Vấn đề đầu tư phát triển quỹ BHXH để tăng thu cho quỹ Trong thời gian qua phần lợi nhuận đầu tư mang lại chưa đóng góp nhiều cho quỹ BHXH cũng như chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của quỹ BHXH . Theo định hướng phát triển ngành BHXH thì quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tự hạch toán cân đối thu chi , BHXH Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý sự nghiệp BHXH do vậy BHXH Việt Nam là tổ chức quản lý và quyết định đầu tư vồn nhàn rỗi quỹ BHXH .BHXH Việt Nam cần được giao quyền tự do lựa chọn các dự án nằm trong khuôn khổ quy định của Nhà nước để đầu tư theo cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về mức độ hiệu quả , cũng như rủi ro trong đầu tư tài chính .Ngoài ra Nhà nước cũng cần hỗ trợ cho việc đầu tư của quỹ BHXH như : Ưu tiên cho BHXH Việt Nam trong việc đầu tư vào các lĩnh vực (như đầu tư xây dựng các công trình công cộng , các khu chung cư )giảm thuế hoặc miễn thuế thu nhập (trong trường hợp cụ thể ) từ các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH .Điều này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH tự hạch toán cân đối thu chi
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp hoàn thiện thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h chia sẻ rủi ro giửa những người lao động.Hầu hết ở các nước chế độ BHXH bảo đảm cho người lao động về mặt thu và bảo hiểm y tế .Tuy nhiên BHXH Việt Nam vẫn chưa có đủ khả năng thực hiện cả hai chức năng này,mặc dù gần đây ngày 24/1/2002 Thủ Tướng ban hành quyết định số 20/2002/QĐ-TTGvà ngày 8/2/2002 Bộ tài chính,Bộ Lao Động –thương binh và Xã hội ,Bộ y tế ,ban tổ chức chính phủ đã ban hành thông tư số 09/2002/TTLT-BTCCBCP-BLĐTBvàXH-BTC-BHYT về việc chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXHnhưng đến nay vẫn chưa có sự quản lý thống nhất .
quỹ BHXH sẽ do một cơ quan độc lập do chính phủ quy định quản lý .Tuỳ theo cách thức tổ chức quản lý của từng nước mà quỹ BHXH sẽ được tổ chức theo những cách thức khác nhau.
Hiện nay Việt Nam chưa ký kết công ước quốc tế về BHXH của ILO do vậy những quy định chung về thu và quản lý thu quỹ BHXH không phải là bắt buộc đối với BHXH việt Nam .Tuy nhiên những quy định này vẫn là phần cơ sở đồng thời là mục tiêu để BHXH Việt Nam hoàn thiện để đáp ứng với nhu cầu của người lao động .
2.Quỹ BHXH Việt Nam –phương thức thu và quản lý thu
BHXH Việt Nam chính thức ra đời theo nghị định 218/CP năm 1961.Sau đó để phù với bộ luật lao động đã dược thông qua tại kỳ họp khoá 5 quốc hội khoá 9 ngày 23/6/1994,Chính Phủ đã ban hành nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995.Nghị định này đã đánh dấu những bước tiến cơ bản của ngành BHXH Việt Nam .Đây cũng là điểm mốc về tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam .
Quỹ BHXH Việt Nam trước năm 1995
Vào khoảng thời gian trước năm 1995 do đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn là cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực nhà nước và lực lượng vũ trang .Phần đóng góp của người lao động là rất nhỏ nên nguồn quỹ chủ yếu là do ngân sách nhà nước bao cấp .Quỹ BHXH thực sự là một gánh nặng đối với ngân sách nhà nước .Vấn đề cấp bách đặt ra là cải cách phương thức thu và quản lý thu quỹ BHXH cũng như các vấn đề khác liên quan như các chế độ chi trả ,quy định mức hưởng trợ cấp của từng chế độ .
