho mặt hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí ngay một tăng để phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
_Mở rộng khả năng tiếp cận với các bạn hàng nước ngoài.
_ Học hỏi kinh nghiệm kinh doanh của các công ty làm ăn có hiệu quả trên thế giới
_ Nhiều cơ hội vay vốn cho kinh doanh nhập khẩu
2.2 Thách thức
Đồng thời với những cơ hội trên là một loạt các thách thức
_ Sự cạnh tranh khốc liệt từ thị trường trong và ngoài nước.
_ Sự lạc hậu về trang thiết bị, và cơ sở vật chất.
_ Sự lạc hậu về trình độ quản lý so với thế giới
_ Trình độ tay nghề yếu kém của công nhân viên chức
Quá trình phân tích và và đánh giá kết quả, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty Vật liệu điện- Dụng cụ cơ khí cho thấy vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là hết sức cấp bách và cần thiết. Để đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, công ty ELMACO cần nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, vì vậy cần phải có những chiến lược và giải pháp cụ thể. Ban lãnh đạo công ty trước hết cần xác định hướng kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian tới phù hợp với xu hướng biến động của thị trường, bởi vì đây là nền tảng cho việc xây dựng và thực hiện các giải pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhập khẩu của công ty ELMACO.
II. Phương hướng phát triển kinh doanh nhập khẩu của công ty ELMACO từ năm 2001-2005
1.Kế hoạch phát triển kinh doanh nhập khẩu của công ty
Năm 2002-2005, mục tiêu của công ty là tiếp tục khẳng định vị trí của mình trên thương trường, phấn đấu trở thành tập đoàn sản xuất, thương mại dịch vụ phát triển và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ kế hoạch về doanh số và các khoản nộp ngân sách, bảo toàn và phát triển vốn, phấn đấu đạt từ 7% đến 10% vốn tự có. Điều đó sẽ góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và công nhân viên trong công ty. Riêng về hoạt động nhập khẩu, công ty ELMACO đã đề ra chi tiết số lượng và tổng giá trị nhập khẩu cho các mặt hàng nhập khẩu truyền thống như sau (xem bảng 11)
Bảng 11: Kế hoạch phát triển kinh doanh nhập khẩu của các mặt hàng từ năm 2002-2005
STT
Tên hàng
Đơn vị
Số lượng
Tổng giá trị nhập khẩu
(triệu đồng)
2002
2003
2004
2005
2002
2003
2004
2005
1
Cáp điện
Km
450
460
480
505
9963
10184
10627
11070
2
Dây điện từ
Tấn
300
360
432
518
7567
9080
10896
13075
3
Carton cách điện
Tấn
234
281
337
404
4227
5072
6086
7303
4
Công tơ
1000 cái
22
26
31
37
1513
1815
2176
2614
5
Băng tải
Mét
10560
12672
15206
18248
3535
4242
5091
6109
6
Lỡi cưa vòng
Mét
66000
79200
95040
114048
2408
2890
3468
4161
7
Đá mài
Viên
25560
30672
36808
44168
1136
1363
1636
1963
8
Que hàn
Tấn
600
720
864
1037
3944
4733
5680
6816
9
Vòng bi
1000 vòng
120
144
173
207
9
11
13
16
10
Lốp ô tô
Bộ
21000
25200
30240
36288
12141
14569
17483
20979
11
Nhôm
Tấn
2412
2894
3473
4168
56545
67853
81424
97709
12
Đồng
Tấn
396
475
570
684
55423
55451
55479
55506
13
Kẽm
Tấn
1112
1234
1601
1921
47920
57552
69063
82875
14
Hạt nhựa
Tấn
1066
1279
1534
1941
9930
11916
14300
17160
15
Bột PVC
Tấn
202
242
290
348
2485
2982
3578
4294
Nguồn: Kế hoạch phát triển kinh doanh nhập khẩu của công ty ELMACO từ năm 2002-2005
Kế hoạch phát triển các mặt hàng nhập khẩu đẫ được công ty đề ra hết sức chi tiết cho 15 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu. Nhìn vào bản kế hoạch ta thấy tỷ trọng của từng mặt hàng hầu như không thay đổi, công ty chỉ tăng giá trị nhập khẩu của từng mặt hàng, từ đó tăng kinh doanh nhập khẩu của công ty. Công ty vẫn lấy mặt hàng nguyên liệu như nhôm đồng kẽm là những mặt hàng nhập khẩu chủ lực, bởi vì công ty đã nắm bắt và xác định nhu cầu của thị trường đối với loại nguyên liệu này để sản xuất ra cáp điện, cáp viễn thông là những sản phẩm rất cần trong tương lai. Bên cạnh đó cáp điện, lốp ô tô và hạt nhựa cũng là những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị nhập khẩu kế hoạch. Cơ cấu mặt hàng và tỷ trọng của từng loại mặt hàng cũng khá hợp lý. Tuy nhiên giá trị nhập khẩu cho từng loại mặt hàng cũng chưa cao, điều này chứng tỏ công ty vẫn chưa tìm cho mình một thị trường lớn để tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở đánh giá mối quan hệ giữa thị trường trong và ngoài nước nhằm duy trì và phát triển các mặt hàng truyền thống, công ty cũng đầu tư và phát triển mặt hàng mới, đầu tư vốn, phấn đấu doanh số hàng năm tăng từ 10% đến 15%. Công ty cũng đề kim ngạch nhập khẩu cho những năm tới:
Bảng 12: Kế hoạch kim ngạch nhập khẩu năm 2002-2005
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch nhập khẩu
15590
18592
21952
25530
Tổng doanh thu
280000
370000
440000
500000
Bán hàng trên thị trờng nội địa
268000
355000
425000
482000
Lợi nhuận thực hiện
150
200
250
300
(Nguồn: Phương hướng phát triển của công ty giai đoạn 2001-2005)
Với kim ngạch nhập khẩu dự kiến từ nay đến năm 2005, công ty cũng tính trước phần lợi nhuận dự kiến thu được qua các năm 2001 đến 2005 từ 100 đến 300 triệu đồng. Nếu so sánh với quy mô và tiềm năng của doanh nghiệp thì mức 100 triệu đồng lãi thực hiện là quá ít đối với một doanh nghiệp thu trong một năm. Nhưng nếu công ty tự đề ra mức kế hoặch quá cao thì không tương xứng với thực lực của mình. Công ty đã không kinh doanh hiệu quả trong mấy năm trở lại đây, thậm chí có năm còn làm ăn thua lỗ nên việc kinh doanh mang lại lợi nhuận cho công ty như thế dù ít cũng rất đáng khích lệ. Công ty phải vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay để tồn tại và phất triển trong tương lai.
