Chủ trương hợp tác và đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới, trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hơn mười năm qua, hoạt động FDI đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trong thành tựu đó của hoạt động FDI, có đóng góp không nhỏ của các dự án FDI trong các KCN trên cả nước. Mặc dù vậy, thực trạng tình hình triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN lại không mấy khả quan do trong thực tiễn hoạt động còn gặp nhiều vướng mắc. Điều đó làm cho hiệu quả đạt được của các dự án FDI đầu tư vào KCN chưa đúng với những tiềm năng cũng như khả năng phát triển mà nó có thể đạt được. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân của sự trì trệ trong hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN cũng như việc đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đó là rất cần thiết.
Trong Khoá luận này, qua 3 chương bài viết, em hy vọng phần nào có thể góp phần làm sáng tỏ các nguyên nhân kìm hãm hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN trên cả nước cũng như hy vọng các giải pháp được đưa ra phần nào có thể giúp giải quyết được thực trạng trên.
Khóa luận đã giải quyết được những vấn đề sau:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về triển khai và quản trị triển khai các dự án FDI.
- Phân tích thực trạng tình hình triển khai thực hiện các dự án FDI trong các KCN của Việt Nam và qua đó làm sáng tỏ những nguyên nhân gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động triển khai thực hiện các dự án FDI KCN.
- Đưa ra một số giải pháp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như đối với các chủ đầu tư nhằm thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN.
89 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các khu công nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư vào KCN ở Việt Nam, sự chuẩn bị cho hoạt động FDI chưa được các nhà đầu tư đánh giá và thực hiện một cách đúng mức. Điều này được thể hiện qua thực tế sau:
- Có nhiều nhà đầu tư tiến hành hoạt động đầu tư trong khi chưa tự đánh giá một cách chính xác khả năng đầu tư của chính mình. Khả năng đầu tư bao gồm các khả năng về vốn (tự có hoặc nguồn tín dụng), trình độ công nghệ, trình độ quản lý…Không chỉ khả năng đầu tư mà cả mục tiêu của hoạt động đầu tư đôi khi cũng không được xem xét kỹ càng. Điều này làm tăng khả năng không triển khai được dẫn đến tình trạng tạm ngừng triển khai hoặc giải thể của các dự án FDI KCN.
- Để có thể thực hiện hoạt động đầu tư và hoạt động triển khai dự án FDI svào các KCN một cách nhanh chóng và hiệu quả, ngoài việc đánh giá chính xác khả năng và mục đích đầu tư của chính mình, các nhà đầu tư còn phải tiến hành nghiên cứu, khảo sát thật kỹ về môi trường đầu tư của nước sở tại, về thị trường đầu vào và đầu ra của dự án sau khi triển khai xong, về địa điểm, phương thức đầu tư vv… Tất cả những nghiên cứu trên đều không nằm ngoài mục đích nhằm đảm bảo chắc chắn tính khả thi của hoạt động đầu tư và triển khai dự án cũng như đảm bảo sự thành công của dự án về sau khi tiến hành sản xuất kinh doanh chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, không nhiều các nhà đầu tư thực hiện đầy đủ các yêu cầu trên đối với giai đoạn hình thành dự án. Điều này giải thích cho sự yếu kém trong triển khai thực hiện các dự án FDI vào KCN ở Việt Nam thời gian qua.
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN ở Việt Nam
Phương hướng thu hút FDI trong các KCN Việt Nam những năm tới:
Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của một thời kỳ phát triển mới (2001-2010), đây là thời kỳ chúng ta tiến hành đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng những tiền đề làm nền tảng để đến năm 2020, nước ta trở thành một nước công nghiệp. Để có thể thực hiện được tốt mục tiêu này, đặc biệt là trong giai đoạn đầu hiện nay, nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế-xã hội là rất lớn trong khi nguồn vốn ở trong nước chỉ rất hạn chế. Chính vì vậy, ngay từ đầu, Đảng và Nhà nước ta đã xác định vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn FDI. Và do đó, việc thu hút và triển khai thành công các dự án FDI trở thành một nhân tố quan trọng góp phần vào công cuộc xây dựng kinh tế-xã hội của đất nước ta.
Trong hoạt động thu hút các dự án FDI đầu tư vào Việt Nam, các KCN trong cả nước có vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua các dự án FDI, các KCN mang lại cho nền kinh tế không chỉ vốn mà cả khoa học-kỹ thuật hiện đại cùng kỹ thuật quản lý tiên tiến trên thế giới, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước trên thế giới cũng như kinh nghiệm được đúc rút qua thực tiễn xây dựng và phát triển KCN những năm đã cho thấy rằng mô hình tổ chức sản xuất tập trung của KCN là phương thức thu hút đầu tư nước ngoài rất hiệu quả và đến lượt nó, hoạt động đầu tư nước ngoài trong các KCN có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội của nước sở tại.
Xuất phát từ mục tiêu phát triển trong những năm tới của nền kinh tế cũng như vai trò quan trọng và tác động thực tiễn những năm qua của hoạt động đầu tư nước ngoài vào KCN tới nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phương hướng phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài trong KCN những năm tới như sau:
+ Trước hết, đối với hoạt động thu hút FDI vào KCN, phấn đấu trong vài ba năm tới thu hút được lượng vốn FDI để lấp đầy 50% diện tích đất công nghiệp trong các KCN đã được thành lập. Theo tính toán, để lấp đầy được hoàn toàn diện tích đất công nghiệp của các KCN đã thành lập thì cần một lượng vốn đầu tư khoảng 18-23 tỷ USD mà trong đó chủ yếu là nguồn vốn FDI. Đây là một chỉ tiêu khó có thể thực hiện được trong một vài năm mà cần từ 15-20 năm, nhất là với tốc độ thu hút đầu tư như hiện nay. Do đó, để thu hút mạnh hơn nữa luồng vốn đầu tư FDI cần nhanh chóng có những biện pháp hiệu quả nhằm cải thiện môi trường đầu tư trong nước như hoàn thiện quy hoạnh xây dựng và phát triển KCN trên cả nước sao cho phù hợp với điều kiện, khả năng của các địa phương, phát triển cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN, xây dựng và hoàn thiện các chính sách ưu đãi...
+ Tích cực tiến hành công tác vận động, xúc tiến đầu tư nhằm thu hút hiệu quả các luồng vốn FDI, đặc biệt là trong bối cảnh sự cạnh tranh trong hoạt động thu hút FDI gia tăng mạnh do sức ép của các nước láng giềng (nhất là Trung Quốc) và các nước trong khu vực.
+ Bên cạnh việc tích cực thu hút đầu tư mới, cần tập trung khuyến khích, tạo thuận lợi cho hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI cũng như cho các doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động trong các KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường hoặc đang tiến hành đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng.
+ Về định hướng phát triển theo ngành của hoạt động FDI trong KCN, cần khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc thu hút vốn FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Về định hướng phát triển theo địa phương của hoạt động FDI đầu tư vào KCN, cần tiếp tục thu hút dự án FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho hoạt động FDI đầu tư vào các KCN ở các vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài các KCN ở các địa phương này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI.