2.2Quỹ BHXH Việt Nam sau 1995
Sau nghị định 12/CP chính sách BHXH mới đã có nhiều cải tiến mang lại tác dụng nhiều mặt trong việc bảo đảm an toàn xã hội .Đối tượng tham gia BHXH được mở rộng hơn thể hiện ở chổ được áp dụng đối với mọi người lao động trong cơ quan doanh nghiệp tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế .Quỹ BHXHchủ yếu được hình thành trên cơ sở đóng góp chủ yếu của người lao động và người sử dụng lao động Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm .Chính Phủ thành lập cơ quan BHXH Việt Nam có nhiệm vụ chức năng quản lý quỹ BHXH,thực hiện thu ,chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH .Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tự cân đối thu và đang giảm dần sự bao cấp của ngân sách của Nhà nước.
Thực hiện cơ chế mới quỹ BHXH đã dần bảo đảm ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ ,góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
3.Nội dung thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
3.1các nguồn thu quỹ BHXH Việt Nam
Quỹ BHXH Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau :do người lao động đóng góp ,người sử dụng lao động đóng góp ,Nhà nước bù thiếu và một số nguồn thu khác như tiền nộp phạt của các doanh nghiệp chậm nộp tiền BHXH,lãi đầu tư từ nguồn vốn nhàn rổi ,giúp đở của các tổ chức từ thiện quốc tế .
a.do người lao động đóng góp
Người lao động với tư cách là người tham gia BHXH có trách nhiệm đóng góp 5%so với tổng tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí ,tử tuất .tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngạch bậc ,chưc vụ ,hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực ,đắt đỏ ,chức vụ ,thâm niên,hệ số chênh lệch bảo lưu nếu có .
Các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc như sau:
Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệpthuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanhcó sử dụng từ 10 lao động trở lên
Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ,khu chế xuất ,khu công nghiệp ,trong các cơ quan tổ chứcnước ngoài hoăc tổ chức quốc tế tại Việt Nam
Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp cơ quan đảng ,đoàn thể
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ,các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang
Người giữa chức vụ dân cử , bầu cử , làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước , Đảng đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện (Hiện nay đã mở rộng đến cấp xã phường)
Công chức viên chức nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp ,người làm việc trong các cơ quan Đảng , đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện .
Các đối tượng trên đi học , thực tập , công tác điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc.
Như vậy những đối tượng được tham gia BHXH theo Nghị định 12/CP năm 1995 bao gồm người lao động trong mọi thành phần kinh tế và người lao động trong hầu hết các ngành.Tuy nhiên cũng theo nghị định này đời sống của một lực lượng lao động đông đảo là nông dân ở nông thôn vẫn chưa đựoc đảm bảo bởi hệ thống BHXH .Ngoài ra còn có thợ thủ công , tiểu thương , người lao động trong các doanh nghiệp sử dụng ít hơn 10 lao động vẫn chưa đuợc tham gia BHXH .Vì vậy vấn đề mở rộng đối tượng tham gia BHXH là cấp thiết đối với hệ thống BHXH Việt Nam .Giải quyết được vấn đề này không những nhằm đảm bảo ổn định đời sống của toàn bộ xã hội mà còn là biện pháp để tăng nguồn thu quỹ BHXH
b.Do người sử dụng lao động đóng góp
Khi thuê mướn lao động , người sử dụng lao động cũng có nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động .cụ thể là người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của người tham gia BHXH, trong đơn vị .Trong đó 10% để chi trả cho các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau thai sản , bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động .Người sử dụng lao động có thể là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế .Nhà nước cũng tham gia đóng góp vào quỹ BHXH với tư cách là người sử dụng lao độngtại các cơ quan hành chính sự nghiệp , cơ quan Đảng , đoàn thể , cac tổ chức thuộc lực lượng vũ trang .Như vậy tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động gấp 3 lần tỷ lệ đóng góp của người lao động .Thông thường ở các nước thì tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động xấp xĩ 2 lần so với tỷ lệ đóng góp của người lao động .
c.Nhà nước bù thiếu
Ngoài việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH với tư cách là người sử dụng lao động , Ngân sách nhà nước còn bù thiếu cho quỹ BHXH để giúp cho việc chi trả các chế độ hưu trí, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp mất sức lao động, BHYT , tử tuất đối với người đang hưởng BHXH trước Nghị định 43/CP năm 1993 và hỗ trợ để chi trợ cho công nhân , viên chức nghỉ hưu sau Nghị định 43/CP .Như vậy quỹ BHXH hạch toán độc lập nhưng vẫn chịu sự bao cấp của ngân sách nhà nước ,được sự bảo hộ của nhà nước .Quy định này góp phân ổn định thu chi quỹ BHXH cũng như ổn định tình hình kinh tế xã hội .Tuy nhiên xu hướng của quỹ BHXH Việt Nam là giảm đần bao cấp của ngân sách nhà nước và tiến tới cân đối thu chi .
