Chứng khoán phái sinh là những sáng tạo rất thành công của thị trường tài chính, là một trong những thành tựu phát triển tài chính đáng chú ý nhất trong hơn 20 năm qua và ngày càng trở nên quan trọng, cần thiết cho các nhà kinh doanh, đầu tư. Sự phát triển của chúng luôn gắn liền với sự lớn mạn của các thị trường chứng khoán thế giới. Giao dịch chứng khoán phái sinh hiện đang là một trong những xu thế phát triển mạnh nhất hiện nay, hiện công cụ phái sinh đang thống trị thị trường tài chính, hàng loạt các hợp đồng tương lai và quyền chọn luôn có mặt trên hầu hết các thị trường thế giới. Mức độ áp dụng công cụ phái sinh của một thị trường chứng khoán là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện của một thị trường chứng khoán.
96 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số công cụ chứng khoán phái sinh và khả năng áp dụng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu trúc sản phẩm. Một vấn đề nổi lên hiện nay là các ngân hàng và các công ty quốc tế lớn đã sử dụng công cụ phái sinh như một thành phần thiết yếu trong việc quản lý rủi ro. Sự phát triển trong việc sử dụng công cụ chứng khoán phái sinh như trên được trợ giúp bởi những cải tiến trong kỹ thuật cung cấp thông tin và phân tích, đánh giá và định giá các rủi ro vốn có trong các hợp đồng chứng khoán phái sinh. Mặc dù vậy, thị trường chứng khoán phái sinh sẽ giúp nâng cao hơn nữa trong việc quản lý rủi ro và ngăn ngừa những khoản thua lỗ tiềm năng.
2.4. Bài học kinh nghiệm rút ra từ các thị trường chứng khoán phái sinh thế giới.
Từ kinh nghiệm thực tiễn về quản lý và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở các nước, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán phái sinh thông qua việc đưa ra các chính sách vĩ mô, vi mô thích hợp tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế nói chung và tình hình hoạt động thị trường chứng khoán nói riêng của từng nước.
Thị trường chứng khoán phái sinh đã phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới trong những năm gần đây. Chức năng kinh tế của thị trường chứng khoán phái sinh là chuyển đổi rủi ro từ những người không muốn chịu đựng rủi ro sang những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro với điều kiện phải trả phí cho họ. Xét về khía cạnh nay, thị trường phái sinh gần giống với ngành bảo hiểm, tuy nhiên người ta không xem chức năng này là chức năng bảo hiểm mà người ta gọi là chức năng phòng hộ giá. Trên thực tê, hầu hết các nhà giao dịch sản phẩm phái sinh phục vụ cho mục đích đầu cơ hơn là mục đích phòng hộ gia. Tuy nhiên đầu cơ ở đây cần được hiểu là chúng phục vụ cho mục đích tạo tính thanh khoản cho thị trường, giúp thị trường thực hiện được chức năng đầy đủ của mình là chuyển đổi rủi ro. Vì con số thực tế cho thấy, khối lượng đặt cược trên thị trường tài chính lớn hơn rất nhiều so với con số đặt cược trong ngành cờ bạc. Vì thị trường chứng khoán phái sinh tồn tại chính yếu nhằm cung cấp kỹ thuật đối với các rủi ro về giá cả và rủi ro quản lý, nên trong giai đoạn đầu tiên, khi thị trường chứng khoán được thành lập, rất nhiều nhà đầu tư nhầm lẫn đầu tư chứng khoán phái sinh với đánh bạc hoặc đầu cơ, ảo tưởng rằng họ sẽ kiếm được nhiều tiền nhờ vào đầu cơ thị trường. Điều này dễ làm thị trường rối loạn và dễ dẫn đến sụp đổ. Mặt khác, nếu thị trường bị điều tiết quá chặt và kiểm soát khá khắt khe, thì thị trường cũng không thể hoạt động tích cực vì không thể làm tốt các chức năng của thị trường phái sinh. Do vậy, để có một thị trường chứng khoán phái sinh phát triển và tăng trưởng hiệu quả, bước đầu tiên phải xác lập một khuôn khổ quản lý và pháp lý toàn diện, nhất quán như là nền tảng cho thị trường. Đồng thời củng cố và thiết lập đầy đủ các thể chế thị trường hoạt động trên thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, các công cụ phái sinh, cũng như các chức năng tác nghiệp như thanh toán bù trừ, lưu ký chứng khoán, cùng các định chế tài chính trong lĩnh vực quản lý quỹ đầu tư và ngành chứng khoán phái sinh.
Số lượng các ngân hàng và các công ty môi giới tham gia vào thị trường chứng khoán phái sinh tăng lên nhanh chóng gây ra mối lo ngại rằng sẽ xuất hiện những khoản lỗ thảm khốc mà có thể dẫn đến sự sụp đổ trong hệ thống tài chính. Có rất nhiều ví dụ minh hoạ về những mối nguy hiểm thực sự trong các vụ đầu cơ như vậy. Ví dụ, một công ty của Đức Metallgesellschaft có chi nhánh tại Mỹ là công ty MG, đang hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán phái sinh, theo báo cáo tài chính của MG năm 1993, thì họ lỗ 500 triệu USD và tổng số lỗ có thể lên tới 800 triệu USD. Vì vậy, việc đào tạo các chuyên gia về chứng khoán là vô cùng cần thiết. Thị trường chứng khoán phái sinh là khu vực chịu sự tác động rất lớn của những biến động và cần phải thẩm định, xem xét kỹ lưỡng. Chính vì vậy, để thị trường chứng khoán phái sinh hoạt động một cách hiệu quả, mọi người tham gia thị trường, bao gồm các nhà hoạch định chính sách và những người kinh doanh chứng khoán, những nhà môi giới, thậm chí các nhà đầu tư cần phải được đào tạo là các chuyên gia chứng khoán.
Về mô hình quản lý: Mô hình quản lý nhà nước kết hợp với cơ chế tự quản là mô hình phổ biến ở các nước, mô hình nhà nước quản lý vĩ mô kiêm tổ chức và vận hành thị trường chỉ có ở các giai đoạn đầu phát triển của một số thị trường. Một vấn đề đặt ra cho bất kỳ nước nào muốn phát triển thị trường chứng khoán phái sinh là phải xác định được phạm vi nhà nước cần quản lý và phạm vi phân cấp tự quản cho các tổ chức hành nghề. Tránh đơn thuần sao chụp, bắt chước nguyên mẫu mô hình của một nước khác. Phương án được lựa chọn phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống pháp luật và điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của nước mình.
