Hơn 10 năm xây dựng và phát triển Khu công nghiệp và Khu chế xuất, chúng ta đã thu được nhiều bài học và kinh nghiệm về hình thức phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế này. Mặc dù còn nhiều vấn đề tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nhưng chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích to lớn mà việc phát triển Khu công nghiệp, Khu chế xuất đã mang lại.
Tuy còn có những hạn chế song với những đặc tính ưu việt của mình, mô hình KCN, KCX đã nổi lên như một kiểu mẫu hiện đại trong số các công cụ nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển trong 3, 4 thập kỷ qua, đặc biệt là các nước Đông Nam Á và mới đây là Việt Nam. Sự phát triển thành công của nhiều KCN, KCX ở Việt Nam đã chứng minh đây là một mô hình đat hiệu quả cao trong một khoảng thời gian tương đối ngắn để có thể phát triển hoàn thiện nền sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu nhằm phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH. Đồng thời, những thành tựu to lớn mà các KCN, KCX đã đóng góp trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua là không thể phủ nhận được. Để phát huy hơn nữa vai trò tích cực và to lớn, của các KCN, KCX đối với nền kinh tế, chúng ta cần phải có những giải pháp phát triển phù hợp và hữu hiệu để hạn chế và ngăn chặn những vấn đề khó khăn còn tồn tại trong quá trình xây dựng và phát triển mô hình kinh tế này.
Với lịch sử hình thành mới hơn một thập kỷ nhưng các KCN, KCX ở Việt Nam đã đem lại nhiều kết quả rực rỡ do đó chúng ta có thể tin tưởng rằng trong tương lai mô hình kinh tế này sẽ phát triển rộng rãi và thực sự trở thành mô hình phát triển kinh tế năng động và hiệu quả, thực hiện tốt sứ mệnh của nó trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
87 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp để xây dựng và phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì thực hiện phương trâm liên tục tăng đầu tư để có tốc độ tăng trưởng lâu dài và bền vững. Tập trung việc thu hút đầu tư để lấp đầy các KCN hiện có và ưu tiên mở rộng các KCN đang hoạt động có hiệu quả. Theo qui hoạch chi tiết các KCN đã có thì đến 10/2000, trong cả nước đã có 67 KCN với tổng diện tích chiếm đất là 11.078 ha trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 7.730 ha. Hiện nay, số đất công nghiệp này đã được lấp đầy 32,31%, như vậy trong những năm tới các KCN cần phải thu hút đầu tư để lấp đầy nốt hơn 2/3 diện tích đất công nghiệp còn lại. Do đặc điểm chung của các dự án đầu tư vào KCN ở nước ta là các dự án vừa và nhỏ, qui mô vốn đầu tư khoảng 4-5 tr.USD, chiếm trung bình 1-1,5 ha đất công nghiệp (trên cơ sở tình hình tại các KCX Tân Thuận và Linh Trung) nên để lấp đầy các KCN hiện nay thì cần có trên 3.500 dự án, tức là gần bằng số dự án mà ta thu hút được trong vòng 10 năm qua. Như vậy, mục tiêu thu hút đầu tư vào KCN từ trước đến nay và về sau vẫn là mục tiêu đích thực của việc phát triển KCN .
Bên cạnh việc tích cực thu hút đầu tư mới, cần tập trung khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đang hoạt động mở rộng sản xuất, thị trường, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng.
Việc thành lập các KCN mới là việc làm tất yếu và cần thiết trong quá trình công nghiệp hoá song việc thực hiện đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc xem xét kỹ các điều kiện cần thiết như sử dụng vốn một cách có hiệu quả và khả năng thu hút đầu tư.
Có giải pháp hữu hiệu hoàn chỉnh các công trình hạ tầng trong và ngoài hàng rào, nhà ở cho công nhân, xử lý chất thải công nghiệp, đào tạo tay nghề cho công nhân.
Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch phát triển KCN, xác định ngành nghề theo quy hoạch chung và lợi thế của từng khu vực, tránh trùng lặp về ngành nghề dẫn đến triệt tiêu nhau. Các địa phương có nhiều kinh nghiệm phát triển KCN giúp đỡ các địa phương, vùng khác thông qua việc trao đổi kinh nghiệm, cử chuyên gia, tạo các vùng nguyên liệu, phát triển công nghiệp vệ tinh trong mối liên kết với các KCN vùng kinh tế trọng điểm tạo nên sức mạnh tổng hợp, bổ sung cho nhau cùng phát triển.
Chuyển một số KCN đã đạt được kết quả bước đầu như KCX Tân Thuận, KCX Linh Trung, KCN Biên Hoà II, KCN Việt Nam - Singapore, KCN Sài Đồng B thành mô hình kinh tế phù hợp, đa chức năng không chỉ giới hạn trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ công nghiệp gắn với việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất và lợi thế sinh lời.
Chấm dứt việc phát triển cơ sở công nghiệp độc lập xen lẫn với các khu dân cư. Kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào KCN, trừ những dự án đòi hỏi gần nguồn nhiên liệu, cần diện tích chiếm đất lớn vài trăm ha, các dự án đầu tư chiều sâu không thuộc diện di dời và vẫn phù hợp với quy hoạch.
Cải tạo các ngành nghề truyền thống và các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp hiện có và kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất nhằm hình thành và phát triển KCN nhỏ tại các vùng nông thôn có quy mô vài chục ha. Nhà nước hỗ trợ KCN này thông qua các giải pháp: quy hoạch đất, mở rộng giao thông, xây dựng các công trình xử lý chất thải, bảo lãnh tín dụng, công nghiệp áp dụng, tìm kiếm thị trường.
Thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các KCN ở miền Bắc và miền Trung bằng các chính sách hỗ trợ của nhà nước về vốn, miễn giảm thuế, tăng cường tổ chức chỉ đạo thực hiện. .. nhằm tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng.
Hình thành một số KCNC ở những vùng, địa bàn có đủ điều kiện. Tập trung phát triển KCNC Hoà Lạc, Khu công nghệ phần mềm Quang Trung - Tp. HCM góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, và hiện đại hoá nền kinh tế đất nước với vai trò là cầu nối tiếp nhận chuyển giao và tiến tới sáng tạo các công nghệ mới. Các KCNC là những điểm thử nghiệm, thí điểm rút kinh nghiệm cho việc đẩy mạnh KCNC trong cả nước. Xây dựng công nghệ phần mềm thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng cao, góp phần hiện đại hoá và phát triển bền vững các ngành kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đảm bảo an ninh quốc gia, phát huy tiềm năng và trí tuệ con người Việt Nam. Từ nay đến 2005 đạt giá trị sản lượng khoảng 500 tr.USD.
Kết hợp phát triển hài hoà giữa ngành với vùng lãnh thổ. Theo quy hoạch đã được chính phủ phê duyệt , đến năm 2010 cả nước sẽ có 96 KCN vẫn tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế trọng điểm. Dự thảo chiến lược phát triển các KCN trong từng vùng kinh tế trọng điểm như sau :
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: “ phát triển các KCN, KCNC, công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp phần mềm ’’
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ: “ Hoàn chỉnh và nâng cấp các KCN, KCX, KCNC . .. , xây dựng đô thị trên các trục gắn với KCN ”.
