Cho thuê tài chính là một nghiệp vụ mới ra đời ở nước ta chưa lâu nên gây ra nhiều lúng túng cho cả cơ quan ban hành chính sách, chế độ, Ban lãnh đạo công ty và các cán bộ chuyên trách. Tuy nhiên, điều này vẫn không hạn chế được ý nghĩa to lớn của hoạt động CTTC đối với nền kinh tế, khi mà nó thực hiện các chức năng: dẫn vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong bối cảnh đó, việc nhanh chóng hoàn thiện để có được một mô hình hoạt động hiệu quả và phù hợp với môi trường kinh doanh còn chưa ổn định là một yêu cầu tất yếu với các công ty CTTC để có thể tồn tại và phát triển lâu dài. Một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với các công ty CTTC là công tác kế toán CTTC phải được tổ chức một cách khoa học và có hiệu quả nhất. Từ đó, việc tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán CTTC là hết sức cần thiết.
Khoá luận tuy được thực hiện trong thời gian không dài nhưng có tính thực tiễn cao trên cơ sở những số liệuvà tình hình thực tế tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; bên cạnh đó tính lí luận được đúc rút từ thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới, bởi vậy khoá luận đã hoàn thành một số nhiệm vụ sau:
106 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 817 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu tố: thị trường công nghệ, môi trường pháp lý, lãi suất thị trường, tính cạnh tranh và đối tượng khách hàng. Mỗi yếu tố tác động đến hoạt động CTTC theo một hướng, không tác động nào giống tác động nào. Dưới đây là vài nét về những yếu tố trên.
3.1.1.1. Thực trạng môi trường pháp lý của hoạt đông CTTC ở Việt Nam.
Để nền kinh tế có thể phát triển nhanh và lành mạnh trong điều kiện cơ chế thị trường thì tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế đều phải được ra đời, tồn tại và phát triển trong một môi trường pháp lý nhất định. Hoạt động CTTC cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Cho thuê tài chính là một hoạt động hết sức phức tạp và có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm, đặc điểm của hoạt động CTTC trên thế giới. Vì thế, hơn bất kỳ hoạt động nào ở Việt Nam, hoạt động CTTC cần một hệ thống pháp lý đầy đủ và phù hợp nhất để định hướng cho hoạt động, khơi dạy những tiềm năng, phát huy những ưu thế sẵn có; đồng thời giảm thiểu những hạn chế.
Trước những đòi hỏi cấp thiết của hoạt động cho thuê tài chính, được sự giúp đỡ của Ngân hàng thế giới và Công ty tài chính quốc tế, đầu năm 1995, hệ thống văn bản pháp lý đầu tiên đối với nghiệp vụ CTTC được hình thành. Ngày 24/05/1995, Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 149/QĐ-NH5 và đi kèm quyết định này là Thể lệ tín dụng thuê mua.
Sự ra đời của Thể tín dụng thuê mua bước đầu đã tạo cơ hội cho hoạt động cho thuê tài chính được triển khai ở Việt Nam. Tính đến thời điểm này, các văn bản pháp lý cho sự ra đời và điều chỉnh hoạt động của thị trường CTTC tại Việt Nam bao gồm:
+ Nghị định 64/CP/ ngày 09/10/1995 của chính phủ ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC tại Việt Nam.
+ Thông tư 03/TT- NH5 ngày 09/02/1996 của thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện nghị định 64/CP.
+ Luật các tổ chức tín dụng được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 01/10/1998.
+ Thông tư số 03/1998/TT – NHNN5 ngày 30/03/1998 của Thống Đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc sủa đổi điểm 1.5 mục V của thông tư 03/TT –NH5 ban hành ngày 09/02/1996 và có hiệu lực thi hành 27/03/1998.
+ Thông tư số 09/1999/TT– BTC ngày 01/09/1999 củ bộ trưởng bộ tài chính quy định về việc áp dụng thuế GTGT đối với các hoạt động CTTC.
+ Thông tư 107/1999/TT– BTC ngày 01/09/1999 của Bộ Trưởng Bộ tài chính hướng dẫn kế toán thuế GTGT đối với hoạt động di thuê tài chính.
+ Nghị định 16/NĐ- CP ngày 02/05/2001 của Chính phủ ban hành quy định của công ty cho thuê tài chính.
+ Thông tư số 08/2001/TT– NHNN ngày 06/09/2001 của ngân hàng nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 16/NĐ- CP của Chính phủ.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các văn bản khác có liên quan đến hoạt động CTTC như: luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật thuế GTGT, luật thuế XNK, luật thuế TNDN; pháp lệnh hợp đồng kinh tế, pháp lệnh kế toán thống kê, luật công ty, luật phá sản doanh nghiệp.
Như vậy, mặc dù hoạt động CTTC tại Việt Nam mới ra đời nhưng đã có được một hành lang pháp lý khá đầy đủ, tạo điều kiện cho việc quản lý và thúc đẩy thị trường CTTC phát triển ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các điều khoản quy định cho hoạt động CTTC trong các văn bản luật hiện hành chưa hoàn chỉnh, chưa có sự đồng bộ và thống nhất, gây khó khăn cho các Ngân hàng thương mại trong việc thực hiện hoạt động cho thuê tài chính nên các NHTM chưa phát huy được hết các lợi thế của mình; đồng thời chưa tạo ra những thuận lợi khuyến khích các đối tượng tham gia vào thị trường này.
Không những thế một số quy định còn vô hình tạo ra “một sân chơi” không bình đẳng giữa các công ty CTTC, gây cản trở đến việc phát triển của thị trường CTTC.
Nói chung, kể từ khi CTTC chính thức ra đời và hoạt động ở Việt Nam đến nay, hệ thống pháp luật phục vụ cho sự phát triển của hoạt động này ngày càng được bổ sung nhằm hoàn chỉnh hơn, điển hình là sự ra đời của nghị định 16/2000–NĐ- CP và thông tư số 08/2001/TT– NHNN. Hai văn bản pháp lý này thực sự đã tạo điều kiện tốt cho hoạt động của các công ty CTTC ở Việt Nam với nhiều điểm thông thoáng. Tuy nhiên, hệ thống pháp lý này vẫn còn một số bất cập vì thiếu những văn bản hướng dẫn của các cơ quan chức năng như: Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính. Do đó, việc các công ty CTTC phải tham chiếu nhiều văn bản pháp quy khác nhau cũng như phải tự tìm tòi khi thực hiện các nghiệp vụ đã phần nào hạn chế tác dụng tích cực nêu trên.
Với những lợi ích to lớn của mình, hoạt động CTTC xứng đáng được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh, đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với đặc thù hoạt động. Có như vậy các Công ty CTTC mới có điều kiện phát triển, đóng góp cho quá trình CNH- HĐH đất nước và tạo nguồn tài trợ đặc biệt hữu ích cho các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt của thị trường.
3.1.1.2. Yếu tố thị trường công nghệ.
Trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước tất cả các ngành, các lĩnh vực của đất nước phải cố gắng và nỗ lực. Để đạt được yêu cầu đặt ra, rút ngắn được thời gian CNH-HĐH thì: nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị là nhu cầu cấp thiết của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế; nhu cầu này có được đáp ứng hay không phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn của các doanh nghiệp. Dưới đây là những nét chính phản ánh nhu cầu và khả năng thoả mãn nhu cầu đó của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
* Nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị.
Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đất nước trong 10 năm tới là: Phấn đấu tăng GDP lên ít nhất 2 lần (quy mô GDP năm 2010 so với năm 200), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là trên 7%. Nhu cầu tổng mức vốn đầu tư trong toàn xã hội ước tính trên 160 tỷ USD, trung bình sẽ chiếm khoảng 28%- 29% GDP; tăng tỷ trọng vốn trung, dài hạn lên bằng 40- 50% tổng nguồn vốn đầu tư. Với quan điểm: vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn nước ngoài đóng vai trò chủ đạo, nền kinh tế nước ta phấn đấu trong các năm tới, vốn trong nước chiếm 64- 70% tổng nguồn vốn đầu tư bằng khoảng 18%- 20% GDP; còn vốn nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp, vốn tài trợ, vốn vay thương mại với tỷ lệ 30%- 36% trong tổng nguồn vốn đầu tư. Để đạt được những mục tiêu trên, nền kinh tế nước ta phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng: giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống 16- 17% GDP, tăng tỷ trọng dịch vụ lên 42- 43% và tỷ trọng công nghiệp đạt tỷ lệ 40%- 41% GDP.
Trước những mục tiêu phát triển của nền kinh tế như trên, xét thực tế nguồn vốn đầu tư trong cả nước hiện nay, có thể dễ dàng nhận thấy nguồn lực phát triển của đất nước là rất hạn hẹp. Khó khăn, vướng mắc lớn nhất là nhu cầu vốn để đầu tư phát triển là rất lớn, trong khi khả năng đáp ứng các nhu cầu này rất thấp. Vì thế, việc tạo ra sự “đột biến” nhanh trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường là vô cùng khó khăn. Từ đó hạn chế khả năng phát triển của đất nước ở hiện tại cũng như trong tương lai.
Với những lợi ích mà CTTC mang lại cho nền kinh tế nói chung và cho các chủ thể tham gia nói riêng, cũng như qua kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực trong việc phát triển thị trường CTTC cho thấy vai trò to lớn của nghiệp vụ này đối với việc phát triển của nền kinh tế.
Tuy mới đi vào hoạt động chưa lâu nhưng đã được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm và nhu cầu sử dụng loại hình dịch vụ này tăng dần theo thời gian và chắc chắn trong những năm tới để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, nhu cầu sử dụng dịch vụ CTTC sẽ tăng mạnh.
Để thấy rõ hơn nhu cầu sử dụng CTTC trong tương lai chúng ta có thể xem qua về nhu cầu vốn đầu tư của hàng không và ngành đường sắt thuộc bộ giao thông vận tải từ năm 2001đến 2010.
Bảng 3: Dự báo khối lượng đầu tư vào ngành hàng không từ 2001- 2010
Số thứ tự
Hạng mục
2001- 2010
1
2
3
4
5
Thuê máy bay đường dài có số ghế trên 250 (B747,B567, A330, A340).
Thuê máy bay tầm trung có số ghế 150- 180 (B757, B737, A320).
Thuê máy bay tầm ngắn 50- 80 ghế (B737, ATR- 72, Fokker 0- 70).
Thuê máy bay cỡ nhỏ dưới 30 ghế Tetstream 31, 41Cessna, King Air.
Nâng cấp sân bay nội bài.
36 chiếc
60 chiếc
60 chiếc
50 chiếc
1 tỷ USD
Nguồn: Bộ giao thông vận tải.
Bảng 4: Dự báo khối lượng thiết bị đầu tư vào ngành đường sắt
từ 2001 -2010
STT
Hạng mục
Nội dung
Khối lượng đầu tư
1
2
3
4
5
Nhà máy đóng mới toa xe
Nhà máy đại tu đầu máy diezen ở các khu đoạn
Nhập các đầu máy diezen công suất, chạy tốc độ cao
Ôtô ray chạy trên những tuyến ngắn đông khách
Toa xe cao cấp chạy tuyến đường dài liên vận quốc tế
2 chiếc
5 chiếc
100 chiếc
200 chiếc
300 chiếc
Nguồn: Bộ giao thông vận tải
Có thể thấy nhu cầu đầu tư, trang bị máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển của các nhà đầu tư là rất lớn, trong khi khả năng tài chính và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư của các doanh nghiệp còn hạn chế, tự bản thân doanh nghiệp không có khả năng tự mua sắm tất cả các máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình.
Thông qua việc sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính, các doanh nghiệp sẽ giải quyết được tình trạng khó khăn về vốn bởi: họ có thể vẫn có máy móc, thiết bị hoặc phương tiện vận chuyển phục vụ hoạt động SX- KD mà không phải nhất thiết vay vốn bằng tiền với những điều kiện phức tạp.
* Nguồn vốn đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị.
Nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động SX- KD của các doanh nghiệp Việt Nam được chia thành: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Cả hai nguồn vốn tài trợ này đều có những ưu điểm nhất định nhưng lại có một số hạn chế sau:
- Nguồn vốn trong nước.
Đây là nguồn vốn được coi là có vai trò quyết định đối với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nhưng nguồn vốn này có hạn chế lớn trong việc tăng vốn.
+ Nguồn vốn được cấp từ ngân sách.
Đây là vốn mà nhà nước cấp cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình. Vì được cấp nên nguồn vốn này luôn không được đầy đủ, số lượng thấp và hầu như không được tăng thêm.
+ Nguồn vốn tự bổ sung và từ khấu hao tài sản để lại.
Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có quy mô vừa và nhỏ, các máy móc, thiết bị được sử dụng cho hoạt động SX- KD lạc hậu đã hết khấu hao, nên các doanh nghiệp gặp khó khăn lớn trong việc SX- KD nên dẫn đến làm ăn thua lỗ hoặc có lợi nhuận nhưng lợi nhuận quá ít. Vì thế, các doanh nghiệp không có nguồn để tự bổ sung và không đủ vốn để tái đầu tư máy móc, thiết bị.
+ Nguồn vốn vay các ngân hàng trong nước.
Đây là một hạn chế lớn của các NHTM trong nước. Sự “đối xử” không bình đẳng của các ngân hàng trong nước, đặc biệt là các NHTM quốc doanh dẫn tới: các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn do sử dụng quá nhiều vốn của ngân hàng để hoạt động; trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại vấp phải nhiều khó khăn do các điều kiện về tài sản thế chấp, tỉ lệ vốn tự có để tham gia dự án khi xin vay vốn ngân hàng.
- Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn này được coi là có vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế xã hội Việt nam nhưng những biến động liên tiếp của kinh tế thế giới những năm gần đây làm cho việc tiếp nhận nguồn vốn này gặp không ít trở ngại.
+ Nguồn vốn đầu tư trực tiếp.
Nguồn vốn này được tài trợ chủ yếu thông qua hình thức liên doanh với nước ngoài. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ thẩm định máy móc, thiết bị nên rất nhiều máy móc, thiết bị đã được nhập và sử dụng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là những máy móc, thiết bị lạc hậu được chế tạo từ những thập niên 60-70; thậm chí còn có máy móc, thiết bị không thể sử dụng được khi nhập về.