2. Những phương hướng của công ty trong thời gian tới
Định hướng phát triển nguồn hàng
Ngoài việc đề ra chỉ tiêu cho kế hoạch phát triển kinh doanh nhập khẩu cũng như chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận thực hiện, công ty ELMACO cũng đề ra cho mình những phương hướng để thực hiện mục tiêu hết sức rõ ràng. Công ty luôn phải lo được cả đầu vào lẫn đầu ra cho quá trình kinh doanh. Cơ chế thị trường đã đặt vị trí của đầu ra quan trọng hơn nguồn đầu vào, nhất là công ty chuyên hoạt động trong khâu lưu thông, lấy mua để bán. Thực tế cho thấy tất cả các nỗ lực trong khi bán như chào hàng, xúc tiến hay quảng cáo cho một loại hàng hoá nào đó muốn được diễn ra trôi chảy liên tục và đồng bộ thì công tác tạo nguồn phải đi trước một bước hết sức chính xác và thận trọng. Công ty sẽ thu được nhiều lợi nhuận nếu bán được các mặt hàng một cách hiệu quả, do đó bạn hàng luôn có vị trí hết sức quan trọng, là điều kiện cần để công ty có thể tồn tại và phát triển được.
Công ty đã lập mối quan hệ làm ăn với nhiều quốc gia chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore và các nước Đông Âu. Nhìn chung, công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí cũng đã có một nguồn hàng dồi dào, đa dạng và đã định hướng cho mình những hướng đi sau:
_Nghiên cứu kĩ lại các nguồn hàng, bạn hàng và trao đổi thông tin chặt chẽ với các bạn hàng để có cơ sở nghiên cứu. Khi xuất hiện nhu cầu của thị trường thì lập tức công ty sẽ có ngay phương án tạo nguồn hàng nhanh nhất
_Duy trì mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng truyền thống, có uy tín đối với công ty nhưng cũng dồng thời kết hợp tìm hiểu và mở rộng sang các thị trường mới nhằm mục đích mua được những mặt hàng có giá trị cao, giá cả thấp để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá nhập khẩu của công ty trong thời gia tới.
_Nghiên cứu để mở rộng kinh doanh những mặt hàng truyền thống, hạn chế mặt yếu kém, phát huy lợi thế của công ty để thu được mức lợi nhuận cao hơn.
_Nghiên cứu để mở rộng kinh doanh những mặt hàng khác mà thị trường có nhu cầu và đem lại lợi nhuận cao để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, giúp công ty tồn tại và phát triển mạnh hơn.
_Thu hẹp một số nguồn hàng bị dàn trải nhập khẩu từ các nước khác nhau, chọn ra thị trường có uy tín và giá cả cạnh tranh nhất để hợp tác. Điều này sẽ giúp công ty giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá từ các nước khác nhau, dẫn đến giảm giá thành nhập khẩu, giảm giá bán trên thị trường trong nước để cạnh tranh với những hãng khác, đồng thời cũng làm tăng uy tín của công ty, giữ vững mối quan hệ với các bạn hàng lâu năm.
_Xây dựng và đề ra các tiêu chuẩn lựa chọn bạn hàng và các nguồn hàng chủ chốt. Các tiêu chuẩn đó phải dựa trên các tiêu chí như uy tín, đạo đức kinh doanh và khả năng cung cấp tín dụng, khả năng đáp ứng về giá cả cũng như chất lượng của mặt hàng. Vấn đề này thực sự có ý nghĩa bởi trong kinh doanh nhạp khẩu hàng hoá, chất lượng và giá cả luôn di đôi với nhau. Sự phù hợp về giá cả và chất lượng hàng hoá với nhu cầu trong nước mới đảm bảo chắc chắn rằng phẩm của công ty nhập khẩu về mới tiêu thụ được. Hơn thế, việc cung cấp tín dụng của nguời bán và mức chiết khấu do mua tập trung với số lượng lớn sẽ tạo thêm cho công ty khả năng cạnh tranh mạnh mẽ so với các đối thủ trong nước.
_Theo dõi thường xuyên cơ cấu và tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu, từ đó cân nhắc đánh giá để có hướng thay đổi cho phù hợp với thị trường. Công ty sẵn sàng bán những hàng nhập khẩu mà thị trường cần mặc dù có xây dựng cơ cấu tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu cho 5 năm từ 2001 đến 2005.
