Ngày nay, ở hầu hết cá các quốc gia từ các nền kinh tế phát triển mạnh như Đức, Mỹ, Nhật Bản, EU, các nền kinh tế công nghiệp mới như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore đến các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Ấn độ và một số quốc gia Châu Phi khác đều đồng ý với quan điểm cho rằng DNN&V đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Vai trò này không chỉ thể hiện ở đóng góp của khu vực DNN&V vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, tăng nguồn hàng xuất khẩu mà vai trò của khu vực DNN&V còn được khẳng định thông qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là lực lượng bổ sung quan trọng các lỗ hổng kinh tế, với vai trò là các doanh nghiệp vệ tinh góp phần cùng các doanh nghiệp lớn đưa nền kinh tế quốc dân ngày một lớn mạnh hơn trên trường quốc tế.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và khu vực DNN&V nói riêng, Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã tiến hành cải cách mở cửa nền kinh tế với việc ban hành nhiều bộ luật quan trọng như Luật Thương mại (1997), Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp (2000). với mục tiêu tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng của tất cả các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong xã hội nhằm phát huy tối đa các nguồn lực đưa đất nước ta phát triển nhanh chóng, bền vững theo định hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Với sự ra đời của Nghị định 90 và Cục Phát triển DNN&V trực thuộc Bộ KH&ĐT, Chính phủ đã khẳng định Phát triển DNN&V là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt chủ trương của Nhà nước trong việc khuyến khích DNN&V tăng cường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNN&V liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Thông qua các chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu, trợ giúp một phần chi phí cho DNN&V khảo sát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội trợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường ở nước ngoài. (Điều 10 Nghị định 90/2001/NĐ-CP) cho thấy Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh hỗ trợ DNN&V tham gia các hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường và từng bước trở đưa DNN&V trở thành chủ thể quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
97 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp nhỏ và vừa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu phải dành 35% tín dụng cho các DNN&V vay. Đối với một số tổ chức trung gian tài chính khác như công ty tài chính và đầu tư, công ty bảo hiểm cũng là các đối tượng bị bắt buộc phải cung cấp tín dụng cho các DNN&V. Ngoài ra, Ngân hàng TW Hàn Quốc có thể thực hiện việc tài trợ hoặc tái chiết khấu các cho các khoản vay đó. ở Indonesia, từ năm 1990, Chính phủ cũng áp dụng các biện pháp quy định bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại phải dành ít nhất 20% tổng số tín dụng để cho các DNN&V vay.
Về lâu dài, nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế trong nước một cách bền vững và ổn định là nguồn vốn trong nước. Việc huy động vốn trong nước được thực hiện thông qua đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, trong đó đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh là một hướng quan trọng, tạo ra hiệu quả trực tiếp cho sự tăng trưởng kinh tế của mỗi đất nước. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước là người đầu tư chủ yếu. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chủ yếu giữ vai trò là người điều hành nền kinh tế thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, mà trực tiếp là chi đầu tư của nhà nước. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước được xem như một công cụ nhằm khuyến khích, tạo điều kiện, môi trường và định hướng đầu tư cho các nguồn vốn khác, mà trước hết là đầu tư cho việc xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng.
Bên cạnh đó, đầu tư Nhà nước là đầu tư có tính chất châm ngòi. Ngoài việc đầu tư vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, Nhà nước tập trung đầu tư vào các nganh mũi nhọn , những doanh nghiệp có tầm quan trọng. Kết quả là tạo ra sự phát triển của một khu tập trung kinh tế lớn, kéo theo sự tạo lập và phát triển của hàng loạt các doanh nghiệp mà chủ yếu là các DNN&V có tính chất là doanh nghiệp vệ tinh xung quanh.
II. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu cho các DNN&V bằng biện pháp tàI chính.
1. Điều kiện để thực hiện hiệu quả các biện pháp tài chính hỗ trợ xuất khẩu cho DNN&V.
Các giải pháp tài chính hỗ trợ xuất khẩu cho DNN&V sẽ thực sự phát huy tác dụng trong việc khuyến khích, định hướng và thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp này nếu chúng được thực hiện trên cơ sở có được một số điều kiện thuận lợi vềáỵư ổn định kinh tế xã hội, khung chính sách vĩ mô hợp lý…
1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội.
Một trong những điều kiện cơ bản để người dân bỏ vốn đầu tư trực tiếp tiến hành sản xuất kinh doanh là sự ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó ổn định về tài chính tiền tệ là rất quan trọng. Nếu lạm phát ở mức độ cao và không có khả năng và không có khả năng kiểm soát được sẽ làm tăng rủi ro trong đầu tư và do đó, dân chúng sẽ không dám bỏ vốn thành lập doanh nghiệp.
Ngược lại, duy trì được ổn định xã hội sẽ tạo niềm tin cho dân chúng vào chính sách phát triển lâu dài của nền kinh tế nhiều thành phần. Sự tin tưởng vào tương lai là điều kiện tiên quyết cho quyết định đầu tư dài hạn của dân chúng. Vì vậy, cần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để tăng sự tin tưởng của dân chúng và khi đó sự khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu thông qua các giải pháp tài chính mới đạt được hiệu quả cao.
1.2. Kết hợp đồng bộ các giải pháp tài chính với công cụ quản lý vĩ mô.
Để thực hiện các giải pháp tài chính hỗ trợ xuất khẩu DNN&V cần kết hợp đồng bộ với việc thực hiện các công cụ quản lý vĩ mô khác như hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, hệ thống quản lý hành chính, chính sách xuất khẩu…
Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý đầy đủ để khuyến khích và bảo vệ các DNN&V. Ngoài việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nói chung, cần ban hành các văn bản quy định các tiêu thức, quyền và nghĩa vụ của các DNN&V để làm căn cứ thực hiện các giải pháp tài chính hỗ trợ xuất khẩu cho DNN&V. Mặt khác cần sớm ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền để thực hiện cạnh tranh lành mạnh, và đồng thời là căn cứ quan trọng để xem xét hỗ cho các DNN&V vượt qua khó khăn, tăng cường khả năng cạnh tranh, xúc tiến xuất khẩu sang các thị trường mới.
Xây dựng định hướng xuất khẩu, chiến lược phát triển DNN&V, và chương trình tổng thể hỗ trợ phát triển DNN&V làm cơ sở để xây dựng chính sách, phối hợp đồng bộ các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu cho DNN&V và đặc biệt là phối hợp với các chương trình, công cụ vĩ mô khác để thực hiện thành công chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
Bên cạnh đó, các giải pháp tài chính hỗ trợ xuất khẩu DNN&V chỉ đem lại hiệu quả thực sự khi đánh giá đúng đắn tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu và tình hình tài chính của các DNN&V. Vì vậy, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các DNN&V trong việc thực hiện pháp luật, trong đó cần có cơ chế, chính sách bắt buộc các DNN&V thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, thống kê, báo cáo tài chính của Nhà nước.