Một trong những lợi ích quan trọng mà có được từ một Sở giao dịch phái sinh tương lai là khi nó hoạt động như một chất xúc tác cho hoạt động của những doanh nghiệp còn mới mẻ. Những Sở giao dịch này có một lịch sử thu hút những người được đào tạo tốt, sáng tạo, triển vọng theo lĩnh vực kinh doanh. Những người này được nâng cao nghiệp vụ từ sự học hỏi lẫn nhau. Họ thường hợp tác với nhau để tạo ra những hoạt động kinh doanh mới, những sản phẩm mới, những công việc mới… Đây là một lợi ích đáng kể. Bên cạnh đó thị trường chứng khoán phái sinh hoạt động tốt sẽ tạo việc làm trực tiếp và tác động đến nền kinh tế địa phương. Hầu như mọi ngành cơ bản sẽ được kết nối với Sở giao dịch cả trực tiếp và gián tiếp, cung cấp sản phẩm và các dịch vụ cho Sở giao dịch, cho các thành viên của nó và cho khách hàng của nó. Không thể đo lường được ảnh hưởng khác nhau của tất cả các công việc liên quan đến Sở giao dịch, nhưng một sự xem xét kỹ lưỡng và củng cố một vài tổ chức liên quan mà không phải là thành viên của Sở giao dịch nhưng có thể chịu ảnh hưởng bởi sự hình thành của một Sở giao dịch tương lai để cung cấp ra ý tưởng cho việc tạo ra những lợi ích gián tiếp. Một danh sách như vậy sẽ bao gồm: các ngân hàng địa phương, các nhà môi giới nước ngoài, các nhà quản lý tài sản, các ngân hàng nước ngoài, các cơ quan quản lý, các công ty luật, các công ty kế toán, các công ty viễn thông, các dịch vụ xử lý dữ liệu, các nhà cung cấp thiết bị xử lý dữ liệu, các nhà phát triển phần mềm, các dịch vụ bù trừ, các nhà thầu chứng khoán, các dịch vụ mới, các dịch vụ vận tải, các dịch vụ giám sát chất lượng… Do vậy, để phát triển được một thị trường chứng khoán phái sinh hoạt động hiệu quả, bên cạnh việc thiết lập chặt chẽ và đầy đủ khuôn khổ quản lý, pháp lý và các thể chế thị trường thì việc xem xét và củng cố các tổ chức liên quan gián tiếp đến Sở giao dịch phái sinh là việc làm rất hữu ích đối với tiến trình phát triển thị trường chứng khoán phái sinh.
Chương III
Khả năng hình thành thị trường
chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
3.1. Khái quát thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung và thị trường chứng khoán phái sinh nói riêng.
Trong hệ thống thị trường tài chính Việt Nam hiện nay, chúng ta đã có một loạt thị trường tiền tệ, hối đoái, cổ phiếu, trái phiếu, nhưng chưa hình thành một thị trường chứng khoán phái sinh có tổ chức, tương tự như các Sở giao dịch giao dịch chứng khoán phái sinh trên các nước.
Thị trường cổ phiếu và trái phiếu có tổ chức của Việt Nam chính thức ra đời vào tháng 7/2000. Qua hơn 7 năm hoạt động, đã hình thành các yếu tố cơ bản cấu thành thị trường như sở giao dịch, hàng hóa, các nhà đầu tư, khuôn khổ luật pháp, các cơ quan quản lý, các tổ chức trung gian, các tổ chức dịch vụ thị trường…Sau 7 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Điều này thể hiện trước hết ở quy mô thị trường, mức vốn hóa của thị trường chứng khoán năm 2007 chiếm 43% GDP (chỉ tính riêng đối với cổ phiếu). Về hoạt động giao dịch chứng khoán, năm 2007, khối lượng chứng khoán được giao dịch trên thị trường tập trung đạt khoảng 3.591 triệu chứng khoán, trong đó giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài đạt 45% tổng giá trị giao dịch cổ phiếu trênthị trường. Từ hai tổ chức niêm yết ban đầu, đến cuối năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 253 tổ chức niêm yết với khối lượng niêm yết khoảng 5.087 triệu cổ phần. Có khoảng 570 loại trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam , có giá trị chiếm khoảng 10% GDP năm 2007.
Tính đến cuối năm 2007, đã có gần 80 công ty chứng khoán được cấp phép thành lập và hoạt động trên thị trường chứng khoán với quy mô vốn khoảng 13.000 tỷ đồng. Ngoài ra còn có 24 công ty quản lý quỹ đầu tư đã được cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 11 công ty đã lập và quản lý các quỹ đầu tư, quy mô vốn tăng lên 725 tỷ đồng tại thời điểm tháng 12/2007.
Tổng khối lượng và giá trị giao dịch chứng khoán từ năm 2000-2007
Năm
Toàn thị trường
Entire market
Cổ phiếu
Com. Stocks
Chứng chỉ quỹ
Fund’s Cer
Trái phiếu
Bonds
KL
GT
KL
GT
KL
GT
KL
GT
2000
3.662.357
92.357
3.641.000
90.215
0
0
21.790
2.143
2001
19.721.930
1.034.721
19.028.200
964.020
0
0
693.730
70.702
2002
37.008.649
1.080.891
35.715.939
959.330
0
0
1.292.710
121.561
2003
53.155.990
2.998.321
28.074.150
502.022
0
0
25.081.840
2.496.299
2004
248.072.240
19.887.150
72.894.288
1.970.969
3.498.720
32.899
171.679.232
17.883.282
2005
353.070.622
26.877.959
94.846.187
2.784.291
26.113.610
256.079
232.110.825
23.837.589
2006
1.120.781.696
86.829.273
538.536.869
35.472.342
104.744.380
2.702.683
477.500.447
48.654.249
2007
2.389.522.805
245.651.219
1.814.278.168
200.716.849
194.257.630
5.015.540
380.987.007
39.918.829
(Nguồn : Tạp chí chứng khoán Việt Nam)
Tuy chưa hình thành thị một thị trường chứng khoán phái sinh có tổ chức nhưng giao dịch công cụ phái sinh đã tồn tại và phát triển từ nhiều năm nay dưới hình thức tự do hoặc phi tập trung. Nếu không tính đến các hợp đồng kỳ hạn thường được nông dân hay các thương gia, hay các nhà chế biến nông phẩm giao dịch theo phương thức trao đổi giao dịch cá nhân, chủ yếu là các hợp đồng bán lúa non hay gia súc, các nông phẩm khác… thì hiện nay, các công cụ phái sinh chủ yếu được giao dịch tại Việt Nam dưới dạng phái sinh tài chính là các hợp đồng hoán đổi (tiền tệ, lãi suất), các hợp đồng quyền chọn tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái, vàng…
Đối với thị trường ngoại hối, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn trên thị trường ngoại hối được Ngân hàng Nhà nước cho phép từ năm 1998 theo quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN ngày 10/1/1998. Với quyết định này cho phép các ngân hàng thương mại triển khai các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất và mua bán ngoại hối kỳ hạn với khách hàng là các doanh nghiệp xuất khẩu, nhờ vậy, đã giúp cho các doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong bối cảnh khủng hoảng Đông Nam á. Đến năm 2002, được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng cổ phần xuất nhập khẩu Eximbank đã tiến hành thí điểm giao dịch quyền lựa chọn (options). Mặc dù mới đưa vào giao dịch trên thị trường, cơ chế còn khá mới mẻ nhưng bước đầu đã được nhiều khách hàng tham gia. Sang năm 2004, trước tình hình biến động của giá cà phê trên thị trường gây rủi ro cho nông dân và các công ty xuất khẩu cà phê, Ngân hàng kỹ thương đã đứng ra làm đầu mối tổ chức cho các doanh nghiệp thực hiện giao dịch phái sinh trên thị trường London, bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể.
Với tình hình hoạt động của thị trường các chứng khoán phái sinh ở Việt Nam thời gian qua có thể tổng kết được những thành tựu và hạn chế sau:
Những thành quả bước đầu:
Nhận thức về các công cụ phái sinh và sự vận dụng chúng vào trong hoạt động kinh doanh ngày càng phổ biến và hiệu quả. Bằng việc đưa các công cụ phái dinh hoán đổi (swap), kỳ hạn (forward) và quyền lựa chọn (options) vào giao dịch trên thị trường, bước đầu ngân hàng đã tạo được nhận thức cho khách hàng trong việc vận dụng chúng để phục vụ cho hoạt độgn kinh doanh hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá. Trên cơ sở những thành quả đạt được trên thị trường ngoại hối, hoạt động giao dịch phái sinh được triển khai sang lĩnh vực thị trường hàng hóa, cụ thể là sản phẩm cà phê trên thị trường London được ngân hàng kỹ thương áp dụng, ngân hàng á Châu thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán vàng.