Định hướng phát triển thị trường và khách hàng
Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí là một doanh nghiệp có chức năng sản xuất kinh doanh ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí đã trên 30 năm và rất có uy tín trên thương trường. Tuy nhiên cùng xuất phát từ đặc điểm ngành hàng là các mặt hàng thông thường ai cũng có thể tham gia kinh doanh: từ các doanh nghiệp Nhà nước cho đến các công ty tư nhân, cho nên sản phẩm hàng hoá của công ty luôn luôn bị cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Các đơn vị cung ứng mặt hàng này ngày càng tăng trong khi đó nhu cầu của thị trường thì không biến động nhiều. Chính vì thế khâu bán hàng của công ty cũng gặp phải rất nhiều khó khăn. Đối mặt với tình hình thị trường hiện nay, công ty ELMACO cũng đã đề ra một số mục tiêu và phương hướng cho cho việc phát triển thị trường và khách hàng mua sản phẩm hàng hoá nhập khẩu của công ty. Tất cả những mục tiêu cơ bản hay lâu dài của công ty có thể thực hiện được khi được khách hàng chấp nhận. Thành công của công ty không chỉ là sự tăng lên của các chỉ tiêu hiệu quả mà còn thể hiện qua sự tín nhiệm của khách hàng, đó là một yếu tố hết sức quan trọng.Thông qua thị trường và khách hàng, công ty tự đánh giá lại hiệu quả từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu của chính mình. Sự biến động của thị trường là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu cỉa công ty. Từ khi thành lập đến nay công ty đã trải qua rất nhiều khó khăn, mà khó khăn lớn nhất vẫn là thị trường cho hàng hoá nhập khẩu của công ty. Chính vì vậy việc định hướng phát triển thị trường và khách hàng có một ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty mà chủ yếu là hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nhận thấy tầm quan trọng này công ty đã đề ra những phương hướng sau:
_Củng cố và duy trì thật tốt với các khách hàng truyền thống bằng việc cung ứng liên tục và ổn định về số lượng và chất lượng các mặt hàng; thực hiện mức giá cả phù hợp và chiết khấu cho khách hàng quen, khách hàng mua ở số lượng lớn
_Luôn giữ chữ tín trong kinh doanh, nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng trong thời gian ngắn nhất có thể được.
_Tăng cường và mở rộng các hoạt động dịch vụ, chuyên chở hàng hoá đến các địa điểm của khách hàng. Ngoài ra công ty có thể cung cấp thêm các dịch vụ lắp ráp, hướng dẫn sử dụng cho khách hàng để tạo được uy tín cho khách hàng.
_Mặc dù có chi nhánh tại Đông Hà, Sài Gòn, Đà Nẵng nhưng công ty cũng định hướng mở rộng mạng lưới thông qua các kênh trực tiếp và gián tiếp, mở rộng địa bàn ra các vùng kinh tế phát triển khác, tổ chức chào hàng đến tận tay người sản xuất, nhà kinh doanh.
_Gắn chặt quyền lợi của khách hàng với quyền lợi của công ty bằng chính chất lượng, giá cả và phương thức phục vụ của công ty.
Phương hướng kiện toàn bộ máy quản lý, đổi mới công tác cán bộ.
Mức định biên lao động của công ty hiện nay là 420 người. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh có mức lợi nhuận thấp thì việc xem xét điều chỉnh lại mức định biên lao động là hết sức cần thiết. Trong những năm tới, để nâng cao hiệu quả kinh doanh công ty đã đề ra mục tiêu giảm biên lao động với phương hướng cụ thể như sau:
_ Xem xét điều chỉnh tổ chức bộ máy quản lý, mạng lưới sản xuất kinh doanh, dịch vụ sao cho khoa học gọn nhẹ, hiệu quả phù hợp với quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường.
_Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, bố trí sử dụng nguồn lao động phù hợp có năng lực của cán bộ lãnh đạo cũng như chuyên viên, cán bộ công nhân viên của từng đơn vị nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
_Hoàn thiện quy chế khoán và giao cho từng bộ phận sản xuất kinh doanh tự chịu trách nhiệm trước hiệu quả kinh doanh và đồng vốn của công ty, đồng thời phát huy tính tự chủ đảm bảo thu nhập cho người lao động, khuyến khích họ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
_Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả, từ đó đưa ra các chuẩn mực làm cơ sở quản lý và điều hành ngày càng khoa học và hiệu quả.
_Bố trí những người có năng lực vào đúng vị trí, đồng thời đưa ra các khuyến khích về vật chất cũng như tinh thần để khuyến khích phát huy sáng tạo.
III.Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Những năm qua, công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí mặc dù là một doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng vật liêụ điện, dụng cụ cơ khí đã lâu năm, có uy tín trên thị trường nhưng kết quả hoạt động kinh doanh mà công ty đạt được còn chưa tốt, chưa thực sự mang lại hiệu quả cho công ty. Công ty đã gặp phải nhiều khó khăn trong môi trường kinh doanh hiện nay, nên đã cản trở việc nâng cao hoạt động nhập khẩu, một hoạt động chiếm vị trí trọng yếu trong toàn công ty. Những tồn tại trong thời gian qua là những vấn đề công ty cần lưu tâm và giải quyết. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là quá trình hoạt động bắt đầu từ việc xem xét các đơn chào hàng cho đến việc đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương, cho đến việc thanh toán giao nhận. Ngoài ra hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng liên quan đến hoạt động bán hàng và sau khi bán hàng. Để đứng vững và phát triển kinh doanh trong những năm tiếp theo, công ty phải không ngừng đổi mới hoạt động kinh doanh. Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu công ty cần nâng cao hiệu quả của từng khâu,và ting đơn vị. Sau đây là một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty.