Bên cạnh các nguồn thu cơ bản từ người lao động ,người sử dụng lao động và Nhà nước quỹ BHXH còn được bổ sung bằng các nguồn khác tuy không ổn định nhưng cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu quỹ BHXH .
d.Các nguồn thu khác
Do tham gia BHXH là bắt buộc nên cúng như nộp tiền BHYT ,các loại thuế … tiền BHXH của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế do Nhà nước quy định tài khoản nộp , thời hạn nộp .Vì vậy nhà nước cũng có chế tài phạt doanh nghiệp nào chậm nộp tiền BHXH .Những doanh nghiệp chậm nộp tiền BHXH ngoài tiền BHXH truy thu còn phải nộp thêm tiền lãi và tiền nộp phạt theo quy định của Nhà nước .Nguồn thu này ngoài tác dụng tăng thu cho quỹ BHXH còn là thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng hạn để đảm bảo thu chi quỹ BHXH .
Một nguồn thu khong thường xuyên khác của quỹ BHXH là viện trợ không hoàn lại , viện trợ nhân đạo của các tổ chức trong nước và quốc tế .Tuy là nguồn thu không thường xuyên nhưng nguồn thu này cũng góp phần bổ sung đáng kể cho quỹ BHXH .Giúp quỹ thực hiện chức năng đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ .
Ngoài ra thu lãi thu được từ hoạt động đầu tư từ nguồn vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH .Do quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước chi sau nên quỹ cần phải được bảo toàn và phát triển .Theo quy định của nhà nước thì một lượng vốn nhàn rỗi nhất định của quỹ BHXH có thể đem đầu tư để thu lãi nhưng phải bảo đảm nguyên tắc an toàn ,có lãi và đảm bảo lọi ích kinh tế xã hội.Hiện nay quỹ BHXH được phép cho vay để thu lợi nhuận theo chỉ định của nhà nước cụ thể là do bộ tài chính quy định.Như vậy việc quản lý đầu tư quỹ BHXH chưa được tập trung, thống nhất .Tổ chức BHXH Việt Nam quản lý hoạt động sự nghiệp của hoạt động BHXH , chịu trách nhiệm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ nhưng lại không được phép quyết định hoạt động đầu tư của quỹ .Hơn nữa lĩnh vực đầu tư của quỹ BHXH lại rất nghèo nàn ,hạn chế và đều là các lĩnh vực có lãi suất thấp.Các lĩnh vực quỹ BHXH được phép đầu tư theo quy định của nhà nước là :
ãĐầu tư vào các dự án phát triển kinh tế xã hội
ãĐầu tư mua trái phiếu công trái
ãGửi vào ngân hàng nhà nước
ãKinh doanh bất động sản
3.2 Tổ chức thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
Theo Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ ,sự quản lý nhà nước bộ lao động-thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan ,sự giám sát của các tổ chức công đoàn .Theo Nghị định này ,cơ quan BHXH Việt Nam là đơn vị tổ chức thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam Về mặt tổ chức BHXH Việt Nam hình thành một hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương và được chia thành ba cấp : Cấp Trung ương ;cấp Tỉnh ,thành phố;cấp huyện, quận .Vì vậy thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam cũng được phân cấp cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của quỹ BHXH Việt Nam .Nhiện vụ của từng cấp quản lý như sau :
*BHXH cấp huyện có nhiệm vụ
ãTổ chức thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại địa bàn huyện gồm:
-Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý
-Các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng 10lao động trở lên
-Các xã ,phường thị trấn
-Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu
ãLập kế hoạch thu BHXH trên địa bàn huyện cho năm sau và gửi cho BHXH Tỉnh
ãChuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh
ãLập báo cáo tình hình thu BHXH trên địa bàn huyện hàng tháng,quý ,năm và gửi cho BHXH tỉnh
ãKiểm tra thẩm định số liệu thu của các đợn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện
*BHXH Tỉnh :
ã Thu BHXH của các đợn vị sư dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh gồm
-Các đơn vị do Trung ương quản lý
-Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý
-Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
-Các đợn vị,tổ chức quốc tế
-Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn
-Các cơ quan,tổ chức,doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nước ngoài
-Các đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu
ãLập kế hoạch tổng hợp thu BHXH trên địabàn tỉnh cho năm sau
ãChuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam
ãLập báo cáo tổng hộp tình hình thu BHXH trên địa bàn tỉnh hàng tháng ,quý ,năm và gửi cho BHXH Việt Nam
ãKiểm tra thấm định số liệu thu quả các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh ,BHXH huyện cấp dưới
*BHXH Việt Nam
ãThu BHXH của BHXH Bộ Quốc phòng ,Bộ Công An,ban cơ yếu chính phủ
ã lập kế hoạch thu BHXH trong toàn bộ hệ thống BHXH ,giao kết kế hoạch thu BHXH cấp dưới
ã Kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH cấp dưới
ãBáo cáo tình hình hoạt động cảu hệ thống BHXH lên Chính Phủ ,Bộ Lao động –Thương binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan
Các đơn vị ,doanh nghiệp có người lao động tham gia BHXH phải có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan BHXH cấp tương ứng về số lao động tham gia BHXH và quỹ tiền lương của doanh nghiệp .trích và nộp tiền thu BHXH vào tài khoản thu BHXH tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoặc tại kho bạc Nhà nước theo đúng quy định .
Theo cơ cấu thu trên các cấp quản lý thu BHXH được phân công ,phân nhiệm rõ ràng ,không có sự trùng lặp ở các cấp .Ngoài ra hệ thống quản lý thu theo chiều dọc giúp cho việc kiểm tra ,thẩm định hoạt động của các cấp được dễ dàng .
Hiện nay mô hình quản lý thu như trên đang được áp dụng trong hệ thống BHXH Việt Nam .Do nhiều nguyên nhân mà tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết .Sau đây chúng ta hãy xem xét tình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
Phần II :
Tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
(1995-2002)
1.Tình hình số người tham gia BHXH Việt Nam (1995-2002)
Theo nghị định 12/CP năm 1995 .Ngoài những người lao động tham gia BHXH đã nêu ở trên đây,còn có một lượng lớn lao động trong lực lượng lao động ở nước ta chưa tham gia BHXH như lao động nông nghiệp ở nông thôn,những người lao động làm việc tự do không ổn định (thợ thủ công tiểu thương ,lao động làm việc theo mùa vụ ngắn hạn …)số lao động chưa tham gia BHXH này không phải là nhỏ ,chiếm khoảng 40%lưc lượng lao động ở nước ta tuy nhiên số lao động thuộc diện tham gia BHXH thuộc các thành phần kinh tế cũng chưa tham gia BHXH một cách đầy đủ .Tình hình thực tế như sau:
Bảng 1:
Năm
Tổng số
(Người)
Tốc độ tăng liên
hoàn
Khu vực tư nhân-Ngoài quốc doanh
Tốc độ tăng liên hoàn
Doanh
Nghiệp
vốn nước ngoài
Tốc độ tăng liên hoàn
19995
2275998
--
30063
-
78791
-
1996
2961444
30,1
56280
87,2
125889
59,8
1997
3162352
6,78
84058
49,4
124596
70,0
1998
3355589
6,1
122685
46
242108
12,8
1999
3579427
6,7
125279
37
361522
49,3
Nguồn Tạp chí Bảo Hiểm số 3/2000
Xét về số lượng lao động tham gia BHXH tại Việt Nam theo bảng trên ta thấy sau khi đổi mối hệ thống BHXH Việt Nam số lao động tham gia BHXH liên tục tăng lên với tốc độ cao .Năm 1995 số người lao động tham gia bảo BHXH là 2,2 triệu đến năm 2001 con số này là 4,4 triệu như vậy tăng lên là 935 chưa kể hàng năm có khoảng 15 vạn lao động về hưu chưa được liệt kê vào bảng này