+ Nguồn vốn đầu tư gián tiếp.
Đây là nguồn vốn mà bắt cứ nền kinh tế đang phát triển nào cũng mong muốn. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng có những nhược điểm nhất định như: việc giải ngân khó khăn do vốn được tài trợ chủ yếu dưới dạng: hàng hoá, vật tư, thiết bị và chuyển giao công nghệ, đồng thời khả năng lập và thẩm định dự án của các doanh nghiệp Việt Nam yếu. Không những thế, đi kèm với những nguồn vốn này thường có các điều kiện mà nếu không có sự tính toán và xem xét kỹ lưỡng sẽ để lại hậu quả to lớn cho đất nước trong tương lai.
Như vậy, nhu cầu đối với máy móc, thiết bị hiện đại của các doanh nghiệp Việt Nam rất lớn nhưng lại là cầu thiếu khả năng thanh toán bởi thiếu nguồn vốn tài trợ.
Để các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị có thể tiếp cận được với nhà cung cấp và để thúc đẩy thị trường công nghiệp Việt Nam hoạt động sôi động hơn thì sự phát triển của các Công ty cho thuê tài chính là một tất yếu khách quan.
Tóm lại, yếu tố thị trường công nghệ đã có phần thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam phát triển.
3.1.1.3 Yếu tố lãi suất:
Thời gian qua lãi suất cho thuê cũng là vấn đề làm đau đầu giám đốc các Công ty cho thuê tài chính. Trong điều kiện cạnh tranh lãi suất diễn ra rất gay gắt giữa các NHTM thì các Công ty cho thuê tài chính cũng rất loay hoay trong việc tìm ra giải pháp. Dễ dàng thấy lãi suất cho vay của các ngân hàng ảnh hưởng đến cả việc huy động vốn và sử dụng vốn của các Công ty CTTC bởi những lý do sau:
Thứ nhất, trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, nguồn vốn vay từ ngân hàng đặc biệt là từ ngân hàng “mẹ” luôn là nguồn vốn quan trọng nhất. Nhưng các công ty cho thuê tài chính gặp phải những khó khăn không nhỏ là: Trong từng hệ thống Ngân hàng thương mại, quan hệ giữa hội sở và các chi nhánh là quan hệ điều chuyển vốn nội bộ, với công ty cho thuê tài chính là thành viên hạch toán độc lập, vấn đề đặt ra là có được nhận vốn điều hoà từ hội sở chính hay phải đi vay theo cơ chế lãi suất nào.
Thứ hai, dịch vụ cho thuê tài chính còn hết sức mới mẻ với các đối tượng khách hàng nếu so sánh với các phương thức tài trợ dưới dạng vay bằng tiền từ Ngân hàng. Khi đưa ra quyết định lựa chọn phương thức tài trợ bằng cho thuê tài chính, khách hàng luôn đặt cho thuê tài chính trong mối quan hệ với phương thức vay tiền từ Ngân hàng, thông qua việc so sánh phí thuê tài chính phải trả và lãi suất cho vay của Ngân hàng.
Về lý thuyết, phí thuê rõ ràng phải cao hơn lãi suất cho vay cùng kỳ hạn bởi hoạt động cho thuê tài chính phát sinh nhiều chi phí hơn hoạt động cho vay đơn thuần. Tuy nhiên, khi lãi suất cho vay trung- dài hạn của ngân hàng giảm thì phí thuê mua tài chính cũng phải giảm theo. Nếu không, khách hàng sẽ tính toán và lựa chọn phương thức vay tiền trung- dài hạn từ các ngân hàng. Thực tế hoạt động của các công ty CTTC những năm 1998, 1999 đã chứng minh tình hình này.
Trong năm 1998, tiền lãi suất cho vay bằng VNĐ của các ngân hàng TMQD ở khu vực thành thị được quy định là 1,2% đến 1,25%/ tháng; trong khi đó, mức phí thuê của các Công ty CTTC lại dao động trong khoảng từ 1,4- 1,5%/tháng. Sự chênh lệch của phí thuê so với lãi suất vay tiền tất yếu dẫn tới sự “vắng lặng” của hầu hết các Công ty CTTC.
Sang năm 1999, NHNN Việt Nam đã liên lục hạ trần lãi suất cho vay trung- dài hạn VNĐ(5 lần) để thực hiện kích cầu, từ mức lãi suất 1.25%/tháng xuống mức lãi suất thống nhất là 0,85%/tháng (ngày 25- tháng 10 năm 1999). Và các Công ty CTTC đương nhiên phải tiến hành hạ phí thuê cho phù hợp với thị trường, nhưng vì các Công ty CTTC phải tính phí thuê bằng lãi suất cho vay cùng kỳ hạn cộng với phí cho thuê, phí bảo hiểm và hàng loạt phí khác nên: Phí cho thuê vẫn lớn hơn lãi suất cho vay dài hạn từ 0,1- 0,2%/tháng.
Điều này chứng tỏ, việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam thông qua công cụ lãi suất nói chung và lãi suất cho vay nói riêng là một trong những rủi ro đối với hoạt động của các Công ty CTTC. Hiện nay, các Công ty CTTC hoàn toàn thụ động trong việc điều chỉnh phí cho thuê cho phù hợp với sự thay đổi lãi suất cho vay trung, dài hạn VNĐ của NHNN. Mặc dù, phí thuê được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa Công ty CTTC và khách hàng nhưng việc Công ty CTTC xác định phí thuê bằng cách: Cộng lãi suất cho vay VNĐ cùng kỳ hạn với các chi phí liên quan đến hoạt động CTTC là rất bất hợp lý. Sự bất hợp lý này đã tạo ra sự chênh lệch tương đối nhiều giữa giá trị hợp đồng CTTC và lãi suất cho vay cùng kỳ hạn, kéo theo nhiều dự án có tính khả thi cao, quá trình thương thảo đã cơ bản thống nhất, song khi bàn khi bàn đến lãi suất cho thuê thì bên đi thuê và Công ty CTTC lại không vượt qua nổi.
Tuy nhiên, Công ty CTTC với thế mạnh chuyên biệt trong hoạt động của mình và mối quan hệ với nhà cung cấp, có thể loại bỏ được những chi phí trung gian trong quá trình mua sắm máy móc thiết bị, đồng thời hợp đồng CTTC mang lại ít rủi ro hơn so với cho vay trung dài hạn. Như vậy, xét trong cùng điều kiện kinh tế, khi lãi suất cho vay trung- dài hạn hiện tại có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thì cũng có thể đem lại lợi nhuận cho hoạt động CTTC.
Như vậy, vấn đề đặt ra là trong dài hạn các công ty CTTC phải giải quyết được bài toán về phí cho thuê, cụ thể phải tìm được cho mình một mô hình tính toán phí thuê hợp lý và nâng cao khả năng dự báo, dự toán chính xác biến động lãi suất cho vay của ngân hàng.
3.1.1.4. Tính cạnh tranh:
Tính cạnh tranh là điều không tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường và cũnglà yếu tố cần thiết thúc đẩy các thành viên tham gia thị trường phải luôn nỗ lực phấn đấu để có thể tồn tại và phát triển; hoạt động dịch vụ CTTC cũng không nằm ngoài quy luật này của thị trường.