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ: “ Hình thành các KCN ven biển, các KCN, thương mại tổng hợp .. đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung Quất -Chu Lai “
Trên cơ sở định hướng đó, việc xây dựng thí điểm khu kinh tế mở cửa Chu Lai sớm được triển khai trong thời gian tới. Phát triển khu kinh tế mở Chu Lai trở thành cầu nối với thế giới bên ngoài, khu vực dành cho “ nước ngoài muốn làm ăn với nhau, trong nước thực sự muốn làm ăn với nước ngoài “ một cách thuận lợi và hiệu quả hơn. Việc đột phá vào khu Chu Lai cùng với đẩy nhanh tốc độ phát triển KCN Dung Quất là nhằm mục đích đưa miền Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng sớm vượt qua khó khăn, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, liên kết giữa công nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu công nghiệp, tạo tiền đề phát triển nông nghiệp hàng hoá, khai thác vùng trung du và miền núi, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý có tốc độ phát triển nhanh và bền vững.
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển KCN, KCX ở Việt Nam
1. Đổi mới và hoàn thiện thể chế Nhà nước
Từ thực tiễn phát triển KCN trong 10 năm qua đã cho ta thấy thể chế là khâu quan trọng tạo khung khổ pháp lý để hình thành và phát triển KCN, KCX. Theo tinh thần của nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư(khoá VIII), chúng ta đang xúc tiến để ban hành luật về KCN. Cho đến nay, chính phủ đã ban hành một số chính sách khuyến khích đầu tư với những quy định thông thoáng hơn, giảm dần sự khác biệt với đầu tư trong nước, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt để các doanh nghiệp trong nước không cảm thấy thiệt thòi khi đầu tư vào các KCN, KCX, tạo khuôn khổ pháp lí thuận lợi hơn cho đầu tư phát triển đặc biệt là đầu tư vào các khu kinh tế này. Chính phủ cũng đã tiếp tục tháo gỡ những khó khăn trở ngại hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc đó là sự thiếu đồng bộ và thiếu nhất quán của chính sách, sự cản trở của thủ tục hành chính phiền hà, năng lực tổ chức thực hiện thể chế hạn chế. Một trong những khó khăn lớn nhất trong khâu thể chế vẫn là chính sách về quy chế liên quan đến giải phóng mặt bằng, đền bù, xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, chính sách khuyến khích để nhanh chóng lấp đầy, phủ kín KCN, KCX đã xây dựng.
Hệ thống chính sách của ta hiện nay đối với KCN, KCX còn nhiều hạn chế chưa khuyến khích các nhà doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN, KCX. Các doanh nghiệp đầu tư vào KCN, KCX chưa có gì lợi hơn việc họ thực hiện dự án đầu tư ngoài KCN, KCX. Thủ tục thành lập, các ưu đãi trong và ngoài KCN, KCX gần như nhau, chưa có gì khác biệt mấy. Thủ tục hành chính đối với KCN, KCX theo các quy định hiện hành đã có rất nhiều cải tiến nhưng các vấn đề về thủ tục hành chính sau giấy phép vẫn còn nhiều phức tạp rắc rối. Các nhà đầu tư cho rằng, các ưu đãi về thuế của ta là rất hấp dẫn nhưng để được hưởng những ưu đãi này thì trước hết phải tổ chức được sản xuất kinh doanh mà chính khâu tổ chức sản xuất kinh doanh lại tiến hành sau khi có giấy phép đầu tư.Các nhà đầu tư phải làm thủ tục hành chính tại các cơ quan theo quy định của từng cơ quan này, giấy tờ thì nhiều, không có mẫu để khai, thời gian xem xét kéo dài. Do vậy, càng phải càng phải cải tiến thủ tục theo hướng: đơn giản thủ tục, giảm những khâu không cần thiết như thủ tục phê duyệt kế hoạch xuất khẩu, đăng ký hoạt động theo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của Việt Nam,....Đối với những thủ tục nhất thiết phải có để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước thì phải có hướng dẫn rõ để các doanh nghiệp biết lập hồ sơ, qui định rõ thời hạn xem xét, quyết định và giải quyết tại chỗ công việc theo cơ chế, hoặc giao cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh thực hiện, hoặc là cơ quan đại diện đủ thẩm quyền tại KCN. Công tác kiểm tra gửi báo cáo cũng cần được xem xét giải quyết theo hướng đơn giản, tránh trùng lặp. Việc cải cách thủ tục hành chính phải tuân theo tinh thần đổi mới của Luật sửa đổi Luật ĐTNN và Nghị định 24/ND - CP ban hành ngày 21 tháng 7 năm 2000. Bên cạnh đó, giá thuê đất trong KCN, KCX cao hơn nhiều so với bên ngoài vì vậy để khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN, KCX cần có cung một mặt bằng với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tạo sự cạnh tranh lành mạnh.
Để tiếp tục đổi mới thể chế liên quan đến hoạt động đầu tư vào các KCN, KCX, chúng ta cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những văn bản mang tính pháp quy để khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng, thiếu thống nhất và không cụ thể. Chính phủ cần sớm ban hành Luật KCN, sau đó qua thể nghiệm sẽ dần dần sửa đôỉ, bổ sung và ban hành quy trình thống nhất quản lý các dự án đầu tư trên địa bàn cả nước. Trong quy trình, cần phải quy định rõ trách nhiệm và thời gian giải quyết những vấn đề nảy sinh đối với các bộ, các ban, các ngành. Những nội dung cơ bản về việc quản lý của Nhà nước đối với KCN, KCX cũng như trách nhiệm, quyền hạn của Ban quản lý các KCN cần được quy định rõ ràng.
Không những thế, chúng ta còn phải sửa đổi, bổ sung một số quy định của quy chế KCN hiện hành.Ví dụ như bỏ chế độ uỷ quyền, chuyển sang cơ chế quản lý có thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KCX, tạo hành lang pháp lý thuận lợi bình đẳng để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào KCN, KCX. Trong khi chờ đợi Luật KCN ban hành, cần bổ sung sửa đổi một số điểm trong Nghị định 36/Cp ban hành ngày 24 tháng 4 năm 1997:
Qui định rõ và cụ thể hơn việc phát triển công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN, KCX.
Thực hiện đăng ký thủ tục hành chính trọn gói thay cho chế độ xét duyệt từng trưòng hợp như hiện nay.
Công ty phát triển hạ tầng bao gồm mọi loại hình doanh nghiệp để tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng.
Qui định thời hạn thuê đất của doanh nghiệp KCN, KCX vượt quá thời hạn thuê đất của công ty phát triển hạ tầng.
Các doanh ngiệp đã có trước khi thành lập KCN, KCX được giữ nguyên giá trị giấy chứng nhận quyền sử dụng nhưng phải báo cáo với Ban quản lý KCN để thống nhất quản lý theo qui chế KCN.
Tách việc thuê đất là quyền của cơ quan quản lý Nhà nước và cho thuê sử dụng hạ tầng là quyền của doanh nghiệp và có sự phối hợp nhằm đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước và của Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng và nhà đầu tư vào KCN, KCX.
Mở rộng và quản lý linh hoạt hơn việc trao đổi hàng hoá giữa KCX và doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa.
Cải cách một cách triệt để thủ tục hành chính, khắc phục sự chậm chễ trong việc cấp giấy phép đầu tư, giải quyết những ách tắc của các chủ đầu tư trong quá trình thực hiện. Chúng ta không thể để những chính sách đúng bị các công chức quan liêu, vụ lợi làm sai lệch, sách nhiễu, làm chậm trễ, phiền lòng các nhà đầu tư. Cách làm tốt nhất là thực hiện các dịch vụ trọn gói có thời hạn. Nhà nước cần phải ban hành qui chế tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được giao dịch trực tiếp với các cơ quan quản lý Nhà nước để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc.
2. Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển và xây dựng KCN, KCX.
Bên cạnh việc đổi mới cơ chế ,bộ máy quản lý và thủ tục hành chính đối với KCN, KCX, hoàn thiện hành lang pháp lý và chính sách cho doanh nghiệp KCN, KCX để động viên khuyến khích hơn nữa đầu tư vào KCN, KCX và tạo ra một hướng đi đúng đắn cho phát triển KCN, KCX trong thời gian tới chúng ta cần nâng cao hơn nữa chất lượng qui hoạch phát triển KCN với mục đích định ra chiến lược phát triển KCN nói chung và từng khu vực nói riêng.
Việc hình thành các KCN hiện nay có thể chia thành các loại sau:
KCN được thành lập mới để thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước .
KCN được thành lập trên cơ sở một số doanh nghiệp đã được thành lập từ trước nhằm tạo qui hoạch thu hút thêm nhiều doanh nghiệp mới vào địa bàn
KCN được thành lập để tổ chức, sản xuất lại các khu vực thành phố, thị xã ở các tỉnh và một số KCN dành cho các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Như vậy, có loại KCN gắn mục tiêu phát triển công nghiệp với mục tiêu kinh doanh hạ tầng (loại 1); nhưng cũng có KCN gắn với mục tiêu tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện có theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh (loại 2, 3). Trên thực tế những loại KCN này gặp khó khăn trong việc bảo đảm vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vì ngoài mục tiêu kinh doanh như những KCN khác còn có mục tiêu kinh tế - xã hội riêng của tỉnh không chỉ thuần tuý xem xét dưới góc độ kinh doanh hạ tầng. Vì vậy, đối với các KCN loại này, đề nghị nhà nước có chính sách đặc biệt đảm bảo vốn đầu tư như ghi nợ tiền thuê đất, vay ưu đãi lãi suất thấp dài hạn, cho các doanh nghiệp trong KCN nợ tiền thuê đất, có chính sách ưu đãi thuế trong 4-5 năm đầu khi chuyển vào KCN ..
Tình hình phát triển và hoạt động của KCN trong thời gian qua đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều KCN trong khi khả năng thu hút vốn đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Vì vậy, đáng lẽ việc thành lập các KCN để tránh đầu tư phân tán nhưng ở một số địa phương đã có biểu hiện đầu tư phân tán vì mỗi KCN có rất ít dự án. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các KCN và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chưa hiệu quả nhất là đối với các KCN do các doanh nghiệp trong nước đầu tư xây dựng.
Một vấn đề đặt ra trong bối cảnh phát triển kinh tế đất nước và khả năng thu hút FDI hiện nay là ở nước ta nên thành lập bao nhiêu KCN là vừa. Vì vậy, việc thành lập KCN trước hết phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế xã hội, không thể làm theo phong trào, xuất phát từ nhu cầu chủ quan mang tính cục bộ. Khi KCN được hình thành, nó có tác động không chỉ đối với sự phát triển khu vực lãnh thổ, mà còn tạo nên những biến đổi trên phạm vi rộng xét dưới giác độ kinh tế và xã hội, đòi hỏi huy động những nguồn lực rất lớn cả về vốn đầu tư, nguồn nhân lực, cung cấp kỹ thuật, quản lý và tổ chức, cơ cấu lại kinh tế khu vực và lãnh thổ.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta quan niệm KCN là hạt nhân trong các chuỗi qui hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai với hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài KCN có chất lượng cao phải quyết định số lượng KCN cần xây dựng trong từng giai đoạn cụ thể.
Theo tính toán sơ bộ, để lấp đầy tất cả các KCN đã được thành lập, phải thu hút được khoảng 6000 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư 20-25 tỷ USD. Vì vậy, trong những năm tới cần phải thu hút thêm khoảng 5450 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 18-23 tỷ, trong đó chủ yếu là nguồn vốn FDI. Với tốc độ thu hút ĐTNN của cả nước trong các năm qua, nếu tập trung tất cả các dự án FDI vào các KCN thì cũng phải mất 15-20 năm nữa chúng ta mới có thể lấp đầy các KCN đã được thành lập.
Mặt khác, do khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên các nước trong khu vực phải giảm đầu tư ra nước ngoài để giải quyết khủng hoảng trong nước và sự sụt gía các đồng tiền các nước Châu á đã làm giảm tính cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút đầu tư. Các nước khu vực đã có những biện pháp tăng cường thu hút đầu tư nên tính hấp dẫn về đầu tư của Việt Nam đã giảm sút lại càng giảm sút. Vì vậy, khả năng tăng FDI của các nước này vào Việt Nam trong những năm tới để đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ rất khó trở thành hiện thực.
Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng qui hoạch các KCN trong thời gian tới chúng ta cần xem xét thật chặt chẽ việc thành lập các KCN mới, cần rà soát kỹ tất cả các KCN này, tập trung vốn đầu tư hoàn thành xây dựng hạ tầng cho những KCN đang xây dựng dở dang, đình hoãn tất cả các KCN chưa xây dựng hoặc không có triển vọng thu hút đầu tư. Đối với các địa phương chưa có KCN thì cần phải qui hoạch xây dựng KCN, nhưng trước mắt chưa nên thành lập KCN mới mà cho phép Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng qui hoạch chi tiết khu vực này để kêu gọi đầu tư. Những doanh nghiệp đầu tư vào khu vực qui hoạch được hưởng các ưu đãi như đối với doanh nghiệp KCN. Khi khu vực hội tụ đủ các điều kiện cần thiết thì sẽ quyết định thành lập KCN.
Cần chú trọng việc xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp nhỏ tại các địa phương, ngoài việc tạo điều kiện thuận tiện để kiểm soát môi trường còn sử dụng lao động tại chỗ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dôi dư, tăng thu nhập cho dân chúng quanh vùng và quan trọng là góp phần giảm sức ép về dân số, việc làm cho các đô thị lớn.
Song song với việc qui hoạch các KCN, cần đặc biệt chú trọng đầu tư cho hệ thống hạ tầng ngoài hàng rào, khu dân cư và dịch vụ cho các đối tượng lao động làm việc trong các KCN ở những khu vực kinh tế trọng điểm.
Ngoài các biện pháp trên, để đảm bảo tính khả thi trong việc quy hoạch phát triển KCN, KCX, chúng ta còn cần phải thực hiện những điểm sau:
Các ngành nghề thu hút vào KCN, KCX phải phù hợp với định hướng phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật.
Các loại hình và quy mô doanh nghiệp hoạt động trong KCN, KCX đa dạng :có quy mô lớn , vừa và nhỏ trong mối quan hệ hợp tác liên kết cùng tham gia sản xuất các loại sản phẩm. Phát triển các cụm công nghiệp và điểm công nghiệp ở các thị trấn, thị xã, hình thành một mạng lưới công nghiệp vừa và nhỏ phân bố rộng khắp trên địa bàn cả nước.
Bảo đảm sự đồng bộ giữa phát triển công nghiệp với phát triển cơ sở hạ tầng và quá trình đo thị hoá. Chúng ta phải xác định giới hạn của các KCN, KCX trên cơ sở cân đối các điều kiện . Về nguyên tắc, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước. Chúng ta phải đảm bảo sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đảm bảo sự phát triển thuận lợi và lâu bền cho KCN, KCX. Đồng thời phải xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ: điện, nước, xử lý chất thải, thông tin có tác động đến hiệu quả sản xuất.