+ Về định hướng phát triển theo hình thức đầu tư của hoạt động FDI trong KCN, cần khuyến khích tất cả các dự án FDI đầu tư vào KCN dưới mọi hình thức đầu tư. Khuyến khích hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với các dự án đầu tư sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới, các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao, tỷ lệ lợi nhuận thấp. Cho phép tự do chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh sang 100% vốn nước ngoài với điều kiện phải ổn định được việc làm cho người lao động, bảo toàn được vốn góp của bên Việt Nam.
+ Về định hướng phát triển theo đối tác đầu tư của hoạt động FDI trong KCN, cần khuyến khích tất cả các nhà đầu tư từ mọi quốc gia và vùng lãng thổ đầu tư vào các KCN Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Ngoài ra, cũng cần tích cực thu hút các dự án FDI từ các nước trong khu vực. Cần có kế hoạch vận động các công ty, tập đoàn lớn trên thế giới đầu tư vào các KCN của Việt Nam, nhưng cũng không bỏ qua các công ty nhỏ và vừa nhưng có công nghệ hiện đại.
một số giải pháp đối với các chủ đầu tư nhằm thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN Việt Nam:
Nhóm giải pháp đối với các công việc cụ thể cần phải thực hiện trong giai đoạn triển khai dự án FDI trong KCN:
Nhóm giải pháp về vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng KCN:
Các vướng mắc và hạn chế trong các lĩnh vực này, về cơ bản, là do các cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết. Tuy nhiên, do hoạt động triển khai các dự án FDI trong các KCN là một hoạt động rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự phối hợp và hợp tác giữa các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý Nhà nước. Chính vì vậy, đối với những nhược điểm này, giải pháp đưa ra là:
+ Các chủ đầu tư cần quan tâm hơn đến vấn đề nghiên cứu địa điểm thực hiện đầu tư và công tác giải phóng mặt bằng khi lập dự án FDI tiền khả thi và khả thi. Điều này giúp ích rất lớn cho các nhà đầu tư để có thể tránh được những rắc rối, rủi ro và chi phí không cần thiết do việc giải phóng mặt bằng đem lại. Ngay cả khi việc giải phóng mặt bằng là không thể tránh khỏi, việc nghiên cứu kỹ về công tác giải phóng mặt bằng sẽ cho phép dự kiến đúng được những công việc cần phải làm cũng như các chi phí và thời gian cần phải có, tránh được sự gia tăng bất ngờ của các yếu tố trên làm ách tắc việc triển khai thực hiện dự án.
+ Trong điều kiện của nước ta, các công ty phát triển hạ tầng thường sử dụng phương thức đầu tư “cuốn chiếu”, điều đó khiến cho trong nhiều trường hợp chủ đầu tư phải cùng với các cơ quan chức năng thực hiện các công tác giải phóng mặt bằng và xây dựng các công trình hạ tầng bên trong KCN. Trong những trường hợp đó, chủ đầu tư cần phải hợp tác chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc xác định giá trị đền bù, thực hiện đền bù và giải phóng mặt bằng, phối hợp trong việc xây dựng hạ tầng KCN… Nếu làm tốt công tác này sẽ góp phần rút ngắn đáng kể thời gian triển khai cũng như giảm bớt nguy cơ rủi ro trong giai đoạn triển khai thực hiện dự án.
+ Ngoài ra, các chủ đầu tư cần tích cực tận dụng các ưu đãi mà Nhà nước dành cho về tài chính, tín dụng… nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án FDI trong KCN.
Nhóm giải pháp về vấn đề lao động:
Về vấn đề đào tạo, dạy nghề cho lực lượng lao động, nhìn chung Nhà nước chỉ đóng vai trò điều chỉnh vĩ mô về mặt chính sách còn hoạt động đào tạo thực sự, ngoài hệ thống giáo dục ra, chính là do các chủ đầu tư thực hiện.
Đặc biệt là khi mà trình độ lao động trong các KCN chưa đáp ứng được các nhu cầu chủ chủ đầu tư thì việc đào tạo bổ sung cho phù hợp với nhu cầu là do chính chủ đầu tư thực hiện. Việc đào tạo này là tất yếu vì luôn tồn tại một khoảng cách giữa nhà trường và thực tiễn. Đối với các doanh nghiệp trong KCN nói chung và với các doanh nghiệp có vốn FDI trong KCN nói riêng, để cải thiện được trình độ của lao động, cần thực hiện đào tạo bổ sung theo những cách sau:
+ Sau khi tiếp nhận nguồn nhân lực mới chưa có chuyên môn, cần phân công xuống các tổ sản xuất, bố trí việc làm một cách cụ thể để họ vừa học trực tiếp vừa thực hành. Phương pháp này chóng có kết quả nhưng chỉ ở một mức độ nhất định vì không được trang bị kiến thức sâu rộng.
+ Có thể tổ chức khoá học ngay tại công ty, mời giáo viên và chuyên gia lên lớp và cho thực hành ngay sau mỗi bài giảng ở phần việc được giao. Cách này hiệu quả hơn nhưng đòi hỏi sự đầu tư tương đối công phu và bài bản.
+ Các doanh nghiệp kết hợp với Ban quản lý KCN mở các khoá đào tạo theo nhu cầu của công ty. Cách này cho phép giảm được chi phí nhưng lại đòi hỏi sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa Ban quản lý KCN, công ty phát triển hạ tầng và các doanh nghiệp KCN.
+ Gửi lao động đi đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề. Cách này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa doanh nghiệp và nhà trường đồng thời cần nhiều thời gian và công sức của người dạy và người học.
Một số giải pháp khác:
Ngoài các nhóm giải pháp kể trên, có một số giải pháp đơn lẻ nhưng cũng rất cần thiết để có thể thực hiện triển khai hiệu quả các dự án FDI KCN. Có thể kể ra một số các giải pháp sau:
+ Trước hết, các chủ đầu tư cần phải có ý thức tuân thủ luật pháp cũng như phải có một hiểu biết nhất định đối với các quy định của luật pháp của nước sở tại về triển khai thực hiện dự án đầu tư nước ngoài vào KCN nói riêng và mọi quy định khác có liên quan nói chung. Đây là đòi hỏi vừa mang tính bắt buộc nhưng cũng xuất phát chính từ lợi ích của các nhà đầu tư.
+ Chủ đầu tư cần đảm bảo tiến độ góp vốn trong quá trình triển khai thực hiện dự án đúng như đã cam kết. Trong điều kiện còn thiếu thốn về vốn đầu tư của Việt Nam, vốn góp là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động triển khai các dự án FDI trong KCN. Do đó, các bên cần thoả thuận và lập ra một kế hoạch góp vốn rõ ràng và có sự ràng buộc giữa các bên thông qua quy định rõ biện pháp xử lý nến có bên vi phạm.