Cung ứng thêm các công cụ tài chính, góp phần làm phong phú và đa dạng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối. Một số ngân hàng năng động, giờ đây không chỉ tập trung vào những sản phẩm ngân hàng truyền thônga mà còn hướng tới nghiên cừu triển khai các phái sinh hiện đại
Những hạn chế
Khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với nhu cầu thực tế: Các giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối lượng giao dịch này ở các ngân hàng thương mại vẫn còn rất ít, vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng.
Giao dịch phái sinh chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn lại trên các thị trường khác vẫn chưa hình thành hoặc còn trong giai đoạn phôi thai. Điều này một phần xuất phát từ nguyên nhân về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán phái sinh chưa đầy đủ, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia chưa được đảm bảo, do đó chưa tạo được sự quan tâm của các định chế tài chính cũng như các nhà đầu tư khi tham gia trên thị trường chứng khoán, trong vận dụng các biện pháp để hạn chế rủi ro và đầu tư kiếm lời.
Đây là giai đoạn phát triển ban đầu của Việt Nam trên lĩnh vực chứng khoán nói chung và chứng khoán phái sinh nói riêng, cũng tương tự như ở các nước khác, giai đoạn đầu chỉ giao dịch các hợp đồng kỳ hạn, tiếp theo là các sản phẩm phái sinh cho ngân hàng và sang giai đoạn sau đó mới phát triển phái sinh cho các công ty chứng khoán và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán (thị trường phái sinh tập trung). Với việc thị trường điều chỉnh giảm như thời gian vừa qua, nhiều nhà đầu tư và công ty chứng khoán cho rằng, cần phải có những công cụ phòng ngừa rủi ro, giúp thị trường phát triển. Đây là lúc thị trường cần có thêm nhiều nghiệp vụ trong giao dịch để nhà đầu tư lựa chọn nhằm giảm thiểu rủi ro và thị trường chứng khoán phái sinh được các chuyên gia xem là một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhu cầu ứng dụng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
Nhu cầu đối với thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam được thể hiện qua các yếu tố sau:
Sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam kéo theo nhu cầu giao dịch chứng khoán phái sinh và dịch vụ quản lý rủi ro. Một nền kinh tế đang tăng trưởng cùng với sự tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư, chắc chắn sẽ tạo nhu cầu lớn đối với các dịch vụ quản lý rủi ro và sản phẩm quản lý rủi ro. Nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường kéo theo sự biến động giá nói chung và ngày càng xuất hiện nhiều rủi ro tài chính khi bảng cân đối kế toán của các doanh nghiệp ngày càng nhân lên thêm nhiều khoản nợ. Hiện nay Việt Nam ngày càng thu hút nhiều vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp và đầu tư vào cổ phiếu của các công ty trong nước, đồng thời thị trường chứng khoán đang thu hút đông đảo các cá nhân và tổ chức tham gia đầu tư và đầu cơ… Tất cả những điều này làm tăng nhanh nhu cầu về quản lý rủi ro đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư.
Nhờ chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã giải phóng mọi tiềm năng sản xuất kinh doanh. Với tốc độ phát triển kinh tế cao, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là tốc độ tăng nhanh của các định chế tài chính, định chế đầu tư, số lượng các công ty cổ phần tăng nhanh, mức độ cạnh tranh ngày càng cao giữa các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực… thì hiện nay, các nhà sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý tài sản cũng như các nhà quản lý danh mục đầu tư rất cần giao dịch hợp đồng phái sinh để rào chắn và quản lý rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận, nhằm tối ưu hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh, việc sử dụng vốn… để có thể cạnh tranh tốt trên thị trường.
Nhiều khảo sát cho thấy cộng đồng kinh doanh, đặc biệt là cộng đồng tài chính Việt Nam hiện nay rất quan tâm đến việc phát triển thị trường chứng khoán phái sinh. Đã có nhiều cuộc hội thảo được tiến hành nghiên cứu về thị trường chứng khoán phái sinh, HOSE đã tiến hành nghiên cứu về thị trường này từ đầu năm 2007 và dự kiến kết quả nghiên cứu sẽ được báo cáo lên ủy ban chứng khoán Nhà nước vào giữa năm 2008. Đây là thị trường quan trọng, hỗ trợ thêm công cụ để phòng chống rủi ro cho thị trường chính.
Bên cạnh sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, phải kể đến sự phát triển tích cực của các môi trường chính trị, pháp lý, xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật… Về cơ bản, hiện nay các môi trường này đã có nhiều thuận lợi, đặc biệt là môi trường chính trị ổn định, hệ thống luật pháp được hoàn thiện không ngừng theo hướng phục vụ phát triển nền kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển nhanh… đang là những môi trường thuận lợi để thúc đẩy nhanh nhu cầu sử dụng công cụ phái sinh.
Thị trường chứng khoán, tiền tệ và hàng hóa đã có những bước tiến nhanh trong hơn 7 năm qua…, là những yếu tố có mối quan hệ cộng sinh với thị trường chứng khoán phái sinh, một mặt chúng sẽ thúc đẩy nhu cầu giao dịch chứng khoán phái sinh, mặt khoác chúng cũng sẽ phát triển hoàn thiện hơn nhờ sự có mặt của thị trường chứng khoán phái sinh. Những thị trường này phát triển dẫn đến nhu cầu tất yếu phải có cơ chế quản lý tốt về lãi suất, tiền tệ, rủi ro tài chính gắn với những thay đổi giá trị cổ phiếu, lãi suất trong nước và ngoài nước, giá trị tiền tệ, giá trị hàng hóa… Ngược lại, sự tồn tại của thị trường chứng khoán phái sinh sẽ thúc đẩy các thị trường cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ… phát triển nhanh chóng và ổn định hơn. Nếu thị trường phái sinh có tổ chức của Việt Nam chậm ra đời một khi xã hội đã có nhu cầu, chắc chắn sẽ xuất hiện thị trường chứng khoán phái sinh tự do, hoặc các công cụ phái sinh dựa vào sản phẩm Việt Nam sẽ phát triển ở nước ngoài, hoặc giao dịch của cộng đồng kinh tế Việt Nam tại các thị trường phái sinh nước ngoài, vì vậy sẽ tạo nên một thị trường phái sinh tiềm năng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam và làm cho Việt Nam và cộng đồng tài chính Việt Nam mất đi nhiều lợi ích kinh tế nếu không thành lập một thị trường phái sinh có kiểm soát tại Việt Nam.