Mọi quy hoạch sau khi được phê duyệt phải được công bố rộng rãi, công khai để các cấp chính quyền và nhân dân cùng biết. Sở dĩ như vậy là để quảnlý chi phí đền bù sau này.
Tăng cường tổ chức, nghiên cứu tư vấn phát triển và lực lượng nghiên cứu kế hoạch, luận chứng các dự án đầu tư ưu tiên. Trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, có cơ chế hấp dẫn thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào KCN, KCX.
Cần ưu tiên thành lập KCN trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp nay mở rộng thêm hoặc cải tạo các KCN cũ , sau đó đến xây dựng các KCN mới phục vụ .
3. Tăng cường công tác tiếp thị đầu tư vào KCN, KCX
Từ kinh nghiệm xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở một số nước đã chỉ rõ “thị trường là sức sống của các KCN, KCX”. Chính vì vậy để hình thành, phát triển KCN , KCX thì việc nghiên cứu, dự báo thị trường sản phẩm được coi là vấn đề cơ bản và hệ trọng trong việc luận chứng cho sự ra đời của các KCN, KCX.
Để mở rộng thị trường cho các KCN, KCX cần nâng cao năng lực tiếp thị từ hai phía cả cơ quan quản lý Nhà nước mà cơ quan tham mưu là Ban quản lý và các công ty kinh doanh KCN. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, cần phải tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm hiểu cơ hội làm ăn, giới thiệu định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch các KCN, KCX, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào KCN trong khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê đất, bảo đảm cơ chế một cửa, giải quyết thủ tục hành chính nhanh nhất cho các nhà đầu tư, vận dụng thêm các ưu đãi khác để thu hút đầu tư, hướng dẫn việc làm thủ tục nhanh gọn, quy định thời hạn cấp giấy phép trong thời hạn ngắn nhất, những doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu tại địa phương có tỷ lệ xuất khẩu cao được giảm tiền thuê đất. . .
Đối với các công ty kinh doanh KCN cũng tăng nỗ lực tiếp thị cho KCN: thông qua các công ty có uy tín trong và ngoài nước để tìm kiếm các nhà đầu tư, hạ giá , cho thuê đất và mặt bằng để nhanh chóng lấp đầy, phủ kín, cử chuyên gia tiếp xúc với các hiệp hội, tổ chức thương mại và hiệp hội của thế giới, giới thiệu các KCN, KCX trong nước cho những người có ý định đầu tư vào các KCN này.
4. Đẩy nhanh tiến độ đền bù và giải phóng mặt bằng
Trong vài năm gần đây, các dự án đầu tư đặc biệt là các dự án ĐTNN thường gặp khó khăn trong quá trình giải phóng mặt bằng, mà gian truân hơn cả là các dự án ở đô thị hoặc xây dựng kết cấu hạ tầng cho KCN. Các KCN Hà Nội - Đài tư (100% vốn Đài Loan), KCN Nam Thăng Long (liên doanh) phải mất 2-3 năm cho công tác giải phóng mặt bằng, không ít các KCN khác như KCN Biên Hoà II, Gò Dầu,...tuy đã xây dựng khá hoàn chỉnh hạ tầng nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề đền bù giải toả. Sự chậm trễ trong việc đền bù giải toả mặt bằng gây trở ngại rất lớn tới quá trình hình thành dự án và làm không ít nhà đầu tư nản lòng. Đây đang là vấn đề nổi cộm, làm chậm quá trình phát triển KCN, gây khó khăn không nhỏ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong xây dựng hạ tầng, thành lập các KCN.
Về mặt bản chất, việc đền bù, di dân và giải phóng mặt bằng không chỉ là giải quyết các mối quan hệ kinh tế vốn đã rất phức tạp và nan giải mà còn liên quan đến một loạt các vấn đề pháp lý và chính sách xã hội như: quyền sở hữu cá nhân, công ăn việc làm, môi trường sống, sự công bằng và sự hài hoà giữa các lợi ích,... Vì vậy công tác giải phóng mặt bằng vừa cần có sự thận trọng, vừa đòi hỏi các giải pháp toàn diện, đồng bộ xét cả từ giác độ pháp lý lẫn thực tiễn.
Nguyên nhân của tình hình chậm trễ trong việc đền bù giải toả mặt bằng có rất nhiều, nhưng nguyên nhân chủ yếu là trong một thời gian dài vừa qua chúng ta chưa có văn bản pháp lý qui định rõ ràng, cụ thể về vấn đề này, cộng thêm với chính sách áp dụng cho việc đền bù giải tỏa đối với những hộ phải di dời ở mỗi tỉnh mỗi khác, thậm chí trong cùng một tỉnh nhưng có nhiều KCN, có nhiều chủ đầu tư phát triển hạ tầng khác nhau áp dụng cơ chế, chính sách khác nhau. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần kiến nghị với Chính phủ, đề xuất các sửa đổi, bổ sung, ...nhằm ngày càng hoàn thiện các chính sách đền bù giải tỏa mặt bằng, phù hợp hơn với đặc điểm từng vùng, từng tỉnh. Đó là cần điều chỉnh giá đền bù sát với giá thị trường, sớm xây dựng Luật hoặc Pháp lệnh giải phóng mặt bằng, các hộ mua nhà ở tái định cư cũng theo giá thị trường nhưng được hưởng một tỷ lệ ưu đãi (qui định rõ ràng) về chuyển quyền sử dụng đất. Các hộ thuộc diện chính sách ưu đãi, nếu quá nghèo thì có khung giá hỗ trợ cụ thể vì đây là vấn đề xã hội cần được chính quyền quan tâm giải quyết... Tức là việc đền bù giải phóng mặt bằng cần phải đảm bảo nguyên tắc công khai, công bằng trong đền bù, di dời các hộ đến nơi định cư ổn định.
Bên cạnh đó, hiện nay, từ khi có quyết định thành lập cho đến khi hoàn thành thủ tục về đất, thường kéo dài hàng năm. Nguyên nhân chủ yếu là do chủ đầu tư thiếu vốn để đền bù do chi phí phát sinh khá lớn, thậm chí có nhiều trường hợp còn nằm ngoài dự kiến. Ngoài tiền đền bù tài sản có trên đất, chủ đầu tư còn phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, hỗ trợ một số công trình phúc lợi của địa phương.
Đối với dân (đối tượng đền bù), một mặt họ còn chưa hiểu rõ chủ trương phát triển KCN, KCX, cũng như chính sách đền bù hoặc là do chính sách đền bù còn chưa thống nhất, mặt khác một số hộ dân còn cố ý chây ỳ đặt điều kiện đền bù một cách thái quá, trong khi đó trong các văn bản pháp lý của Nhà nước còn thiếu điều khoản mang tính cưỡng chế đối với những trường hợp cần xử lý. Chính vì các nguyên nhân này nên đã tác động đến tư tưởng, tình cảm đối với các đối tượng giao đất làm KCN, KCX, khiến cho một số người không đồng tình, ở nhiều nơi vẫn còn xảy ra hiện tượng các hộ dân lấn chiếm đất thuộc quyền sở hữu của các KCN, gây khó khăn, không những cản trở tiến độ giải phóng mặt bằng mà tác hại hơn nữa còn ảnh hưởng xấu đến tìmh hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN, KCX gây thiệt hại cho các doanh nghiệp này.
