Khóa luận Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương

Hiện nay cán bộ là yêú tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta nói chung và ở Hải Dương nói riêng. Phần lớn cán bộ trong liên doanh đều do Bộ, UBND tỉnh cử tuyển hầu như chưa được đào tạo trang thiết bị kiến thức cần thiết về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trình độ ngoại ngữ, chuyên môn yếu, ít thông hiểu pháp luật lại phải gánh vác một công việc khó khăn mới mẻ nên cán bộ của ta chưa biết kết hợp hợp tác và đấu tranh bảo vệ quyền lợi phía Việt Nam và người lao động Việt Nam trong doanh nghiệp, dẫn đến sơ hở, thua thiệt trong quá trình hợp tác đầu tư. Còn các cán bộ làm trong cơ quan quản lý đầu tư của tỉnh còn ít, số người có trình độ cao được đào tạo chính quy trong nước và ngoài nước lại càng ít. Hơn nữa từ trước đến nay vẫn có thói quen làm việc quan liêu, cửa quyền với các nhà đầu tư trong nước nhưng nay không thể áp dụng thói quen đó với nhà đầu tư nước ngoài. Cả về phía cán bộ trong liên doanh và trong cơ quan quản lý đều có những yếu kém nhất định. Trong khi chờ đơị chính phủ ban hành một quy chế về tiêu chuẩn cán bộ trong công tác đầu tư nước ngoài, tỉnh có thể xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn áp dụng trong tỉnh trong đó có thể đề cập đến một số vấn đề sau: * Có quy định về đạo đức, chính trị, chuyên môn của cán bộ Việt Nam tham gia trong hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh và quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trách nhiệm, quyền lợi của những người này với những người được cử làm đại diện cho phía Việt Nam trong liên doanh phải đạt tiêu chuẩn cao về cả ba yêú tố trên nhưng ý thức chính trị phải được đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải xác định mình làm việc trong liên doanh trước hết là đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của phía Việt Nam, phải thể hiện được tư tưởng chỉ đạo của Đảng vào hoạt động của liên doanh. Muốn làm được thế người cán bộ phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ để có thể kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, ngăn chặn được những hành vi cố tình làm sai pháp luật Việt Nam vốn rất tinh vi của phía nứơc ngoài. * Tổ chức đào tạo theo nhiều hình thức đối với cán bộ làm công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài,thường xuyên tổ chức tập huấn về nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay các văn bản luật còn có nhiều thay đổi để phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm hiểu và thực thi luật. Vì thế cán bộ Việt Nam phải là những người nắm vững pháp luật Việt Nam để có thể hướng dẫn các nhà đâù tư nước ngoài thực hiện đúng. * Xây dựng đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làmviệc cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

doc72 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian, công sức. Mới đây Sở kế hoạch và đầu tư đã có tờ trình UBND tỉnh đề xuất biện pháp để sớm giao đất cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đó thời gian kể từ khi triển khai giải phóng mặt bằng đên khi các doanh nghiệp nhận đất để triển khai dự án trong vòng một tháng. Nội dung cơ bản của đề xuất này là: “sau khi nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển tiền đền bù giải phóng mặt bằng vào tài khoản của tỉnh và trên cơ sở thống nhất với các địa phương nơi có dự án sẽ tiến hành bàn giao đất cho nhà đầu tư nước ngoài ngay sau khi có quyết định của UBND tỉnh về việc thu hồi đất và cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất. Các công việc còn lại khác như hoàn chỉnh phương án bồi thường giải phóng mặt bằng trình uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt và rút tiền từ tài khoản mà nhà đầu tư đã chuyển tiền vào để chi trả cho các hộ gia đình có đất dành cho dự án vẫn được tiếp tục bồi thường.” Vừa qua việc triển khai giải phóng mặt bằng và giao đất cho dự án của công ty may Formosta (Đài Loan) tại xã ái Quốc, huyện Nam Sách và công ty TNHH Daeshin-Việt Nam tại xã Tân Dân, huyện Chí Linh đã được tiến hành theo đề xuất này và có kết quả tốt. Sắp tới Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục phối hợp với các ngành, địa phương có liên quan hoàn chỉnh quy trình mới về giả phóng mặt bằng để áp dụng cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mới vào địa phương. Việc công bố tiền bồi thường giải phóng mặt bằng áp dụng trên địa bàn các huyện trong tỉnh từ 17000-18000 USD/ha và tại thành phố Hải Dương 19000-20000 USD/ha (chưa kể công trình xây dựng và tài sản khác trên mặt đất nếu có) được các nhà ĐTNN hoan nghênh. Có một thực tế là các doanh nghiệp nước ngoài ở Hải Dương hầu hết thuê đất canh tác của nông dân, không có doanh nghiệp nào thuê đất đô thị nên việc giải phóng mặt bằng thuận tiện hơn các địa phương khác. Các doanh nghiệp cũng có chính sách thu hút nông dân có đất trong dự án vào làm việc trong nhà máy. Điều này đã khuyến khích nông dân giao đất giải phóng mặt bằng nhanh hơn. II. Tình hình hoạt động của một số doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh. 1.Tình hình hoạt động của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương. 1.1. Các dự án do Bộ kế hoạch và đầu tư cấp phép. * Công ty TNHH Ford-Việt Nam: năm 2001 là năm đánh dấu bước tiến đáng ghi nhận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty với trên 2000 xe sản xuất và tiêu thụ, là năm đạt sản lượng cao nhất kể từ khi đi vào sản xuất, cân đối được tài chính và đã có lãi. Doanh thu đạt trên 51 triệu USD. * Liên doanh quốc tế công ty hữu hạn (may Venture) được thành lập theo giấy phép đầu tư số 440/GP ngày 17/10/1992 với chức năng sản xuất kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu với tổng vốn đầu tư ban đầu 1,6 triệu USD. Sau một số lần điều chỉnh tăng vốn, hiện nay, vốn đầu tư của doanh nghiệp là 3,2 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 2 triệuUSD. Liên doanh đã đi vào sản xuất kinh doanh ổn định và có lãi. Theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán vào năm 2000, doanh nghiệp đạt doanh thu xuất khẩu 8,5 triệu USD, lợi nhuận trước thuế là 2,6 triệu USD. Năm 2001, doanh thu xuất khẩu đạt 6,4 triệu USD, lợi nhuận trước thuế đạt 2,1 triệu USD. Đây là một dự án lớn thu hút gần 1000 lao động. * Công ty phát triển nông nghiệp châu á-Thái Bình Dương: tổng vốn đầu tư hiện nay là 2,25 triệu USD, vỗn pháp định 1,25 triệu USD. Doanh nghiệp có chức năng sản xuất, chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Doanh nghiệp đã ổn định kinh doanh và bắt đầu làm ăn có lãi. Năm 2001, doanh nghiệp đã dùng số lợi nhuận 250000 USD để tái đầu tư. Trong quá trình hoạt động kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư, doanh nghiệp đã hai lần chuyển nhượng vốn, điều chỉnh tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm 100% xuất khẩu. * Tropical ware corporation (nước khoáng Laska) là dự án sản xuất kinh doanh nước uống tinh khiết, sau có bổ sung ngành nghề nước uống từ hoa quả và đồ ăn nhẹ. Năm 2000, doanh nghiệp đã sử dụng nhãn hiệu nước khoáng cho đồ uống tinh khiết bình thường. Tỉnh đã cử đoàn đại biểu xuống kiểm tra, xác nhận nguồn nước khoáng Thạch Khôi có hàm lượng chất khoáng thấp, không đạt tiêu chuẩn về nước khoáng và xử lý bằng cách sửa đổi giấy phép đầu tư. Năm 2001, doanh nghiêp đạt doanh thu là 480000 USD, thu hút 100 lao động trực tiếp. * Công ty TNHH thực phẩm Vạn Đắc Phúc: đây là doanh nghiệp có số vốn đầu tư thực hiện lớn so với tổng số vốn đầu tư (gần 66%). Doanh nghiệp xuất khẩu 100% sản phẩm. Doanh thu 2001 đạt 480000 USD, gấp đôi năm 2000. * Công ty TNHH Cricket: do có khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm chi phí thuê cơ sở hạ tầng cao và nhất là thuế nhập khẩu linh kiện cao cùng với nhiều yếu tố khác làm cho sản phẩm của công ty không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Theo đề nghị của chủ đầu tư, tháng 3/2001 UBND tỉnh Hải Dương đã ra quyết định chấm dứt hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. 1.2. Các dự án do UBND tỉnh cấp phép * Công ty TNHH Đồng Tài Việt Nam: đây là doanh nghiệp mới chính thức đi vào hoạt động từ đầu năm 2001 song đã có những bước đi vững chắc rõ nét. Doanh nghiệp đã thu hút được gần 700 lao động với thu nhập tương đối khá. Hiện doanh nghiệp đang tiếp tục tuyển dụng lao động và sẽ đạt 1400 lao động vào thời điểm ổn định. * Công ty TNHH thực nghiệm nhựa Trung Liên là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc. Vốn đầu tư chỉ có 350000 USD, chuyên sản xuất kinh doanh chai, lọ nhựa. Tuy vốn đầu tư ít nhưng sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ rộng rãi trong thị trường nội địa (doanh nghiệp này không xuất khẩu) vì sản phẩm này tỏ ra phù hợp với thị trường Việt Nam. * Công ty thiết bị văn phòng Dunan: đây là dự án có thời gian chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh khá nhanh. Chỉ trong vòng một năm kể từ ngày nhận được giấy phép đầu tư, doanh nghiệp thuê nhà xưởng tại nhà máy xay Ninh Giang và bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. * Công ty phát triển nông nghiệp Triển Mậu: sản xuất kinh doanh chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Doanh nghiệp đã thuê trụ sở và nhà xưởng sản xuất, còn việc gieo trồng rau quả được thông qua các hợp đồng với các tổ chức đơn vị cá nhân trong tỉnh có sự đảm bảo của tỉnh về việc thực hiện hợp đồng. 2. Một số khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ * Việc đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất, nhất là các dự án chế biến nông sản có nhiều nan giải. Trong thực tế, do sản phẩm thu hoạch chịu ảnh hưởng rất lớn của thời tiết, khí hậu và giá cả hết sức dao động nên việc thực hiện hợp đồng ký kết gặp rất nhiều khó khăn. Nhà đầu tư thì muốn mua nguyên liệu giá rẻ, khi giá thị trường lên cao thì nông dân thường phá vỡ hợp đồng gây ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư. * Xử lý doanh nghiệp được thành lập theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam khi bản thân chủ đầu tư vỡ nợ tại chính quốc và không trở lại Việt Nam cũng như không có thông tin phản hồi gì (trường hợp của công ty Việt Hưng và sân golf ngôi sao Hoàng gia) như thế nào cho phù hợp với luật pháp Việ Nam và quốc tế. * Nhiều doanh nghiệp nước ngoài có mở tài khoản ở Việt Nam song việc thanh toán các hợp đồng xuất khẩu lại ở ngoài Việt Nam. Tài khoản ở Việt Nam chỉ có một số lượng không lớn, dẫn đến việc dây dưa không thanh toán cho khoản nợ và thực hiện các nghĩa vụ với các đối tác trong nước và nhà nước Việt Nam, gây khó khăn trong việc theo dõi quản lý dự án. * Việc quyết toán đầu tư, vốn thực hiện hầu hết các doanh nghiệp chưa làm tốt. Các doanh nghiệp luôn trì hoãn việc gửi báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh định kỳ. ở một vài doanh nghiệp, số liệu báo cáo chưa thống nhất về đơn vị tính sản phẩm gây khó khăn cho cán bộ làm công tác thống kê. * Việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là việc nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện, vật tư… để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được hưởng các ưu đãi đặc biệt về thuế theo luật định là vấn đề hết sức phức tạp khó khăn. Do trình độ quản lý còn hạn chế của cán bộ trong các cơ quan có thẩm quyền nên chủ doanh nghiệp nước ngoài thường hay không thực hiện đúng luật, kê khai không đúng mục đích nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vật tư nhằm trốn thuế. Hay đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, số tài sản đã được nhập khẩu theo đúng những điều kiện ưu đãi đã bị thất thoát, sử dụng không đúng mục đích. * Việc kiểm tra, hướng dẫn đỗi với các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện theo luật pháp là cần thiết đối với cơ quan quản lý nhà nước. Tuy vậy, một số ngành, sở chức năng tự quyết định thanh tra, không tuân thủ các quy định của uỷ ban nhân dân tỉnh, gây tâm lý lo sợ cho các chủ đầu tư và ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp. * Một số chủ doanh nghiệp triển khai xây dựng khong tuân thủ mặt bằng xây dựng đã được tỉnh phê duyệt, không theo đúng trình tự xây dựng cơ bản, không duyệt thiết kế, dự toán, không xin cấp giấy phép xây dựng. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước, ảnh hưởng tới công tác quy hoạch của tỉnh. * Một số đơn vị tổ chức là nhà thầu nước ngoài vào xây dưng cho các doanh nghiệp không xuất trình tư cách pháp nhân, không khai báo với cơ quan an ninh gây khó khăn cho công tác quản lý nhân sự. * Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường thuê một diện tích đất rộng để xây dựng nhà máy mà đất này lấy từ ruộng của nông dân. Tuy đã có chế độ đền bù thoả đáng và nhận nông dân vào làm việc trong nhà máy nhưng vẫn dôi ra một lượng lao động đáng kể. * Cho đến nay một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập được tổ chức công đoàn như công ty may Venture, xí nghiệp chế tác kim cương, công ty xi măng Phúc Sơn, công ty tơ lụa hữu nghị Việt-Triều…. Một số nơi có đủ đảng viên để thành lập chi bộ. Hoạt động của các tổ chức này cũng đã bảo vệ được quyền lợi của công nhân, tạo mối quan hệ thường xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về việc nắm các hoạt động về mặt phát luật và an ninh. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp không muốn thành lập tổ chức công đoàn. ở những doanh nghiệp này công nhân thườn không có chỗ dựa, không có đủ người Việt Nam có đủ tư cách đứng ra thay mặt công nhân quan hệ với chủ đầu tư để giải quyết các vấn đề liên quan tới quyền lợi của mình. Chương III: Một số biện pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương I. Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương Những năm vừa qua, thực hiện đường lối chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước, Đảng bộ chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng và phát triển tại địa phương: tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) thời kỳ 1991 – 2000 bình quân là 9,2 % năm, cao hơn mức bình quân chung cả nước, riêng năm 2000 tăng gấp 2.4 lần so với năm 1990. Thu nhập bình quân đầu người tăng 2,2 lần, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp. Bảng 8: Cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hải Dương Lĩnh vực 1990 2000 Dự kiến 2010 Nông–Lâm–Ngư nghiệp 51,2 35,4 25 Công nghiệp xây dựng 22,4 37,3 42 Dịch vụ 26,4 27,2 33 Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến việc hình thành và phát triển trong nền kinh tế quốc dân cũng như tại địa phương các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước và 100% vốn đầu tư nước ngoài đã mang lại những lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. Những kết quả đạt được trong hơn 10 năm qua đã chứng minh cho đường lối chính sách của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã đến tỉnh Hải Dương để tìm hiểu cơ hội đầu tư. Kết quả là hiện nay trên địa bàn tỉnh có 42 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép từ 18 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Hải Dương. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế của cả tỉnh, cải thiện cơ cấu kinh tế, nâng cao giá trị sản phẩm, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Tổng số vốn đầu tư của các dự án này chiếm 13,5% vốn đầu tư phát triển của địa phương giai đoạn 1996 – 2000. Trong báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII nêu: “Kế hoạch 5 năm tới, từ các nguồn ngân sách, quỹ hỗ trợ đầu tư, vốn của các doanh nghiệp, vốn huy động của nhân dân, vốn đầu tư nước ngoài, vốn viện trợ không hoàn lại, phấn đấu đạt 16500 tỷ đồng và tăng vốn đầu tư đăng ký của các dự án đầu tư nước ngoài từ 40 – 50% so với hiện nay, đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 9% trở lên”. Để có nguồn vốn đầu tư đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực hiện các mục tiêu đã đề ra, tỉnh Hải Dương hết sức coi trọng việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, sẵn sàng tiếp nhận các nhà đầu tư vào tỉnh theo các hình thức khác nhau. Bảng 9: Kế hoạch thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tỉnh Hải Dương 5 năm 2001 – 2005. Đơn vị: triệu USD Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng Tổng VĐT đăng ký 30 34 40 45 47 196 Cấp mới 22 25 35 35 42 159 Tăng vốn 8 9 5 10 5 37 Vốn thực hiện 16 27 27 33 40 143 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương. Trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, bên cạnh những chính sách, chế độ chung áp dụng trong cả nước, tỉnh Hải Dương chủ trương chú ý những vấn đề sau: * Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng văn hoá xã hội nhằm nâng cao mức sống, mức hưởng thụ văn hoá và chăm sóc xã hội của mỗi người dân, đảm bảo cải thiện mức sống của nhân dân trong tỉnh. * Tập trung xây dựng công nghiệp hiện đại theo các cụm, khu công nghiệp; trong các cụm, khu công nghiệp sẽ hình thành dần các ngành công nghiệp dịch vụ có năng suất kỹ thuật cao, có đủ khả năng cạnh tranh trong nước. Hiện nay trên địa bàn Hải Dương đã hình thành các khu, cụm công nghiệp sau: Khu công nghiệp Nam Sách Khu công nghiệp Phú Thái Khu công nghiệp thành phố Hải Dương Khu công nghiệp Nhị Chiểu Khu công nghiệp Chí Linh Cụm công nghiệp Cờ Đỏ. Trong các khu công nghiệp mà không chỉ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài mà còn thu hút cả nhà đầu tư trong nước, những nhà cung cấp dịch vụ trong nước, tạo ra mối liên kết giữa các công ty nước ngoài với các khu vực kinh tế trong nước. Tăng cường khuyến khích các công ty, tổ chức kinh tế xã hội trong tỉnh cung cấp nguyên vật liệu, dịch vụ cho các công ty nước ngoài đồng thời áp dụng chế độ ưu đãi cho các công ty nước ngoài nội địa hoá nguyên vật liệu đầu vào, đặc biệt là đối với những sản phẩm để xuất khẩu. * Để phù hợp với điều kiện (về vốn, tài nguyên, chất lượng lao động...) của tỉnh, tập trung thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài vì đó là những doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với điều kiện thị trường. Với những đối tác này, các doanh nghiệp trong tỉnh có đủ khả năng góp vốn, có đủ năng lực trình độ tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tạo ra nhiều việc làm. * Khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài nâng tỉ lệ xuất khẩu lên. Chính sách này nhằm khắc phục tình trạng hạn chế về quy mô thị trường. Lợi thế so sánh của tỉnh được khai thác có hiệu quả hơn, thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong tỉnh, từng bước tiếp cận với mạng lưới phân phối bên ngoài quốc gia. Cũng cần phải thấy rằng các dự án có tỉ lệ xuất khẩu cao thường đòi hỏi quy mô lớn, công nghệ hiện đại, quy trình quản lý tiên tiến và mạng lưới phân phối rộng lớn. Hiện nay ở Hải Dương những dự án này không nhiều, chỉ có công ty TNHH Ford và công ty xi măng Phúc Sơn là có số vốn đăng ký hơn 100 triệu USD. Nhưng chiến lược của Ford là bán hàng ở thị trường nội địa, Phúc Sơn cũng bán 30% sản phẩm trong nước. Như vậy, giá trị xuất khẩu chủ yếu là từ doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Việc các công ty lớn nâng cao tỷ lệ xuất khẩu lên sẽ làm thay đổi đáng kể kim ngạch xuất khẩu cuả tỉnh. * Hướng vốn FDI vào một số ngành kinh tế trọng điểm như công nghiệp và xây dựng, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến và công nghiệp ngành nông – lâm – ngư nghiệp, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, giao thông và bưu điện... * Khắc phục tình trạng phát triển chênh lệch giữa các vùng. Chúng ta cần khuyến khích nhà đầu tư bỏ vốn vào các khu vực, địa bàn khó khăn như huyện Ninh Giang, Thanh Miện, Chí Linh… bằng những hỗ trợ về mặt thủ tục giấy tờ, ưu tiên giá đất, miễn giảm thuế thu nhập. * Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách phát triển hệ thống dạy nghề cho người lao động trong mọi thành phần kinh tế, khuyến khích cạnh trạnh trong lĩnh vực này để chất lượng lao động được cải tiến. Xác định rõ nhu cầu các nghề trong tương lai làm định hướng cho các cơ sở đào tạo nghề, xây dựng nội dung chương trình đào tạo cụ thể, tránh việc đào tạo tràn lan không hiệu quả đào tạo ra những ngành nghề không phù hợp với nhu cầu thị trường. Đào tạo lao động theo hướng chuyên sâu nhưng vẫn đảm bảo theo diện rộng để người lao động có thể chuyển đổi nghề dễ dàng. Đối với việc đào tạo trong các trường phổ thông và cao đẳng, tỉnh chủ trương kết hợp dạy