1.3. Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý Nhà nước, tổ chức đại diện DNN&V.
Theo đề xuất tại hội nghị Ban tư vấn dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” do tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc UNIDO và Bộ kế hoạch đầu tư tổ chức năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90 /2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNN&V. Thực hiện nghị định này, các tổ chức xúc tiến hỗ trợ DNN&V như Cục phát triển DNN&V, Hội đồng khuyến khích phát triển DNN&V, Trung tâm hỗ trợ kĩ thuật DNN&V đã được thành lập. Cục phát triển DNN&V là đơn vị trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư có chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến hỗ trợ DNN&V, Hội đồng khuyến khích phát triển DNN&V làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tuớng Chính phủ về cơ chế chính sách khuyến khích phát triển DNN&V, Trung tâm hỗ trợ kĩ thuật DNN&V thuộc Cục phát triển DNN&V, có chức năng tư vấn cho Cục phát triển DNN&V và là đầu mối tư vấn về công nghệ và kĩ thuật, cải tiến trang thiết bị, hướng dẫn quản lý kĩ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị, tạo điều kiện tiếp cận công nghệ trang thiết bị mới, phục vụ hoạt động sản xuất xuất khẩu cho DNN&V.
Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến khích việc thành lập và củng cố các tổ chức hỗ trợ phát triển nói chung và hỗ trợ xuất khẩu nói riêng cho DNN&V thuộc các cơ quan, tổ chức nhằm thực hiện chương trình trợ giúp xuất khẩu cho DNN&V một cách thiết thực và có hiệu quả, khắc phục tình trạng vừa chồng chéo vừa phân tán vừa buông lỏng quản lí.
1.4. Các điều kiện khác
Cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển các DNN&V làm cơ sở cho việc cụ thể hoá thành hệ thống đồng bộ các chính sách và cơ chế quản lí, hỗ trợ DNN&V cần có những chương trình phổ biến sâu rộng về pháp luật, triển khai chương trình hỗ trợ các DNN&V theo chuyên đề : Kiến thức quản trị doanh nghiệp, pháp luật tài chính, kế toán để họ đủ khả năng đứng vững trong cơ chế thị trường, tiếp thu tốt các chương trình tài trợ, ưu đãi của Nhà nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
Cần phải cụ thể hoá, hoàn thiện Luật doanh nghiệp, Luật phá sản, Luật khuyến khích đầu tư trong nước… cho phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương. Luật doanh nghiệp tuy mới ra đời nhưng đã có những bước hoàn chỉnh nhất định, tạo sự thông thoáng cho việc thành lập và hoạt động sản xuất kinh doanh tuy nhiên hiện nay đã bộc lộ những thiếu sót của nó như : Thiếu chế tài thành lập doanh nghiệp và quản lí hoạt động của doanh nghiệp sau đăng kí, hướng dẫn thực hiện còn nhiều chỗ trùng lặp cần hoàn thiện thêm đảm bảo vừa khuyến khích kinh doanh, vừa có sự kiểm soát của Nhà nước.
Về tạo lập và mở rộng thị trường cho DNN&V, trách nhiệm chính là ở các doanh nghiệp. Các DNN&V phải tập trung vốn đổi mới công nghệ, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm thì mới mong cạnh tranh được trên thị trường kể cả trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, Nhà nước phải có chính sách, cơ chế hỗ trợ về thị trường cho các DNN&V. Nhà nước sẽ định hướng thị trường trong nước và khơi thông thị trường ngoài nước thông qua hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc kí kết các hợp đồng mua bán sẽ tạo điều kiện cho các DNN&V thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách thuận lợi hơn. Ngoài ra, các DNN&V phải phát triển hợp tác với các doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường. Việc tìm các thị trường “ngách” - đó là các thị trường mà các doanh nghiệp lớn không muốn đảm nhận do sản lượng ít, không có nhu cầu thường xuyên hoặc thị trường mà doanh nghiệp lớn chưa kịp đầu tư - là vấn đề DNN&V cần đặc biệt quan tâm.
Việc phát triển DNN&V vào các biện pháp thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, các DNN&V cần xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh hợp lí trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nâng cao năng lực về vốn, tăng tốc độ luân chuyển các loại vốn. Muốn vậy các DNN&V phải đổi mới phương thức thanh toán, đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu sản phẩm. Các DNN&V cần lựa chọn phương thức khấu hao tài sản cố định thích hợp, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đặc biệt là vốn nhàn rỗi trong dân cư. Để đẩy mạnh xuất khẩu, các DNN&V cũng cần chú trọng tới công tác nghiên cứu thị trường và marketing để thúc đẩy sản phẩm nhanh hơn, hiệu quả hơn.
2. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu cho các DNN&V Việt Nam bằng biện pháp tài chính.
Trong thời gian qua, hầu hết các chính sách, biện pháp tài chính của Chính Phủ được đưa ra với mục tiêu khuyến khích phát triển, tăng cường hiệu quả hoạt động xuất khẩu cho các DNN&V. Tuy nhiên, một mặt do các biện pháp này còn thiếu đồng bộ, việc thực hiện còn nhiều hạn chế, một mặt do năng lực sản xuất, xuất khẩu của các DNN&V còn yếu kém, do đó, các mục tiêu, tác động tích cực của các biện pháp tài chính chưa thực sự phát huy tác dụng. Trong thời gian tới, Chính phủ, các Bộ, Ngành, các tổ chức tài chính, cũng như chính bản thân các DNN&V cần có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa tác động của các biện pháp tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của các DNN&V. Các biện pháp này không chỉ dừng lại ở việc mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu của các DNN&V mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo lập uy tín của các DNN&V trên thị trường quốc tế và khu vực thông qua những chính sách, biện pháp hỗ trợ tài chính hợp lý.