Tính đến tháng 5/2002 ở Việt Nam đã có 8 Công ty CTTC, bao gồm:
+ Công ty CTTC- Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB Leaco)
+ Công ty CTTC I- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động từ Huế trở ra.
+ Công ty CTTC I- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động từ Quảng nam trở vào.
+ Công ty CTTC Ngân hàng công thương Việt Nam.
+ Công ty CTTC Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
+ Công ty CTTC quốc tế – VILC- Hà Nội.
+ Công ty CTTC Kexim – Eximbank.
+ Công ty CTTC ANZ – VTRAC – Hà Nội.
Nếu trong thời gian 1995- 1997, thị trường CTTC mới bắt đầu du nhập vào Việt Nam, mức độ cạnh tranh chưa gay gắt thì hiện nay, với sự tham gia của 8 Công ty CTTC kể trên, sự cạnh tranh đã tăng lên rõ rệt. Các Công ty CTTC đã từng bước “chiến đấu ” giành lấy thị phần cho Công ty mình và “cuộc chiến đấu” diễn ra ngày một gay gắt hơn. Các Công ty CTTC chủ yếu cạnh tranh thông qua phí cho thuê, dịch vụ đi kèm và uy tín của ngân hàng “mẹ”. Tính đến thời điểm năm 2000, nhiều Công ty CTTC đã hạ phí cho thuê đối với khách hàng truyền thống xuống tới mức bằng sàn lãi suất cho vay trung, dài hạn của ngân hàng.
Trong thời gian tới, cùng với nhu cầu đổi máy móc, thiết bị là sự thâm nhập của các Công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường CTTC Việt Nam kéo theo sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Nếu các Công ty CTTC của Việt Nam nói chung và các Công ty CTTC trực thuộc các NHTMQD nói riêng không chủ động, tích cực tìm kiếm khách hàng, mà chỉ bó hẹp thị trường của mình ở những khách hàng truyền thống của Ngân hàng “mẹ” và ở những Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân thì sẽ gặp khó khăn lớn trước những Công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài.
Để đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như trên, các Công ty CTTC Việt Nam phải có chiến lược kinh doanh đúng đắn, đánh giá đúng về thực lực và tiềm năng của mình, cũng như của “đối thủ”; đồng thời phải luôn nỗ lực để hoàn thiện quy trình nghiệp vụ CTTC nói chung và các quy trình liên quan đến CTTC nói riêng để mở rộng thị phần, thu hút các đối tượng khách hàng.
3.1.1.5. Yếu tố khách hàng.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang rất cần đầu tư từ một nhà máy với dây chuyền đồng bộ cho đến đầu tư đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy công tác, các loại phương tiện vận chuyển, các loại phương tiện phục vụ sản xuất, thiết bị điện tử, thông tin liên lạc, trong khi khả năng tiếp cận các nguồn vốn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, phí CTTC hiện nay được các Công ty CTTC hạ xuống mức tương đối thấp nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn coi CTTC là hình thức tài trợ cuối cùng khi họ cần huy động vốn. Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, CTTC là hoạt động dịch vụ còn quá mới ở Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đa phần đều chưa hiểu rõ và hiểu đúng khái niệm, đặc điểm, đặc biệt là lợi ích của CTTC. Họ luôn nghĩ chỉ có ngân hàng là nguồn cung ứng tài chính duy nhất.
Thứ hai, tâm lý thích sử dụng vốn vay từ ngân hàng đã ăn sâu vào các suy nghĩ của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là thói quen cố hữu của các doanh nghiệp mỗi khi cần vốn để tiến hành hoạt động SX- KD. Hiện nay cơ chế cho vay của ngân hàng thông thoáng hơn, lại cho phép gia hạn nợ, khoanh nợ, thậm chí xoá nợ quá hạn. Điều này càng khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước- những khách hàng vay không cần phải tài sản thế chấp- ưa thích.
Thứ ba, tín dụng cho vay có lãi suất thấp hơn so với lãi suất cho thuê. Đó là những hạn chế dẫn đến sự “khó tính” của khách hàng khi tiến hành lựa chọn phương thức tài trợ, cũng như khi tiến hành giao dịch với các Công ty CTTC. Chính “sự khó tính” này tạo ra sự thiếu sôi động trên thị trường tín dụng thuê mua.
3.1.2.Định hướng phát triển của các Công ty CTTC tại Việt Nam.
Việc phân tích môi trường kinh doanh ở mục 3.1.1.1 đã phần nào chỉ ra được xu hướng hoạt động của thị trường CTTC Việt Nam, cũng như của các Công ty CTTC trong thời gian tới.
Có thể nhận thấy, tiềm năng phát triển của thị trường CTTC Việt Nam là rất lớn nhưng không ít những khó khăn và thử thách. Để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng hiện tại và những khách hàng tiềm năng, chắc chắn ngày càng nhiều Công ty CTTC ra đời. Trong tương lai gần, hoạt động của thị trường sẽ rất sôi động và để thắng trong cạnh tranh, các Công ty CTTC sẽ phải không ngừng gia tăng chất lượng cung ứng dịch vụ cho thuê CTTC, đồng thời không ngừng phát triển sản phẩm cho thuê nhằm đa dạng hoá chủng loại và chất lượng của sản phẩm cho thuê.
Bên cạnh việc mở rộng loại hình sản phẩm cho thuê, các Công ty CTTC còn tìm cách tiếp cận, mở rộng đối tượng khách hàng theo nhiều hướng: Tăng cường giao dịch với các Công ty lớn, Công ty nước ngoài nhưng không “bỏ qua” các doanh nghiệp vừa và nhỏ (lượng khách hàng lớn nhất trên thị trường CTTC Việt Nam) có nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, trước những hạn chế không nhỏ mà môi trường CTTC hiện nay đem lại, đặc biệt là trước sự khan hiếm của các dự án đầu tư hiệu quả và mang tính khả thi cao, các Công ty CTTC ở Việt Nam phải xác định được mục tiêu của chiến lược kinh doanh của Công ty mình là gì? Tức là phải xác định được Công ty hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận hay mục tiêu đảm bảo tồn tại, mở rộng quan hệ với khách hàng và chờ đợi những cơ hội mà nền kinh tế mang lại.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: các Công ty CTTC ở Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong chặng đường sắp tới nhưng nếu luôn cố gắng hoàn thiện Công ty một cách toàn diện thì chắc chắn trong tương lai các Công ty CTTC sẽ duy trì và phát triển được trên thị trường CTTC sôi động ở Việt Nam.
3.1.3. Mục tiêu hoạt động của Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Trên cơ sở kết quả kinh doanh các năm trước và môi trường kinh doanh cũng như phương hướng phát triển của các Công ty CTTC ở Việt Nam trong giai đoạn tới, Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tiến hành xây dựng phương hướng, nhiệm vụ phát triển trong thời gian tới với mục tiêu: Từng bước chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu tài sản thuê, đa dạng, đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cho thuê tài chính, tăng năng lực phục vụ đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo an toàn trong tăng trưởng.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, Công ty đưa ra những nhiệm vụ cụ thể đối với từng bộ phận công tác như sau:
Thứ nhất: đối với công tác kinh doanh, Công ty phải thực hiện:
- Xây dựng kế hoạch nguồn vốn hợp lý, đảm bảo phục vụ tốt hoạt động kinh doanh của Công ty, tránh tình trạng khó khăn về vốn mua sắm tài sản để cho thuê.
- Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý: Tiến hành phân loại khách hàng theo trình tự ưu tiên như: Khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, khách hàng có uy tín, khách hàng có dự án khả thi và hiệu quả cao; khách hàng thuê tài sản là máy móc,thiết bị thi công, phương tiện vận chuyển lớn. Đồng thời đảm bảo tốt việc kết hợp giữa nhóm khách hàng lớn và khách hàng vừa và nhỏ.
- Mở rộng liên hệ với các nhà cung ứng máy móc, thiết bị.
- Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng. Một mặt thực hiện tư vấn cho khách hàng thuê, một mặt hỗ trợ vốn cho những khách hàng có nhu cầu đầu tư thiết bị bằng hình thức mua trả chậm.
- Duy trì và mở rộng mạng lưới khách hàng thông qua việc thường xuyên bám sát và nắm chắc nhu cầu khách hàng hiện đang thuê tài chính của công ty, đồng thời tích cực tìm hiểu và tiếp cận với những khách hàng đang hoặc sẽ có nhu cầu của đầu tư mua sắm tài sản cố định.
- Có biện pháp tăng cường và hoàn thiện công tác tiếp thị, công tác thẩm định dự án cho thuê bằng cách: mở rộng hơn nữa các kênh tuyên truyền, quảng cáo về cho thuê tài chính, tranh thủ sự hỗ trợ của các chi nhánh để thu hút được ngày càng nhiều các dự án khả thi.
- Thường xuyên theo dõi sự biến động của lãi suất cơ bản và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng để kịp thời xây dựng chính sách lãi suất thuê mua phù hợp với thực tế thị trường nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh, đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận.
- Thường xuyên đánh giá rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh để kịp thời xử lý khi có phát sinh dư nợ quá hạn, đồng thời phấn đấu không để phát sinh dư nợ quá hạn.
- Chú ý đến những khách hàng có lượng tiền gửi trên một năm để thu hút họ gửi tiền
Thứ hai: Đối với công tác kế toán.
- Thực hiện tốt công tác quyết toán với các cơ quan cơ có liên quan
- Tiến hành kiểm toán về kết quả hoạt động của công ty.
- Tiếp tục hoàn thiện quy trình hạch toán kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính.
- Trình duyệt kế hoạch tài chính của công ty với NHNN.
- Xây dựng và trình duyệt các định mức chi tiêu của công ty.
Thứ ba: Đối với công ty kiểm tra – kiểm toán nội bộ.
- Xây dựng quy chế kiểm tra – kiểm toán nội bộ công tác
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức để triển khai thực hiện công tác kiểm tra –kiểm soát ở tất cả các khâu nghiệp vụ của công ty.
Thứ tư: Đối với công tác phát triển nguồn nhân lực.
Tập trung hơn nữa đến công tác bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ cho phù hợp với nhu cầu tăng trưởng và mở rộng hoạt động của công ty.
Thứ năm: Đối với việc ứng dụng khoa học công nghệ.
- Từng bước ổn định và đẩy nhanh các chương trình ứng dụng tin học vào hoạt động của công ty nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả cho công tác nghiệp vụ và công tác quản trị điều hành trong công ty.
- Trang bị đầy đủ phần mềm để có thể cập nhật thông tin CTTC một cách nhanh nhất để phục vụ cho công tác báo cáo, theo dõi tham mưu cho ban lãnh đạo công ty, giúp công tác điều hành kinh doanh hiệu quả.
Tóm lại, nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới là hết sức to lớn. Để có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ và đạt được những mục tiêu đề ra, bên cạnh sự giám sát chỉ đạo hoạt động chặt chẽ, đúng đắn của các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như của Ban lãnh đạo công ty, công ty CTTC- VCB cần phấn đấu không ngừng để hoàn thiện quy trình nghiệp vụ và cơ cấu tổ chức điều hành.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CTTC TẠI CÔNG TY CTTC – NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM.
Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong những công ty đi đầu trong lĩnh vực cho thuê tài chính ở Việt nam hiện nay. Sau hơn 5 năm hoạt động cộng ty đã đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, tuy nhiên công ty vẫn đang ở trong giai đoạn tự hoàn thiện nghiệp vụ cho thuê tài chính và các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động cho thuê CTTC, cũng như cơ cấu tổ chức quản lý tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh, bền vững trong tương lai.
Hiện nay, Công ty CTTC ở Việt Nam nói chung và Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng phải đương đầu với không ít những khó khăn khăn, trở ngại. Để có thể kinh doanh hiệu quả trong điều kiện hành lang pháp lý chưa đầy đủ, không đồng bộ và thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, Công ty cần nỗ lực phấn đấu hoàn thiện toàn diện mọi mặt, từ việc xây dựng bộ máy tổ chức hợp lý, đến việc hoàn thiện chiến lược kinh doanh và quy trình nghiệp vụ. Trong đó, hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ CTTC là một trong những nhiệm vụ quan trọng hành đầu. Qua quá trình thực tập, tìm hiểu về công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, trên cơ sở thực trạng hoạt động CTTC và bối cảnh môi trường kinh doanh hiện nay cũng như sắp tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế, cũng như khắc phục những tồn tại trong công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại công ty.
3.2.1 Giải pháp đối với tổ chức bộ máy kế toán:
Để có thể thực hiện cung cấp thông tin kế toán một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời cho các đối tượng sử dụng thông tin; đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên kế toán, bộ máy kế toán của công ty phải được tổ chức một cách hợp lý, gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả.
Trong thời gian tới, tổ chức bộ máy kế toán của công ty cần được hoàn thiện hơn về các mặt sau:
Thứ nhất: tổ chức lao động kế toán theo hướng chuyên môn hoá. Mỗi kế toán viên chỉ đảm đương một phần công việc nhất định nhằm đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc về tổ chức lao động kế toán như: Bất kiêm nhiệm, quản lý khép kín, an toàn tài sản và kiểm tra – kiểm soát nội bộ chặt chẽ. Đối với kế toán trưởng- đây là người chỉ đạo kiểm tra– kiểm soát toàn bộ công tác kế toán, tài chính của công ty nên không được trực tiếp đảm nhiệm những công việc cụ thể ngoài phần kiểm tra –kiểm soát và kế toán tổng hợp.
Thứ hai: tiến hành xây dựng từng bước mô hình tổ chức kế toán hỗn hợp để có thể cập nhật thông tin một cách thường xuyên, nhanh chóng, đồng thời xử lý và quản lý thông tin một cách hiệu quả.