Trong suốt hai năm trở lại đây, không ai có thể phủ nhận rằng TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển rất tích cực, ngày càng trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng TTCK Việt Nam cũng đã mang lại cho các nhà đầu tư một bài học đắt giá rằng, đầu tư chứng khoán hiện nay rủi ro khá cao. Một minh chứng khá rõ nét là sự lên xuống thất thường của Vn-Index luôn nằm ngoài dự đoán của các chuyên gia. Vn-Index đạt tới 1.179,67 điểm (12/03/2007), tăng hơn 55% so với phiên cuối cùng của năm 2006, cũng là lúc các nhà đầu tư đổ vốn ào ào vào sàn giao dịch. Nhưng ngay sau đó, lên cao nhanh bao nhiêu, Vn-Index đi xuống nhanh bấy nhiêu. Chỉ trong vòng 3 tháng, từ tháng 11/2007 đến tháng 1/2008, Vn-Index sụt giảm tới 24%. Các mức 900, 800 điểm mà theo nhiều chuyên gia phân tích thị trường từng cho là “mức đáy”, liên tục bị phá vỡ.Và đến cuối tháng 3/2008 chỉ số Vn-Index đã giảm xuống dưới mức 600 điểm làm hoang mang rất nhiều các nhà đầu tư. Thực tế, đã có nhiều nhà đầu tư thua lỗ trong thời gian qua, điển hình là các nhà đầu tư cá nhân nhỏ ít vốn, phải cầm cố tài sản, phải đi vay và thiếu kinh nghiệm cũng như kiến thức đầu tư.
Biểu đồ Vn-index năm 2007:
Biểu đồ giao dịch trên thị trường cho thấy, khi giá cổ phiếu ở đỉnh cao nhất, là lúc có nhiều người mua vào nhất. Khi thị trường xuống mạnh, họ đứng trước nguy cơ thua lỗ lớn, và phải bán tháo hàng loạt. Thị trường lại càng xuống dốc hơn nữa. Khi thị trường trồi sụt thất thường như thời gian vừa qua, nếu các nghiệp vụ hợp đồng tương lai hay quyền chọn được áp dụng thì có thể các nhà đầu tư có được những quyết định hợp lý hơn, bám sát theo những biến động của thị trường chứng khoán. Hai công cụ phái sinh này giúp nhà đầu tư tránh được tình trạng thua lỗ quá nặng khi thị trường đi xuống và ngược lại, nhà đầu tư có thể đạt được mức lợi nhuận rất cao khi thị trường đi lên.
Công cụ phái sinh có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro nên hình thức này giúp nhà đầu tư tự tin khi tham gia thị trường, điều này giúp thu hút thêm nhà đầu tư tham gia thị trường. Vì vậy, cơ hội của các công cụ phái sinh trên thị trường chứng khoán mới nổi như Việt Nam được đánh giá là khá nhiều và đã đến lúc các công cụ phái sinh cần được triển khai và coi như một sản phẩm dịch vụ để các nhà đầu tư lựa chọn.
Như vậy có thể nói đây là thời điểm chín muồi để triển khai quyền chọn và hợp đồng tương lai chứng khoán để giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Bởi thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển đủ lớn và đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho việc áp dụng các công cụ chứng khoán phái sinh. Đó là tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán ngày càng cao; hàng hóa tăng mạnh về cả số lượng lẫn chất lượng; đã xuất hiện nhiều công ty cổ phần đại chúng lớn, sắp tới đây sẽ tiến hành cổ phần hóa gắn kết niêm yết trên thị trường chứng khoán các công ty hàng đầu, các tổng công ty lớn như: các ngân hàng quốc doanh (BIDV, Incombank), tổng công ty Bưu chính Viễn thông (Mobiphone, Vinaphone), tập đoàn dầu khí Petrilimex; đã có sự tham gia giao dịch rất lớn của các nhà đầu tư nước ngoài... Đặc biệt sự phát triển của TTCK thời gian qua quá nhanh, giá tăng- giảm đột biến, do đó nhu cầu về Options và Futures càng trở nên cấp bách. Nếu có các công cụ này, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua “bảo hiểm” về giá cho chứng khoán của mình.
3.3. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
Sự cần thiết của một TTCK phái sinh được thể hiện rõ ràng thông qua nghiên cứu các chức năng kinh tế cơ bản của nó, đó là các chức năng kinh tế vi mô cơ bản được thực hiện bởi các thị trường tương lai liên quan tới sự tạo giá cạnh trạnh, sự bảo hiểm những rủi ro giá cả thương mại, tạo điều kiện thuận lợi để huy động và phân bổ các nguồn lực. Đồng thời TTCK phái sinh còn có chức năng kinh tế vĩ mô gián tiếp là hỗ trợ huy động vốn trong xã hội và giúp chuyển hướng nguồn vốn theo cách sử dụng kinh tế nhất và hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, TTCK phái sinh còn mang lại nhiều lợi ích khác như:
3.3.1. Xúc tác cho các doanh nghiệp mới hình thành
Một trong những lợi ích quan trọng có được từ một Sở giao dịch chứng khoán phái sinh là nó hoạt động như một chất xúc tác đối với hoạt động doanh nghiệp mới. Kinh nghiệm các nước cho thấy, các SGD chứng khoán phái sinh trên thế giới hầu như đã có lịch sử thu hút rất nhiều nguồn nhân lực được đào tạo tốt, sáng tạo và có năng lực trong xã hội. Nguồn nhân lực này sẽ tạo ra động lực lẫn nhau. Họ thường còn tạo động lực cho các lĩnh vực khác để tạo những công việc kinh doanh mới, sản phẩm mới và công việc mới… Thị trường này đóng vai trò như một chất xúc tác cho sự ra đời của các lĩnh vực mới, doanh nghiệp mới.
3.3.2. Tạo việc làm trực tiếp và tác động đến nền kinh tế
Hầu như mọi ngành cơ bản sẽ được kết nối với SGD một cách trực tiếp và gián tiếp, cung cấp các hàng hóa và các dịch vụ cho SGD, cho các thành viên của nó và cho các khách hàng của nó. Không thể đo lường được ảnh hưởng khác nhau của tất cả các công việc liên quan đến SGD, nhưng có thể xem xét kỹ lưỡng một vài tổ chức liên quan không phải là thành viên của SGD nhưng chịu ảnh hưởng bởi sự hình thành của một SGD tương lai tài chính để cung cấp ra một ý tưởng cho việc tạo ra những lợi ích gián tiếp. Một danh sách như vậy sẽ bao gồm các ngân hàng trong nước, các nhà quản lý tài sản, các ngân hàng nước ngoài, các cơ quan quản lý, các công ty luật, các công ty kế toán, các công ty viễn thông, các dịch vụ xử lý dữ liệu, các nhà cung cấp thiết bị xử lý dữ liệu, các nhà phát triển phần mềm, các dịch vụ bù trừ, các nhà thầu chứng khoán, các dịch vụ mới, các dịch vụ vận tải, các dịch vụ giám sát thị trường…
Tác động của SGD liên quan đến việc làm, tạo ra nhiều giá trị sản phẩm quốc nội đối với một đất nước. Chicago là một ví dụ, những thống kê sau đây sẽ đưa ra một vấn đề có thể đóng góp phần nào nhìn rõ vấn đề này.
Công việc trực tiếp liên quan đến SGD Chicago, các tập đoàn thanh toán bù trừ, các thành viên của họ và các tổ chức được chọn cung cấp các dịch vụ cho SGD được ước tính có trên khoảng 33.000 người vào năm 1996
Chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cho SGD Chicago và các thành viên của nó chiếm khoảng 870 triệu đô la vào năm 1986.
Khách tham quan du lịch tới SGD Chicago ước tính giá trị 10-15 triệu đôla năm 1986
Các khoản tiền gửi hàng ngày trung bình liên quan đến SGD Chicago tại các ngân hàng khoảng 4 tỷ đôla năm 1986.
Các khoản đi vay trung bình hàng ngày của Sở ước tính từ 1-2 tỷ đôla.