2.1. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam
Trong thời gian qua, thuế đã được sử dụng để khuyến khích đầu tư và đã góp phần vào việc phát triển sản xuất, khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, hệ thống thuế của Việt Nam, đặc biệt là thuế VAT, hiện nay vẫn đang là một thách thức, chưa thực sự có tác động tích cực cho hoạt động sản xuất xuất khẩu hàng hoá cho các DNN&V. Hiện nay, thời gian miễn giảm thuế cho các DNN&V vẫn còn quá ngắn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuế suất và cách tính thuế vẫn còn phức tạp, thuế thấp nhưng lệ phí nhiều… Để giải quyết những bất cập đó và hoàn thiện hơn nữa biện pháp thuế hỗ trợ xuất khẩu cho các DNN&V cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp cần được đơn giản hoá và loại bỏ các trường hợp miễn giảm tiến tới thống nhất mức thuế suất đối với các loại hình doanh nghiệp nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các DNN&V, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hàng hoá. Điều này cũng sẽ xoá bỏ được tình trạng có hàng loạt các quy định về miễn giảm thuế trong các bộ luật như Luật đầu tư nuớc ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, loại bỏ cảm giác thuế không công bằng. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp nói chung và DNN&V nói riêng đều cho rằng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp như hiện nay là quá cao. Do đó, để có thể phát triển xuất khẩu cho các DNN&V, Chính phủ cần thực hiện chính sách ưu đãi thuế như giảm 50% thuế suất thuế GTGT cho nguyên liệu đầu vào sản xuất cho các DNN&V đang gặp khó khăn trong chuyển đổi cơ chế thuế. Mặt khác, để hỗ trợ phát triển DNN&V cần nghiên cứu áp dụng thuế luỹ tiến từng phần đối với thu nhập của các doanh nghiệp thay cho mức thuế thu nhập doanh nghiệp 32% hiện nay. Theo kiến nghị của Viện Khoa học tài chính, biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với DNN&V có thể được áp dụng như sau:
Bậc
Thu nhập/năm (Tr)
Thuế suất từng phần (%)
Số thuế phải nộp (Tr )
Số thuế luỹ tiến (Tr)
Thuế suất luỹ tiến
1
Dưới 100
20
20
20
20
2
100 – 300
25
50
70
23,3
3
300 – 500
30
60
130
26
4
500 – 1000
38
190
320
32
5
Trên 1000
32
32
Đây chính là giải pháp rất hiệu qủa cho các DNN&V hiện đang áp dụng tại Mỹ. áp dụng biểu thuế suất này sẽ góp phần kích thích đầu tư, thành lập doanh nghiệp và chủ yếu là DNN&V.
Cùng với việc nghiên cứu áp dụng thuế luỹ tiến từng phần đối với thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần hỗ trợ DNN&V thông qua các quy định về các khoản chi phí được trừ khi xác định lợi tức chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Về chi phí vay vốn, Nhà nước nên cho phép khấu trừ số chi phí vay vốn theo mức chi trả thực tế trên cơ sở có đầy đủ chứng từ. Về chi phí tiền lương, tiền công nên lấy tiền lương ghi trong hợp đồng lao động là căn cứ xác định chi phí tiền lương được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Các DNN&V rất thiếu vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu nhưng trên thực tế, các DNN&V lại rất khó tiếp cận với các khoản tín dụng ưu đãi có lãi suất thấp. Chính vì vậy, phần lớn các DNN&V ngoài quốc doanh thường bắt đầu công việc kinh doanh mở rộng quy mô sản xuất xuất khẩu bằng vốn tự có và các nguồn tín dụng không chính thức với lãi suất và chi phí rất cao, chính vì vậy Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp này bằng cách cho phép họ khấu trừ số chi phí vay vốn theo mức chi trả thực tế trên cơ sở có đầy đủ chứng từ, hợp đồng vay vốn.
ii) Thực hiện chính sách thuế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ có điều kiện hàng hóa của các DNN&V.
Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và đẩy mạnh tiến trình hội nhập với thế giới. Cùng với với việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), thực hiện hiệp định chung về ưu đãi thuế quan (CEFT) sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với các nước trong khu vực của các DNN&V. Trong tình hình đó, cần tiếp tục cải thiện hệ thống thuế cho với phù hợp với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng cường xuất khẩu. Thực hiện giảm bớt và tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan đối với tất cả các hàng hoá và dịch vụ (Trừ những hàng hoá và dịch vụ nằm trong danh mục cấm xuất khẩu) để đẩy mạnh tối đa hoạt động xuất khẩu, tạo điều kiện và thúc đẩy DNN&V tham gia hơn nữa vào hoạt động xuất khẩu.
Đối với thuế xuất khẩu: Bộ tài chính cần nghiên cứu, xem xét giảm tối đa các mặt hàng xuất khẩu phải chịu thuế xuất khẩu, chỉ áp dụng thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thô chưa qua chế biến để khuyến khích xuất khẩu hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu.
Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa Luật thuế GTGT, áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% và hoàn thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào đối với cả các đối tượng là hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh việc hoàn thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu của các DNN&V vì các doanh nghiệp này luôn trong tình trạng thiếu vốn để mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, thực hiện giải pháp này sẽ có khó khăn trong quản lý, đề nghị Chính phủ sớm có quy định, hướng dẫn cụ thể về các trường hợp và đơn vị được coi là xuất khẩu (ngoài xuất khẩu trực tiếp) để có cơ sở áp dụng thống nhất, minh bạch, tránh tùy tiện.
Cùng với việc thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, Nhà nước cần mở rộng diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt để thực hiện bảo hộ hợp lý đối với ngành sản xuất còn non trẻ cũng như đối với các DNN&V mới tham gia vào hoạt động xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thêm thời gian để củng cố, phát triển và tăng cường năng lực cạnh tranh, vươn ra thị trường nước ngoài. Khẳng định xuất khẩu là hướng phát triển kinh tế mũi nhọn, là thế mạnh trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các DNN&V xuất khẩu trực tiếp và thực hiên tốt các chính sách hỗ trợ xuất khẩu cho các DNN&V trong buổi đầu tham gia xuất khẩu còn nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các trang thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, công nghệ, nguyên liệu đầu vào… sẽ tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ cho các DNN&V, tăng cường năng lực sản xuất, giảm chi phí, giá cả và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu cho các DNN&V, tạo điều kiện cho hàng hoá của các DNN&V có thể đứng vững trên thị trường.
iii) Tăng cường và mở rộng diện ưu đãi thuế đối với các DNN&V mới thành lập.
Để khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt là các DNN&V, việc ưu đãi thuế vẫn là rất cần thiết với các nôi dung sau:
Một là ưu đãi miễn giảm thuế đối với tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập. Điều này cũng phù hợp với yêu cầu hiện nay là khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia thành lập doanh nghiệp mới. Việc miễn giảm thuế sẽ tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp mới thành lập, trong đó có các DNN&V, có điều kiện phát triển, tăng trưởng, từng bước tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu.
Hai là, ưu đãi miễn giảm thuế đối với tất cả các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề, khu vực Việt Nam có thế mạnh, được khuyến khích phát triển. Việc ưu đãi thuế như vậy sẽ góp phần đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu của các DNN&V, cho phép các doanh nghiệp này khai thác tối đa lợi thế so sánh của đất nước, cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế.