Để có thể đẩy nhanh tiến độ của công tác giải phóng mặt bằng hơn nữa, công tác quy hoạch phải thật sự đi trước một bước, đồng thời Nhà nước phải tích cực tuyên truyền giáo dục rộng rãi cho nhân dân hiểu biết về đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ trương phát triển KCN, KCX của nước ta. Đặc biệt, chúng ta phải hết sức coi trọng sự chỉ đạo phối hợp thường xuyên và thực hiện chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp phát triển hạ tầng trong việc vận động, giải thích, thuyết phục các đối tượng phải di dời. Không có sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền địa phương thì không thể tổ chức giải phóng mặt bằng nhanh và hợp lý được. Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng là các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp địa phương cần xúc tiến cải cách thủ tục hành chính, giảm tới mức tối đa các tệ tham nhũng tiêu cực là những cản trở thường gặp làm cho tiến độ giải phóng mặt bằng bị chậm trễ.
5. Đầu tư và phát triển hạ tầng có chất lượng cao
Đồng thời với sự ra đời KCN, KCX, xây dựng cơ sở hạ tầng có chất lượng, nhằm phục vụ cho các doanh nghiệp trong KCN, KCX có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc quy hoạch KCN, KCX gắn liền với quy hoạch phát triển hạ tầng, một trong những nội dung vô cùng quan trọng. Quy hoạch phát triển hạ tầng bao gồm các công việc như xác định diện tích KCN, KCX, diện tích cơ sở hạ tầng kỹ thuật hệ thống giao thông nội bộ, các công trình kiến trúc, hệ thống chuyển tải cấp điện, nước, xử lý nước thải, thông tin, huy động vốn, hình thức đầu tư phát triển hạ tầng. . .
Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng và đầu tư vào KCN, KCX. Việc huy động vốn đầu tư để xây dựng các công trình ngoài hàng rào càng khó khăn hơn. Để có nguồn vốn cho đầu tư cơ sở hạ tầng KCN, KCX cần phải có các giải pháp đa dạng. Sau đây là một số các giải pháp có thể áp dụng để tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng:
Đa dạng hoá các nguồn vốn như vốn nhà nước, tín dụng, vốn vay từ các tổ chức quốc tế, nguồn vốn từ các chủ đầu tư.
Hình thành ngân hàng chuyên doanh phục vụ cho các KCN, KCX để huy động các nguồn vốn nhàn dỗi trong xã hội để phát triển KCN, KCX.
Ưu tiên nguồn vốn ODA cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX, xác định danh mục cần sử dụng nguồn vốn này theo thứ tự ưu tiên để bố trí kế hoạch xây dựng.
Sử dụng quỹ đất tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển KCN, KCX.
Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào một số hạng mục phù hợp với khả năng của họ.
Có cơ chế để sử dụng vốn ngân sách phát triển KCN, KCX thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, đóng góp nghĩa vụ lao động công dân.
Về hình thức đầu tư phát triển hạ tầng thì trong những năm gần đây, nhà nước chủ trương khuyến khích các loại hình doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh hạ tầng KCN, KCX nhưng khó khăn lớn nhất là thiếu vốn và khả năng tiếp thị vận động đầu tư do đó đã hạn chế khả năng phát triển và hiệu quả đầu tư. Đối với vấn đề này, chúng ta có thể thực hiện giải pháp thực tế đó là đa dạng hoá hình thức đầu tư doanh nghiệp Nhà nước (công ty phát triển hạ tầng), công ty liên doanh phát triển hạ tầng (thường có nguồn tài chính dồi dào hơn khả năng vận động đầu tư tốt hơn), công ty tư nhân. Ngoài ra chúng ta cũng có thể áp dụng các hình thức khác như BOT với đối tác trong và ngoài nước, cổ phần. Chính sự đa dạng về hình thức đầu tư và đối tác đầu tư sẽ làm phong phú thêm thị trường xây dựng, tạo điều kiện để cạnh tranh, nâng cao chất lượng.
Trong thời gian qua, vốn ngân sách của nước ta còn hạn hẹp do đó chúng ta chủ yếu gọi đầu tư nước ngoài để xây dựng các KCN, KCX. Vì mục tiêu kinh doanh nên các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn đến lượi nhuận. Trong cơ cấu giá thành sản phẩm, tiền thuê đất thường chiếm tỷ trọng lớn vì giá thuê đất cao. Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm sức thu hút đầu tư. Vì vậy, giải pháp hữu hiệu nhất là Nhà nước nên giảm giá cho thuê đất. Chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ rằng việc đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN là tạo đièu kiện để thu hút đầu tư. Có thể nói đây là nhân tố hàng đầu để lấp đầy, phủ kín các KCN, KCX còn bỏ trống hiện nay.
Việc khai triển các công ty kết cầu hạ tầng ngoài hàng rào để đồng bộ với các công trình hạ tầng trong hàng rào KCN, KCX được đề cập trong quy chế KCN năm 1997. Nghị định 10/CP năm 1998 về sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước cho các công trình cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào đến chân các KCN, KCX, tuy nhiên việc chiển khai còn chậm.
Hiện nay, rất khó tìm được KCN nào đồng bộ nhất là điện, nứơc, nhà ở cho công nhân. Để khắc phục tình trạng này, liệu chúng ta có nên thực hiện đầu tư theo kiểu cuốn chiếu, hoàn tất cho từng khu phối hợp với chính quyền địa phương trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào vì làm như vậy, không những có lợi cho KCN, KCX mà còn có lợi cho cộng đồng địa phương nơi họ đang sinh sống.
6. Phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường
Từ kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm của một số nước trong khu vực đã cho ta thấy để hình thành KCN, KCX không khó, mà việc khó khăn là phải làm cho các doanh nghiệp trong KCN, KCX phát triển nâng cao sức cạnh tranh bảo đảm sự phát triển bền vững.Giải pháp về công nghệ và môi trường là giải pháp tăng nội lực của KCN, KCX trong quá trình hội nhập. Bên cạnh các KCN mới có công nghiệp tương đối hiện đại, chúng ta còn rất nhiều KCN cũ lạc hậu do đó cần phải tìm những giải pháp thiết thực để hiện để hiện đại hoá các KCN này:
Trên cơ sở chiến lược về thị trường của công nghiệp trong nước mà hình thành chiến lược về công nghệ từ nay đến năm 2020 làm căn cứ lựa chọn công nghệ đầu tư vào KCN, KCX.
Kết hợp với các Viện, trung tâm nghiên cứu của công nghệ với các cơ sở sản xuất, kinh doanh để thực hiện các chương trình dự án thiết thực liên quan đến đổi mới và ứng dụng công nghệ mới.
- Miễn thuế nhập khẩu cho những máy móc, thiết bị, sản phẩm trung gian liên quan đến đổi mới công nghệ ở các KCN, KCX. Đồng thời phải làm tốt công tác thẩm định công nghệ nhập.
Việc hình thành và phát triển các KCN, KCX liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ môi trường. Để làm tốt vấn đề này, chúng ta cần giải quyết những vấn đề sau đây:
Việc quy hoạch các KCN, KCX gắn liền với quy hoạch bảo vệ môi trường , dự báo về môi trường khi các doanh nghiệp trong KCN, KCX đi vào hoạt động.
Về nguyên tắc, các KCN, KCX phải bố trí ở ngoại vi thành phố với cơ sở hạ tầng đầy đủ để xử lý nước thải, bụi tiếng ồn. . .