+ Và cuối cùng, các nhà đầu tư nên thiết lập, duy trì và củng cố các quan hệ thân thiên, hợp tác với các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là ở địa phương nơi mình hoạt động. Điều này mang lại lợi ích không nhỏ cho các nhà đầu tư, đặc biệt là trong giai đoạn triển khai thực hiện dự án FDI vì trong giai đoạn này. các công việc mang tính thủ tục hành chính sẽ chiếm nhiều thời gian và công sức của các nhà đầu tư, cho dù là đã được giảm nhẹ khá nhiều khi đầu tư vào KCN. Nếu có được mối quan hệ thân thiện với các cơ quan chính quyền sở tại sẽ góp phần không nhỏ trong việc rút ngắn giai đoạn triển khai thực hiện dự án FDI.
Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN Việt Nam:
Nhóm kiến nghị về vấn đề luật pháp và chính sách liên quan tới hoạt động triển khai thực hiện các dự án FDI KCN:
Như ở chương II đã nêu, nhìn chung, hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách về KCN và hoạt động FDI KCN hiện nay không đồng bộ và lạc hậu so với thực tiễn. Chính vì vậy, việc cần làm ngay hiện nay đối với các cơ quan quản lý Nhà nước là phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về hoạt động đầu tư nước ngoài vào KCN nhằm cải thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện và cơ sở để thực hiện triển khai dự án FDI trong các KCN một cách hợp pháp và hiệu quả.
Cần nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động FDI vào KCN theo hướng:
+ Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong và ngoài nước nhằm tạo lập một môi trường đầu tư bình đẳng, ổn định. Mặt khác, cũng cần áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và những ưu đãi với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
+ Cho phép tự do chuyển đổi giữa các hình thức đầu tư, sớm xây dựng quy chế cho phép chuyển đổi doanh nghiệp có vốn FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện để các doanh nghiệp này được đăng ký tại thị trường chứng khoán.
+ Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài theo Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Đặc biệt là đối với các cơ chế chính sách, khi soạn thảo cần chú ý xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện ảnh hưởng của chúng tới các hoạt động thực tiễn cũng như các ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng. Điều đó giúp lường trước được các tác động, cả tích cực và tiêu cực, của các cơ chế, chính sách được ban hành, tránh được các tác động bất ngờ.
Bên cạnh việc nghiên cứu, hoàn thiện về nội dung các văn bản pháp quy, cần chú trọng hơn nữa tới công tác phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp quy tới các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương và tới các nhà đầu tư.
Nhóm kiến nghị về vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng KCN:
Như ở chương II đã nêu, những bất cập về vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng KCN đang là những nhược điểm lớn đối với hoạt động triển khai thực hiện các dự án FDI KCN ở Việt Nam trong thời gian qua. Khác với các nhược điểm khác, đây là những nhược điểm, hạn chế mang tính cụ thể cao, chính vì vậy các kiến nghị đưa ra cũng khá cụ thể.
Một số kiến nghị về vấn đề đất đai:
Như đã nêu ở chương II, hiện nay, khó khăn chính trong vấn đề đất đai nằm ở vấn đề cơ chế cho thuê đất. Sự quy định chồng chéo của các văn bản pháp quy trong việc xác định đối tượng có thẩm quyền cho thuê đất và việc định giá thuê đất còn cao đã cản trở rất nhiều tới việc triển khai đúng tiến độ các dự án FDI đầu tư vào các KCN của Việt Nam. Trên thực tế, đã có ngày càng nhiều các doanh nghiệp có vốn FDI trong các KCN liên tục gửi công văn tới các cơ quan chức năng của Nhà nước đề nghị giải quyết các vướng mắc về thuê đất trong KCN như công ty dệt CHOONGNAN Việt Nam tại KCN Nhơn Trạch I (Đồng Nai) , công ty United Motor Việt Nam và công ty TNHH Nhà thép tiền chế Zamil Việt Nam tại KCN Nội Bài (Hà Nội)...Chính vì vậy, những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề đất đai trở thành những vấn đề cấp bách cần phải được giải quyết ngay để làm yên lòng các nhà đầu tư, tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư của Việt Nam cũng như góp phần thúc đẩy việc triển khai thực hiện các dự án FDI trong các KCN Việt Nam.
Đối với những vướng mắc nêu trên, các kiến nghị đưa ra là:
+ Đối với trường hợp doanh nghiệp thuê đất trước khi KCN có quyết định thành lập và sau này thực hiện ký kết hợp đồng thuê lại đất với công ty phát triển hạ tầng KCN, thì phải:
- Căn cứ vào đơn giá thuê đất do Nhà nước cho doanh nghiệp KCN thuê thực hiện điều chỉnh đơn giá thuê đất theo quy định tại Quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Điều chỉnh đơn giá cho công ty phát triển hạ tầng KCN nếu giá Nhà nước đang cho công ty phát triển hạ tầng thuê là bất hợp lý so với quy định hiện hành.
- Công ty phát triển hạ tầng KCN không phải nộp tiền thuê đất cho Nhà nước phần giá trị quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh của các doanh nghiệp KCN.
+ Đối với trường hợp doanh nghiệp KCN trực tiếp ký hợp đồng thuê lại đất với công ty phát triển hạ tầng KCN, có hai trường hợp:
- Nếu đã tính rõ giá thuê đất thô và phí sử dụng hạ tầng thì xử lý như ở trường hợp 1 ở trên.
- Nếu không tính rõ được giá thuê đất thô và phí sử dụng hạ tầng thì thực hiện theo hợp đồng đã ký kết giữa doanh nghiệp KCN với công ty phát triển hạ tầng.
+ Đối với các KCN mới được thành lập thì:
- Nhà nước trực tiếp cho doanh nghiệp KCN thuê đất và doanh nghiệp KCN được hưởng các chế độ ưu đãi giá thuê đất, về miễn giảm tiền thuê đất... được thế chấp, góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành.
- Công ty phát triển hạ tầng KCN đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và chỉ kinh doanh cơ sở hạ tầng. Theo đó, các doanh nghiệp KCN sẽ thực hiện thuê đất với Nhà nước và trả phí sử dụng cơ sở hạ tầng cho công ty phát triển hạ tầng KCN.
Ngoài ra, các cơ quan có chức năng ở Trung ương và địa phương cần phải có những chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn FDI đầu tư vào những ngành nghề và địa phương có nhiều khó khăn, góp phần khắc phục tình trạng mất cân đối trong thu hút và triển khai các dự án FDI đầu tư vào KCN trên cả nước.
Một số kiến nghị về vấn đề giải phóng mặt bằng:
Về mặt chính sách liên quan tới công tác giải phóng mặt bằng, xin đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các chính sách này nhằm tạo cơ sở thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN.
+ Cần phải nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải phóng mặt bằng để làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Ví dụ như các chính sách về đền bù và giải phóng mặt bằng, các quy định về cưỡng chế... hiện nay là các chính sách đang rất cần được hướng dẫn cụ thể.