Mỗi công việc trực tiếp của SGD có thể tạo ra nhiều công việc gián tiếp hỗ trợ và của các ngành khác. Trên cơ sở đó, ước tính tổng công việc trực tiếp hay gián tiếp đối với các SGD tại Chicago có thể lên tới 110.000 người.
Có một số lượng lướn những lợi ích và tăng trưởng vô hình xuất phát từ những SGD thành công, bao gồm những lợi ích từ sự cải cách và sự tham gia của những con người sáng tạo. Hoạt động cải cách giống như một chất men năng động, nó có thể tạo ra nhiều sự đổi mới và tăng trưởng hơn.
3.3.3. Vai trò thông tin và vai trò kết nối các thị trường (các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ và các hàng hóa cùng trên một thị trường hiện nay)
Một lợi ích cơ bản từ các hợp đồng tương lai tài chính là các mức giá cả của chúng đóng vai trò như những chỉ số kinh tế. Một thị trường phái sinh tài chính thành công, nơi cung cấp các hoạt động giao dịch về lãi suất, tiền tệ, chỉ số cổ phiếu và có thể là một vài loại hàng hoá khác, sẽ được theo dõi bởi những người dự báo kinh tế, những người lập chính sách và các nhà đầu tư, để đưa ra những tín hiệu quan trọng về tình trạng của nền kinh tế Việt Nam.
Tất cả các thị trường đều có mối liên kết với nhau. Những người muốn hiểu về thị trường trái phiếu cần phân tích thị trường hàng hóa, thị trường cổ phiếu, thị trường tiền tệ, và thị trường lãi suất ngắn hạn. Và nếu họ thực sự muốn hiểu về thị trường cổ phiếu, họ phải phân tích thị trường trái phiếu, thị trường tiền tệ và các thị trường hàng hóa… Vì thị trường phái sinh bao trùm tất cả bốn trong số các nhóm chính này (hàng hóa, tiền tệ, cổ phiếu và lãi suất), nên các hợp đồng tương lai là cơ sở thuận lợi cho hoạt động phân tích đầu tư. Một trong những lợi ích cơ bản mà Việt Nam sẽ đạt được bên cạnh sự thành lập SGD chứng khoán phái sinh tài chính mà giao dịch thành công về tiền tệ, lãi suất, chỉ số cổ phiếu và có thể các hàng hóa mà các nhà đầu tư có thể tham gia một cách dễ dàng, hiệu quả, và ở mức chi phí thấp theo khía cạnh kinh tế vĩ mô của nên kinh tế. Điều này sẽ giúp cho việc tiếp tục thu hút nguồn vốn nước ngoài.
3.3.4. Tác động kinh tế chung của SGD chứng khoán phái sinh tài chính
Những SGD này thành công có thể có sự đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Chúng thúc đẩy tính cạnh tranh, hỗ trợ hình thành vốn, tạo ra các hoạt động kinh doanh mới và công việc mới trực tiếp và gián tiếp, thông qua các dịch vụ hỗ trợ, tiền gửi ngân hàng, và các hoạt động kinh tế khác nhằm hỗ trợ SGD.
Sự tồn tại của một TTCK phái sinh sẽ giúp cho việc đạt hiệu quả kinh tế chung của một nền kinh tế theo một số phương diện như sau:
Thứ nhất, hỗ trợ tính cạnh tranh chung cho nền kinh tế Việt Nam
Việc tổ chức hoạt động giao dịch tại SGD chứng khoán phái sinh làm tăng thêm tính cạnh tranh chung cho nền kinh tế một mặt là do chức năng giảm hay chuyển đổi rủi ro của giao dịch công cụ này, mặt khác, việc tổ chức tốt một SGD hoạt động theo cơ chế thị trường là một nỗ lực của xã hội để đạt được sự cạnh tranh hoàn hảo. Cụ thể, tổ chức như vậy sẽ đảm bảo sự công khai, hay kiến thức gần như hoàn hảo hơn về tất cả các yếu tố và của tất cả các bên tham gia thị trường; cơ hội hay sự tiếp cận công bằng với các thị trường bằng cách ngăn chặn sự độc quyền, sự phân biệt, và các giao dịch nội gián trên thị trường; tính hiệu quả cao hơn trong hoạt động tiếp thị hàng hóa, sản phẩm; lợi ích nhiều hơn đối với các nhà sản xuất và người tiêu dùng hàng hóa…
Các SGD cho phép kinh doanh được thực hiện trong bối cảnh mà các quy tắc được thiết lập theo hướng tạo lập tự do, bình đẳng và tương hỗ nhiệm vụ và trách nhiệm thông qua sự công khai và chính xác. Nếu không có công cụ để chuyển đổi rủi ro và tạo lập giá cả sẽ tạo nên tính không hoàn hảo của thị trường nói chung và thúc đẩy sự độc quyền. Sự không hoàn hảo của thị trường sẽ làm cho giá cả cao hơn và đã làm sai lệch mối quan hệ giá cả và biến nền kinh tế đang tăng trưởng không hiệu quả trở thành một công cụ phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng
Việt Nam là một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ngày càng có sức thu hút lớn đối với các công ty trong và ngoài nước, những người nhận thức được rằng quyền lực thị trường nội địa có thể được tăng nhanh chóng. Một thị trường phái sinh tài chính Việt Nam, nếu được mở cửa, có thể tiếp cận và hoạt động hiệu quả sẽ đóng vai trò như một yếu tố quan trọng làm giảm xu hướng tạo giá độc quyền và sự sai lệch giá cả. Đó là một công cụ tự nhiên để nâng cao sức cạnh tranh, là giảm những rào cản để tham gia và thúc đẩy sự mở cửa.
Thứ hai, hỗ trợ thông tin về vốn
Một thị trường chứng khoán phái sinh cần hỗ trợ quá trình tạo lập vốn tại Việt Nam thông qua việc khuyến khích tiết kiệm và đầu tư vào nền kinh tế. Mặc dù ột sự tranh cãi đã nổ ra trong vài năm giữa các nhà kinh tế nhằm cố gắng quyết định xem tiết kiệm có dẫn đến đầu tư hay ngược lại, sự thật có thể nằm ở đâu đó giữa đôi bên và dòng quan hệ nhân quả xảy ra theo hai cách. Quy trình vận hành một cái gì đó cũng tương tự như vậy. Tiết kiệm được đi vào các ngân hàng và chuyển thành nguồn sẵn có cho đầu tư sản xuất, kinh doanh. Đầu tư này sẽ làm tăng tổng vốn trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm, tạo thêm nguồn thu nhập và lại tạo ra các khoản tiết kiệm và đầu tư khác. Tiết kiệm tăng có nghĩa là đầu tư tăng. Đầu tư tăng có nghĩa là tăng nguồn thu nhập để có thể tiết kiệm.
TTCK phái sinh sẽ cung cấp chính xác loại công cụ cho nền kinh tế để khuyến khích cả tiết kiệm và đầu tư. Ví dụ, sự tồn tại của thị trường hợp đồng tương lai lãi suất sẽ tạo khả năng quản lý tốt hơn cho những yếu tố rủi ro thường gắn với tăng vốn và cung cấp một thị trường thứ cấp cho các công cụ tài chính như trái phiếu công ty, thương phiếu…
Hỗ trợ đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
Nếu ai đó cho rằng hoạt động đầu tư trực tiếp bao gồm việc phát hành cổ phiếu mới, đầu tư trực tiếp nước ngoài và cho vay mới ròng, thì sau đó có thể kết luận được rằng một thị trường quyền chọn và tương lai tài chính thành công có thể trợ giúp cho đầu tư trực tiếp tại một quốc gia.