Khuyến khích sử dựng công nghệ sạch vào các KCN, KCX, áp dụng các công nghệ ít chất thải, thay thế các chất độc hại bằng các chất ít độc hại.
Có những quy định cụ thể về bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư, dự án sản xuất kinh doanh, sự đóng góp tài chính của các doanh nghiệp và bảo vệ môi trường.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhận được thông tin về môi trường như một biện pháp cơ bản bảo vệ môi trường. Việc lập báo cáo tác động môi trường cần được tiến hành đồng thời với việc lập báo cáo khả thi thành lập KCN, KCX.
Thúc đẩy các KCN, KCX đã có thực hiện đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường.
Từng bước chuyển hướng sản xuất hoặc di dời những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường ở các quận nội thành ra các vùng ngoại vi.
7. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho KCN, KCX.
Tính đến hết tháng 10 năm 2000, các KCN Việt Nam đã thu hút được hơn 18 vạn lao động. Đây là nguồn nhân lực đáng kể, có vai trò ngày càng lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, về nguồn lao động của chúng ta hiện nay còn rất nhiều vấn đề cần bàn như đã phân tích kỹ trong chương trước.
Nhu cầu lao động cho các KCN, KCX ngày càng tăng đặc biệt là về chất lượng lao động bởi vì lao động ngày nay phải làm việc trong môi trường sản xuất với thiết bị hiện đại. Trong khi đó, hiện nay ở nước số lượng các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề chưa nhiều, các trung tâm dạy nghề ngắn hạn lại chưa được kiểm tra giám sát, quản lý về mặt chất lượng đào tạo nên thực ra cho đến tận bây giờ có thể nói ở Việt Nam việc đào tạo lao động có tay nghề còn rất yếu và thiếu. Chúng ta còn thiếu rất nhiều cán bộ quản lý giỏi, trình độ ngoại ngữ cũng còn nhiều hạn chế khiến cho việc giao tiếp gặp không ít khó khăn.
Trong bối cảnh đó, để đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước nói chung và cho sự phát triển các KCN ở Việt Nam nói riêng, chúng ta cần phải vạch ra những giải pháp cụ thể.
Trước hết, cần xác định lại cơ cấu trong toàn bộ hệ thống đào tạo: mở rộng, đa dạng hoá các loại hình dạy nghề; chấn chỉnh tổ chức và quản lý chặt chẽ về chất lượng các trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề gắn thị trường lao động với cơ sở đào tạo, với doanh nghiệp để giáo dục đào tạo và sản xuất kinh doanh thực sự là một chu trình khép kín. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo tay nghề tại các cơ sở sản xuất, vừa làm vừa học; đồng thời cần có ưu đãi khuyến khích người lao động tự nâng cao trình độ cho bản thân mình. Trước mắt, việc đào tạo cần ưu tiên cho các ngành: cơ khí chính xác, vận hành, lắp ráp, sửa chữa, điện, điện tử, công nghiệp da giầy, may mặc và chế biến thực phẩm,...
Về đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý các KCN. Như chúng ta đều biết, KCN là một mô hình kinh tế còn rất mới mẻ ở nước ta. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý KCN không phải ai khác hiện nay chính là các nhà kinh tế, kỹ thuật, các luật sư... được điều động từ nhiều môi trường công tác khác nhau do trong thời kỳ đầu mới thành lập KCN chúng ta còn thiếu thậm chí không có cán bộ chuyên môn. Trên thực tế, cũng chưa có một trường lớp nào chuyên đào tạo cán bộ quản lý KCN do còn quá mới mẻ và chúng ta cũng chưa kịp mở lớp đào tạo, bồi dưỡng một cách chính qui. Chính vì vậy, bước vào môi trường quản lý mới, vấn đề trang bị kiến thức về quản lý KCN đối với cán bộ quản lý KCN đã trở thành nhiệm vụ trung tâm của các KCN. Mục đích của công tác đào tạo là nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy và phong cách công nghiệp, có trình độ hiểu biết về luật pháp quốc tế và trong nước, có năng lực quản lý khoa học và công nghệ hiện đại, thành thạo trong giao dịch về kinh tế, về quản lý hành chính với các đối tác.
Nội dung đào tạo cần bao gồm các môn khoa học về quản lý hành chính, luật kinh tế, quản lý vĩ mô và vi mô, về môi trường, về xuất nhập khẩu, lao động, qui hoạch xây dựng, công nghệ sản xuất hiện đại, tin học, ngoại ngữ,.. Các kiến thức khoa học này cần trang bị cho người cán bộ một cách có căn bản, có hệ thống và được vận dụng thích hợp với yêu cầu của công tác quản lý KCN.
Đối tượng đào tạo bồi dưỡng sẽ là cán bộ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cán bộ quản lý các công ty xây dựng hạ tầng... Tuỳ theo yêu cầu của đối tượng đào tạo mà áp dụng linh hoạt các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác nhau, như bồi dưỡng thông qua các lớp ngắn hạn theo chuyên đề từ 2 đến 6 tháng; tổ chức tham quan học tập trong và ngoài nước, tuyển chọn cán bộ, học sinh đi đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, khuyến khích các hình thức tự học của cán bộ.
Trước mắt, cần điều tra, đánh giá và phân loại trình độ cán bộ hiện có, xác lập qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng kế hoạch học tập sát với từng loại đối tượng theo trình tự môn học, thời gian, nội dung học tập,... Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng kinh nghiệm, cần triển khai từng bước vững chắc, học gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh làm theo kiểu ồ ạt hình thức.
8. Một số vấn đề khác cần quan tâm
Thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư và KCN.
Như chúng ta đều biết, đặc trưng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy, để thích ứng với tình hình thực tế Việt Nam đồng thời phát huy hiệu quả hoạt động của các KCN một cách tối ưu, cần phải thay đổi quan điểm cho rằng KCN chỉ dành cho các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Chính phủ, các cấp có liên quan và các Ban quản lý KCN cần có những chính sách ưu đãi tối đa nhằm thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước đầu tư vào KCN. Nhìn chung, các khu vực sản xuất công nghiệp của Việt Nam trước đây được hình thành một cách tự phát, tập trung ở nội thành, đan xen trong các khu dân cư gây ra những bất hợp lý trong cơ cấu ngành nghề, vận tải, thị trường tiêu thụ và nhất là gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng trực tiếp đến các khu dân cư. Việc di dời các doanh nghiệp kiểu này ra ngoại thành là việc làm cần thiết và các KCN chính là nơi tiếp nhận những doanh nghiệp hiện đang có nhu cầu di dời. Đây không chỉ là việc bố trí lại các doanh nghiệp hiện có trên địa bàn lãnh thổ mà quan trọng hơn là hạn chế sự ô nhiễm môi trường, tạo ra cơ hội để đổi mới thiết bị của nhiều doanh nghiệp đồng thời các doanh nghiệp cũng có cơ hội thuận lợi trong việc tiếp nhận những hợp đồng lớn, những bạn hàng mới.
Tuy nhiên vấn đề mà hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta quan tâm là các chi phí trong KCN quá cao, không phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp hiện đang có cơ sở vật chất vững vàng lại đang ở vị trí thuận lợi thì việc thuyết phục họ đầu tư vào KCN là việc làm không dễ dàng gì.