+ Đối với các chủ trương, chính sách và đặc biệt là các văn bản pháp luật đã lỗi thời, không còn phù hợp với tình hình thực tế, cần phải nhanh chóng được bổ sung, sửa đổi. Đặc biệt là đối với Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, cần điều chỉnh một số điểm cơ bản như sau:
- Theo Nghị định cũ, toàn bộ diện tích đất giao cho chủ đầu tư thì chủ đầu tư phải đền bù thiệt hại về đất cho người bị thu hồi đất hoặc nộp tiền đền bù thiệt hại về đất vào ngân sách Nhà nước nếu được Nhà nước giao đất (đối với các dự án FDI đầu tư vào cơ sở hạ tầng KCN). Để thu hút được thêm các nhà đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng KCN cũng như tạo điều kiện phát triển hạ tầng KCN để đẩy nhanh giai đoạn triển khai thực hiện các dự án FDI trong các KCN, cần miễn trách nhiệm này cho các chủ đầu tư bởi vì quỹ đất mà Nhà nước giao cho chủ đầu tư đều là đất chưa sử dụng.
- Việc tính giá đền bù, trên thực tế, là một vấn đề rất nhạy cảm tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương có đất thu hồi. Do đó, Nhà nước chỉ nên quy định nguyên tắc chung trong việc tính giá đền bù, đó là giá đất để tính đền bù phải phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc giao chuyển nhượng và quyền sử dụng đất ở các địa phương. Còn trong các trường hợp cụ thể, nên trao trách nhiệm cho Chủ tịch UBND tỉnh, thành trực thuộc Trung ương quyết định giá đất để tính đền bù thiệt hại cho từng dự án.
- Về việc lập khu tái định cư cho những người bị thu hồi đất, cần dành cho những người này một số ưu đãi như: miễn tiền sử dụng đất khi giao đất để xây dựng nhà ở chung cư, người bị thu hồi đất khi nhận đất tại khu tái định cư không phải nộp lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính, lệ phí cấp giấy quyền sở hữu nhà...
Còn trong hoạt động thực tiễn, để công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện hiệu quả hơn, đẩy nhanh giai đoạn triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN, các cơ quan có chức năng thực hiện cần chú ý tới những điểm sau:
+ Trước hết, trong bộ máy chính quyền ở địa phương, cần lập ra các Ban chuyên trách có chức năng quản lý, giám sát và thực hiện công tác giải phóng mặt bằng ở địa phương mình. Ban chuyên trách này cần phối hợp với Ban quản lý các KCN, các Ban, ngành có chức năng khác và chủ đầu tư trong việc định giá, xây dựng kế hoạch đền bù và thực hiện việc đền bù... để có thể nhanh chóng hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng và tiến hành giao đất cho chủ đầu tư. Hà Nội là một trong các địa phương đang thực hiện thí điểm mô hình này và đã đạt được những kết quả bước đầu rất khả quan.
+ Bên cạnh việc thành lập các Ban chuyên trách, chính quyền địa phương cần thường xuyên tiến hành rà soát lại các KCN trong địa phương, nếu thấy có vướng mắc cần tập trung tháo gỡ ngay, tránh để dây dưa.
+ Cần chú trọng hơn tới việc giải phóng mặt bằng khi làm công tác quy hoạch xây dựng và phát triển các KCN. Hiện nay việc lập quy hoạch tổng thể hay chi tiết của các KCN thường không nghiên cứu kỹ hiện trạng cũng như không tính hết những khó khăn gặp phải trong thực tiễn giải phóng mặt bằng. Điều đó khiến cho có không ít các KCN phải sa lầy vào công tác giải phóng mặt bằng cũng như có nhiều dự án phải tạm ngừng triển khai do không giải phóng được mặt bằng.
+ Cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền vận động nhân dân trong việc tự nguyện chấp hành di dời để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng. Có những trường hợp vì làm không tốt công tác tuyên truyền vận động nên không được lòng dân khiến cho công tác giải phóng mặt bằng bị ách tắc hàng năm trời. Trong khi đó, rất ít địa phương khi thực hiện giải phóng mặt bằng lại chú ý tới việc tuyên truyền các chính sách đền bù một cách rộng rãi cũng như không coi trọng việc kêu gọi vận động ý thức tự giác của người dân mà chỉ lăm le thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Đó hoàn toàn là một biện pháp sai lầm.
Một số kiến nghị về vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng KCN:
Trước tiên xin đưa ra một số kiến nghị về mô hình công ty phát triển hạ tầng KCN bởi đây là một vướng mắc mang tính mâu thuẫn khá cơ bản của hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. Có giải quyết được mâu thuẫn này mới có thể tạo điều kiện xây dựng tốt hơn cơ sở hạ tầng của các KCN. Đến lượt nó, lại có vai trò thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN được nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Từ trước tới nay, mô hình công ty phát triển hạ tầng được sử dụng phổ biến và được quy định chính thức trong luật pháp Việt Nam là mô hình mà ở đó, các công ty phát triển hạ tầng là các doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp có vốn FDI, tiếp nhận đất từ Nhà nước để xây dựng cơ sở hạ tầng và sau đó cho thuê lại đất đã được phát triển hạ tầng cho các doanh nghiệp KCN. Tuy nhiên, như đã phân tích ở cuối chương II, hiện nay đang tồn tại một mâu thuẫn trong mô hình công ty phát triển hạ tầng nêu trên, đó là mâu thuẫn giữa lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng của công ty phát triển hạ tầng KCN. Từ đó nảy sinh ra vấn đề phải lựa chọn một mô hình như thế nào để có thể xây dựng và phát triển hiệu quả cơ sở hạ tầng KCN. Thêm vào đó, việc lựa chọn đúng giúp loại bỏ các loại hình cũng như các chủ đầu tư không đủ khả năng hoặc không thích hợp, ngăn ngừa nguy cơ đối với hoạt động triển khai thực hiện dự án trong tương lai.
Do yêu cầu đặt ra là cần tìm được một mô hình công ty phát triển hạ tầng KCN phù hợp cho nên trong phần này, thay vì các kiến nghị, chúng ta sẽ xem xét một số mô hình công ty phát triển hạ tầng đã và đang được các công ty phát triển hạ tầng KCN sử dụng từ trước tới nay.
Trước tiên phải kể đến đó là mô hình công ty phát triển hạ tầng của Công ty liên doanh Tân Thuận, công ty có trách nhiệm phát triển hạ tầng KCX Tân Thuận. Đây là một công ty điển hình cho mô hình công ty phát triển hạ tầng kiểu cũ nhưng lại hoạt động rất thành công.