Ba là, ưu đãi miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp mới thành lập có sử dụng công nghệ hiện đại. ưu đãi này sẽ khuyến khích các DNN&V chú trọng đầu tư công nghệ mới, một yếu tố có tính chất quyết định tới chất lượng hàng hoá, từ đó ảnh hưởng sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá DNN&V khi tham gia xuất khẩu.
vi) Cho phép các DNN&V khấu hao nhanh tài sản cố định
Khấu hao tài sản cố định là một vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến nguồn vốn tái đầu tư cho sản xuất. Nếu mức khấu hao nhanh thì có thể thu hồi vấn nhanh còn ngược lai, mức khấu hao chậm thì thu hồi vốn chậm và có thể mất do hao mòn vô hình của tài sản cố định gây ra. Mặt khác, mức khấu hao cao hay thấp còn làm thay đổi số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong năm.
Về lý thuyết, tổng thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của doanh nghiệp trong một thời kì dài là không thay đổi khi áp dụng các phương pháp khẩu hao tài sản cố định khác nhau. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn, nếu doanh nghiệp khấu hao nhanh tài sản cố định thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thấp và do đó có thể tăng cường tích tụ vốn cho doanh nghiệp, đăc biệt có lợi cho DNN&V. Vì vậy, để hỗ trợ phát triển các DNN&V, Nhà nước nên cho phép các DNN&V thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định để một mặt, các DNN&V có điều kiện tích tụ tập trung vốn, mặt khác thu hồi nhanh vốn cố định sẽ giúp các DNN&V có điều kiện đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại phát triển sản xuất xuất khẩu.
2.2. Giải pháp tạo vốn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho hoạt động sản xuất xuất khẩu của các DNN&V.
2.2.1. Tạo vốn qua hình thức tín dụng.
Như đã trình bày trong các chương trước, đối với các DNN&V, nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh luôn được xem là hết sức bức xúc. Do vây, việc áp dụng các biện pháp tài chính, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng hỗ trợ vốn cho các DNN&V cần được xem là biện pháp trọng tâm trong thời gian tới. Để nâng cao tác động của chính sách này và thực sự khuyến khích DNN&V phát triển thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ, các Bộ ngành, tổ chức hỗ trợ nên xem xét thực hiện các giải pháp theo thứ tự ưu tiên sau:
Thứ nhất, đẩy nhanh việc thành lập và vận hành Quỹ bảo lãnh tín dụng vay vốn, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, giúp DNN&V có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, để Quỹ này hoạt động tốt cần có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của Quỹ với cơ quan tín dụng và doanh nghiệp cũng như làm rõ cơ chế quản lý điều hành quỹ để tránh tình trạng làm nảy sinh một loạt khâu trung gian giữa DNN&V và ngân hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch kinh doanh. Tháng 12 năm 2001, Chính phủ đã ban hành công văn về việc thành lập Quỹ này, nhưng đến nay Quỹ vẫn chưa được ra đời mà mới chỉ hoạt động thông qua Quỹ HTPT và thực sự vẫn là điều mong mỏi của các DNN&V. Để quỹ này có thể nhanh chóng ra đời và đi vào hoạt động, Chính phủ cần có các biện pháp tìm kiếm nguồn vốn cho Quỹ. Vốn có thể huy động từ các nguồn trợ cấp hoặc giúp đỡ của các tổ chức nước ngoài như JBIC (Nhật Bản), SNV, SDC, UNDP, ADB, …
Thứ hai, Điều chỉnh chính sách tài sản thế chấp đối với các khoản vay, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các DNN&V. Hiện nay, rất nhiều DNN&V nói chung và DNN&V hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng, không thể vay vốn ngân hàng vì không có tài sản thế chấp. Do đó, các ngân hàng đã áp dụng cho doanh nghiệp dùng tài sản được hình thành từ các khoản vay, hoặc dùng hàng hoá sản xuất xuất khẩu làm tài sản thế chấp. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn không thể đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng về tài sản thế chấp. Trong những trường hợp nhất định, các ngân hàng và giá trị của các dự án kinh doanh tốt để cho vay và cùng với doanh nghiệp giám sát việc thực hiện sản xuất, kinh doanh và hợp đồng xuất khẩu đã kí kết để giảm thiểu rủi ro cho các khoản tín dụng, đồng thời doanh nghiệp vẫn có vốn để đầu tư, sản xuất, thực hiện đúng hợp đồng với bên nước ngoài. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ coi bản kế hoạch kinh doanh tốt đó như một tài sản thế chấp, thay cho tài sản khác.
Thứ ba, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua (Cho thuê tài chính). Mở rộng hình thức tín dụng cho thuê tài chính là giải pháp hữu hiệu giúp cho các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn đầu tư, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Với hình thức tín dụng này, các ngân hàng thương mại sẽ tháo gỡ được tình trạng “đóng băng” về vốn đầu tư và đảm bảo an toàn tín dụng hơn hình thức thế chấp tài sản. Cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung gian dài hạn, người có nhu cầu vay vốn không nhận tiền mua sắm thiết bị cho mình mà trực tiếp nhận tài sản phù hợp với nhu cầu sử dụng do đó có thể đảm bảo các khoản tín dụng sẽ được sử dụng đúng mục đích đầu tư.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, do môi trường kinh doanh chưa ổn định, các ngân hàng gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, việc cho vay trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn. Các ngân hàng có thể thực hiện cho vay trung và dài hạn thường đòi hỏi các chủ đàu tư làm ăn có hiệu quả và phải có tài sản thế chấp. Đây là điều kiện mà không phải chủ đầu tư nào cũng có thể đáp ứng. Với hình thức tín dụng cho thuê tài chính, điều kiện tiên quyết là phương án kinh doanh có hiệu quả, điều kiện tài sản thế chấp được đặt ở hàng thứ vì bản chất hợp đồng cho thuê tài chính đã bao hàm nội dung thế chấp. Biện pháp này đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn, sủ dụng vốn hợp lý hơn thay vì chỉ tìm cách có được nguồn vốn đó. Song, để thực hiện hình thức tín dụng này, đòi hỏi ở phía ngân hàng phải thoả mãn một số điều kiện nhất định, mà quan trọng nhất đó là phải am hiểu nhu cầu của các doanh nghiệp, thị trường tài sản, và phải có tiềm lực vốn lớn.