Về lâu về dài, việc đưa các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào KCN là một tất yếu. Tuy nhiên, để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào sản xuất, kinh doanh tại các KCN, Chính phủ nên có các biện pháp ưu đãi như cho phép các doanh nghiệp di dời khỏi đô thị được chuyển nhượng quyền sử dụng đất nơi đang ở để có thêm vốn đầu tư vào việc thực hiện tái tạo doanh nghiệp và đổi mới công nghệ hoặc được chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong một khoảng thời gian nhất định ... Đồng thời, nên chú trọng thành lập các KCN vừa và nhỏ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Mở rộng các qui định về huy động vốn cho phát triển KCN.
Để có thêm vốn đầu tư cho phát triển KCN, ngoài vốn ngân sách cần xã hội hóa việc huy động vốn đầu tư, cho phép mọi thành phần kinh tế bình đẳng tham gia phát triển KCN. Cho phép các ngân hàng nước ngoài đặc biệt là các ngân hàng công nghiệp được mở chi nhánh trong KCN. Xúc tiến tìm nguồn vốn ODA cho phát triển hạ tầng KCN, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào KCN, dạy nghề cho công nhân. Cần có qui định buộc các công ty hạ tầng phải tập trung vốn và nguồn lực để phát triển hạ tầng KCN, nếu công ty phát triển hạ tầng chưa có đủ năng lực triển khai theo quyết định đã được phê duyệt thì cần phải có giải pháp gọi thêm doanh nghiệp tham gia phát triển hạ tầng để đảm bảo tiến độ xây dựng hạ tầng, nếu KCN đã có hạ tầng nhưng lại gặp khó khăn trong thu hút đầu tư thì thực hiện cho thuê lại hoặc thuê công ty quản lý để gọi vốn đầu tư .
Ngoài ra, cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để phát triển các công ty hạ tầng bên ngoài hàng rào KCN như mở rộng hình thức đầu tư theo hình thức BOT, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thành lập quĩ hỗ trợ đầu tư từ quĩ đầu tư phát triển đô thị,...
Xúc tiến hơn nữa việc hợp tác giữa doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp trong KCX.
Mối liên kết trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp chế xuất và nội địa là một tất yếu, tác động lẫn nhau trong quá trình tổ chức sản xuất xã hội. Ngoài các yếu tố từ nước ngoài như máy móc, vật liệu, linh kiện phụ kiện,... các yếu tố nội địa như lao động, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, nhà xưởng cũng góp phần quan trọng đảm bảo hoạt động sản xuất của cả hai bên để tiến hành được bình thường. Các KCX có tác động tích cực đến sản xuất nội địa thông qua việc cung ứng nhiều loại vật tư, thiết bị thay thế nhập khẩu trong phạm vi được phép. Đồng thời các ngành kinh tế nội địa cũng tập trung được nhiều lợi thế xuất khẩu vào KCX cùng với thị trường xuất khẩu truyền thống. Tuy nhiên, việc cung ứng vật tư sản xuất là dịch vụ gia công từ nội địa cho KCX so với tiềm năng thì tỷ lệ khai thác được ở Việt Nam đang còn rất khiêm tốn, kể cả việc khai thác nhiều loại vật tư thay thế nhập khẩu (theo kinh nghiệm của các KCX ở Đài Loan thì mức giá trị gia tăng nội địa trung bình nếu là 400 triệu USD thì lực hút đối với các ngành kinh tế nội địa gồm cả lao động, dịch vụ hạ tầng ,.. ước đạt khoảng 120 USD)
Để tạo đà phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, chúng ta cần có những cải cách nhằm hoàn thiện hơn mối liên kết trao đổi hàng hoá hai chiều. Việc hoàn thiện có thể làm theo hướng sau:
Cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của mối liên kết sản xuất giữa các KCX với nền kinh tế nội địa thông qua những tác động tương hỗ từ hai phía với KCX đóng vai trò xúc tác cần được nâng cao; đồng thời các doanh nghiệp nội địa cần có sự quan tâm đúng mức đến việc khai thác cơ hội hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp KCX như là một thị trường có qui mô lớn, thuận lợi của mình. Các doanh nghiệp có liên quan cần xây dựng định hướng phát triển để tạo khả năng đáp ứng ngày càng rộng hơn nhu cầu của thị trường này, từ đó góp phần cùng các cơ quan hữu quan xây dựng tốt định hướng ở tầm vĩ mô. Tăng cường các cuộc tiếp xúc để khảo sát và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp của hai nơi để phát hiện và tạo dựng cơ hội làm ăn .
Tổ chức và phát triển kênh thông tin qua lại giữa các bên để cung cấp dữ liệu cho khâu tiếp thị và tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp nội địa cho KCX; cải tiến mặt hàng đã có và phát triển mặt hàng mới căn cứ vào yêu cầu của KCX để có nguồn hàng phong phú hơn, chất lượng ngày càng được nâng cao phù hợp với yêu cầu của sản xuất và có đủ năng lực cạnh tranh về giá cả. Hướng đến mục tiêu này, cần đẩy mạnh quan hệ hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp KCX với doanh nghiệp sản xuất nội địa và nâng cao tính chủ động của các doanh nghiệp nội địa.
Đối với cơ chế và chính sách quản lý cần được cải tiến theo hướng khuyến khích tối đa các hoạt động sản xuất và cung ứng nguyên liệu, vật tư, hàng hoá và gia công cho KCX, đồng thời khuyến khích việc sử dụng tại KCX, cho phép kiểm tra ở mức độ cần thiết các doanh nghiệp chế xuất đưa hàng từ KCX vào nội địa, từ đó thủ tục cần có đủ thông thoáng cho phép, kể cả thủ tục trao đổi, gia công trong nội bộ các KCX.
Cần cho phép thành lập các tổ chức xúc tiến liên kết nội địa (đã có ở TP. Hồ Chí Minh) nhằm theo dõi cập nhật, cung cấp thông tin và thúc đẩy mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài KCX.
Cần phải có những công trình nghiên cứu về sự khác nhau giữa KCN và KCX, ưu điểm cũng như hạn chế của mỗi loại hình đó đối với Việt Nam, cũng như các đối tác nước ngoài, để từ đó có thể tìm ra giải pháp cho KCX. Hy vọng này bắt nguồn từ thực tế là hiện nay trong khi các dự án trong KCX rất trì trệ thì các dự án xây dựng KCN lại đang được triển khai nhanh chóng và có nhiều triển vọng. Chúng ta đang xây dựng nhiều KCN, vì vậy việc làm sáng tỏ những nguyên nhân khiến chương trình KCX chậm phát triển trước khi có những đề xuất hay kế hoạch tiếp theo về KCN, KCX là vô cùng quan trọng, nếu không có thể chính những vấn đề và khó khăn đã cản trở sự phát triển của KCX cũng có thể là trở ngại đối với các KCN.
kết luận
Hơn 10 năm xây dựng và phát triển Khu công nghiệp và Khu chế xuất, chúng ta đã thu được nhiều bài học và kinh nghiệm về hình thức phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế này. Mặc dù còn nhiều vấn đề tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nhưng chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích to lớn mà việc phát triển Khu công nghiệp, Khu chế xuất đã mang lại.