1 Sử dụng hợp lý nguồn vốn và huy động vốn có hiệu quả
Trong tổng số vốn kinh doanh của công ty ELMACO thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng nhất. Vốn lưu động có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Có thể nói đó là nguồn vốn chính nuôi sống hoạt động thương mại của công ty, đặc biệt là hoạt động nhập khẩu. Chính vì vậy, việc sử dụng hợp lý và chọn phương thức huy động vốn có hiệu quả là rất cần thiết, nhằm giúp công ty tự chủ trong hoạt động kinh doanh, thực hiện kế hoặch đã đề ra, đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh, chớp thời cơ, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty.
Việc sử dụng vốn lưu động hợp lý sẽ giúp cho việc quay vòng vốn nhanh, tiết kiệm được tiền trả lãi vay. Để thực hiện được tốt điều đó, công ty cần làm tốt các điều sau:
Đối với doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động là vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh, nguồn vốn cố định chiếm tỷ trọng rất nhỏ vì hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là hoạt động mua và bán, chứ không phải là hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ vòng quay của vốn lưu động. Vòng quay của vốn lưu động của công ty hiện nay chỉ đạt khoảng 3 vòng, là một con số khiêm tốn cho thấy rằng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty còn thấp. Công ty muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì nhất thiết phải làm tăng vòng quay của vốn lưu động, đây là một phương pháp hết sức hữu hiệu để nguồn vốn kinh doanh đặc biệt là nguồn vốn lưu động hoạt động có hiệu quả hơn, góp phần nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Tuy nhiên để tăng quay vốn lưu động công ty cần phải chú trọng đến việc tối ưu hoá các nguồn vốn hiện có thông qua :
_ Giảm nguồn vốn tồn đọng do việc tồn kho hàng hoá nhập khẩu quá nhiều. Muốn vậy công ty phải có được một đội ngũ cán bộ kinh doanh chuyên trách trong việc dự đoán nhu cầu một cách chính xác hoặc tương đối chính xác dựa trên kinh nghiệp và sự quan sát, theo dõi sự biến động nhu cầu của thị trường.
_ Hạn chế tối đa nguồn vốn bị chiếm dụng bởi các bạn hàng tiêu thụ hàng hoá.
_ Đối với một số tài sản cố định không sử dụng đến hoặc hư hỏng, công ty nên xử lý dứt điểm bằng cách thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định, bổ sung thêm vào nguồn vốn kinh doanh.
Trong điều kiện thiếu vốn như hiện nay, công ty ELMACO cần lựa chọn các phương thức huy động vốn sao cho hiệu quả kinh doanh được tăng lên. Nguồn vốn kinh doanh hiện nay của công ty do Nhà nước cấp chỉ có 8,6 tỷ đồng, con só này chỉ đáp ứng được 10% đến 15% nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty đã phải tự bổ sung nguồn vốn kinh doanh bằng cách vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng là chính, vì vậy không chủ động được trong kinh doanh. Năm 2001 khi tỷ giá biến động tăng, kết quả kinh doanh của công ty giảm đáng kể (chênh lệch tỷ giá năm 2001 là 3,487 tỷ đồng, trong khi năm 2000 là 2,811 tỷ đồng). Trong khi phải vay vốn ngân hàng để đảm bảo cho quá trình nhập khẩu được diễn ra một cách liên tục và thuận lợi thì tình trạng ứ đọng vốn cũng là một mối lo cho các doanh nghiệp. Trong số vốn vay ngân hàng phải trả lãi hàng tháng thì số vốn đó lại không tham gia được vào quá trình kinh doanh vì một lý do nào đó như thị trường chưa có nhu cầu về sản phẩm hàng hoá... Lúc này công ty không những không thu được một đồng lãi suất nào do hoạt động nhập khẩu mang lại trong khi vẫn phải trả tiền lãi vay ngân hàng. Bên cạnh đó công ty thường xuyên bị các bạn hàng chiếm dụng vốn, làm cho tình trạng thiếu vốn trầm trọng hơn. Do vậy công ty thường xuyên phải vay vốn ngân hàng để đảm bảo cho kế hoạch nhập khẩu...Trong quá trình hoạt động, nếu công ty không huy động một cách kịp thời sẽ không tận dụng được thời cơ kinh doanh, hoặc nếu không huy động vốn hợp lý sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của công ty, hoặc phải trả lãi suất cao, hoặc không vay được vốn, dẫn đến ảnh hưởng hiệu quả kinh doanh. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động chủ yếu và đem lại doanh thu chính cho công ty. Nếu công ty không kịp thời cung cấp vốn để đáp ứng yêu cầu kinh doanh thì sẽ bỏ lỡ nhiều hợp đồng có giá trị và sẽ giảm doanh thu, tức là giảm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Để huy động vốn có hiệu quả công ty ELMACO có thể áp dụng một số biện pháp sau:
_ Mở rộng quan hệ với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng để có đầy đủ thông tin về việc vay vốn và có thể vay vốn kịp thời.