Được tạo thành bởi sự hợp tác giữa Bên Việt Nam (Công ty phát triển công nghệ Tân Thuận) và Bên nước ngoài (Công ty Central Trading Development của Đài Loan), Công ty liên doanh xây dựng và kinh doanh KCX Tân Thuận (TTC) đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và khai thác cơ sở hạ tầng KCX Tân Thuận đúng tiến độ quy định. Để hoàn thành được công việc, TTC đã chọn phương thức đầu tư “cuốn chiếu”, theo đó chia 300 ha quy hoạch của KCX thành 3 phân khu để tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng lần lượt từng phân khu từ việc giải toả, đền bù, di dời, xây dựng hạ tầng. Nhờ có phương thức đầu tư đúng đắn nên TTC đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng của KCX Tân Thuận trong thời gian 5 năm (sớm 2 năm so với dự kiến trong Luận chứng kinh tế-kỹ thuật). Sự hoàn thành vượt mức kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng đã tạo thuận lợi rất lớn cho KCX Tân Thuận trong việc thu hút và triển khai thực hiện dự án FDI đầu tư vào, góp phần giúp KCX Tân Thuận nổi lên như một điểm sáng trong việc thực hiện triển khai nhanh chóng và hiệu quả các dự án FDI so với các KCN, KCX trên cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh việc lựa chọn đúng phương thức đầu tư, sự thành công của TTC còn được hỗ trợ rất lớn bởi tiềm lực tài chính dồi dào và kinh nghiệm xây dựng và phát triển hạ tầng của bên nước ngoài trong liên doanh, điều mà không phải công ty phát triển hạ tầng nào, thậm chí là các doanh nghiệp có vốn FDI khác, có thể có được.
Mô hình thứ hai được đề cập tới trong chuyên đề này lại là một mô hình hoàn toàn “made in Việt Nam”. Do đây là một mô hình công ty phát triển hạ tầng còn khá mới mẻ, được thành lập chưa lâu (cuối năm 2000) nên chưa thể đánh giá được mức độ thành công của nó tuy nhiên trong giai đoạn đang khủng hoảng mô hình phát triển đối với các công ty phát triển hạ tầng - đặc biệt là đối với các công ty là doanh nghiệp trong nước - như hiện nay, mọi nỗ lực đều đáng được ghi nhận và xem xét đánh giá cẩn thận.
Đó chính là mô hình của Công ty phát triển và khai thác hạ tầng KCN Đà Nẵng, được tổ chức dưới hình thức một đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Ban quản lý KCN và KCX Đà Nẵng. Với chủ trương không đặt vấn đề kinh doanh cơ sở hạ tầng lên hàng đầu, thành phố Đà Nẵng sẽ hỗ trợ cho công ty trong việc thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng KCX Đà Nẵng mà bước đầu là thực hiện việc giải phóng mặt bằng. Theo như ý kiến của Ông Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng: “Thành phố sẽ nghiên cứu áp dụng cơ chế hợp lý về việc hỗ trợ kinh phí cho công ty, quy định việc sử dụng vốn ngân sách cấp để xây dựng và duy tu, bảo dưỡng hạ tầng KCN theo kế hoạch và tiến độ được duyệt và sẽ sử dụng nguồn thu do công ty nộp để trả nợ vốn vay, bao gồm cả gốc và lãi. Ngoài ra, công ty còn được bảo lãnh dể vay vốn ưu đãi tại chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển và tại các ngần hàng thương mại và được phép trích từ nguồn thu từ việc cho thuê đất để bổ sung kinh phí hoạt động”.
Mô hình công ty phát triển hạ tầng như trên đã giải quyết được phần nào mâu thuẫn được nêu ở trên. Tuy nhiên, do mới được thành lập nên khả năng thành công của mô hình này vẫn còn là một dấu hỏi cần phải có thời gian mới giải đáp được.
Bên cạnh những vướng mắc về mô hình công ty phát triển hạ tầng, một vấn đề nan giải không kém đó là vấn đề vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN. Như trên đã nêu, hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN là hoạt động cần rất nhiều vốn đầu tư và do đó nó đòi hỏi các công ty phát triển hạ tầng phải có tiềm lực tài chính thật mạnh mẽ để có thể đáp ứng được nhu cầu rất lớn về vốn đó, hoặc chí ít thì họ cũng phải có được phương thức huy động vốn hữu hiệu. Tuy nhiên, đây lại là những yếu điểm của hầu hết các công ty phát triển hạ tầng của các KCN tại Việt Nam, không chỉ các công ty trong nước mà cả một số các doanh nghiệp có vốn FDI. Trong trường hợp này, vai trò hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước có chức năng là rất quan trọng. Các cơ quan Nhà nước có thể thực hiện vai trò hỗ trợ của mình như sau:
+ Trong các nguồn vốn mà chủ đầu tư có thể huy động, ngoài nguồn vốn tự có ra, nguồn vốn vay là nguồn vốn được huy động nhiều nhất. Chính vì vậy, không có cách nào hỗ trợ hiệu quả hơn cho các chủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng KCN bằng cách hỗ trợ cho họ về vốn thông qua việc cung cấp các nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi, thời gian hoàn vốn dài và không đòi hỏi thế chấp tài sản. Nếu tính trung bình khoảng 40% số vốn của các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng KCN là từ vốn vay thì tổng lượng vốn vay cần thiết cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng KCN là gần 10 tỷ đồng. Đây là một con số không nhỏ nhưng vẫn nằm trong khả năng cung cấp của các ngân hàng Việt Nam. Vì vậy, cần tạo điều kiện để các chủ đầu tư có thể vay được vốn một cách dễ dàng, nhanh chóng với những ưu đãi nhất định.
+ Bên cạnh việc cho vay vốn, trong nhiều trường hợp các cơ quan chức năng nên xem xét việc cho phép sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN như mô hình ở trên của Công ty phát triển và khai thác hạ tầng KCN Đà Nẵng. Tuy nhiên, vai trò của vốn ngân sách là thực sự quan trọng trong việc góp phần làm giảm sự mất cân đối trong thu hút và triển khai thực hiện dự án, đặc biệt là dự án FDI, trong các KCN. Có nhiều địa phương và ngành nghề có nhiều điều kiện bất lợi nên dù có ưu đãi, khuyến khích đến đâu cũng không có nhà đầu tư nào chịu bỏ vốn. Do đó, Nhà nước phải đứng ra thực hiện chức năng của một chủ đầu tư để bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng của KCN để có thể thu hút được các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Đối với hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong KCN, điều này cũng góp phần thúc đẩy việc triển khai trở nên nhanh chóng, hiệu quả và đặc biệt là cân đối hơn trong cơ cấu triển khai theo lĩnh vực và địa phương tiếp nhận đầu tư.
+ Và cuối cùng, Nhà nước nên thực hiện vai trò hỗ trợ trong việc phát triển hạ tầng ngoài KCN sao cho đồng đều, tương xứng với hạ tầng trong KCN. Các công trình cơ sở hạ tầng ngoài KCN thường được coi như là mạch máu nối các doanh nghiệp trong KCN với thế giới bên ngoài. Mặc dù điều này có ý nghĩa hơn đối với hoạt động thu hút vốn FDI đầu tư vào KCN tuy nhiên, đối với hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN, cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ và sự thành công của hoạt động này. Bên cạnh việc tự bỏ vốn đầu tư vào các công trình hạ tầng, Nhà nước cũng cần phải tạo ra những cơ chế, chính sách thích hợp để thu hút các nguồn vốn khác cùng tham gia xây dựng hạ tầng như hình thức B.O.T, B.T.O và B.T ...