Thứ ba: tăng cường số lượng nhân viên kế toán có trình độ chuyên môn thông qua việc tổ chức và khuyến khích các nhân viên kế toán tự bồi dưỡng, trau dồi kiến thức. Từ đó, xây dựng bộ máy kế toán hợp lý với những nhân viên kế toán đủ năng lực cần thiết, có thể đảm nhiệm và hoàn thành tốt công tác kế toán của toàn công ty nói chung và khối lượng kế toán nghiệp vụ CTTC nói riêng đang ngày càng nhiều và phức tạp.
3.2.2. Giải pháp đối với kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Tổ chức được một bộ máy kế toán hợp lý, gọn nhẹ chưa đủ, kế toán còn phải thực hiện tốt nghiệp vụ kế toán CTTC. Sau đây, là một số giải pháp đối với kế toán nghiệp vụ CTTC tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Thứ nhất: Kế toán phải thực hiện và chấp hành nghiêm túc các quy định, chế độ, hướng dẫn của NHNN và NH Ngoại thương Việt Nam về việc tổ chức quy trình hạch toán kế toán nghiệp vụ CTTC và công tác báo cáo thống kê. Đồng thời phải thường xuyên thực hiện kiểm tra– kiểm soát nghiệp vụ kế toán CTTC nói chung và các nghiệp vụ quan trọng khác nói riêng.
Thứ hai: Kế toán tại công ty có thể sử dụng tài khoản lãi dự thu để phản ánh những khoản lãi chưa thu nhưng có khả năng thu được khi đến kỳ trả nợ bởi bản chất của nghiệp vụ CTTC là nghiệp vụ tín dụng trung- dài hạn có mức độ an toàn cao. Việc sử dụng tài khoản này sẽ làm tăng tính chủ động của công ty trong quá trình thu hồi vốn và lãi. Không những thế, các thông tin kế toán phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của công ty sẽ mang tính xác thực hơn.
Thứ ba: Phương pháp tính lãi. Trong thực tế có rất nhiều phương pháp tính lãi, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Kế toán tại công ty cần “linh hoạt” hơn trong việc tính lãi, tức là họ có thể áp dụng nhiều phương pháp tính lãi khác nhau cho các hợp đồng CTTC khác nhau trên cơ sở đặc điểm của từng hợp đồng. Với chế độ tính tiền phí cho thuê đa dạng, phù hợp với từng đối tượng khách hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hành trong quá trình thanh toán tiền thuê; đồng thời tạo điều kiện cho chính công ty trong việc quản lý hợp đồng CTTC, cũng như quá trình thu nợ gốc và lãi đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Thứ tư: Trong quá trình thu hồi nợ gốc và lãi CTTC, để giảm thiểu những khoản nợ quá hạn, kế toán CTTC tại công ty cần phải tiến hành ghi chép và theo dõi tất cả các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình cho thuê kể từ khi ký kết hợp đồng cho thuê đến khi kết thúc thời hạn thuê và thanh lý hợp đồng CTTC một cách sát sao và kỹ lưỡng trên cơ sở các chứng từ đáng tin cậy.
Bên cạnh đó, kế toán phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi tình hình sử dụng tài sản thuê của khách hàng. Đồng thời, phải kết hợp chặt chẽ với các phòng ban chức năng khác để có thể thu hồi các khoản vốn gốc và lãi đúng hạn. Khi có các khoản nợ xin gia hạn, kế toán cần phối hợp với cán bộ nghiệp vụ CTTC kiểm tra, đánh giá chính xác tình hình tài chính của khách hàng để có những biện pháp xử lý linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho cả khách hành lẫn công ty trong việc thanh toán và thu hồi vốn.
3.2.3. Một số giải pháp cho các vấn đề khác.
a. Giải pháp về công nghệ
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty, đặc biệt là hiệu quả của công tác kế toán nghiệp vụ CTTC, công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần quán triệt quan điểm coi giải pháp công nghệ tin học là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện công ty.
Công ty phải từng bước ứng dụng công nghệ tin học vào công tác kế toán một cách rộng rãi thbằng cách trang bị máy tính cho từng nhân viên kế toán và áp dụng các phần mềm tiên tiến, phù hợp với quy trình nghiệp vụ CTTC của công ty. Có như vậy, hoạt động kế toán nói chung và nghiệp vụ kế toán CTTC của công ty nói riêng mới đạt hiệu quả cao.
b. Giải pháp hỗ trợ khác.
Công ty phải tăng cường hoạt động tuyên truyền để giới thiệu hoạt động CTTC cho các doanh nghiệp để họ hiểu rõ lợi ích cũng như quy trình của nghiệp vụ CTTC, giúp cho công tác nghiệp vụ kế toán CTTC diễn ra thuận lợi hơn.
Mặt khác, do đây là nghiệp vụ mới nên công ty phải tăng cường “kêu gọi”, hợp tác với các tổ chức song phương, đa phương để họ hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho công ty.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CTTC TẠI CÔNG TY CTTC- NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM.
Hoàn thiện công tác kế toán CTTC có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển của thị trường CTTC Việt Nam và công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động, tiềm ẩn nhiều rủi ro; đồng thời để tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự phát triển thì công ty CTTC cần sự hỗ trợ từ rất nhiều phía.
Trên cơ sử thực trạng của môi trường CTTC Việt Nam, em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công ty CTTC- NH Ngoại thương Việt Nam, cũng như các công ty CTTC đang hoạt động tại thị trường Việt Nam.
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước.
Để sự nghiệp CNH- HĐH đất nước sớm hoàn thành, cần có những nhân tố thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh nền kinh tế; trong đó sự vận động và phát triển đúng hướng của thị trường CTTC là nhân tố không thể thiếu. Do đó, nhà nước cần quan tâm đúng mức tới thị trường này bằng những chính sách cụ thể.
a. Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất và đầy đủ.
Thực tế hoạt động CTTC trong những năm qua cho thấy: môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường này còn nhiều tồn tại và bất cập cần phải nhanh chóng giải quyết. Mặc dù Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành những văn bản pháp lý về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC (Nghị định 16/2001/NĐ-CP và thông tư số 08/2001/TT- NHNN) nhưng các đạo luật trên chưa được ban hành đầy đủ và đồng bộ. Hiện nay, việc thiếu các văn bản hướng dẫn của các cơ quan chức năng như Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính đã phần nào hạn chế hoạt động của thị trường CTTC.
Từ thực tế môi trường pháp lý của hoạt động CTTC tại Việt Nam, em xin được đưa ra một số kiến nghị sau:
Thứ nhất: Các Bộ, ngành có liên quan cần nhanh chóng phối hợp để xây dựng một đạo luật hoàn chỉnh và thống nhất về hoạt động CTTC trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước có thị trường CTTC phát triển trong khu vực và trên thế giới, cũng như từ thực trạng thị trường CTTC Việt Nam.
Thứ hai: Về trích khấu hao trong hoạt động CTTC, Bộ tài chính nên sửa đổi quyết định 166/1999 ngày 30/12/1999 về việc quy định tài sản CTTC. Theo quy định này doanh nghiệp phải trích khấu hao tài sản CTTC như với tài sản của mình, nghĩa là không được thực hiện khấu hao nhanh. Quy định này làm mất lợi thế của CTTC là có thể thu khấu hao nhanh; từ đó phần nào gây cản trở cho sự phát triển của hoạt động CTTC.
Thứ ba: Các kiến nghị về thuế.
Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT). Tại thông tư số 49/1999/ TT- BTC ban hành ngày 6/5/1999 của BTC có quy định: VAT của tài sản mua hoặc nhập khẩu để CTTC sẽ được khấu trừ dần theo tiền thuê trả từng kỳ. Đây là sự không công bằng của quy định đối với tài sản đi mua và đối với tài sản đi thuê. Bộ tài chính cần điều chỉnh quy định này cho phù hợp, đảm bảo công bằng trong việc tính VAT của hai loại tài sản đi mua và đi thuê; tránh cho doanh nghiệp đi thuê phải chịu lãi trên số tiền thuế VAT này.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Với lợi ích về công nghệ mà hoạt động CTTC đem lại cho nền kinh tế và các chủ thể tham gia, CTTC xứng đáng được hưởng mức thuế ưu đãi như các doanh nghiệp trực tiếp đổi mới công nghệ. Vì thế, Bộ tài chính nên giảm thuế thu nhập cho các công ty CTTC trong hai năm đầu hoạt động; đồng thời cho phép các công ty được áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi đối với phần lợi nhuận tạo ra từ những tài sản cho thuê được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ.
Thứ tư: Mức thu lệ phí công chứng, lệ phí đăng ký tài sản, lệ phí cung cấp thông tin về tài sản cho thuê quá cao, nên được điều chỉnh giảm thấp.
Thứ năm: Quy định tỷ lệ chi phí quảng cáo, tiếp thị, giao dịch, tổ chức hội nghị của công ty CTTC không được vượt quá 7% trong hai năm đầu và 5% trong các năm tiếp theo là quá thấp vì hoạt động CTTC còn rất mới ở Việt Nam cần điều chỉnh tăng cho tỷ lệ này.
Thứ sáu: Việc khám lưu hành phương tiện vẫn khó khăn. Phương tiện là tài sản thuộc sở hữu của công ty CTTC có trụ sở tại Hà Nội nên đang kí phương tiện tại nơi có trụ sở, còn người sử dụng phương tiện là khách hàng ở hầu khắp các tỉnh, thành phố thì khám ở đâu. Bộ giao thông vận tải cần có hướng dẫn cụ thể, phù hợp đối với phương tiện vận chuyển, thi công là tài sản CTTC.
b. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ khác.
Song song với vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ khác để tạo thuận lợi cho thị trường CTTC phát triển ổn định và hiệu quả theo định hướng phát triển của Nhà nước như: có chính sách ưu đãi hỗ trợ về nguồn vốn với chi phí thấp, tạo điều kiện giúp công ty CTTC tránh rủi ro, đặc biệt là rủi ro tỷgiá khi nhập khẩu máy móc, thiết bị, hình thành thị trường chính thức mua bán lại máy móc, thiết bị cũ nhằm giúp công ty trong việc xử lý, thu hồi tài sản cho thuê trước thời hạn hoặc khi hết hạn hợp đồng thuê.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Trong bối cảnh thị trườngcó nhiều biến động, trước sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động tín dụng của các NHTM và công ty tài chính khác trong mô hình tổng Công ty Nhà nước, thì sự giúp đỡ, hỗ trợ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là hết sức quan trọng cụ thể như:
+ Nguồn vốn để cho thuê của công ty phụ thuộc vào Ngân hàng cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng và làm đại lý phát hành trái phiếu. Do đó, Ngân hàng Ngoại thương cần có những hỗ trợ về vốn cả ngoại tệ và nội tệ; đồng thời cần có cả những hỗ trợ về mặt nghiệp vụ, có ưu đãi về thuế, mức ký quỹ hoặc cung cấp thông tin tín dụng chính xác, kịp thời, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty CTTC – VCB trên thị trường.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần xem xét cho phép công ty được thuê nội ngành trong việc đầu tư, mua sắm tài sản cố định như: máy vi tính, ô tô, trang thiết bị làm việc; tạo môi trường thúc đẩy nhu cầu thuê của khách hàng.
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chỉnh sửa điều lệ hoạt động của mình sao cho phù hợp với nghị định 16/2001NĐ- CP.
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần không ngừng giúp đỡ công ty nâng cao trình độ cán bộ qua các khoá đào tạo về nghiệp vụ. Giúp công ty hoàn thiện mạng máy tính và cài đặt các phần mềm kế toán còn thiếu.
+ Hỗ trợ cho công ty trong công tác đối ngoại, tìm đối tác kinh doanh.
3.3.3. Kiến nghị đối với Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Để thành công trong hoạt động kinh doanh, Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải chú ý đến các vấn đề sau:
* Về bảo hiểm: Công ty nên vận động khách hàng mua bảo hiểm toàn bộ ngay từ đầu cho suốt thời gian thuê tài sản, công ty giảm tiền thuê cho khách hàng, hoặc là Công ty giảm tỷ lệ 20% tiền đặt cọc để khách hàng sử dụng số tiền giảm đó để mua bảo hiểm.
* CTTC gắn liền với rất nhiều chủng loại máy móc, thiết bị phức tạp, tính năng kỹ thuật rất đa dạng và ngày càng hiện đại. Do đó, nhân sự ở phòng kinh doanh của công ty đòi hỏi phải có hai bằng đại học: Chuyên ngành kỹ thuật và tài chính ngân hàng, có như vậy việc đánh giá dự án mới sát thực tế.
* Những dự án cho thuê có giá trị trên 2,5 tỷ đồng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty cần sử dụng Hội đồng CTTC.
* Trong số các tài sản cho thuê có tài sản mới và cá biệt cũng có tài sản cũ, với những tài sản cũ, Công ty cần phải thành lập Hội đồng định giá tài sản.
* Công ty cần xây dựng được một chiến lược khách hàng cụ thể và xác định cho mình nhóm khách hàng mục tiêu. Từ đó, công ty phải tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo bằng nhiều phương tiện và hình thức khác nhau nhằm tạo ấn tượng và hình ảnh đẹp về công ty ở khách hàng, duy trì mối quan hệ với những khách hàng truyền thống mở rộng và tiếp cận với khách hàng mới.
* Công ty cần xây dựng chiến lược sản phẩm cho thuê đi đôi với chiến lược khách hàng, tức là công ty phải chọn được tài sản thuê thích hợp với từng đối tượng khách hàng, đồng thời phải đa dạng hoá các loại tài sản cho thuê.
Tuy nhiên, khi có danh mục tài sản đa dạng, phong phú, công ty lại cần chú ý đến các vấn đề sau.
+ Tài sản cho thuê phải phù hợp với năng lực quản lý, của doanh nghiệp đi thuê.
+ Chất lượng sản phẩm cho thuê phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, Công ty nên tăng cường hơn nữa trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ CTTC như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ L/C nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ CTTC, cũng như giúp khách hàng nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng tài sản thuê.
* Công ty cần tích cực và chủ động trong quá trình khơi tạo nguồn vốn kinh doanh, đảm bảo đạt được mục tiêu: đủ vốn kinh doanh và chi phí đầu vào của nguồn vốn hợp lý để phí thuê lôi cuốn được khách hàng. Đặc biệt chú ý và tận dụng lợi thế vay vốn từ ngân hàng “mẹ”.