Năm 1995 là năm gốc của đổi mới số lao động tham gia BHXH mới chỉ đạt 2275998người sang năm 1996 sau khi có đầy đủ số liệu về lao động thuộc diện tham gia BHXH ,quỹ lương…một số lượng lao động lớn ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ,doanh nghiẹp ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên đã tham gia BHXH .Số người tham gia BHXH năm 1996 tăng lên 685.446 nghĩa là tăng lên 30,1%so với năm 1995 các năm sau 1997, 1998 ,1999 số người tham gia BHXH tiếp tục tăng lên vời tốc độ cao hơn 6% một năm đến năm 2001 số người tham gia BHXH đã tăng lên 161.140 lao động so với năm 2000 tức là tăng 3,85% trong đó khối doanh ngiệp Nhà nước tăng 54218 người khối doanh nghiệp nước ngoài tăng 49.873người các đơn vị ngoài công lập tăng 12917 người so vời năm 2000.Khi so sánh lượng tăng tuyệt đối trung bình của giai đoạn (1995-2002)là khoảng300.000 người .Với 1.200.000 lực lượng lao động tăng tự nhiên hàng năm của việt Nam thì số người tham gia BHXH tăng thêm chiếm 1/4 số lao động tăng thêm ,tất nhiên trong 1,2triệu người lao động tăng thêm hàng năm còn bao gồm cả thất nghiệp ,lao động ở khu vực tư nhân,tiểu thương ,thợ thủ công …mặt khác Việt Năm hiện nay có khoảng38 triệu lao động nhưng chỉ 14%trong số đó tham gia BHXH .vậy trong nững năm tới Việt Nam cũng như ngành BHXH cần có những giải pháp tích cực để tăng số người tham gia BHXH
Từ phân tích trên ta thấy số người lao động tham gia BHXH tăng liên tục qua các năm với tốc độ cao tuy nhiên tỷ lệ số người tham gia BHXH so với tổng số lao động là còn thấp đặc biệt là khi so sánh với các nước trên thế giới tỷ lệ này xấp xỉ 95% ở các nước kinh tế phát triển
Như vậy để tìm ra nguyên nhân thực trạng và giải pháp thích hợp để tăng số người tham gia BHXH chúng ta cần xêm xét tình hình người tham gia BHXH ở từng khối – loại hình kinh tế.đối với khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang do lương của lao động được cấp từ ngân sách nhà nước nên số tham gia hoạt động trong khu vực này đảm bảo tham gia BHXH một cách đầy đủ .Cũng tương tự lao động trong khối doanh nghiệp nhà nước do nhà nước cấp vốn thành lập quản lý –do hệ thống quản lý tiền lương chặt chẽ nên người lao động tại các doanh ngiệp này tham gia BHXH đầy đủ , cụ thể là năm 1999 số người lao động tham gia BHXH ở khối hành chính sự nghiệp là 1.521.256 người khối doanh nghiệp nhà nước tăng là 54.428 người trong những năm tới ở hai khối ngành này ,do hầu hết lao động đều tham gia BHXH một cách đầy đủ nên số người tham gia BHXH sẽ không tăng mạnh ngược với xu hướng của hai khối, ngành trên ,số người tham gia BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số người tham gia BHXH của cả nước cũng như so với số người tham gia lao động trong khu vực này.Năm 2001 số người tham gia BHXH là 4.403.870 người tăng 161.140người so với năm 2000 trong đó khối doanh nghiệp nước ngoài tăng 49873 người ,khối doanh nghiệp Nhà nước tăng 54.428 người ,khối đơn vị công lập tăng 12.917người so với năm 2000
Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ,bảng 1 cho cúng ta thấy số người tham gia BHXH tăng mạnh liên tục trong các năm từ 1995 đến 1999.Số người tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1995 tăng từ 30.063 đến 125.297 người nghĩa là tăng gấp 4 lần đây là khu vực có số lao động tham gia BHXH tăng mạnh nhất so với các loại hình kinh tế khác .Với tốc độ tăng bình quân 60% một năm.Tuy nhiên khi so sánh số lao động tham gia BHXH với số lao động tham gia lao động ttrong khu vực thì chỉ chiếm 10%.Hơn thế nửa số lao động tham gia BHXH này chỉ tập trung ở một số tỉnh ,thành phố lớn như Hà Nội,Hải Phòng ,thành phố Hồ Chí Minh .ngoài lý do là số lao động tham gia BHXH chỉ giới hạn là lao động ở các doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên ,thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều phía :Người lao động , người sử dụng lao động ,nhà nước :