kiến thức với hướng nghiệp cho học sinh, ưu tiên tuyển dụng những người có trình độ cao về tỉnh làm việc. * Đa dạng hoá đối tác đầu tư: Việc lựa chọn đối tác đầu tư là vấn đề hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt. Phương hướng chung là mở rộng quan hệ đầu tư với tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị hay trình độ phát triển, song phải xác định rõ trọng tâm trọng điểm về từng đối tác trong từng lĩnh vực cụ thể để đạt hiêụ quả cao trong hợp tác đầu tư. Điều này có nghĩa là khi trong từng lĩnh vực đầu tư, từng ngành kinh tế cụ thể được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư khác nhau thì đòi hỏi phải có sự cân nhắc, so sánh để lựa chọn đối tác nào có khả năng nhất. * Đa dạng hoá hình thức đầu tư: Mở rộng các hình thức thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những biện pháp chủ yếu nhằm đa dạng hoá đối tác và phát triển các ngành kinh tế, các địa bàn trọng điểm. Những hình thức đầu tư cần mở rộng là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, xây dựng kinh doanh chuyển giao (dự án BOT) và các khu công nghiệp... II. Một số biện pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương Với tinh thần thực sự coi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành một nền kinh tế địa phương và đảm bảo ngày càng thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầu tư quan trọng này để phát triển, việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm ăn hiệu quả, ngày càng phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các doanh nghiệp. Nó góp phần vào việc thực hiện những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Trên cơ sở xác định, phân tích tình hình triển khai thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài, những biện pháp sau đây sẽ tập trung giải quyết những khó khăn, vướng mắc, những khâu còn yếu trong công tác quản lý nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư vào tỉnh. 1. Tạo lập và phát huy môi trường đầu tư hấp dẫn 1.1. Đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định Giữ vững ổn định chính trị xã hội có ý nghĩa quyết định thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố rất quan trọng vì mỗi khi tình hình chính trị xã hội không ổn định (đi liền với nó là sự thay đổi về luật pháp) hậu quả là phát sinh những thiệt hại về lợi ích của nhà đầu tư. Kinh nghiệm của hầu hết các nước cho thấy khi tình hình chính trị mất ổn định, thậm chí có dấu hiệu mất ổn định thì các nhà đầu tư sẽ không đầu tư hoặc ngừng việc đầu tư của mình. Ví dụ điển hình là ở Nga do tình hình chính trị những năm đầu thập kỷ 90 nên trong 6 năm từ 1987 – 1993 chỉ thu hút được 2,7 tỷ USD đầu tư nước ngoài mặc dù Nga là thị trường rộng lớn, có nhiều tiềm năng. Ngay ở nước ta năm 1999, vụ bạo loạn ở Gia Lai – Kon tum tuy được dập tắt ngay nhưng cũng ảnh hưởng đến không ít nhà đầu tư. Khi đó có ba nhà đầu tư từ chối đầu tư ở Hải Dương với lý do e ngại tình hình chính trị không ổn định. Ngoài ra cần coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng bức xúc như tham nhũng, hối lộ, thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn xã hội và cả mâu thuẫn lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài – vì đây là những tiềm ẩn cho sự mất ổn định về chính trị. ở nước ta từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, ổn định chính trị luôn được đảm bảo. Từ sự ổn định chính trị cũng dẫn đến sự ổn định và an toàn xã hội, mà đây là những nhân tố tác động thường xuyên và có tính chất trực tiếp đến lợi ích nhà đầu tư. Hải Dương là tỉnh đông dân cư nhưng tình hình trật tự an ninh xã hội được đảm bảo. 1.2. Mở rộng chính sách thu hút FDI Một môi trường đầu tư có hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hay không trước hết thể hiện ở luật đâù tư. Với mọi quốc gia, luật đầu tư nước ngoài là bằng chứng cụ thể của việc mở cửa, thu hút sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư. Luật sửa đổi và bổ sung luật đầu tư nước ngoài 2000 đã kịp thời hoàn thiện những bất cập của luật đầu tư nước ngoài trước đó. Cùng với luật, các văn bản cụ thể dưới luật trong hệ thống luật pháp cũng không kém phần quan trọng. Các nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư vào một nước đều đụng phải vấn đề về luật pháp và các văn bản dưới luật (từ góp vốn, thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu, tiêu thụ hàng hoá trên thị trường...). Do đó nếu không có văn bản hướng dẫn cụ thể sẽ rất khó thực hiện. Thực tế, thời gian kể từ khi luật hay nghị định của Chính phủ ban hành đến khi có đầy đủ hướng dẫn cụ thể phải mất vài tháng. Sự chậm trễ này ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nắm bắt được tình trạng này, tỉnh Hải Dương nên chủ động rút ngắn thời gian, đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản của trung ương và của tỉnh. Mỗi khi có văn bản luật mới ra đời, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương nên nhanh chóng phổ biến cho các doanh nghiệp, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quy định của pháp luật. Ngoài các văn bản chỉ đạo từ trung ương, tỉnh cũng nên xây dựng cho mình một đề án tạo môi trường thuận lợi, thu hút mọi nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào tỉnh. Trên cơ sở thống nhất các văn bản pháp luật trung ương, đồng thời đưa thêm những điều kiện ưu đãi hơn tuỳ thuộc thực trạng tỉnh nhà. Với một hệ thống pháp luật rõ ràng, ổn định các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi đầu tư vào tỉnh Hải Dương. Một trong những vấn đề mà đề án thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh nên đề cập trước tiên là việc công bố chính sách về thủ tục hình thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: * Ban hành các quy định về trình tự thủ tục chấp nhận đầu tư (đối với cả các dự án trong nước) theo hướng đơn giản, thuận lợi nhất cho nhà đầu tư và các chính sách ưu đãi đối với các dự án trong và ngoài nước. Công bố rõ các chương trình đầu tư lớn của tỉnh giai đoạn 2001 – 2005 để kêu gọi đầu tư. * Rút ngắn thời gian cấp phép xuống còn một nửa so với quy định của chính phủ (đối với các dự án đầu tư nước ngoài), rút ngắn thời gian đăng ký kinh doanh xuống còn 2 –6 ngày (quy định của luật đầu tư nước ngoài là 15 ngày) và thời gian chấp thuận dự án đầu tư trong nước là 12 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ. * Cải tiến quy trình tiếp nhận dự án, tiếp tục duy trì và hoàn thiện cơ chế “một cửa” đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh được giao nhiệm vụ phổ biến và hướng dẫn thực hiện các chính sách của nhà nước về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, là đầu mối trực tiếp nhận hồ sơ dự án của chủ đầu tư nước ngoài, tiếp nhận những kiến nghị và khiếu nại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo dõi, kiểm tra hoạt động của các đơn vị này. Các nhà đầu tư nước ngoài đến làm việc trực tiếp với Sở Kế hoạch và Đầu tư. Các mối quan hệ của dự án cần giải quyết với các ngành trong tỉnh Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ thay mặt các doanh nghiệp nước ngoài giải quyết. * Đưa ra một số danh mục cụ thể những dự án được khuyến khích phù hợp với điều kiện của tỉnh. - Sản xuất, chế biến nuôi trồng nông, lâm sản. - Sản xuất thiết bị phụ tùng máy nông nghiệp, thiết bị tưới tiêu. - Sản xuất các loại dược phẩm, thiết bị y tế. - Sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng nhẹ. - Vận tải công cộng. - Xây dựng cải tạo cầu đường bộ. - Xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng của các khu công nghiệp, khu chế xuất. - Sản xuất phụ tùng ô tô, xe máy, lắp ráp thiết bị. - Sản xuất linh kiện điện tử, công nghệ tin học. * Có những chính sách khuyến khích đầu tư thích hợp. Đây thực sự là một đòn bẩy kinh tế có hiệu quả. Một chính sách thuế cởi mở với thuế suất thấp, giá thuê đất thấp,... sẽ làm chi phí tư bản thấp đi và như vậy trong điều kiện bình thường sẽ đem lại lợi ích cao hơn cho nhà đầu tư. Vì vậy đây là công cụ lợi hại để tỉnh sử dụng trong cạnh tranh trên thị trường đầu tư. 1.3. Chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng của tỉnh cũng là một biện pháp thu hút dầu tư nước ngoài. Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành sản phẩm mà còn hạn chế được các rủi ro trong đầu tư. Nhất là trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cánh mạng khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một môi trường cơ sở hạ tầng thích hợp. Ngay cả công nghệ loại trung bình tiên tiến cũng đòi hỏi một kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại như giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, thông tin liên lạc kịp thời thuận lợi. Chính vì thế mà các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới hệ thống cơ sở hạ tầng trong tỉnh. Một số vấn đề nổi cộm trong giao thông ở Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng là mạng lưới giao thông công cộng chưa phát triển. Các phương tiện đi lại chủ yếu là xe đạp và xe gắn máy dễ gây ùn tắc giao thông, tai nạn, gây ô nhiễm môi trường. Tuy trong tỉnh đã có một doanh nghiệp FDI và nhiều doanh nghiệp trong nước hoạt động trong lĩnh vực vận tải du lịch nhưng chưa có doanh nghiệp nào chú trọng đến phát triển giao thông công cộng, do đó trong tỉnh vẫn chưa có mạng lưới xe buýt, chưa có hệ thống taxi. Tỉnh nên chuẩn bị cơ sở hạ tầng tốt trước khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài bằng việc xây dựng hệ thống giao thông, kho bãi, điện nước, bưu chính viễn thông...Tuy nhiên việc xây dựng hệ thống giao thông đủ tốt đòi hỏi một lượng kinh phí lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên tư bản tư nhân không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Điều này đòi hỏi nước chủ nhà phải tự gánh vác. Thế nhưng tiềm lực tài chính của nhà nước không cho phép dồn toàn lực vào để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và toàn diện. Do đó mỗi địa phương phải giải quyết linh hoạt bằng cách bố trí nguồn ngân sách hàng năm cho xây dựng cơ bản kết hợp với thu hút các nguồn vốn bên ngoài (tỉnh có thể huy động nguồn vốn ODA hoặc tìm kiếm các hợp đồng BOT, BTO, BT với các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào tỉnh). Hệ thống kho bãi với số lượng quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất và phân phối của nhà đầu tư nước ngoài cũng phải được đưa vào quy hoạch xây dựng tỉnh trong 5 năm 2001 – 2005. Với các khu, cụm công nghiệp, cần thiết phải có một công ty phát triển hạ tầng cơ sở có trách nhiệm lập kế hoạch chi tiết trong khu công nghiệp (sử dụng đất đai, nguồn cung cấp điện nước, quy hoạch ngành nghề, phương án xử lý chất thải để trình cơ quan có thẩm quyền...). Giao cho ngành điện thực hiện chính sách ưu tiên cung cấp điện 24/24 giờ (trừ các trường hợp bất khả kháng) cho sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với những dự án ở vị trí quá xa mà ngành điện, nước chưa thể đáp ứng dịch vụ được thì căn cứ hiệu quả kinh tế xã hội của dự án, tỉnh xem xét hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách, chỉ đạo cho ngành điện, nước từng bước thực hiện việc xây dựng các trạm cung ứng điện, nước trong toàn tỉnh theo quy hoạch được duyệt. 2. Đa dạng hoá lĩnh vực, hình thức, đối tác đầu tư 2.1. Hình thức đầu tư. Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài quy định các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức. Trong thời kỳ đầu, nhìn chung trong cả nước hình thức doanh nghiệp liên doanh được lựa chọn nhiều vì đối tác nước ngoài chưa thông hiểu tình hình Việt Nam, họ cần sự hỗ trợ và kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp trong nước. Về phía Việt Nam, ta cũng rất quan tâm và mong muốn phát triển hình thức này nhằm mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương còn hạn chế về vốn, kiến thức kinh doanh, kinh nghiệm quản lý nên trong các liên doanh thường có tình trạng phía đối tác nước ngoài tìm cách đặt doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ để gây sức ép nhằm mua lại hết cổ phần của phía Việt Nam. Việc lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao cho dự án. Tỉnh nên có kiến nghị với quốc hội bổ sung một số hình thức đầu tư khác cho phù hợp với các ngành kinh doanh đặc thù : ngân hàng, bảo hiểm… Trong các ngành nông nghiệp cũng nên tổ chức doanh nghiệp dưới dạng tổ hợp sản xuất kinh doanh, đưa vùng quy hoạch nguyên liệu vào việc thực hiện dự án. 2.2. Lĩnh vực đầu tư Trong qúa trình thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nhu cầu về vốn, công nghệ, đội ngũ lao động có tay nghề cao, kiến thức quản lý tiên tiến là rất lớn. Do đó cần xác định thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm bổ xung nguồn vốn để phát triển mà nhu cầu không kém phần quan trọng là tiếp nhận được kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến. Thời gian đầu thu hút vốn đầu tư thường có tình trạng đầu tư tràn lan vào các ngành nghề vì đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì mục đích của họ là tìm kiếm lợi nhuận nên chỗ nào, ngành nào có khả năng thu lợi nhuận cao thì họ mới đầu tư. Đối với nước chủ nhà mới chỉ chú trọng vào vốn, không để ý đến tình trạng cơ cấu vốn FDI không cân đối. Do mục đích tìm kiếm lợi ích tức thời, khai thác triệt để công suất tạo ra lợi nhuận lớn nên sự gắn kết của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các doanh nghiệp khác trong tỉnh là không vững chắc và lâu dài. Tỉnh Hải Dương cần chủ động giới thiệu và thu hút vốn đầu tư vào các ngành nghề được khuyến khích như ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đồng thời chú ý đến những dự án có khả năng thu hút nhiều lao động.Việc khuyến khích đầu tư không nên tập trung vào một ngành, một lĩnh vực, một địa bàn trong tỉnh. Chú ý tăng thêm những điều kiện khuyến khích (về vốn, điện nước, thuế) cho những dự án đầu tư vào địa bàn khó khăn trong tỉnh, vào những lĩnh vực chưa được phát triển. 