Nhóm kiến nghị về vấn đề lao động trong KCN:
Vấn đề về lao động trong các KCN hiện đang là mối quan tâm lớn của các cơ quan chức năng. Hiện nay, hai nhược điểm chính của vấn đề lao động trong các KCN đó là trình độ của lao động chưa theo kịp với nhu cầu của các nhà đầu tư và tình trạng tập trung với mật độ lớn lao động trong các KCN đã tạo ra sức ép về mặt xã hội. Cả hai vấn đề này đều tạo ra những gánh nặng cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài trong các KCN.
Để giải quyết những vướng mắc này, xin đưa ra một số kiến nghị sau:
+ Trước hết, để nâng cao trình độ của người lao động trong các KCN thì không có cách nào khác là Nhà nước phải tập trung hơn nữa vào công tác giáo dục, đào tạo và dạy nghề cho người lao động trong các KCN. Đặc biệt, cần quan tâm đúng mức tới hoạt động dạy nghề cho người lao động vì Việt Nam đang lâm vào tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Hiện nay, 61% lao động trong các KCN Việt Nam là lao động đơn giản, 35% là công nhân kỹ thuật và kỹ thuật viên và 4% là lao động có trình độ trên đại học. Vì vậy, song song với việc đào tạo thêm các cán bộ quản lý cũng cần chú trọng đào tạo các lao động kỹ thuật có tay nghề cao và đặc biệt là có khả năng tiếp thu được các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Bên cạnh đó, cần chú trọng hơn nữa tới công tác đào tạo và đào tạo lại cho các cán bộ quản lý cấp cao trong các doanh nghiệp có vốn FDI trong KCN, đặc biệt là trong các liên doanh. Có một thực tế là hiện nay, số cán bộ quản lý Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI trong các KCN có năng lực đảm đương được công việc là không nhiều. Phần lớn các cán bộ quản lý làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI trong các KCN hiện nay đang lâm vào tình trạng thiếu kinh nghiệm, kiến thức trong lĩnh vực FDI, trình độ ngoại ngữ thấp, không thông hiểu luật pháp... Tình trạng này gây rất nhiều bất lợi cho Bên Việt Nam trong liên doanh cũng như cho Nhà nước Việt Nam nói chung và là một trong những nguyên nhân sâu xa giải thích cho tỷ lệ dự án liên doanh bị giải thể trong các KCN ngày càng cao.
+ Tuy nhiên, về lâu dài cần thực hiện cải cách hệ thống giáo dục một cách triệt để. Thực trạng của hệ thống giáo dục, đào tạo dạy nghề của Việt Nam hiện nay là có sự tồn tại một khoảng cách khá xa giữa cái nhà trường dạy với cái doanh nghiệp cần. Những kiến thức ngành nghề mà doanh nghiệp cần thì nhà trường không có để cung cấp còn những kiến thức nhà trường cung cấp lại không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có vốn FDI trong các KCN thì khoảng cách này lại càng xa. Do đó, Nhà nước cần thực hiện cải cách nhằm gắn lý thuyết với thực tiễn hơn nữa, đảm bảo cho những kiến thức được giảng dạy sát với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp.
+ Cần nâng cao ý thức pháp luật cho người lao động và tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp có vốn FDI trong các KCN Việt Nam. Việc giáo dục ý thức pháp luật cho người lao động hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp và xã hội là rất cần thiết bởi phần lớn các lao động xuất thân từ nông thôn nên trình độ hiểu biết còn thấp, không nắm rõ luật pháp nên tự bảo vệ được quyền lợi của mình khi tham gia lao động hoặc không hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các tổ chức công đoàn cần phải thực sự hoạt động vì quyền lợi của công nhân, bảo vệ quyền lợi của công nhân đồng thời giáo dục kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp cho công nhân. Tuy nhiên, trên thực tế do chưa làm tốt cả hai việc trên nên đã nảy sinh nhiều vụ xung đột giữa chủ đầu tư nước ngoài và nguời lao động Việt Nam, gây ảnh hưởng lớn hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trong các KCN.
+ Bên cạnh việc giải quyết vấn đề về trình độ của người lao động, một vấn đề khác cũng quan trọng không kém đó là tác động của sự tập trung đông lao động trong các KCN tới tình hình kinh tế-xã hội của địa phương sở tại. Dưới sức ép của lượng đông các lao động, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội song song với việc phát triển hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài KCN. Ví dụ như vấn đề liên quan mật thiết nhất tới người lao động đó là nhà ở. Do tính chất tập trung của các KCN nên các lao động thường cư trú luôn trong KCN hoặc ở các vùng phụ cận. Do đó, phát sinh nhu cầu về nhà ở cũng như các hạ tầng xã hội tối thiểu khác như trường học, trạm y tế... Tuy nhiên, một mình Nhà nước khó có khả năng lo hết được nên cần phải có các chính sách kêu gọi vốn đầu tư vào các lĩnh vực này với các điều kiện thật ưu đãi. Có như vậy mới đảm bảo cho người lao động có được một cuộc sống ổn định mà cũng không đặt gánh nặng tài chính lên vai các chủ đầu tư.
+ Cuối cùng, cần rà soát lại các chính sách, văn bản pháp quy hiện hành, hệ thống hoá các văn bản còn tác dụng sửa đổi và bổ sung điều chỉnh các chính sách, văn bản pháp luật mới nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ, có tác dụng điều chỉnh phù hợp với quan hệ lao động trong KCN.
Nhóm kiến nghị về vấn đề tài chính và tín dụng trong KCN:
Những kiến nghị liên quan đến chính sách tài chính:
Đối với chính sách tài chính, xin có một số kiến nghị như sau:
+ Nhà nước nên sử dụng vốn ngân sách để hỗ trợ phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật trong KCN, đặc biệt là đối với các tỉnh thành có khó khăn trong việc phát triển kinh tế-xã hội như một số tỉnh thành ở phía Bắc hoặc miền Trung. ở các tỉnh này, giá cho thuê đất thô chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng nhưng do chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng cao nên giá thành đất đã phát triển hạ tầng ở các tỉnh này cao hơn so với các tỉnh ở Đông Nam Bộ. Vì vậy, để hấp dẫn các nhà đầu tư vào các tỉnh thành ở phía Bắc và miền Trung, Nhà nước cần hỗ trợ vốn với các điều kiện ưu đãi cho các nhà đầu tư đầu tư vào các tỉnh thành này.
+ Ngoài ra, vốn ngân sách còn có thể được sử dụng để đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng kỹ thuật-xã hội bên ngoài KCN. Trước đây, việc lập quy hoạch phát triển tổng thể của các KCN thường không chú trọng tới việc xem xét cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội bên ngoài KCN mà chỉ quan tâm tới cơ sở hạ tầng bên trong KCN. Cách nhìn như vậy là phiến diện và thực tế đã chứng minh tác hại to lớn của cấch nhìn đó. Các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN bao gồm các công trình hạ tầng cơ bản như điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc...và đặc biệt, điều cần quan tâm là các công trình nhà ở cho người lao động trong KCN cùng các chính sách hạ tầng xã hội thiết yếu khác như trường học, trạm y tế, bệnh viện...