Các nhà đầu tư hiểu biết sẽ chọn mức lợi nhuận đã điều chỉnh rủi ro mong đợi cao nhất cho những khoản đầu tư của họ. Các thị trường tương lai và quyền chọn sẽ không làm tăng lợi nhuận nhưng chúng tạo ra cơ hội làm giảm rủi ro kèm theo mức lợi nhuận đó. Hoặc chúng có thể cung cấp một mức lợi nhuận cao hơn có thể đạt được nếu được rào chắn. Các nhà đầu tư thuận lợi hơn và muốn đầu tư hơn khi các khả năng đáp ứng các mong muốn của họ đều có thể đạt được. Vì vậy, đầu tư trực tiếp trong nền kinh tế sẽ được thúc đẩy đến phạm vi mà khả năng sử dụng và mức sử dụng của một thị trường hợp đồng tương lai hay quyền chọn cho phép:
Rào chắn rủi ro
Tạo ra những sản phẩm mới quản lý rủi ro
Tái đóng gói và bán lại rủi ro
Tính toán chắc chắn hơn giá cả và chi phí tương lai dự kiến
Tiếp cận dễ dàng hơn với những cơ hội xác lập giá
Các chi phí giao dịch thấp hơn
Thông tin thị trường được cải thiện
Tóm lại, nếu một SGD chứng khoán phái sinh ở Việt Nam được thiết lập và phát triển, nó sẽ có một sự ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của các ngành khác. Một SGD chứng khoán phái sinh có thể có mục tiêu phát triển thông qua một quá trình đáp ứng các nhu cầu kinh tế trong nước song song với quá trình chuẩn bị kết nối ban đầu cho các mạng lưới giao dịch quốc tế.
3.4. Các điều kiện phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
Khả năng tạo nên một SGD chứng khoán phái sinh ở Việt Nam thành công với thị trường sôi động và thanh khoản được tỷ lệ thuận trực tiếp với một số yếu tố sau:
Sự hoàn thiện và sẵn sàng của các môi trường kinh tế, pháp lý, xã hội, hạ tầng cơ sở kỹ thuật…
Để phát triển TTCK phái sinh ở Việt Nam, phải kể đến các môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng… Về cơ bản, các môi trường này đã có nhiều thuận lợi, đặc biệt là môi trường chính trị ổn định, tăng trưởng kinh tế khá cao, số lượng công ty tăng nhanh, số lượng các định chế tài chính tăng nhanh và ngày càng phát triển theo hướng tích cực, hệ thống pháp luật được hoàn thiện không ngừng, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ đã có những bước tiến đáng kể trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều mặt bất cập liên quan đáng kể đến các môi trường này, mức độ phát triển của các môi trường này tác động lớn đến sự thành công của thị trường chứng khoán phái sinh.
Sự hiện diện và sẵn sàng của các nhóm tổ chức, cá nhân tham gia sử dụng, tổ chức, vận hành, quản lý thị trường
Kinh nghiệm sử dụng, tổ chức, kỹ thuật và điều hành thị trường nói chung là một trong những điều kiện quan trọng đối với hình thành thị trường. Cho đến thời điểm này những nhóm hiểu biết nhất về sử dụng một số loại hình công cụ phái sinh để quản lý rủi ro là nhóm các ngân hàng, các quỹ đầu tư. Nói chung, giới kinh doanh Việt Nam hầu như chưa có kinh nghiệm về sử dụng chứng khoán phái sinh để rào chắn rủi ro. Những nỗ lực đào tạo và giáo dục căn bản sẽ rất cần thiết ở tất cả các cấp độ của cộng đồng, từ những người sử dụng đến các nhà quản lý… , trước khi mở cửa SGD chứng khoán phái sinh. Việc đào tạo này sẽ giúp cho việc sử dụng thị trường hiệu quả, bảo vệ nhà đầu tư trước những tiêu cực, lừa đảo hoặc chính họ là chủ thể của những hoạt động mờ ám.
Thị trường cổ phiếu, trái phiếu Việt Nam đã đi vào hoạt động cùng với sự hình thành của hàng loạt các định chế tham gia thị trường, như các nhà đầu tư, các công ty chứng khoán, tổ chức vận hành và quản lý thị trường sẽ là một tiền đề tốt để chuyển sang hoạt động trên TTCK phái sinh do giữa các thị trường này có nhiều điểm tương đồng trong lĩnh vực hoạt động.
Sự đa dạng các lợi ích liên quan đến giao dịch. Sự mở rộng quyền sở hữu, quản lý đối với các nhóm tham gia sử dụng thị trường…
Sự thành công của một thị trường chứng khoán phái sinh sẽ tùy thuộc vào sức hút của nó đối với người mua và người bán. Sức thu hút đó phụ thuộc vào một số vấn đề bao gồm:
Tầm quan trọng mang tính kinh tế của các dịch vụ hoặc hàng hóa được giao dịch;
Các phương tiện vật chất, kỹ thuật của thị trường để tạo thuận lợi cho tham gia sử dụng;
Tính hiệu quả của các phương tiện truyền thông trong nước và ngoài nước;
Tính thanh khoản của thị trường. Tính thanh khoản là khả năng nhanh chóng mà không có sự thay đổi đáng kể về giá cả hàng hóa. Một thị trường có tính thanh khoản cao được ưa chuộng hơn thị trường mà bên mua và bên bán phải chờ đợi một thời gian dài để hoàn tất một giao dịch, trả một khoản tiền lãi hay chấp nhận chiết khấu.
Mức chi phí giao dịch. Bên mua và bên bán cố gắng giảm thiểu chi phí giao dịch theo phần trăm giá trị của một giao dịch. Chi phí giao dịch gồm các mức chi phí phải nộp do một SGD để thực hiện và thanh toán các giao dịch, các khoản hoa hồng và thuế.
Tính công bằng và hiệu quả của SGD. Khách hàng muốn biết rằng các giao dịch của họ được thực hiện trên cơ sở nhanh chóng và công bằng.
Tình trạng của các hệ thống thông tin. Các thị trường mà cung cấp các thông tin về giá cả, khối lượng giao dịch và các thông tin khác một cách đầy đủ rõ ràng và kịp thời trở nên hấp dẫn đối với bên mua và bên bán hơn là đối với những thị trường thiếu những dịch thông tin như vậy.
Một số định hướng xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam.