2.3. Đối tác đầu tư Việc lựa đối tác đầu tư nước ngoài là cần thiết vì nếu không lựa chọn kỹ có thể gặp phải những đôí tác nước ngoài không có vốn, chỉ đăng ký dự án sau đó chuyển cho đối tác khác hoặc bỏ dở dự án. Để việc lựa chọn được chính xác thì khâu thẩm định dự án phải được thực hiện theo đúng thủ tục, quy trình. Phòng thẩm định dự án đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư phải nghiên cứu phân tích thông tin chính xác về nhà đầu tư, nhất là những thông tin phản ánh tình trạng tài chính của chủ đầu tư, đồng thời có quan hệ rộng rãi với các công ty tư vấn đầu tư. Chính bản thân các đối tác trong nước cũng phải bằng mọi cách tìm hiểu và chú ý những bước thử nghiệm trong quan hệ với đối tác nước ngoài. Trong điều kiện cụ thể của tỉnh Hải Dương cần kết hợp cả hai khả năng: trước mắt có thể quan hệ rộng rãi với các công ty lớn, vừa và nhỏ dưới các hình thức thích hợp song về lâu dài phải đặt trọng tâm vào các công ty xuyên quốc gia vì đó mới là những đối tác có vốn, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và nhìn chung chú ý tới giữ gìn uy tín doanh nghiệp. Việc lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cũng cần chú ý lựa chọn đối tác cho từng ngành, từng lĩnh vực. Phương án tốt nhất là kêu gọi những nhà đầu tư đầu đàn trong mỗi lĩnh vực. Song nếu trước mắt không đạt được yêu cầu đó thì vẫn cần tranh thủ cả những công ty nhỏ làm bước đệm hướng tới mục tiêu trên. Một cách làm để đa phương hoá đối tác đầu tư đó là tạo ra các đối tác trong nước có năng lực kinh doanh, biết làm ăn với người nước ngoài. Có thể lấy ví dụ nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất muốn làm ăn với người Nhật vì họ là người có năng lực kinh doanh. Thực tiễn những năm qua ở nước ta cho thấy trong những doanh nghiệp liên doanh nếu đối tác Việt Nam có năng lực, có vốn góp vào liên doanh thì thường thu hút thêm vốn nước ngoài, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại ở những liên doanh mà đối tác Việt Nam còn yếu ở khâu chuyên môn nghiệp vụ dễ dẫn tới tình trạng làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, thậm chí bị thu hồi giấy phép đầu tư. Để trở thành một đối tác có uy tín trong nước, bản thân các doanh nghiệp phải tự vươn lên bằng chính các nguồn lực của mình kết hợp với sự giúp đỡ, hỗ trợ của nhà nước. Việc thiết lập các tập đoàn kinh tế là một chủ trương đúng trong đó có khía cạnh tạo dựng các đối tác trong tỉnh có đủ tầm cỡ để liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Song cần phải có quy hoạch tổng thể về vùng, lãnh thổ, xây dựng kết cấu hạ tầng, môi trường pháp lý…đồng thời lựa chọn những đối tác làm ăn có hiệu quả trong tỉnh, tránh tình trạng cho phép các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện tham gia làm ăn với đối tác nước ngoài nhất là trong những dự án quan trọng. Chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước ta nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng là sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy, sẵn sàng tiếp nhận các dự án đầu tư trong các lĩnh vực được nhà nước cho phép của bất cứ tập đoàn, công ty, cá nhân nước ngoài. Mấy năm gần đây, số lượng Việt kiều về Hải Dương tìm hiểu điều kiện đầu tư tăng lên. Tuy quy mô chưa được cao nhưng tỉnh nên tập hợp các nhóm Việt kiều lại, hình thành các doanh nghiệp liên doanh. Tỉnh có thể hỗ trợ bằng cách đứng ra làm trung gian đàm phán, cung cấp thông tin giữa các tập đoàn với nhau. Nếu làm tốt thì cũng có thể thành lập được thêm hai dự án mới quy mô vốn 2 triệu USD. 3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư Bên cạnh việc hoạch định và thực thi những chính sách khuyến khích đầu tư, một yếu tố quan trọng khác là thực hiện những biện pháp quan trọng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thích hợp. Xúc tiến đầu tư là thực hiện những biện pháp quan trọng để thu hút đầu tư. Trong thời gian qua, tỉnh Hải Dương cũng đã có một vài hoạt động trong lĩnh vực này: mời các đoàn đại biểu nước ngoài (thành phố Bắc Hải, Trung Quốc…) sang thăm và tìm hiểu môi trường đầu tư ở Hải Dương…Tỉnh có thể tiếp tục các hoạt động này theo hướng: * Triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án, đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ nguồn. Chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư trọng điểm, lựa chọn mời một vài tập đoàn có uy tín trong ngành, lĩnh vực đó vào để đàm phán tư vấn, thậm chí tham gia đầu tư dự án. * Bố trí nguồn tài chính trong ngân sách hàng năm cho hoạt động xúc tiến đầu tư. Tăng cường nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn công ty lớn để có chính sách phù hợp, nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để học hỏi và có đối sách thích hợp, giải quyết những tình huống đầu tư cụ thể trong tỉnh. * Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại tại các diễn đàn hội thảo được tổ chức ở trong và ngoài nước. Kết hợp với các tỉnh trong khu vực tổ chức các buổi giới thiệu về tình hình điều kiện đầu tư của tỉnh. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá về đầu tư. Các phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương do tỉnh quản lý ( báo Hải Dương, đài phát thanh và truyền hình tỉnh) có kế hoạch tuyên truyền toàn diện, sâu rộng về đầu tư trong và ngoài nước tại các địa phương nhằm nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của người dân về đường lối chính sách của Đảng đối với thành phần kinh tế quan trọng này. Hoàn thiện xây dựng trang Web của tỉnh và khẩn trương đưa vào hoạt động giới thiệu trên mạng Intenet nhằm hỗ trợ công tác xúc tiến vận động đầu tư, chủ động hơn trong việc tìm kiếm các nhà đầu tư. * Tỉnh cử người tham gia cùng các đoàn xúc tiến vận động đầu tư của chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để vận động thu hút ở nước ngoài. Lập đoàn xúc tiến vận động đầu tư với các cơ quan đại diện ngoại giao, đại diện thương mại của các nước tại thủ đô Hà Nội nhằm thiết lập mối quan hệ giới thiệu tiềm năng, cơ hội đầu tư, các chính sách ưu đãi của tỉnh đối với nhà đầu tư để thông qua các cơ quan nói trên giới thiệu các nhà đầu tư của nước họ vào Việt Nam. * Tổ chức các cuộc gặp mặt hàng năm với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Có tuyên dương, khen thưởng đối với những doanh nghiệp hoạt động tốt đồng thời có biện pháp xử lý thích hợp với những doanh nghiệp vi phạm pháp luật Việt Nam. Thưởng 1 lần cho tổ chức cá nhân có công giới thiệu dự án đầu tư vào Hải Dương (với điều kiện có sự xác nhận của chủ đầu tư và cơ quan cấp phép đầu tư) sau khi dự án chính thức đi vào hoạt động từ nguồn ngân sách và từ tiền dư bồi thường giải phóng mặt bằng mà các đầu tư đã chuyển trả cho tỉnh với mức thưởng như sau: Mức thưởng (tr.