_ Sử dụng triệt để nội lực của mình bằng cách vay vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty, việc này đồng thời mang lại những lợi ích sau:
+ Nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác của cán bộ công nhân viên trong công ty.
+ Giải quyết một phần việc thiếu vốn lưu động, tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Khi gặp khó khăn về tài chính có thể kéo dài thời hạn thanh toán của cán bộ công nhân viên với sự đồng ý của họ.
_ Khi công ty ký kết được các hợp đồng nhập khẩu có giá trị lớn, mặt hàng nhập là loại mặt hàng Nhà nước đang khuyến khích nhập khẩu nhưng công ty không có đủ vốn thì công ty có thể vay ngân hàng và xin giảm lãi vay (lãi suất ưu đãi đối với mặt hàng khuyến khích nhập khẩu). Việc này sẽ làm tăng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty.
Việc xác định chính xác vốn lưu động là cần thiết cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu, nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Nếu xác định không đúng nhu cầu vốn sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn kinh doanh và do đó sẽ làm cho quá trình kinh doanh bị ngưng trệ, ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Việc huy động vốn thừa sẽ dẫn đến lãng phí, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn, làm giảm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
2. Nâng cao hiệu quả của từng phương án kinh doanh nhập khẩu.
Để nâng cao hiệu quả của từng phương án kinh doanh nhập khẩu của công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí thì công ty cần nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng khâu trong cả quá trình kinh doanh nhập khẩu. Nói khác đi công ty cần phải đánh giá hiệu quả của từng phương án và từ đó tìm ra những giải pháp tốt nhất để nâng cao hiệu quả của từng phương án, từng hợp đồng kinh doanh cụ thể. Trước khi ký kết hợp đồng kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, công ty cần lập các phương án kinh doanh và từ đó lựa chọn các phương án kinh doanh tối ưu để đi tới ký kết hợp đồng. Để xây dựng một phương án kinh doanh đầy đủ, sát thực nhất cần phải đưa ra được phương án tiêu thụ. Có nghĩa là bộ phận chuyên trách nhập khẩu phải kết hợp với bộ phận kinh doanh để cụ thể hoá phương án tiêu thụ hàng hoá ở từng cửa hàng và phân công trách nhiệm đến từng cá nhân để đảm bảo phương án kinh doanh được thực hiện như dự kiến. Người lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu phải lập một cách chi tiết từ xuất xứ, nguồn hàng, phương thức thanh toán và điều kiện giao hàng. Đồng thời người lập phương án kinh doanh cũng phải tính toán chi tiết các khoản từ giá mua, giá bán đến thuế nhập khẩu, lãi vay ngân hàng, chi phí vận chuyển và các khoản chi phí hợp lý khác, từ đó mới tính toán được lãi thực tế cho phương án kinh doanh đó. Bên cạnh việc phải tính toán cụ thể từng khoản cũng cần phải tính toán mức dự phòng, chênh lệch tỷ giá một cách hợp lý, không được để tình trạng dự phòng sai, thấp hơn mức bình thường làm ảnh hưởng tới lợi nhuận từ phương án kinh doanh đó. Trên cơ sở lập ra các phương án kinh doanh đó, lãnh đạo đơn vị sẽ cân nhắc chọn ra phương án kinh doanh có hiệu quả nhất. Tuỳ từng hợp đồng và tuỳ từng thời điểm mà công ty sẽ lựa chọn phương án kinh doanh khác nhau. Hiện nay công ty có bốn đơn vị thực hiện hoạt động nhập khẩu:
1. Trung tâm kinh doanh
2. Trung tâm hoá chất
3. Chi nhánh thành phố Hồ CHí Minh
4. Nhà máy dây và cáp điện
Tóm lại, để lập ra một phương án kinh doanh hàng nhập khẩu đem lại mức lợi nhuận cao thì người lập phương án kinh doanh phải nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến hiệu quả của từng phương án và từng hợp đồng kinh doanh cụ thể. Từ đó, công ty có thể giảm thiểu những yếu tố bất lợi cho phương án kinh doanh và tăng cường những nhân tố có lợi cho phương án, ví dụ như việc lựa chọn những mặt hàng nhập khẩu có thuế nhập khẩu bằng 0 hay thuế suất thấp, hoặc tìm kiếm các bạn hàng cung ứng có giá mua hạ hơn và tình hình tài chính vững chắc hơn. Nâng cao hiệu quả của từng bước nhỏ trong từng phương án sẽ nâng cao được hiệu quả kinh doanh cuả từng phương án đó.
3. Hoàn thiện phương thức thanh toán trong từng phương án nhập khẩu.
Kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu có liên quan trực tiếp tới việc sử dụng ngoại tệ. Vấn đề liên quan đến việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán nhiều khi rất phức tạp vì nó liên quan đến tỷ giá hối đoái. Thông thường đồng tiền thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu là các đồng tiền mạnh như đồng đôla Mỹ, đồng yên Nhật, đồng EURO. Việc lựa chọn đồng tiền nào làm đồng tiền thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu cũng rất quan trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Khi một đồng ngoại tệ nào đó đang biến động mạnh thì rủi ro trong việc sử dụng đồng tiền đó để thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ lớn hơn so với việc sử dụng đồng ngoại tệ ổn định. Thực tế công ty luôn phải đứng trước thực trạng là tỷ giá hối đoái luôn biến động thất thường, cho nên tính hiệu quả của mỗi thương vụ là mang tính tương đối. Tại thời điểm này khi sự biến động của tỷ giá là nhỏ hoặc hầu như không biến động gì thì thương vụ thu được lãi trong khi tại một thời điểm khác thì thương vụ là lỗ. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng tín dụng trong thanh toán hợp đồng nhập khẩu, công ty cần phải nghiên cứu và cân nhắc kỹ việc lựa chọn đồng tiền thanh toán. Công ty nên sử dụng đồng ngoại tệ phổ biến và ít biến động về tỷ giá trên thị trường, có như vậy mới nâng cao được hiệu quả trong thanh toán và khi đó mới nâng cao được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Thực tế cho thấy rằng vấn đề chênh lệch tỷ giá trong các hợp đồng của công ty hiện nay còn tương đối lớn, nên đây cũng là khâu quan trọng công ty cần phải lưu ý.