Cần có rất nhiều nỗ lực để thành lập Sở giao dịch chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, nơi mà SGD tạo điều kiện cho các hợp đồng tương lai và quyền chọn bao gồm tất cả các loại sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và tài chính. Những đặc điểm thiết kế và hoạt động của SGD và các sản phẩm của nó cần phải thỏa mãn và không chỉ đáp ứng nhu cầu và thói quen của người Việt Nam, mà còn phải phản ánh những chuẩn mực quốc tế. Sau đây xin nêu ra một số định hướng xây dựng TTCK phái sinh Việt Nam:
Về thời điểm thành lập Sở giao dịch:
Theo kinh nghiệm một số thị trường trong khu vực, TTCK phái sinh có thể ra đời sau thị trường cổ phiếu, trái phiếu khoảng từ 5 – 7 năm tùy theo điều kiện của mỗi nước. Đồng thời nhận thấy nhu cầu về các công cụ chứng khoán phái sinh hiện nay tại Việt Nam thì có thể nói đây là thời điểm chín muồi để cho ra đời TTCK phái sinh ở nước ta. Có thể trong giai đoạn đầu chúng ta chủ có một vài loại hợp đồng quyền chọn như “right”, “warrant” và được giao dịch ngay trên thị trường cổ phiếu, trái phiếu; tiếp sang giai đoạn sau, có thể xây dựng SGD chứng khoán phái sinh riêng biệt và phát triển các loại chứng khoán như hợp đồng tương lai, quyền chọn tài chính…
Về hàng hóa giao dịch trên Sở
Nên phát triển Hợp đồng tương lai về chỉ số cổ phiếu như một sản phẩm phái sinh đầu tiên được giao dịch trên Sở vì những lý do sau :
Đây là một sản phẩm thường được lựa chọn để giao dịch đầu tiên tại các thị trường mới nổi vì tính hữu dụng phổ biến của nó và theo nhu cầu thị trường;
- Bên cạnh đó chỉ số cổ phiếu của SGD cổ phiếu rất dễ dàng được thiết lập; Có thể thiết lập nhiều loại chỉ số khác với chỉ số hiện có Vn-Index hiện nay, để làm cơ sở cho hợp đồng tương lai
- Nhu cầu ngày càng tăng đối với dịch vụ rào chắn rủi ro bằng sử dụng chỉ số thị trường cổ phiếu;
Do tất cả các nguyên nhân trên, hợp đồng này có cơ hội đầu tiên và tiềm năng cao nhất về thành công trong số những hợp đồng đã xem xét
Do bản chất của giao dịch hợp đồng tương lai, việc bán khống phải cần được cho phép trên thị trường tương lai. Điều này sẽ mâu thuẫn với việc cấm hiện nay về bán khống cổ phiếu. Theo đó UBCK nên xem xét việc cho phép triển khai nghiệp vụ bán khống chứng khoán để phù hợp với sự phát triển của thị trường hiện nay.
Hợp đồng tương lai lãi suất ngắn hạn nên là sản phẩm được ưu tiên thứ hai đối với việc phát triển hợp đồng vì:
Hợp đồng tương lai lãi suất ngắn hạn hỗ trợ phát triển thị trường công cụ nợ, đặc biệt là hỗ trợ cho việc huy động vốn nợ của Chính phủ;
Sự giao động lãi suất ngắn hạn và tác động tràn lan của lãi suất ngắn hạn đối với hoạt động kinh tế đã nói lên rằng ngày càng cần thiết phải có dịch vụ phòng hộ lãi suất;
Đã có sự tồn tại ban đầu ở Việt Nam về thị trường các công cụ lãi suất – các cuộc đấu giá thường xuyên về những công cụ nợ ngắn hạn và dài hạn được tổ chức bởi những ngân hàng và SGDCK.
Về tổ chức trung gian môi giới
Hệ thống các công ty mối giới trung gian của thị trường cổ phiếu, trái phiếu hiện nay có thể hoạt động môi giới trên TTCK phái sịnh do có sự tương đồng nhiều mặt trong những hoạt động này như yêu cầu về kỹ thuật tác nghiệp, mục tiêu tác nghiệp, trình độ tác nghiệp… Với hệ thống công ty chứng khoán hiện nay, chỉ cần cập nhật thêm một số quy trình, kiến thức môi giới giao dịch trên thị trường chứng khoán phái sinh, mở rộng yêu cầu về kỹ thuật và vốn đối với công ty là họ có thể đủ điều kiện để hoạt động trên thị trường chứng khoán phái sinh.
Về tổ chức thanh toán bù trừ
Đối với tổ chức thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh, nên chỉ lập một trung tâm thanh toán bù trừ thống nhất thuộc SGD hoặc là một tổ chức độc lập, là tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của SGD.
Tổ chức thanh toán bù trừ phải thiết lập quỹ bảo hiểm hoặc quỹ dự trữ sao cho có thể dùng để thanh toán những khoản nợ và đền bù cho những mất mát của khách hàng khi thành viên thanh toán bù trừ mất khả năng thanh toán và quỹ dự trữ đó chỉ dùng sau khi đã sử dụng hết tài sản của thành viên liên quan hay của pháp nhân bị quản lý.
SGDCK phái sinh và tổ chức thanh toán bù trừ phải chịu sự quản lý và kiểm soát, theo luật pháp ngay từ đầu, tương tự đối với thị trường cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo tính thuận lợi, công bằng, tin cậy của thị trường.
Tổ chức thanh toán bù trừ là một yếu tố quan trọng then chốt của thị trường công cụ phái sinh nên phải được phát triển ngay từ đầu như một hệ thống máy tính hiện đại để theo dõi các vị thế và tính toán mức ký quỹ theo những diễn biến thị trường hàng ngày.
Về quản lý thị trường chứng khoán phái sinh
- Nên thành lập một cơ quan quản lý duy nhất quản lý tất cả giao dịch tương lai, quyền chọn và các công cụ phái sinh khác. Một cơ quan duy nhất này là một hệ thống mang nhiều ưu điểm, thứ nhất là vì nó không gây nhiều lẫn lộn, phù hợp với việc áp dụng pháp luật và hiệu quả cao, chi phí ít. Thứ hai là ở hầu hết các nước, hai cơ quan quản lý thị trường cổ phiếu, trái phiếu và TTCK phái sinh dần dần được thống nhất thành một cơ quan duy nhất. Thứ ba là theo xu hướng chung trên thế giới, các thị trường tương lai hàng hóa và thị trường chứng khoán được hợp nhất dần theo một tốc độ rất nhanh. Đặc biệt là việc quản lý tương đồng giữa chứng khoán và công cụ phái sinh sẽ bảo vệ công chúng trước những lừa đảo, đảm bảo sự tin cậy của thị trường và bảo vệ thị trường khỏi những hoạt động tiêu cực.
- Việt Nam cần hướng tới việc sự dụng một phương thức tự quản mạnh yêu cầu các SGD, các thị trường OTC, hay các tổ chức tự quản khác… thiết lập các quy định do UBCKNN chấp thuận và chịu sự giám sát của UBCK sao cho chúng được thực thi.
- Việc bổ sung hoạt động giao dịch chứng khoán phái sinh dẫn đến cần thiết phải có luật mới quy định về việc giao dịch, quản lý cũng như các vấn đền khác liên quan đến thị trường chứng khoán phái sinh.
Từ những định hướng trên, ta có thể đưa ra một số giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất : Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường chứng khoán phái sinh.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTCK phái sinh của các nước trên thế giới kết hợp kinh nghiệm quản lý trong quá trình hình thành và phát triển các phái sinh trên thị trường ngoại hối, thị trường cà phê ở nước ta thời gian qua, để từng bước xây dựng khung pháp lý cho giao dịch tiến đến hình thành luật và quy chế giao dịch chứng khoán phái sinh chính thức.
Thứ hai: Không ngừng nâng cao hiệu quả thị trường thông qua việc công khai hóa và minh bạch hóa thông tin, thu hút nhiều khách hàng tham gia giao dịch.
Trước mắt, nên thành lập các tổ chức chuyên nghiên cứu phát triển các công cụ dự báo giá và công bố kết quả dự báo giá cả qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các tạp chí chuyên ngành để các nhà đầu tư có cơ sở phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hay phòng ngừa rủi ro.
Thứ ba: Cải tiến các phương pháp quảng bá thông tin về giao dịch chứng khoán phái sinh đến khách hàng.