đồng ) Quy mô dự án đầu tư (tr.USD ) 5 Dưới 2 10 Từ 2 đến 5 20 Trên 5 4. Tăng cường vai trò của nhà nước trong thu hút đầu tư Lĩnh vực đầu tư nước ngoài là lĩnh vực có quan hệ đến cả đời sống kinh tế xã hội, chính trị an ninh quốc gia, văn hoá tư tưởng.Vì vậy tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ có tầm quan trọng đặc biệt. Vấn đề đặt ra là tăng cường như thế nào để mang lại hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sự lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện ở sự định hướng của mục tiêu chiến lược. Điều đó không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà cả lâu dài. Cùng với sự lãnh đạo của Đảng là sự tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước các cấp. Trên thực tế các nhà đầu tư nước ngoài phải làm việc trực tiếp với chính quyền địa phương. Mọi việc làm của nhà nước đều có tính quyết định trực tiếp hay gián tiếp đến lợi ích của các nhà đầu tư và do đó quyết định đến hoạt động đầu tư của họ. Một thực tế của nước ta là các quan chức nhà nước ở địa phương và cả trung ương quan liêu, ăn hối lộ, kém năng động là trở lực lớn nhất đối với thu hút đầu tư. Bởi vì các nhà đầu tư từ nơi xa đến, dù họ đã nghiên cứu kỹ Luật đầu tư nước ngoài và các luật có liên quan xong họ không tránh khỏi những bỡ ngỡ khi làm việc trực tiếp với các quan chức nhà nước sở tại mà nhiều khi các quan chức này có tính quyết định đối với việc thành công hay không dự án đầu tư của họ. Từ thực tế đó, tỉnh Hải Dương cần nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài theo hướng tinh giản, gọn nhẹ nhưng đủ khả năng quản lý các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tỉnh cần tập trung vào hướng dẫn, cung cấp thông tin tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, không nên can thiệp quá sâu vào quản lý kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên phải thường xuyên kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp này để ngăn chặn hiện tượng các chủ đầu tư nước ngoài lợi dụng sở hở yếu kém của phía Việt Nam để thu lợi bất hợp pháp. Việc kiểm tra định kỳ, kiểm tra chuyên ngành phải thông báo trước ít nhất 7 ngày cho các doanh nghiệp biết và thực hiện không quá một lần trong năm, mỗi đợt kéo dài không quá 5 ngày. Sau 30 ngày kết thúc đợt kiểm tra, cơ quan kiểm tra phải gửi báo cáo kết quả cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các cơ quan có liên quan tạo thành nền nếp trong báo cáo. Nếu doanh nghiệp có sai phạm phải thông báo cho doanh nghiệp biết và kiến nghị lên các cơ quan chức năng có biện pháp giải quyết. Thực hiện chỉ đạo tại chỉ thị 03/2001/CT – BKH ngày 04/10/01 về việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê đầu tư trực tiếp nước ngoài, Sở Kế hoạch và Đầu tư cần nghiêm khắc yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh nhanh chóng nộp các báo cáo : - Báo cáo thống kê định kỳ theo quy định tại thông tư số 01/LB ngày 30/03/97. - Báo cáo tài chính hàng năm đã được kiểm toán bởi công ty Kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt Nam trong vòng 3 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính của doanh nghiệp. - Báo cáo quyết toán công trình (sau khi hoàn thành xây dựng) và báo cáo thực hiện vốn đầu tư. Cùng với việc nhận báo cáo Sở cũng cần kiểm tra tính hợp lý chính xác của các báo cáo gửi về. Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên phân loại các dự án đầu tư đã được cấp giấy phép đầu tư để có biện pháp thích hợp kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. - Đối với các dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh các ngành và uỷ ban nhân dân tỉnh trong phạm vi thẩm quyền của mình cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích doanh nghiệp hoạt động tốt, tiếp tục phát triển đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thủ tục hải quan, nghĩa vụ thuế. - Đối với dự án đang triển khai thực hiện các ngành và UBND tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác chuẩn bị đầu tư, tìm hiểu thị truờng, nhất là khâu đền bù giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản đưa doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. - Đối với các dự án chưa phát triển song xét thấy vẫn có khả năng thực hiện thì thúc đẩy việc triển khai trong một khoảng thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc kể cả điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án -Tăng cuờng phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong tỉnh (cục Thuế, sở Tài chính, sở Kế hoạch và Đầu tư…); phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan trong giải quyết các vấn đề phát sinh, duy trì việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài. 5. Công tác cán bộ Hiện nay cán bộ là yêú tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta nói chung và ở Hải Dương nói riêng. Phần lớn cán bộ trong liên doanh đều do Bộ, UBND tỉnh cử tuyển hầu như chưa được đào tạo trang thiết bị kiến thức cần thiết về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trình độ ngoại ngữ, chuyên môn yếu, ít thông hiểu pháp luật lại phải gánh vác một công việc khó khăn mới mẻ nên cán bộ của ta chưa biết kết hợp hợp tác và đấu tranh bảo vệ quyền lợi phía Việt Nam và người lao động Việt Nam trong doanh nghiệp, dẫn đến sơ hở, thua thiệt trong quá trình hợp tác đầu tư. Còn các cán bộ làm trong cơ quan quản lý đầu tư của tỉnh còn ít, số người có trình độ cao được đào tạo chính quy trong nước và ngoài nước lại càng ít. Hơn nữa từ trước đến nay vẫn có thói quen làm việc quan liêu, cửa quyền với các nhà đầu tư trong nước nhưng nay không thể áp dụng thói quen đó với nhà đầu tư nước ngoài. Cả về phía cán bộ trong liên doanh và trong cơ quan quản lý đều có những yếu kém nhất định. Trong khi chờ đơị chính phủ ban hành một quy chế về tiêu chuẩn cán bộ trong công tác đầu tư nước ngoài, tỉnh có thể xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn áp dụng trong tỉnh trong đó có thể đề cập đến một số vấn đề sau: * Có quy định về đạo đức, chính trị, chuyên môn của cán bộ Việt Nam tham gia trong hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh và quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trách nhiệm, quyền lợi của những người này với những người được cử làm đại diện cho phía Việt Nam trong liên doanh phải đạt tiêu chuẩn cao về cả ba yêú tố trên nhưng ý thức chính trị phải được đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải xác định mình làm việc trong liên doanh trước hết là đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của phía Việt Nam, phải thể hiện được tư tưởng chỉ đạo của Đảng vào hoạt động của liên doanh. Muốn làm được thế người cán bộ phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ để có thể kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, ngăn chặn được những hành vi cố tình làm sai pháp luật Việt Nam vốn rất tinh vi của phía nứơc ngoài. * Tổ chức đào tạo theo nhiều hình thức đối với cán bộ làm công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài,thường xuyên tổ chức tập huấn về nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay các văn bản luật còn có nhiều thay đổi để phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm hiểu và thực thi luật. Vì thế cán bộ Việt Nam phải là những người nắm vững pháp luật Việt Nam để có thể hướng dẫn các nhà đâù tư nước ngoài thực hiện đúng. * Xây dựng đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làmviệc cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. 