Thứ tư, Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng hoặc góp vốn vào các DNN&V cùng hợp tác kinh doanh bởi luôn tồn tại một thực tế là các DNN&V mà đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ ít được các ngân hàng thương mại quan tâm đến việc cho vay vốn. Để thúc đẩy phát triển các DNN&V, Nhà nước cần quy định các ngân hàng thương mại phải giành một tỷ lệ nhất định vốn tín dụng để cho các DNN&V vay. Tuy nhiên, do vốn và tài sản của các DNN&V không lớn nên mức độ đảm bảo an toàn cho các khoản vay là không cao, do vậy, một giải pháp được xem là hợp lý và hiệu quả hơn là khuyến khích các ngân hàng thương mại cùng góp vốn vào các DNN&V cùng hợp tác kinh doanh. Khi đó, các ngân hàng sẽ phát huy một cách tốt nhất vai trò tư vấn cho doanh nghiệp, đồng thời theo dõi giám sát việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Các DNN&V khi được ngân hàng thương mại góp vốn cũng sẽ gặp thuận lợi là dễ dàng được ngân hàng cho vay khi thiếu vốn hoặc ngân hàng bảo lãnh cho vay vốn của tổ chức tín dụng khác. Để khuyến khích các ngân hàng góp vốn vào các DNN&V, nhà nước cần có các cơ chế như cho phép các ngân hàng sử dụng thu nhập trước thuế để góp vốn vào các DNN&V, miễn giảm thuế thu nhập từ khoản góp vốn đó.
Thứ năm, các biện pháp tài chính được áp dụng cần đảm bảo các DNN&V khu vực tư nhân được đối xử bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp khác trong vay vốn ngân hàng. Trong quá trình đưa ra và thực hiện các quy định để đảm bảo sự an toàn của đồng vốn, không nên đồng nhất ràng buộc chặt chẽ việc chấp hành đúng quy định, nguyên tắc với thái độ cửa quyền gây phiền toái đối với khách hàng. Để giúp các DNN&V khắc phục khó khăn về vốn để sản xuất, xuất khẩu, đồng thời đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, thì các ngân hàng cần nắm bắt được thông tin của khách hàng từ nhiều kênh khác nhau. Qua đó, có thể tư vấn cho các DNN&V cách thức xây dựng và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, xuất khẩu khả thi, quản lý tốt đồng vốn, tạo uy tín lớn đối với khách hàng nước ngoài, đảm bảo tránh được những rủi ro có thể nảy sinh trong hoạt động xuất khẩu. Lúc đó, ngân hàng mới thực sự trở thành người bạn đồng hành cùng chia sẻ khó khăn, rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu của DNN&V, tránh tình trạng ngân hàng không giải ngân được vốn, trong khi các DNN&V lại thiếu vốn để đầu tư sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu như thời gian qua.
2.2.2. Giải pháp đầu tư.
2.2.2.1. Xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các Quỹ đầu tư mạo hiểm.
ở khu vực Đông Nam á nói chung và Việt Nam nói riêng, vốn mạo hiểm là một hiện tượng kinh tế còn khá mới mẻ, nhưng nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Tuy nhiên, để quỹ vốn mạo hiểm thực sự trở thành công cụ hữu ích trong quá trình huy động vốn đầu tư cho các DNN&V, trong thời gian tới Chính phủ cần thiết lập một khung khổ luật pháp, thể chế ổn định cho hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng trong nước và quốc tế, xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán.
Một thị trường chứng khoán phát triển đầy đủ và một hệ thống toàn diện các quy định về phát hành cổ phiếu ra công chúng sẽ tạo cơ hội cho các DNN&V của Việt Nam huy động vốn cổ phần dài hạn thông qua phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ giúp các công ty đủ khả năng tiếp cận nguồn vốn dài hạn cho đầu tư hơn là nguồn vốn sẵn có thông qua tín dụng ngân hàng thông thường (vốn có xu hướng chủ yếu là vốn ngắn hạn, do đó phù hợp hơn với các nhu cầu vốn lưu động), và giúp họ duy trì cân bằng nợ và vốn cổ phần. Bên cạnh đó, việc hình thành và phát triển sàn giao dịch riêng cho DNN&V sẽ là công cụ hiệu quả giúp các cá nhân và tổ chức đầu tư cổ phiếu trong và ngoài nước đầu tư vào các DNN&V lớn ở Việt Nam. Việc thúc đẩy các loại hình vốn cổ phần trở thành phương thức huy động vốn dài hạn cho DNN&V lớn sẽ giúp giải phóng tín dụng ngân hàng cho các DNN&V nhỏ hơn.
Trong tương lai gần, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần sửa đổi Nghị định 48 về thị trường chứng khoán ban hành năm 1998, 2 năm trước khi Trung tâm giao dịch chứng khoán ra đời. Sửa đổi này bao gồm quy định rõ ràng về phát hành cổ phiếu ra công chúng của các Việt Nam() - Bao gồm một định nghĩa rõ ràng về thế nào là phát hành cổ phiếu ra công chúng.
, đối với cả những công ty niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán chính thức và những công ty có cổ phiếu giao dịch trên thị trường OTC phi chính thức. Nghị định sửa đổi sẽ góp phần làm giảm tính hấp dẫn của phát hành cổ phiếu thông qua thị trường phi chính thức OTC so với phát hành cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Nghị định sửa đổi cũng sẽ cho phép tất cả doanh nghiệp có nhu cầu và đáp ứng các tiêu chuẩn có thể tự do tham gia niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán mà không cần bất kỳ sự phê chuẩn không chính thức nào của Uỷ Ban chứng khoán nhà nước và các cơ quan khác của Chính phủ. Tương tự như vậy, Ngân hàng nhà nước nên cho phép các ngân hàng cổ phần đủ khả năng tham gia niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán nếu muốn. Điều này sẽ giúp các ngân hàng cổ phần huy động nhiều hơn vốn cổ phần để hỗ trợ nhu cầu cho vay ngày càng tăng của các DNN&V. Uỷ ban chứng khoán nhà nước cũng cần cho phép các DNN&V có quy mô lớn ở Việt Nam phát hành chứng khoán trên thị trường vốn nước ngoài nếu có đủ điều kiện và Uỷ ban cần ban hành các hướng dẫn rõ ràng về quy trình niêm yết tại thị trường chứng khoán nước ngoài. Điều này sẽ cho phép các công ty lớn của Việt Nam tiếp cận nguồn vốn đáng kể trên thị trường vốn hiện đại và do đó giải phóng nguồn vốn trong nước cho DNN&V, những doanh nghiệp phải phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài chính trong nước.