Các định chế tài chính chuyên nghiệp triển khai các giao dịch phái sinh như: ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán triển khai quảng bá các công cụ phái sinh, nhằm tạo ra nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và nhà hoạch định chính sách về công dụng và cả cách thức sử dụng công cụ tài chính phái sinh. Các định chế tài chính này cần lập ra bộ phận chuyên tư vấn và hỗ trợ khách hàng tìm kiếm thông tin, cách thức sử dụng các công cụ tài chính phái sinh cho cả hai mục tiêu kinh doanh và hạn chế rủi ro.
Thứ tư: Tăng cường công tác đào tạo nghiên cứu, thông tin tuyên truyền và hợp tác quốc tế.
Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng, then chốt trong mọi hoạt động. Do đó, việc đào tạo phải đặt lên hàng đầu và được thực hiện thường xuyên. TTCK nói riêng và thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh nói riêng là lĩnh vực đòi hỏi phải có kiến thức, trình độ chuyên môn cao, nhưng hiện nay còn quá mới mẻ ở Việt Nam. Cho nên, việc đào tạo phải gắn kết với hoạt động mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn, xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường.
Việc đào tạo và chương trình giáo dục rộng rãi và mạnh mẽ được thiết lập đối với tất cả những đối tượng tham gia hoạt động chứng khoán phái sinh. Đối tượng này bao gồm Chính phủ, các nhà quản lý, các công ty môi giới, SGD, nhân viên hãng thanh toán bù trừ và công chúng. Các nhà giám sát công ty môi giới và thanh toán bù trừ cũng như chính nhân viên của SGD, công ty thanh toán bù trừ và công ty môi giới cần hiểu biết những trách nhiệm của họ, bản chất của rủi ro tài chính tham gia, và tầm quan trọng của việc theo dõi và thực thi các quy chế.
Kết luận
Chứng khoán phái sinh là những sáng tạo rất thành công của thị trường tài chính, là một trong những thành tựu phát triển tài chính đáng chú ý nhất trong hơn 20 năm qua và ngày càng trở nên quan trọng, cần thiết cho các nhà kinh doanh, đầu tư. Sự phát triển của chúng luôn gắn liền với sự lớn mạn của các thị trường chứng khoán thế giới. Giao dịch chứng khoán phái sinh hiện đang là một trong những xu thế phát triển mạnh nhất hiện nay, hiện công cụ phái sinh đang thống trị thị trường tài chính, hàng loạt các hợp đồng tương lai và quyền chọn luôn có mặt trên hầu hết các thị trường thế giới. Mức độ áp dụng công cụ phái sinh của một thị trường chứng khoán là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện của một thị trường chứng khoán.
Việc hình thành thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam là một bước phát triển tất yếu của thị trường tài chính. Đề tài lấy một số công cụ chứng khoán phái sinh điển hình và thị trường chứng khoán phái sinh làm đối tượng nghiên cứu đã thực hiện được một số mục tiêu đặt ra, đó là:
Nêu ra những cơ sở lý luận chung về một số loại chứng khoán phái sinh điển hình như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hợp đồng hoán đổi
Nghiên cứu một số thị trường chứng khoán phái sinh điển hình trên thế giới để rút ra những kinh nghiệm thực tế và nhằm thấy được khả năng hình thành thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam hiện nay.
Phân tích nhu cầu, các điều kiện thuận lợi và khó khăn, đồng thời đưa ra một số các giải pháp để hình thành thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam.
Dù đã rất cố gắng nhưng do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
Học viện ngân hàng - Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán.
Học viện ngân hàng - Giáo trình Thị trường chứng khoán – Nhà xuất bản thống kê (2006)
Nhóm tác giả trường đại học Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn - Giới thiệu về thị trường Future và Option – Nhà xuất bản thống kê (2000)
Stuart R. Veale - Stocks, Bonds, Options, Futures – 1987
John C. Hull - Fundamentals of Futures and Options Markets, Fifth Edition – Prentice Hall, Inc.
Ross. Westerfield. Jaffe – Caporate Finance – Sixth Edition
Jake Bernstein – How The Futures Markets Work – New York Institute of Finance.
Joeseph A. Walker – How The Options Markets Work – New York Institute of Finance.
Một số trang web về các thị trường chứng khoán phái sinh thế giới
Các tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Đầu tư chứng khoán…
Danh mục các chữ viết tắt và thuật ngữ trong khóa luận
TTCK : Thị trường chứng khoán
UBCKNN : ủy ban chứng khoán nhà nước
SGD : Sở giao dịch
OTC : Thị trường phi tập trung ( Over the counter market )
CK : Chứng khoán
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, khóa luận này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Tất cả những trích dẫn hoặc chú dẫn được sử dụng trong khóa luận đều được chú thích đầy đủ ở cuối trang hoặc cuối khóa luận. Tất cả các số liệu trong luận văn là trung thực và đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2008
Nguyễn Thị Mơ
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Chương I: Lý luận chung về công cụ chứng khoán phái sinh
4
1.1. Khái niệm chứng khoán phái sinh
4
1.2. Một số loại chứng khoán phái sinh điển hình
5
1.2.1. Hợp đồng kỳ hạn (Forwards)
5
1.2.2. Hợp đồng tương lai (Futures)
6
1.2.3. Hợp đồng quyền chọn (Options)
28
1.2.4. Hợp đồng hoán đổi (Swaps)
40
1.3. Người giao dịch chứng khoán phái sinh
41
1.3.1. Người rào chắn rủi ro
42
1.3.2. Người đầu cơ
42
1.3.3. Người kinh doanh chênh lệch giá
44
Chương II: Thị trường chứng khoán phái sinh và hoạt động của một số thị trường chứng khoán phái sinh trên thế giới
46
2.1. Chức năng của thị trường chứng khoán phái sinh
46
2.1.1. Chức năng dự đoán và phát hiện giá
47
2.1.2. Chức năng chuyển đổi rủi ro
48
2.1.3. Chức năng tạo tính thanh khoản cho chứng khoán
48
2.1.4. Nâng cao tính hiệu quả và tính liên kết của các thị trường
49
2.2. Đặc điểm chung về tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh
51
2.3. Một số thị trường chứng khoán phái sinh thế giới
51
2.3.1. Thị trường chứng khoán phái sinh Mỹ
54
2.3.2. Thị trường chứng khoán phái sinh Nhật Bản
57
2.3.3. Thị trường chứng khoán phái sinh Hàn Quốc
58
2.3.4. Thị trường chứng khoán phái sinh Đài Loan
62
2.4. Các xu thế phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh thế giới
64
2.5. Bài học kinh nghiệm rút ra từ các thị trường chứng khoán phái sinh thế giới
64
Chương III: Khả năng hình thành thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
68
3.1. Khái quát thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung và thị trường chứng khoán phái sinh nói riêng
68
3.2. Nhu cầu ứng dụng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
72
3.3. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
76
3.3.1. Xúc tác cho các doanh nghiệp mới hình thành
76
3.3.2. Tạo việc làm trực tiếp và tác động đến nền kinh tế
77
3.3.3. Vai trò thông tin và vai trò kết nối các thị trường
78
3.3.4. Tác động kinh tế chung của SGD chứng khoán phái sinh tài chính
79
3.4. Các điều kiện phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
82
3.4.1. Sự hoàn thiện và sẵn sàng của các môi trường kinh tế, pháp lý, xã hội, hạ tầng cơ sở kỹ thuật…
82
3.4.2. Sự hiện diện và sẵn sàng của các nhóm tổ chức, cá nhân tham gia sử dụng, tổ chức, vận hành, quản lý thị trường
82
3.4.3. Sự đa dạng các lợi ích liên quan đến giao dịch
83
3.5. Một số định hướng xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
84
Kết luận
90
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33085.doc