Ngoài cách hỗ trợ thông qua nguồn vốn ngân sách, Nhà nước có thể có các chính sách ưu đãi nhằm thu hút các dự án B.O.T đầu tư vào phát triển hạ tầng ngoài KCN.
+ Nên tách riêng giá thuê đất thô ra khỏi cơ cấu giá thuê lại đất trong KCN để có thể tách bạch quyền thuê đất thô (của Nhà nước) và quyền cho thuê hạ tầng (của công ty phát triển hạ tầng). Như vậy góp phần tránh hiện tượng đầu cơ đất của một số doanh nghiệp cũng như phù hợp với chủ trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho doanh nghiệp KCN.
+ Nhà nước nên thống nhất các chính sách ưu đãi sử dụng với các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay, do trong doanh nghiệp có nhiều loại thành phần kinh tế khác nhau nên đựôc hưởng các ưu đãi khác nhau theo các Luật khác nhau quy định. Đây là một vấn đề mang tính phân biệt đối xử, nhất là giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do đó, cần sớm thiết lập mặt bằng pháp lý chung đối với hai loại doanh nghiệp này.
Những kiến nghị liên quan đến chính sách tín dụng:
Nhà nước cần sử dụng các biện pháp tín dụng nhằm bảo đảm vốn cho việc phát triển hạ tầng KCN. ở phần trên, đã đưa ra một số biện pháp nhằm đảm bảo nguồn vốn cho phát triển hạ tầng KCN. Trong phần này, chỉ xin đưa ra một giải pháp tuy còn mới mẻ nhưng mang tính hiệu quả cao. Đó là phương thức tài trợ dự án. Đây là phương thức cho phép nhiều nhà đầu tư hơn có thể tham gia vay vốn để đầu tư vào các công trình và tiện ích công cộng.
Nếu trước đây, theo phương thức tài trợ thông thường, khi các doanh nghiệp vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc vật có giá cho nhà tài trợ với giá trị gấp 144-155% giá trị khoản vay. Như vậy rõ ràng khiến cho các nhà đầu tư có năng lực công nghệ, kỹ thuật thì thừa nhưng năng lực vốn hạn chế khó có thể tham gia hoặc chỉ có thể tham gia các dự án nhỏ.
Tuy nhiên, theo phương thức tài trợ dự án, đối tượng xét cấp tín dụng không phải là các nhà đầu tư mà là bản thân dự án. Và do đó, trách nhiệm của nhà đầu tư đối với khoản vay chỉ là hữu hạn trong phạm vi vốn đầu tư của họ trong dự án. Như vậy, phương thức tài trợ dự án vừa tăng cơ hội tiếp cận các nguồn tín dụng của chủ đầu tư vừa là một công cụ nhằm phân tán rủi ro một cách hiệu quả.
Chính vì vậy, Nhà nước ta nên sớm cho áp dụng hình thứuc tài trợ này để có thể đầu tư hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng và tiện ích công cộng.
Bên cạnh đó, việc đảm bảo vốn vay cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN là rất cần thiết, theo tính toán, hiện nay, nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp KCN là trên 100 tỷ đồng trong đó khoảng 70 tỷ là vốn vay trung và dài hạn đầu tư vào xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị còn khoảng 30 tỷ là vốn vây ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu thông của các dự án trong KCN. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư, Nhà nước cần đảm bảo cung cấp nguồn vốn đáp ứng nhu cầu trên với lãi suất và thời gian vay ưu đãi, tránh để các doanh nghiệp phải vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài với điều kiện vay khó khăn.
Nhóm kiến nghị về công tác quản lý Nhà nước về KCN và công tác quản lý dự án đối với các dự án FDI KCN:
Đây là những vướng mắc thuần tuý xuất phát từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước. Đối với những vưóng mắc này, xin đưa ra một số kiến nghị sau:
* Đối với công tác lập quy hoạch các KCN:
Cần nâng cao chất lượng của công tác quy hoạch phát triển mạng lưới KCN trên phạm vi cả nước. Tiến hành rà soát lại các quy hoạch KCN Việt Nam đến 2010, tìm ra những điểm bất hợp lý hoặc không còn phù hợp của quy hoạch cũ để có những sự điều chỉnh thích hợp. Sự điều chỉnh ở đây có thể là thêm hoặc bớt số lượng KCN trong quy hoạch của các địa phương trên cơ sở đánh giá toàn diện về các điều kiện kinh tế - xã hội - kỹ thuật của địa phương đó xem có đáp ứng được các yêu cầu để xây dựng và phát triển hiệu quả các KCN như trong quy hoạch.
Việc làm này sẽ góp phần đảm bảo không để tồn tại các KCN hoạt động không hiệu quả, nhờ đó, giúp cho tình hình triển khai các dự án FDI KCN trở nên thuận lợi và khả quan hơn. Hơn thế nữa, việc giám sát chặt chẽ công tác lập quy hoạch các KCN trên cả nước sẽ góp phần loại trừ việc thành lập KCN theo phong trào, tránh sự tập trung quá nhiều các KCN trên phạm vi một địa phương, nguyên nhân của sự mất cân đối trong thu hút và triển khai các dự án FDI KCN.
* Đối với mô hình quản lý các KCN ở Việt Nam:
Những biện pháp cần thực hiện là:
+ Trước mắt, cần nhanh chóng tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định trong Quy chế KCN, KCX, KCNC, ban hành kèm Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, để cho phù hợp với thực tiễn phát triển KCN trong cả nước. Việc sửa đổi cần thực hiện theo hướng:
- Xác định một cách rõ ràng, cụ thể các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với KCN, tránh sự chồng chéo, giẫm chân lên nhau trong việc quy định các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý khác nhau. Đặc biệt là đối với Ban quản lý KCN cấp tỉnh, là cơ quan trực tiếp quản lý các KCN trong phạm vi một tỉnh, cần xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương và Trung ương.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp công tác giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về KCN, đặc biệt là giữa các Ban quản lý KCN cấp tỉnh với các Ban, ngành và chính quyền địa phương để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Có như vậy mới có thể thiết lập được một bộ máy quản lý Nhà nước hữu hiệu đối với các KCN trong cả nước.
+ Về lâu dài, cần nghiên cứu sửa đổi mô hình tổ chức của các cơ quan quản lý Nhà nước về KCN hiện nay theo hướng thực hiện uỷ quyền ngày càng nhiều cho các Ban quản lý KCN cấp tỉnh đồng thời xây dựng và hoàn thiện một cơ quan quản lý ở Trung ương có vai trò như một cơ quan đầu mối với các chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ tăng thêm nhằm đáp ứng được những thay đổi trong thực tiễn hoạt động của các KCN trên cả nước trong thời gian qua.
Những kiến nghị trên đối với mô hình quản lý các KCN ở Việt Nam đều nhằm mục đích tạo điều kiện để thực hiện đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thiết lập cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” nhằm tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động thu hút và triển khai thực hiện các dự án FDI KCN.