Cùng với các giải pháp hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Quỹ đầu tư mạo hiểm, một môi trường đầu tư được cải thiện và minh bạch hơn cũng sẽ giúp Việt Nam trở thành một nước hấp dẫn đối với dòng đầu tư cổ phần từ nước ngoài và trong nước. Những dòng đầu tư này sẽ là một yếu tố ngày càng quan trọng đối với quá trình phát triển khu vực DNN&V Việt Nam trong dài hạn, đặc biệt trong việc hỗ trợ DNN&V tăng trưởng và hoạt động hiệu quả để có thể cạnh tranh cả trên thị trường quốc tế và trong thị trường nội địa ít được bảo hộ hơn.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư theo hướng lành mạnh hơn, trong ngắn hạn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên xem xét và sửa lại chế độ ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp và nhà đầu tư ở Việt Nam, hướng tới: (i) xoá bỏ (hoặc ít nhất là phải điều chỉnh) mọi chế độ ưu đãi tài chính áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà doanh nghiệp DNN&V trong nước không được hưởng trong các lĩnh vực chế tạo định hướng xuất khẩu; (ii) thay thế hệ thống khuyến khích tài chính rắc rối và mâu thuẫn hiện tại bằng một hệ thống đơn giản hơn, áp dụng chung cho cả hai loại hình doanh nghiệp() - Điều này nên theo một phân tích trước đây về các ưu đãi tài chính hiện tại, và một đánh giá chi tiết về các ảnh hưởng thuận lợi có thể tính toán được (nếu có).
; và (iii) sửa đổi chế độ ưu đãi hiện tại cho doanh nghiệp mới thành lập theo Luật Doanh nghiệp, để xoá bỏ những khiếm khuyết nảy sinh() - Ví dụ, các doanh nghiệp đang tồn tại muốn lập ra những pháp nhân kinh doanh mới hơn là tái đầu tư vào các pháp nhân hiện tại, để tận dụng được các ưu đãi dành riêng cho các công ty mới.
.
2.2.2.2. Hoàn thiện hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Quỹ hỗ trợ phát triển
i) Khẩn trương xây dựng chiến lược huy động vốn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho xuất khẩu của các DNN&V.
Theo quy định của Chính phủ, Quỹ HTPT được phép tiến hành huy động vốn từ các địa phương, các cơ quan như bảo hiểm xã hội Việt Nam, Công ty tiết kiệm bưu điện, hoặc từ các nguồn khác như trái phiếu Chính phủ. Trong thời gian qua, Quỹ HTPT đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, các hợp đồng xuất khẩu, và hoàn trả đúng, đầy đủ các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên, thời gian tới, việc huy động vốn của Quỹ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh Nhà nước và các Tỉnh, Thành phố phát hành nhiều loại trái phiếu với lãi suất hấp dẫn hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ mà Quỹ đang thực hiện.
Để có đủ nguồn lực vốn thực hiện nhiệm vụ tài trợ tín dụng xuất khẩu trung và dài hạn như cho vay đầu tư trung và dài hạn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu ngắn hạn như cho vay vốn ngắn hạn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNN&V, Quỹ cần tiến hành ngay các biện pháp huy động vốn. Trong thời gian tới, Quỹ HTPT cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như mở rộng phát hành trái phiếu Chính phủ với lãi suất hấp dẫn hơn, tăng cường huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau. Bên cạnh việc mở rộng các kênh huy động vốn, thì lãi suất huy động vốn cũng cần linh hoạt hơn, vừa đảm bảo hài hoà quyền lợi của các bên, khả năng của Ngân sách nhà nước, vừa khai thác tối đa mọi nguồn lực cho phát triển đất nước đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động của Quỹ. Hơn nữa, Chính phủ cũng cần cho phép Quỹ HTPT được huy động vốn ngắn hạn để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu xuất khẩu ngắn hạn của các DNN&V hiện nay là rất lớn.
ii) Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn của Quỹ
Năm 2003, Quỹ HTPT đã tiến hành nhiều giải pháp để đáp ứng nhu cầu vay vốn xuất khẩu ngắn hạn trên địa bàn. Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu ngắn hạn tại Quỹ HTPT vẫn còn những tồn tại cần khắc phục. Hiện nay Quỹ HTPT vẫn chưa có hệ thống thông tin về giá cả, uy tín của các đơn vị vay vốn, của nhà nhập khẩu, thông tin phòng ngừa rủi ro, … do đó chưa có khả năng đánh giá đầy đủ rủi ro tiềm ẩn đối với các khoản vay. Một số chi nhánh của Quỹ chưa tích cực thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp ở địa phương, chưa đáp ứng hết nhu cầu vay vốn xuất khẩu của các DNN&V. Bên cạnh dó, việc ban hành các mặt hàng thuộc đối tượng được hỗ trợ tín dụng xuất khẩu hàng năm chưa có tính ổn định trong thời gian dài do đó chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, trong đó có các DNN&V tham gia xuất khẩu.
Để khắc phục những hạn chế trên, từng bước mở rộng và nâng cao cả về số lượng và chất lượng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ HTPT cần bổ sung các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu như cho vay hợp đồng bao tiêu nông sản, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…. Quỹ cũng cần khẩn trương phối hợp với Bộ Thương mại để xác định danh mục các mặt hàng thuộc đối tượng vay vốn ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu trong thời gian tới, danh mục này cần có tính ổn định trong thời gian dài (ít nhất là 3 năm) nhằm tạo tâm lý ổn định, tin tưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các DNN&V với vốn kinh nghiệm ít ỏi và năng lực xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, để nghiệp vụ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đạt hiệu quả hơn, Quỹ nên từng bước triển khai nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế tại Quỹ, thành lập trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro, giúp các DNN&V được hỗ trợ tín dụng xuất khẩu dễ dàng hơn trong việc giám sát tình hình mở, thay đổi L/C, thanh toán tiền hàng của nhà nhập khẩu. Đối với chất lượng công tác thẩm định các khoản vay cũng cần được nâng cao nhằm đánh giá đúng nhu cầu thực sự của từng doanh nghiệp, hợp đồng xuất khẩu để phát huy tốt nhất hiệu quả của nhiệm vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ đúng người, đúng doanh nghiệp.
2.3. Các giải pháp về tỷ giá và chính sách tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu
Thực tiễn phát triển và lựa chọn, điều hành chính sách tỷ giá của nhiều nước trong gần 30 năm qua khẳng định không có chính sách tỷ giá nào hiện nay được xem là có ưu thế tuyệt đối. Mỗi chính sách tỷ giá hối đoái đều có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định. Nhưng kinh nghiệm của các nước cho thấy: một chính sách tỷ giá hối đoái được sử dụng uyển chuyển phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn sẽ có nhiều tác động tích cực đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu trong nước.
Xét trên nhiều góc độ khác nhau, việc xử lý chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian gần đây là tương đối hợp lý và do đó đã có những đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng việc điều chỉnh tỷ giá hiện nay vẫn còn bộc lộ ít nhiều nhược điểm:
- Thứ nhất, việc xác định tỷ giá còn mang tính cứng nhắc, chưa thực sự
linh hoạt, còn có lúc chậm, bị động và chưa đủ mức
- Thứ hai, tồn tại song hành tỷ giá thị trường tự do bên cạnh tỷ giá chính thức, tỷ giá của các ngân hàng thương mại và hiện tượng đô la hoá ngày càng trầm trọng hơn.