Tuy còn có những hạn chế song với những đặc tính ưu việt của mình, mô hình KCN, KCX đã nổi lên như một kiểu mẫu hiện đại trong số các công cụ nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển trong 3, 4 thập kỷ qua, đặc biệt là các nước Đông Nam á và mới đây là Việt Nam. Sự phát triển thành công của nhiều KCN, KCX ở Việt Nam đã chứng minh đây là một mô hình đat hiệu quả cao trong một khoảng thời gian tương đối ngắn để có thể phát triển hoàn thiện nền sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu nhằm phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH. Đồng thời, những thành tựu to lớn mà các KCN, KCX đã đóng góp trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua là không thể phủ nhận được. Để phát huy hơn nữa vai trò tích cực và to lớn, của các KCN, KCX đối với nền kinh tế, chúng ta cần phải có những giải pháp phát triển phù hợp và hữu hiệu để hạn chế và ngăn chặn những vấn đề khó khăn còn tồn tại trong quá trình xây dựng và phát triển mô hình kinh tế này.
Với lịch sử hình thành mới hơn một thập kỷ nhưng các KCN, KCX ở Việt Nam đã đem lại nhiều kết quả rực rỡ do đó chúng ta có thể tin tưởng rằng trong tương lai mô hình kinh tế này sẽ phát triển rộng rãi và thực sự trở thành mô hình phát triển kinh tế năng động và hiệu quả, thực hiện tốt sứ mệnh của nó trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Ngô Thế Bắc, “Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam hiện nay”, tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 265, tháng 8/2001.
[2]. pts Mai Ngọc Cường, “Công nghệ thông tin với sự phát triển các KCN ở Châu á”, tạp chí công nghiệp Việt Nam 22/2001 tr.11, 12.
[3]. PGS, PTS Tô Xuân Dần, đề tài “KCX tại các nước đang phát triển”, Viện nghiên cứu kinh tế thế giới, năm 2001, tr.9. [3]
[4]. Nguyễn Thu Hương," Để tăng sức hấp dẫn của các KCN ",báo Hà Nội mới, số 12073, tr.3.
[5]. Trần Quang Hưng, đề tài “ Tình hình đầu tư vào Việt Nam trong những năm gần đây ", Viện nghiên cứu kinh tế thế giới, năm 2002, tr.12-21.
[6]. Phạm Hùng Nghị, “ Kinh nghiệm thế giới về phát triển KCX và đặc khu kinh tế”, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, năm 1999, tr.14-18.
[7]. PTS Nguyễn Văn Nam, “Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của KCN, KCX Việt Nam 1991-2001”, tr. 46.
[8]. Nguyễn Thu Trang, khoá luận “ KCN, KCX - thực trạng và giải pháp phát triển ở Việt Nam” trường Đại học Ngoại Thương, tr. 35, 37.
[9]. PGS, PTS Lê Văn Sang, “Dự thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2000 - 2010”,Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tr.5.
[10]. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, nhà chính trị quốc gia Hà Nội, tr.9.
Phụ lục
Danh mục các văn bản liên quan Đến chủ trương phát triển KCN, KCX
Văn bản liên quan đến chủ trương quy hoạch KCN, KCX
1. Quyết định số 519/Ttg ngày 6/8/1996 của Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1960-2010.
2. Thông báo số 83/TB ngày 24/10/1996 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của phó thủ tưởng Phan Văn Khải về một số vấn đề phát triển, hoạt động và quản lý Nhà nước đối với KCN, KCX.
3. Chỉ thị số 199/Ttg ngày 3/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách trong công tác quản lý chất thải rắn ở các đô thị và KCN.
4. Quyết định số 713/Ttg ngày 30/8/997 của Chỉnh phủ về việc bổ sung Danh mục KCN ưu tiên đầu tư đến năm 2000.
5. Các công văn số 03/KCN ngày 1/4/1997, số 08/KCN ngày 19/6/1997, 09/KCN ngày 25/7/1997, 11/KCN ngày 11/8/1997, số 15/KCN ngày 4/10/1997, số 24/KCN ngày 26/12/1997.
6. Quyết định số 904/Ttg ngày 23/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt định hướng quy hoạch chung KCN -cảng biển Vũng áng, Hà Tĩnh.
7. Công văn số 01/CP -KCN ngày 23/1/1998 của Chính phủ về việc điều chỉnh diện tích quy hoạch các KCN ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
8. Quyết định số 28/1998/QĐ-Ttg ngày 6/2/1998 về việc giao nhiệm vụ tiến hành chuẩn bị thành lập KCNC Hoà Lạc, Hà Tây.
9. Quyết định số 108/1998/QĐ-Ttg ngày 20/6/1998 về việc điều chỉnh quy hoạch chung TP. Hà Nội đến năm 2020.
10. Quyết định số 128/1998/QĐ-Ttg ngày 10/7/1998 về việc điều chỉnh quy hoạch chung TP. HCM đến năm 2020.
11. Công văn số 1020/CP-ĐP1 ngày 29/8/98 của Chỉnh phủ giải quyết một số kiến nghị của TP. Hà Nội.
12. Quyết định số 194/1998/QĐ-Ttg ngày 1/10/1998 của Chính phủ về việc bổ sung Danh mục đầu tư đến năm 2000.
13. Quyết định số 198/QĐ-Ttg ngày 12/10/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập KCNC Hoà Lạc, Hà Tây.
14. Quyết định số 989/QĐ-Ttg ngày 4/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao nhiệm vụ tiến hành chuẩn bị thành lập KCNC TP. HCM.
15. Thông báo số 232 TB/TW ngày 10/7/1999 của Bộ chính trị về chủ trương xây dựng thí điểm Khu kinh tế mở Chu Lai, Quảng Nam.
16. Công văn số 15/CP-KCN, 16/CP-KCN và 17/CP/KCN ngày 7/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy hoạch xây dựng KCN Nhơn Thành (Bình Phước), Đình Trám (Bắc Giang), Tiền Hải (Thái Bình).
17. Chỉ thị số 36/1998/ CT-Ttg ngày 23/10/1998 của Thủ tướng chính phủ về việc kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị định 36/CP.
Các văn bản pháp lý
Quy chế KCX ban hành kèm theo Nghị định số 332/HĐBT ngày 18/10/1991.
Quy chế KCN ban hành kèm theo Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994.
Công văn số 10/VPCP ngày 23/12/1996 của văn phòng chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN tập trung..
Quy chế KCN, KCX ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997.
Chỉ thị số 199/CT-Ttg ngày 3/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách trong công tác quản lý chất thải rắn ở các đô thị và KCN.
Chỉ thị số 264/Ttg ngày 24/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai một số việc thực hiện quy chế KCN, KCX, KCNC.
Công văn số 07/KCN ngày 16/6/1997 của Chính phủ về việc uỷ quyền cấp GPĐT đối với các dự án ĐTNN.
Quyết định số 831/Ttg ngày 7/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc BQL KCN Dung Quất là đơn vị đầu mối kế hoạch.
Công văn số 19/KCN ngày 12/11/1997 của Chính phủ về việc cho thuê lại đất trong KCN.
Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chỉ thị 11/CT-Ttg ngày 16/3/1998 về thực hiện nghị định 10/CP và cải tiến các thủ tục đầu tư nước ngoài.
Quyết định số 233/1998/QĐ-Ttg ngày 1/12/1998 về việc phân cấp, uỷ quyền cấp GPĐT đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quyết định số 53/1999/QĐ-Ttg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Công văn số 04/CP-KCN ngày 16/3/1999và số 182/BQL KCN cấp tỉnh xét duyệt dự án đầu tư trong nước vào các KCN, KCX trên địa bàn.
Quyết định số 8645/QĐ-Ttg ngày 15/6/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện một số hạnh mục công trình dự án KCNC Hoà Lạc trong năm 1999.
Nghị định số 24/2000/NĐ/CP ngày 31/7/2000 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19311.doc