Hiện nay phương thức thanh toán chủ yếu của công ty vẫn là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, chủ yếu là phương thức L/C trả ngay. Công ty nên áp dụng phương thức thanh toán L/C trả chậm đối với hợp đồng nhập khẩu. Tuy nhiên cùng với phương thức L/C trả chậm thì điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng giá bán hàng hoá trong hợp đồng nhập khẩu. Vấn đề đặt ra là công ty phải tính toán xem mức tăng giá đó có phù hợp hay không. Nếu mức tăng giá đó thấp hơn lãi vay từ ngân hàng mà tỷ giá hối đoái trên thị trường không biến động mấy thì có thể áp dụng phương thức L/C trả chậm. Đây chính là một loại hình tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu. Công ty cần phải triệt để tận dụng hình thức này cho mỗi thương vụ kinh doanh. Phương thức này có thể mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Chính vì vậy, Công ty cần đề ngay kế hoặch cho việc áp dụng phương pháp tín dụng chứng từ. Để áp dụng tốt đòi hỏi công ty phải theo dõi thường xuyên sự biến động của tỷ giá, mức lãi suất ngân hàng, từ đó nắm bắt thời điểm thích hợp cho việc sử dụng phương pháp thanh toán bằng L/C trả chậm.
Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá tạo cho các doanh nghiệp nghiệp nhiều cơ hội phát triển song cũng đặt nhiều thách thức. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nhanh chóng có chiến lược phù hợp để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Đối với công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí, một công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, thì việc áp dụng L/C trả chậm cũng phần nào giúp công ty kinh doanh hiệu quả hơn. Trong thời gian vừa qua, công ty thường xuyên áp dụng phương thức thanh toán bằng L/C trả ngay là một hạn chế đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
4. Nâng cao hiệu quả bằng cách tiết kiệm chi phí
Giá vốn cùng với chi phí cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ cấu thành nên giá vốn hàng bán hàng hoá nhập khẩu. Công ty đưa ra mức giá bán hàng hoá nhập khẩu trên thị trường phải được thị trường chấp nhận thì mới tiêu thụ được. Nhìn chung trong hai năm trở lại đây mức giá bán một số hàng hoá nhập khẩu của công ty là tương đối cạnh tranh.
Bảng 3.3 Giá bán mặt hàng dây cáp điện AC của một số công ty
Đơn vị: triệu đồng/tấn
Công ty
Năm
1998
1999
2000
2001
ELMACO
22
22
21
19
Đại Thành
21,4
21,5
21,1
19,03
Tiến Đạt
21,3
21,8
21,02
19,04
Điện nước HP
21,9
22
21,02
19,02
(Nguồn: Báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường giai đoạn 1998-2001)
Tuy nhiên để tiếp tục làm được điều này thì công ty vẫn cần phải cố gắng rất nhiều. Trong thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, giá cả và chất lượng vẫn là hai nhân tố quan trọng để hàng hoá được tiêu thụ nhanh trên thị trường. Cùng một chất lượng hàng hoá như nhau, doanh nghiệp nào có mức giá bán thấp hơn thì mức cạnh tranh sẽ lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác.
Để có một mức giá cạnh tranh hơn thì bắt buộc doanh nghiệp ngoài việc tìm mua được nguồn hàng có chất lượng cao, giá rẻ thì đồng thời phải tìm cách giảm chi phí trong kinh doanh nhập khẩu. Chi phí trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu bao gồm rất nhiều loại như chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí vốn, phí ngân hàng, phí bảo hiểm, chi phí tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu, phí lưu kho... Giảm chi phí vốn như đã nói ở trên công ty có thể áp dụng nhiều phương án nhưng cần phải chú trọng vào việc tận dụng tín dụng nhập khẩu... Chi phí ngân hàng muốn giảm được thì ta phải có mối liên kết với các ngân hàng, tạo mối làm ăn lâu dài, có uy tín. Phí ngân hàng thấp cũng là một lợi thế đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Phí tiếp nhận vận chuyển cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty. Chính vì vậy để giảm chi phí kinh doanh nhập khẩu ta cần giảm chi phí nhập khẩu xuống mức thấp nhất. Để đạt được mục tiêu đó ta cần tìm kiếm hãng vận tải lớn, có uy tín và phí vận chuyển thấp. Ngoài ra công ty có thể nhường quyền vận chuyển cho bên bán nếu thấy phí vận chuyển hàng hoá của nước ta quá cao.
Nói tóm lại, để có được một mức giá bán tương đối cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi công ty phải có cái nhìn khái quát về tổng thể thị trường trong và ngoài nước nói chung. Công ty cần phải thiết lập được mối quan hệ không chỉ với nhà cung cấp mà còn một koạt nhà trung gian khác như: ngân hàng, nhà bảo hiểm, công ty vận tải ...