* Đối với công tác thẩm định dự án trước khi cấp phép:
+ Cần thực hiện thật nghiêm túc và chặt chẽ công tác này nhằm đảm bảo không cấp phép nhầm cho những dự án không khả thi cũng như đảm bảo các dự án khả thi đều được cấp phép.
+ Việc cấp giấy phép đầu tư cần được thực hiện trên cơ sở kết quả thẩm định của các cơ quan có chức năng đối với dự án đầu tư. Nghiêm cấm tình trạng mua đi, bán lại giấy phép đầu tư.
+ Nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ lợi ích chung của các cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó, cần phải không ngừng trau dồi, nâng cao trình độ và đạo đức của cán bộ thẩm định.
* Đối với công tác quản lý, giám sát việc triển khai thực hiện dự án FDI KCN "sau giấy phép":
Đối với công tác này, các cơ quan quản lý cần phối hợp với các chủ đầu tư để có thể giám sát một cách chặt chẽ giai đoạn triển khai thực hiện các dự án FDI KCN sau khi được cấp phép.
kết luận
Chủ trương hợp tác và đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới, trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hơn mười năm qua, hoạt động FDI đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trong thành tựu đó của hoạt động FDI, có đóng góp không nhỏ của các dự án FDI trong các KCN trên cả nước. Mặc dù vậy, thực trạng tình hình triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN lại không mấy khả quan do trong thực tiễn hoạt động còn gặp nhiều vướng mắc. Điều đó làm cho hiệu quả đạt được của các dự án FDI đầu tư vào KCN chưa đúng với những tiềm năng cũng như khả năng phát triển mà nó có thể đạt được. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân của sự trì trệ trong hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN cũng như việc đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đó là rất cần thiết.
Trong Khoá luận này, qua 3 chương bài viết, em hy vọng phần nào có thể góp phần làm sáng tỏ các nguyên nhân kìm hãm hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN trên cả nước cũng như hy vọng các giải pháp được đưa ra phần nào có thể giúp giải quyết được thực trạng trên.
Khóa luận đã giải quyết được những vấn đề sau:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về triển khai và quản trị triển khai các dự án FDI.
- Phân tích thực trạng tình hình triển khai thực hiện các dự án FDI trong các KCN của Việt Nam và qua đó làm sáng tỏ những nguyên nhân gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động triển khai thực hiện các dự án FDI KCN.
- Đưa ra một số giải pháp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như đối với các chủ đầu tư nhằm thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN.
Do thời gian nghiên cứu và trình độ có hạn, lĩnh vực nghiên cứu còn khá mới mẻ, do đó bài viết của em không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô cũng sự góp ý của các bạn để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
danh mục Tài liệu tham khảo
I. Sách:
PGS – TS Vũ Chí Lộc – "Giáo trình đầu tư nước ngoài" – Nhà xuất bản Giáo dục – Năm 1997
"GVC.TS Nguyễn Thị Hường - "Quản trị dự án đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ" - Nhà xuất bản Thống Kê - Năm 2000.
II. Báo, Tạp chí:
Phạm Văn Chương - "Nhìn lại phát triển các khu công nghiệp giai đoạn 1991-1999: thực trạng-nguyên nhân-giải pháp" - Tạp chí Thông tin Tài chính số 1/2000.
Minh Huệ - "Các KCN, KCX Việt Nam - một năm nhìn lại" - Tạp chí Thông tin khu công nghiệp số 1/2003.
Hoàng Xuân Long & Phan Tất Thứ - "Đầu tư theo phong trào - Hiện tượng cần sớm khắc phục" - Tạp chí Kinh tế & Dự báo số 4/1999.
TS.Vũ Minh Trai - "Về việc phát triển các khu công nghiệp tập trung ở nước ta" - Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 36/2000.
TS. Đỗ Đức Bình & Th.S Bùi Huy Nhượng – "Một số giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh triển khai thực hiện dự án FDI tại Việt Nam" – Tạp trí Kinh Tế Châu á - Thái Bình Dương số 6 (35), 12/2001
III. Tài liệu khác:
Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Nghiên cứu mô hình tổ chức quản lý Nhà nước khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam" - Vụ Quản lý KCN-KCX.
Tài liệu "Tổng kết tình hình hoạt động các khu công nghiệp - khu chế xuất năm 2002 và phương hướng phát triển trong thời gian tới" - Vụ quản lý KCN & KCX - Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Danh mục các bảng:
Bảng 1: Khái quát tình hình hoạt động của các dự án FDI tại Việt Nam (giai đoạn 1988-2002). (tr 28)
Bảng 2: Cơ cấu dự án FDI KCN còn hiệu lực ở Việt Nam xét theo lĩnh vực đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 35)
Bảng 3: Tình hình triển khai dự án FDI tại Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 36)
Bảng 4: Cơ cấu dự án FDI KCN còn hiệu lực ở Việt Nam xét theo địa phương (giai đoạn 1988-2002). (tr 39)
Bảng 5: Tình hình triển khai các dự án FDI KCN ở Việt Nam theo địa phương (giai đoạn 1988-2002). (tr 41)
Bảng 6: Tình hình triển khai các dự án FDI ở một số KCN dẫn đầu về tỷ lệ triển khai vốn FDI của Việt Nam. (tr 43)
Bảng 7: Tình hình triển khai các dự án FDI KCN ở Việt Nam theo hình thức đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 45)
Bảng 8: Tình hình triển khai các dự án FDI KCN ở Việt Nam theo đối tác đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 48)
Danh mục các hình:
Hình 1: Tình hình triển khai dự án FDI tại Việt Nam qua các năm (giai đoạn 1988 - 2002). (tr 30)
Hình 2: Cơ cấu dự án FDI KCN còn hiệu lực ở Việt Nam xét theo lĩnh vực đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 33)
Hình 3: Cơ cấu vốn giải thể của các dự án FDI KCN ở Việt Nam xét theo lĩnh vực đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 38)
Hình 4: Cơ cấu vốn giải thể của các dự án FDI KCN ở Việt Nam xét theo hình thức đầu tư (giai đoạn 1988-2002). (tr 47)
Danh mục các từ viết tắt :
+ ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam á
+ Bộ KH & ĐT: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
+ CNH & HĐH: Công nghiệp hoá & Hiện đại hoá
+ CNXH: Chủ nghĩa xã hội
+ EU: Cộng đồng kinh tế Châu Âu
+ FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
+ FDI KCN: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong KCN
+ GTVT: Giao thông vận tải
+ KCN: Khu công nghiệp (nếu dùng theo nghĩa chung thì bao gồm cả khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao)
+ KCNC: Khu công nghệ cao
+ KCX: Khu chế xuất
+ NICs: Các nước công nghiệp mới
+ LLSX: Lực lượng sản xuất
+ TTCP: Thủ tướng chính phủ
+ QHSX: Quan hệ sản xuất
+ XD: Xây dựng
+ XHCN: Xã hội chủ nghĩa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19195.doc