* Xây dựng cơ chế dự phòng rủi ro đa chiều để hạn chế những rủi ro tiềm ẩn, từ đó giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất.
* Xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành công ty gọn nhẹ, hợp lý, từng bước hoàn thiện và phát triển các quy trình nghiệp vụ CTTC hiện đại.
3.3.4. Kiến nghị đối với khách hàng của công ty.
Giao dịch CTTC sẽ không bao giờ thực hiện được nếu không có sự quan tâm của khách hàng.
Tuy nhiên, để Công ty CTTC có thể cung cấp dịch vụ CTTC đạt chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ và tốt nhất yêu cầu của khách hàng, Công ty cũng cần sự hỗ trợ “nhiệt tình” từ phía khách hàng trên các khía cạnh sau:
Khách hàng xây dựng được một dự án sản xuất – kinh doanh có tính khả thi, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Bảo quản, quản lý và sử dụng tài sản cho thuê đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng CTTC.
Tiến hành thanh toán tiền gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn, tạo ra niềm tin cho công ty.
Qua thực tiễn hoạt động trong những năm qua của công ty CTTC cho thấy, thị trường CTTC ở Việt Nam rất rộng lớn, đa dạng, thích hợp với hầu hết các doanh nghiệp. Tin tưởng rằng tương lai của ngành CTTC tại Việt Nam là đầy hứa hẹn. Với sự giúp đỡ hiệu quả của các cơ quan quản lý và các bên tham gia thị trường, chắc chắn nó sẽ đạt tốc độ cao trong thời gian tới.
KẾT LUẬN CHUNG
Cho thuê tài chính là một nghiệp vụ mới ra đời ở nước ta chưa lâu nên gây ra nhiều lúng túng cho cả cơ quan ban hành chính sách, chế độ, Ban lãnh đạo công ty và các cán bộ chuyên trách. Tuy nhiên, điều này vẫn không hạn chế được ý nghĩa to lớn của hoạt động CTTC đối với nền kinh tế, khi mà nó thực hiện các chức năng: dẫn vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong bối cảnh đó, việc nhanh chóng hoàn thiện để có được một mô hình hoạt động hiệu quả và phù hợp với môi trường kinh doanh còn chưa ổn định là một yêu cầu tất yếu với các công ty CTTC để có thể tồn tại và phát triển lâu dài. Một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với các công ty CTTC là công tác kế toán CTTC phải được tổ chức một cách khoa học và có hiệu quả nhất. Từ đó, việc tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán CTTC là hết sức cần thiết.
Khoá luận tuy được thực hiện trong thời gian không dài nhưng có tính thực tiễn cao trên cơ sở những số liệuvà tình hình thực tế tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; bên cạnh đó tính lí luận được đúc rút từ thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới, bởi vậy khoá luận đã hoàn thành một số nhiệm vụ sau:
* Đưa ra một cái nhìn tổng quát về CTTC, vai trò quan trọng của CTTC trong nền kinh tế thị trường.
* Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về kế toán CTTC.
* Trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức công tác kế toán CTTC nói riêng tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
* Nghiên cứu xu hướng phát triển của các công ty CTTC tại Việt Nam, trong đó có Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
* Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
* Đề xuất một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện cho việc hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ CTTC và sự phát triển vững mạnh của công ty trong thời gian tới.
Trong thực tế hiện nay, việc đưa ra một mô hình kế toán CTTC chuẩn cho các công ty CTTC cần phải có nhiều thời gian và công sức nghiên cứu của các nhà kinh tế trong và ngoài nước. Tuy nhiên, em hi vọng những kiến thức nhỏ bé của mình trước hết mang lại một sự hiểu biết đúng đắn hơn, ngoài ra có thể trở thành những đề xuất khả thi góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kế toán nghiệp vụ CTTC.
Giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này có các anh, các chị tại Phòng kế toán của Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Nguyễn Hoàng Phú. Lời kết của khoá luận này, em mong thầy và các anh, các chị nhận ở em một sự biết ơn chân thành và sâu sắc nhất!
Hà nội tháng 5 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thuỳ Chinh
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Họ và tên người hướng dẫn khoa học:
Chức vụ:
Nhận xét Khoá luận thực tập của sinh viên Nguyễn Thuỳ Chinh, lớp 2021, khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng.
Tên đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam".
Điểm: - Bằng số:
- Bằng chữ:
NGƯỜI NHẬN XÉT
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Họ và tên người nhận xét:
Chức vụ :
Nhận xét khoá luận thực tập của:
Sinh viên: Nguyễn Thuỳ Chinh, Lớp 2021, Khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng như sau:
NGƯỜI NHẬN XÉT
(Ký tên, đóng dấu)
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI PHẢN BIỆN
Họ và tên người phản biện (hoặc người chấm luận văn):
Đơn vị:
Chức vụ :
Nhận xét khoá luận thực tập của sinh viên Nguyễn Thùy Chinh, Lớp 2021, Khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng .
Tên đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam".
Điểm: - Bằng số:
- Bằng chữ:
NGƯỜI NHẬN XÉT
(Ký tên, đóng dấu)
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình.
Các số liệu, kết quả nêu trong Khoá luận là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thuỳ Chinh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ vii
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT viii
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ix
PHỤ LỤC x
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 3
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NHNN = Ngân hàng Nhà nước
CP = Chính phủ
CTTC = Cho thuê tài chính
NHTM = Ngân hàng thương mại
NHTMQD = Ngân hàng thương mại quốc doanh
TK = Tài khoản
CNH - HĐH = Công nghiệp hoá- hiện đại hoá
BTC = Bộ tài chính
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Học viện Ngân hàng( 2002), Giáo trình kế toán ngân hàng, NXB thống kê.
Học viện Ngân hàng- Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh (2000), Lý thuyết kế toán Ngân hàng.
Hệ thống tài khoản Kế toán các Tổ chức tín dụng ban hành kèm Quyết định 435/1998/QĐ - NHNN2.
Trần Tôn Tử – Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua, NXB Trẻ.
Hiệp hội Tín dụng thuê mua Quốc tế, Hiệp định thống nhất luật dân sự về tín dụng thuê mua quốc tế, thoả thuận ngày 26/5/1988 tại Ottawa- Canada.
Luật thuế và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành các luật thuế.
Luật các Tổ chức tín dụng (1998), Nxb Chính trị quốc gia.
Nghị định 16/CP ban hành ngày 02/05/2001.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chế độ thông tin, báo cáo áp dụng đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng, ban hành kèm theo Quyết định số 516/2000/QĐ- NHNN1 ngày 18/12/2000.
Quyết định 108/1998/QĐ- NHNN5 về việc thành lập Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 64/CP ban hành ngày 09/10/1995.
Thông tư số 08/2001/TT- NHNN ngày 06/09/2001 của NHNN hướng dẫn việc thực hiện Nghị định 16/2000/NĐ- CP.
Thể lệ tín dụng thuê mua ban hành theo Quyết định 149/QĐ- NH5 ngày 27/05/1995.
Tạp chí: Thị trường tài chính- tiền tệ, Thời báo ngân hàng, Thời báo kinh tế, Tạp chí kế toán.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT510.doc