- Thứ ba, chưa sử dụng có hiệu quả các công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
- Thứ tư, cơ chế quản lý ngoại hối còn rất lỏng lẻo.
Trong xu thế nền kinh tế, thị trường tài chính ngày một hội nhập mạnh hơn và yêu cầu phải điều chỉnh lại cơ cấu xuất nhập khẩu sang những hàng hóa, dịch vụ có độ co giãn lớn hơn trong tương lai (hàng hóa có chi phí kỹ thuật và chất xám ngày càng cao), Việt Nam cần phải tiếp tục có một chính sách tỷ giá hối đoái được lựa chọn và điều chỉnh linh hoạt hơn thay vì duy trì một tỷ giá cố định, thiếu năng động, không phản ánh đúng biến động của thị trường. Một chính sách tỷ giá được xử lý linh hoạt sẽ có khả năng giảm sóc cho nền kinh tế tốt hơn là một chính sách tỷ giá điều hành một cách cứng nhắc.
Trong khuôn khổ cơ chế tỷ giá hiện hành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải luôn điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa, phản ánh được những chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát trong nước và thế giới để tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở khuyến khích xuất khẩu, lấy sự tăng trưởng của xuất khẩu làm một trong những động lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Chính sách tỷ giá khuyến khích xuất khẩu là chính sách tỷ giá được điều chỉnh nhằm bảo đảm lợi ích của nhà xuất khẩu, có nghĩa là phải duy trì tỷ giá hối đoái sao cho những người cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong nước có lãi khi bán sản phẩm của họ trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi tỷ giá hối đoái danh nghĩa phải được điều chỉnh để giữ nguyên hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam trên thị trường thế giới. Ngân hàng nhà nước cần tăng tính linh hoạt của tỷ giá hơn bằng cách tăng mức dao động cho phép. Tuy nhiên, do tỷ giá là một nhân tố rất nhạy cảm, nên việc điều chỉnh này cần thực hiện theo từng giai đoạn, có thể là:
- Trước mắt, có thể nới biên độ dao động từ mức 0,25% hiện nay lên 0,4%. Điều này có hai tác dụng: thứ nhất, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại yết giá cạnh tranh; thứ hai, như là biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá.
- Về lâu dài, Ngân hàng nhà nước nên chuyển hướng sử dụng mạnh công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại tệ.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần tiến hành một số biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa thị trường ngoại hối của nước ta, từ đó giữ ổn định cho VNĐ, phát triển kinh tế, và thúc đẩy xuất khẩu:
- Ngân hàng Nhà nước cần phân biệt rõ chức năng đại diện cho Nhà nước và chức năng can thiệp để bình ổn thị trường. Với chức năng đại diện cho Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của Nhà nước và gia tăng tích luỹ theo mục tiêu đã định. Trong khi đó, chức năng can thiệp thị trường là nhằm mục tiêu điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường để tỷ giá phản ánh được quan hệ cung cầu. Việc không phân định rõ ràng tính độc lập của hai chức năng này sẽ làm giảm đi hiệu quả quản lý và điều tiết của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường.
- Ngân hàng Nhà nước nên hạn chế tối đa việc sử dụng các biện pháp hành chính để can thiệp thị trường và không nên can thiệp quá sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. Thực tiễn cho thấy đôi lúc Ngân hàng Nhà nước đã có những tác động can thiệp sâu vào nghiệp vụ, chẳng hạn quyết định 65/1999/QĐ-NHNH ngày 25.02.1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
- Chấn chỉnh và kiện toàn hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối. Với phương thức tổ chức như hiện nay, thị trường ngoại hối chưa phát huy được hiệu quả, các giao dịch trên thị trường ngoại hối chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng giao dịch của các ngân hàng nên hầu hết các ngân hàng đều hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối ngoại tệ. Hiện tượng vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước là khá phổ biến. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phát triển thị trường nội tệ với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động, tạo điều kiện điều hoà giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông suốt. Mở rộng số lượng thành viên tham gia thị trường, cho phép các nhà môi giới tham gia thị trường.
- Quản lý chặt chẽ hoạt động vay và trả nợ nước ngoài. Theo quy định hiện hành việc quản lý vay trả và trả nợ nước ngoài được giao cho 3 cơ quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước với sự phân biệt rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, nhưng trong thực tế hiện nay chưa có sự thống nhất và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan này. Chính phủ nên thành lập một cơ quan chức năng chuyên trách với các thành viên đại diện của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp và các cơ quan có liên quan khác để xây dựng kế hoạch và quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của tất cả các khoản vay nợ nước ngoài của khu vực nhà nước lẫn khu vực tư nhân.
- Tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực tế của nước ngoài trong các lĩnh vực, nghiệp vụ mới như: xác định tỷ giá qua rổ tiền tệ nhằm giảm bớt sự phụ thuộc của VND vào đô la Mỹ, các nghiệp vụ của thị trường ngoại hối để từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam.
- Chính sách tỷ giá cần quan tâm kịp thời đến đồng tiền của các nước ASEAN và tỷ giá hối đoái giữa chúng với VND, tạo điều kiện cho sự phát triển xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực trong thời gian tới.
- ở tầm vĩ mô, Nhà nước một mặt phải nắm bắt thông tin chính xác kịp thời về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế, mức lạm phát, lãi suất trong nước và quốc tế, xu hướng biến động cung và cầu ngoại tệ trên thế giới để có thể làm tốt công tác dự đoán biến động tỷ giá. Mặt khác, Nhà nước còn phải đảm bảo tính bình đẳng về thông tin cho mọi thành viên của xã hội thông qua việc thông báo tỷ giá cũng như các số liệu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng...
Bên cạnh các biện pháp chủ yếu trên, Ngân hàng Nhà nước cần hạn chế và đi đến chấm dứt việc cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ, tiến đến thống nhất sử dụng đồng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tỷ giá và các biện pháp tài chính khác để đạt được hiệu quả cao trong công tác hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp.