Vì vậy công ty phải không ngừng tạo dựng được uy tín trên thương trường, đồng thời phải thường xuyên nghiên cứu thị trường để tìm được nhà cung cấp có giá cả cạnh tranh nhất.
5. Mở rộng thị trường, ngành hàng, hình thức kinh doanh đa dạng nhằm hạn chế rủi ro
Đa dạng hoá kinh doanh trên cơ sở tận dụng nguồn lực hiện có một cách hiệu quả, thích ứng được với cơ chế thị trường và bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước là một yêu cầu cấp bách đang đặt ra với công ty. Công ty cần phải kinh doanh đa dạng hoá mặt hàng vì nếu chỉ tập trung kinh doanh một số ít mặt hàng thì sẽ tạo ra sự bất hợp lý trong sử dụng nguồn lực, rủi ro sẽ không được phân tán hợp lý. Do vậy công ty cần tận dụng sức cạnh tranh trên nhiều lĩnh vực và lấy lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu vật liệu điện và dụng cụ cơ khí là chủ lực làm định hướng thế mạnh, luôn là bước đi có tính toán và chủ lực của công ty. Từ đó có thể phát triển sang lĩnh vực thị trường có liên quan. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh là một giải pháp cụ thể vì ta biết rằng doanh thu tính bằng giá và số lượng. Nếu chỉ tập trung vào một hay một số mặt hàng thì doanh thu tăng lên sẽ không đáng kể. Muốn tăng doanh thu ta có thể tăng giá hoặc tăng số lượng, điều này rất khó đối với một lượng mặt hàng hạn chế và khó có thể bù đắp từ mặt hàng nọ sang mặt hàng kia. Thêm vào đó, một doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hiếm khi xuất hoặc nhập một vài loại hàng hoá mà thường có xu hướng phát triển phong phú hơn nữa cơ cấu mặt hàng kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu trên thị trường và phân tán rủi ro trong kinh doanh.
Hiện nay, công ty ELMACO không chỉ kinh doanh ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí, vật tư tổng hợp mà công ty còn quan tâm đến các mặt hàng khác như: nông sản (trừ gạo), hàng thuỷ sản, khoáng sản, hoá chất, thiết kế thi công lắp đặt công trình điện dân dụng và công nghiệp, giấy và bột giấy các loại, thép và phôi thép các loại, kim loại màu các loại.
6. Nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thì công tác nghiên cứu thị trường nhập khẩu là hết sức quan trọng. Trước đây, việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu không được quan tâm bởi công ty thực hiện theo nghị định thư của Nhà nước ban hành. Nhưng hiện nay, khi đã chuyển sang hạch toán kinh doanh độc lập, công ty phải tìm hiểu thị trường và bạn hàng giao dịch, nắm vững thị trường nhập khẩu. Đây là công việc có ý nghĩa sống còn với công ty. Việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu góp phần vào việc phát triển và nâng cao hiệu quả nhập khẩu của công ty. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của tình hình thị trường và giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho công ty hoạt động có hiệu quả nhất. Đối với công ty ELMACO, nghiên cứu thị trường nhập khẩu phải trả lời được các câu hỏi: nhập cái gì, dung lượng thị trường của hàng hoá đó như thế nào, và cuối cùng là chiến thuật kinh doanh cho từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đề ra.
Qua việc nghiên cứu trên công ty sẽ nhận biết được các thị trường nhập khẩu có triển vọng, từ đó xem xét cắt bớt những thị trường kém hấp dẫn và lựa chọn thị trường mục tiêu. Công ty cũng có thể sắp xếp thứ tự các thị trường đã lựa chọn và đưa ra chế độ ưu tiên thích hợp. Trong việc sắp xếp này công ty phải quan tâm đến nhiều mặt như điều kiện kinh tế, chính trị, pháp luật... có thể sắp xếp thứ tự bằng cách lập thành những bảng điểm cho từng yếu tố, sau đó tổng hợp lại theo điểm từ trên xuống dưới cho từng thị trường.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu, công ty phải nắm bắt đầy đủ thông tin về giá cả hàng hoá, về mức giá cho từng điều kiện mua bán, phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh. Đồng thời công ty phải nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các điều kiện về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế từng khu vực, từ đó sẽ tránh được những sơ suất trong giao dịch buôn bán, mang lại hiệu quả cho hoạt động nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu cũng giúp cho công ty nắm vững được dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó trong từng thời kỳ. Qua đó công ty có những quyết định kịp thời, chính xác và nhanh chóng, chớp được thời cơ giao dịch để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra dựa trên kết quả về nghiên cứu dung lượng thị trường và giá cả công ty cũng tìm ra được các đối tác ở các thị trường nhập khẩu.
Cùng với việc nghiên cứu thị trường nhập khẩu, một điều quan trọng mà công ty không thể bỏ qua được là nghiên cứu thị trường trong nước-thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường trong nước.
Để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu có hiệu quả thì công ty phải nghiên cứu thị trường trong nước. Hoạt động này quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, quy mô thị trường, khách hàng và do đó quyết định đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty.
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu chỉ đạt được trên cơ sở hàng hoá nhập khẩu bán ra trên thị trường phải đem về lợi nhuận cho công ty. Công tác nghiên cứu thị trường sẽ cho phép công ty xác định nhu cầu thị trường trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, khác với nghiên cứu thị trường nước ngoài giúp công ty thấy được bạn hàng nào có khả năng đáp ứng tốt nhất thị trường trong nước.