6. Một số biện pháp hỗ trợ cụ thể của tỉnh - Nhằm hỗ trợ thông tin quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương cho các doanh nghiệp, miễn phí quảng cáo, thông tin với các doanh nghiệp mới được thành lập. - Đảm bảo ưu tiên cấp điện 24/24 giờ cho sản xuất của các doanh nghiệp (trừ trường hợp bất khả kháng). - Đối với những dự án ở vị trí quá xa mà ngành điện, nước chưa đáp ứng dịch vụ thì căn cứ hiệu quả kinh tế xã hội của dự án, tỉnh xem xét hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách. - Đảm bảo cung cấp đủ lao động đạt tiêu chuẩn tay nghề tới bậc 2 (theo tiêu chuẩn Việt Nam). Nhà đầu tư không mất tiền đào tạo nghề cho người lao động. - áp dụng tính giá thuê đất ở mức thấp nhất trong khung Nhà nước quy định, không tính đến các hệ số (hệ số bằng 1): vị trí, kết cấu hạ tầng, ngành nghề nêu tại Quyết định 189/2000/QĐ-BTC ngày14/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về việc ban hành Bản quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - áp dụng miễn tiền thuê đất phải nộp kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành đưa dự án vào hoạt động như sau: + 15 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, dự án thuộc Danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư theo Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ. + 11 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, dự án thuộc Danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định 24/2000/NĐ - CP ngày 31/7/2000 của Chính Phủ. - Hỗ trợ 100% chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB), rà phá bom mìn, vật nổ cho các dự án đầu tư nước ngoài bằng cách sẽ trừ dần vào tiền thuê đất hàng năm của doanh nghiệp (nhà đầu tư trả trước phần chi phí này). - Đối với những dự án mà sau khi đàm phán nhà đầu tư chỉ đồng ý ở mức bồi thường thấp hơn, không đủ để chi trả bồi thường GPMB, song dự án có lợi ích lớn về kinh tế - xã hội, sẽ được tỉnh xem xét chấp nhận và hỗ trợ bồi thường GPMB từ nguồn vốn ngân sách. - Đối với các khu công nghiệp có chính sách ưu đãi riêng về giá thuê đất, về thuế và hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào triển khai dự án tại các khu công nghiệp. Thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. - Thực hiện quy trình bàn giao đất cho các nhà đầu tư, ngay sau khi có quyết định thu hồi đất và cho doanh nghiệp thuê đất, các phần việc tiếp theo: hoàn thành phương án bồi thường GPMB để Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt, rút tiền chi trả cho các hộ gia đình có đất dành cho dự án đầu tư sẽ tiếp tục được triển khai sau đó, đảm bảo trong vòng 30 ngày kể từ khi Sở Địa Chính triển khai xác định mốc giới và làm các thủ tục trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Quyết định thu hồi đất và cho doanh nghiệp thuê đất, nhà đầu tư được nhận mặt bằng để triển khai dự án. - Cho phép Hội đồng bồi thường GPMB các huyện nơi có dự án đầu tư, được tạm ứng tiền bồi thường GPMB mà nhà đầu tư đã chuyển trả cho tỉnh, để chi trả trước một phần cho các hộ gia đình có đất dành cho dự án. Sau khi phương án bồi thường được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt chính thức, Sở Tài chính Vật giá có trách nhiệm chuyển tiền theo phương án đã duyệt. - Phối hợp với các nhà đầu tư để tạo ra các vùng nguyên liệu, nhất là lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất công nghiệp tại các doanh nghiệp, kể cả chủ trương cho các nhà đầu tư trực tiếp thuê đất nông nghiệp của nông dân theo thời vụ. Kết luận Hải Dương là tỉnh có nhiều thuận lợi trong qúa trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tỉnh đã tận dụng được những thuận lợi về giao thông, địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực dồi dào trong tỉnh. Có thể nói tỉnh đã có một chính sách đầu tư nước ngoài hết sức ưu đãi và đã thực sự tạo ra hành lang thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Với phạm vi nghiên cứu đề ra, luận văn “Một số biện pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương” đã hoàn thành nhiệm vụ cụ thể : 1. Đã trình bày về địa lý tự nhiên, kinh tế và nhân văn của tỉnh, những thuận lợi và khó khăn của tỉnh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sự cần thiết thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế của tỉnh. 2. Phân tích được thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương trong đó làm rõ những chính sách, biện pháp thu hút FDI của tỉnh Hải Dương, những kết quả đạt được trong thời kỳ 1990 – 2001. 3. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tỉnh rút ra một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của tỉnh, khắc phục những hạn chế, tồn tại, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Đầu tư nước ngoài. Vũ Chí Lộc – NXB Giáo dục năm 1997 2. Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Mai Ngọc Cường- NXB Chính trị quốc gia năm 2000 3. Đầu tư quốc tế. Phùng Xuân Nhạ - NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 2001 4. Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam Đặng Kim Nhung- NXB Nông nghiệp 1994 Tư liệu vùng đồng bằng sông Hồng năm1997-1998 Lê Quý An - Đường Hồng Dật- NXB Khoa học và kỹ thuật 1998 Báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương. Báo Đầu tư (năm 1999-2000) Báo Hải Dương ngày nay (năm 2001). Báo Người Hải Dương (năm 2001). Niên giám Thống kê tỉnh Hải Dương năm 2000. Cục Thống kê tỉnh Hải Dương – NXB Thống kê 2000. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và hướng dẫn thi hành – NXB Chính trị quốc gia năm 2000. Nghị định số 24/2000/ND_CP quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông tư số 13/2001/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Văn kiện đại hội Đảng VIII

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van tot nghiep-Dao.doc
  • docBia.doc
  • docDOA.DOC
Tài liệu liên quan