Kết luận
Ngày nay, ở hầu hết cá các quốc gia từ các nền kinh tế phát triển mạnh như Đức, Mỹ, Nhật Bản, EU, các nền kinh tế công nghiệp mới như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore đến các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, ấn độ và một số quốc gia Châu Phi khác đều đồng ý với quan điểm cho rằng DNN&V đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Vai trò này không chỉ thể hiện ở đóng góp của khu vực DNN&V vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, tăng nguồn hàng xuất khẩu mà vai trò của khu vực DNN&V còn được khẳng định thông qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là lực lượng bổ sung quan trọng các lỗ hổng kinh tế, với vai trò là các doanh nghiệp vệ tinh góp phần cùng các doanh nghiệp lớn đưa nền kinh tế quốc dân ngày một lớn mạnh hơn trên trường quốc tế.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và khu vực DNN&V nói riêng, Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã tiến hành cải cách mở cửa nền kinh tế với việc ban hành nhiều bộ luật quan trọng như Luật Thương mại (1997), Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp (2000)... với mục tiêu tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng của tất cả các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong xã hội nhằm phát huy tối đa các nguồn lực đưa đất nước ta phát triển nhanh chóng, bền vững theo định hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Với sự ra đời của Nghị định 90 và Cục Phát triển DNN&V trực thuộc Bộ KH&ĐT, Chính phủ đã khẳng định Phát triển DNN&V là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt chủ trương của Nhà nước trong việc khuyến khích DNN&V tăng cường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNN&V liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Thông qua các chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu, trợ giúp một phần chi phí cho DNN&V khảo sát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội trợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường ở nước ngoài. (Điều 10 Nghị định 90/2001/NĐ-CP) cho thấy Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh hỗ trợ DNN&V tham gia các hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường và từng bước trở đưa DNN&V trở thành chủ thể quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Mặc dù với vai trò không thể phủ nhận của DNN&V trong nền kinh tế cũng như trong hoạt động xuất khẩu như vậy, hiện nay cả hệ thống chính sách, hệ thống thể chế hỗ trợ cũng như các chương trình trợ giúp DNN&V ở Việt Nam xem ra còn quá nhỏ bé so với nhu cầu của bản thân DNN&V chứ chưa nói đến so với chiến lược hỗ trợ của các quốc gia trên thế giói. Để giải quyết được vấn đề này, bên cạnh các giải pháp ở tầm vĩ mô như: xây dựng hệ thống khung khổ luật pháp và quy định minh bạch, công bằng, hệ thống thể chế hữu hiệu, các chính sách và chương trình hỗ trợ DNN&V về tiếp cận đất đai, công nghệ, thị trường, hỗ trợ đào tạo, ... một hệ thống biện pháp tài chính hiệu quả (thuế, tài chính, tín dụng, đầu tư...) được nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách phát triển DNN&V xem là một biện pháp tương đối quan trọng và cần thiết, đặc biệt với đặc trưng của khu vực DNN&V, khu vực còn nhiều yếu kém về khả năng tài chính.
Với việc phân tích thực trạng của khu vực DNN&V trong hoạt động xuất khẩu, thực trạng và tác động của các biện pháp tài chính trong việc hỗ trợ xuất khẩu cho các DNN&V Việt Nam thời gian qua, Khoá luận bước đầu khái quát bức tranh chung về khu vực DNN&V, những thành tựu đạt được cũng như khó khăn còn tồn tại của khu vực trong hoạt động xuất khẩu nói riêng và phát triển kinh tế nói chung, cụ thể là khó khăn liên quan đến lĩnh vực tài chính, từ đó đưa một số kiến nghị chung, góp phần cùng với các chương trình hỗ trợ khác đưa khu vực DNN&V ngày càng phát triển, đảm bảo thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Với xu thế phát triển như vũ bão hiện nay của khu vực DNN&V Việt Nam cả về chất lượng và số lượng (thể hiện ở số lượng DNN&V ngày càng tăng lên với các đóng góp ngày càng lớn vào hoạt động xuất khẩu, vào GDP và công ăn việc làm mà khu vực này tạo ra) cùng với chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, người viết tin tưởng sâu sắc rằng khu vực DNN&V Việt Nam đang và sẽ nhanh chóng hoàn thiện mình, xứng đáng là những Chiến sĩ xung kích thời bình đi đầu trong việc tạo ra của cải, vật chất, việc làm và đóng góp cho ngân sách nhà nước, đưa đất nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 như mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Danh mục tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng việt
Bùi Xuân Lưu, Giáo trình kinh tế ngoại thương, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, NXB Giáo dục, 2000
Đinh Xuân Trình, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, Trường Đại học Ngoại thương, NXB Giáo dục, 2001
Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục 2002.
Lê Văn Tư, Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, NXB Thống kê, 2000.
Bùi Xuân Lưu, Giáo trình thuế và hệ thống thuế của Việt Nam, Trường Đại học Ngoại thương, 1998.
Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Lộ trình phát triển DNN&V, Dự án chuẩn bị Chương trình phát triển DNN&V TA 4031 – VIE, Tháng 7/2003.
Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI), DNN&V thực trạng và giải pháp, NXB Thống kê, 2002.
Học viện Tài chính Việt Nam, Viện Khoa học Tài chính, Tài chính hỗ trợ phát triển DNN&V, NXB Tài chính Hà Nội, 2002.
Nguyễn Cúc, Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển DNN&V Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
Đỗ Đức Thịnh, Phát triển DNN&V ở một số nước trên thế giới, NXB Thống kê, 1999.
Chương trình dự án Mê Kông, Hình thành một Quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, Chuyên đề nghiên cứu tư nhân số 4, năm 1999.
Trần Kim Hào, Tiêu Tiến Dũng, Trịnh Đức Chiều, Kinh nghiệm hỗ trợ DNN&V tại Cộng hoà Liên Bang Đức, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2000.
Phạm Thị Tuất, Báo cáo quan điểm và định hướng xây dựng Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNN&V ở Việt Nam, Bộ tài chính, 2001.
Viện Nghiên cứu Thương mại, xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho DNN&V, NXB lao động thương binh xã hội Hà Nội, 2003.
Hội đồng liên minh HTX Việt Nam, Báo cáo về đề án Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNN&V, 2001.
Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, phát triển DNN&V kinh nghiệm nước ngoài, NXB Thống kê Hà Nội, 2001.
Phạm Thu Hằng, Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển DNN&V, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Vũ Quốc Tuấn, Kinh nghiệm phát triển DNN&V của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Luật doanh nghiệp 4/11/2003.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về việc trợ giúp và phát triển DNN&V.
Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về tổ chức hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển.
Báo cáo của Quỹ hỗ trợ phát triển về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2003 (Ngày 22/9/1003)
Thời báo kinh tế, Tạp chí kinh tế phát triển, Báo đầu tư, Tạp chí ngân hàng, các số năm 2000-2003,
Tài liệu tiếng Anh:
Yoshiyuki Oba, Finance for small Business in Japan, March 1999,
James Riedel and Chuong S.tram (1997), The emerging Private sector and Industrialization of Vietnam, Private sector discussion No. 1, Mekong project Development Facility (MPDF), 4/2002, Hanoi.
UNDP, Job creation and private sector in Vietnam, 2001.
Bhargavi Ramamurthy, The private Manufacturing Sector in Vietnam, Stockholm School of Economics, 2000.
UFJ Institute, Soft Infrastructure Development for Better financial Access of small and Medium Enterprise in Vietnam, October 2003