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường, công ty cần đưa ra những giải pháp cụ thể cho thị trường tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu của công ty. Mặc dù biết rằng khâu tìm kiếm thị trường đầu ra của công ty hiện nay là một khâu hết sức quan trọng, nhưng thực tế công ty chưa năng động và chưa có nhiều hoạt động xúc tiến bán hàng. Hiện nay trên thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng triển khai các hoạt động để mở rộng thị trường tiêu thụ.
Xuất phát từ thực tiễn trên, công ty muốn mở rộng thị trường thì phải không ngừng hoàn thiện công tác marketing, đặc biệt phải chào hàng đến từng cơ quan xí nghiệp. Công ty cần phải mở rộng đội ngũ marketing để phục vụ cho khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Trong quá trình chào hàng công ty có thể nhận được những đơn hàng trực tiếp, qua đó có thể nắm bắt được nhu cầu thực sự cho sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra công ty có thể mở rộng mạng lưới bán buôn hoặc bán lẻ trên khắp cả nước.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và mở rộng thị trường công ty nên thành lập bộ phận marketing. Để nghiên cứu và xem xét một cách khoa học về thị trường, công ty cũng cần đưa ra một hệ thống thông tin marketing trong công ty. Bởi vì hệ thống này sẽ gắn kết các mối quan hệ, các bộ phận giữa con người với con người, giữa con người với các phương tiện nghiên cứu. Khi tổ chức bộ phận marketing công ty cấn chú ý chia làm hai nhóm công việc: nhóm nghiên cứu thị trường nhập khẩu và nhóm nghiên cứu thị trường trong nước. Nhân viên làm công tác marketing đòi hỏi phải có nghiệp vụ marketing, hiểu biết về marketing, đặc biệt về ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí.
7. Tăng cường xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu.
Hiện nay, hoạt động xuất khẩu của công ty chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (chỉ chiếm khoảng 20%). Hoạt động nhập khẩu còn hạn chế nên nguồn ngoại tệ thu về còn ít, không đủ đáp ứng một phần nhỏ cho hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Trong khi đó nhập khẩu hàng hoá lại luôn phải đối mặt với tỷ giá biến động mạnh, phát sinh mức chênh lệch tỷ giá lớn, làm ảnh hưởng tới hoạt dộng kinh doanh xuất nhập khẩu. Một trong những biện pháp khắc phục tình trạng này là việc tăng cường xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ, đáp ứng phần nào cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá.
Tóm lại, khi hoạt động xuất khẩu được tăng cường thì nguồn ngoại tệ công ty thu được xuất khẩu cũng phần nào trang trải được cho kinh doanh nhập khẩu và sẽ ít phải trả mức chi phí phát sinh do chênh lệch tỷ giá, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu được tăng cường sẽ tạo sức mạnh nội lực cho công ty khi thực hiện các chiến lược nhập khẩu.
Vấn đề đặt ra là công ty sẽ tiến hành xuất khẩu như thế nào, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gì, thị trường xuất khẩu mục tiêu là gì... Công ty lại đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Xu hướng toàn cầu hoá đã tạo điều kiện cho công ty ELMACO mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều nước nhưng lại gặp không ít trở ngại từ sự cạnh tranh gay gắt của các tập đoàn. Qua đó càng khẳng định vai trò quan trọng của bộ phận marketing trong việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
8. Nâng cao trình độ quản lý và hiệu quả làm việc trong công ty.
Công ty ELMACO hiện nay có 420 người, đối với doanh nghiệp thương mại con số này không lớn. Nhưng số nhân viên hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu chỉ có 7 người chính, con số này vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động nhập khẩu. Công việc nghiên cứu, lựa chọn thị trường, lựa chọn bạn hàng cũng như việc tìm hiểu về đồng tiền thanh toán, lập các phương án kinh doanh, so sánh và lựa chọn phương án có hiệu quả nhất thì 7 người chưa thể đảm nhận công việc đó một cách tốt nhất. Vì vậy công ty cần phải sử dụng nhân viên một cách hợp lý, đơn vị thừa người thì chuyển sang đơn vị thiếu người. Tuy nhiên cũng phỉ bố trí những người hợp với chuyên môn, hiểu biết ngành hàng để nâng cao năng lực làm việc. Mỗi cá nhân nếu phát huy được khả năng làm việc của mình sẽ giúp công ty đạt được hiệu quả ở mức cao nhất. Ngoài ra, công ty nên tổ chức khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ nhập khẩu, ngoại ngữ, nâng cao khả năng giao tiếp với đối tác nước ngoài, soạn thảo hợp đồng, tài liệu giao dịch cũng như bồi dưỡng các nghiệp vụ bán hàng nhập khẩu. Công ty cũng cần phải có chế độ thưởng phạt, ưu đãi công bằng. Đối với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, công ty nên áp dụng chế độ thưởng phạt và gắn trách nhiệm của họ với từng mặt hàng, từng hợp đồng cụ thể.
Ban lãnh đạo cần tạo ra một môi trường làm việc năng động, sáng tạo và phải gắn kết được mọi thành viên trong công ty. Môi trường làm việc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi cá nhân. Công việc sẽ hiệu quả hơn nếu mỗi nhân viên đều cảm thấy công ty là ngôi nhà chung của mọi người, ở đó họ thực sự tìm thấy cơ hội thăng tiến, tình yêu nghề nghiệp và sự gắn bó giữa các thành viên