ãVề phía người lao động :
Người lao động ít hiểu biết về pháp luật ,chưa hiểu được bản chất của BHXH hoặc ít quan tâm đền BXH nên cũng yêu cầu của lao động thực hiện BHXH cho mình hay nói cách khác là người lao động không có khả năng ép buộc người sử dụng lao động thực hịên nghĩa vụ đối với mình
Phía người sử dụng lao động :
Do đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ hay hoạt động sản xuất kinh doanh không ổn định, số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng các yếu tố sản xuất như lao động ,địa bàn hoạt động…không ổn định thường xuyên thay đổi dẫn đến quan hệ lao động lỏng lẻo .Đây chính là yếu tố gây tâm lý né tránh nộp nghĩa vụ BHXH của người chủ sử dụng lao động ở các khu vực này ,một số doanh ngiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả lãi ít thu nhập của người lao động thấp nên việc đóng BHXH cũng gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Về phía nhà nước:
Nhà nước chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức đến khu vực này,chưa có chế độ kiểm tra quản lý , xử lý cũng như chế tài thoả đáng đẻ đảm bảo nghỉa vụ cũng như quyền lợi của người lao động .Ngoài ra còn do sức ép về việc làm ở khu vực này mà các cơ quan chức năng nhiều khi còn lúng túng trong việc thực hiện các biện chế tài của pháp luật
Hiện nay các khu vực ngoài quốc doanh còn 80% lao động chưa tham gia BHXH.Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước và cơ quan BHXH Việt Nam có các biện pháp giải quyết để hoàn thiện hệ thống BHXH và đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động .
Khu vực có số người tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài gồm : Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài .Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng rất nhanh từ 78.791 người năm 1995 lên đến 361.522 người năm 1999 tốc độ tăng bình quân cao khoảng 40% một năm.Duy chỉ có năm 1998 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á.Mức độ vốn đầu tư vào việt Nam giảm hẳn ,ngoài ra còn do khò khăn về tài chính ,nhiều doanh có vốn đầu tư nước ngoài phải giảm bớt số lượng công nhân,nên mức độ tăng tuyệt đối của số người tham gia BHXH đột ngột giảm,mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 người so với mức độ tăng tuyệt đốicác năm là 100000 người .Sang năm 2000 nền kinh tế Châu á đã hồi phục ,lượng vốn đâu tư nước ngoài vào việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công được thuê mướn tiếp tục tăng thêm .Tromg mhững năm tới ,số lao động tham gia trong lĩnh vực này sẽ tiệp tục tăng cao.Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quỹ BHXH do số lao động tham gia hoạt dộng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá đông và tiền lương ,thu nhập của lao động trong khu vực này khá cao hơn hẳn các khu vực khác
Như vậy nhìn chung số người lao động tham gia BHXH có xu hướng tăng mạnh ,liên tục qua các năm ,trog cả nước cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế .Tuy nhiên khi so sánh số người tham gia BHXHvới số người thuộc diện tham gia BHXH thì tỷ lệ này còn rất nhỏ ,đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .Đóng góp của những người tham gia BHXH và chủ của họ sẽ là nguồn hình thành chủ yếu của quỹ BHXH.
2.Tình hình thu của quỹ BHXH như sau :
Đơn vị triệu đồng
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Thu
778486
2569733
3445611
3875956
4188382
5198231
6334650
Tạp chí BHXH số 5/2002
Số liệu ta thấy số thu BHXH tăng lên liên tục qua các năm .Tổng thu BHXH qua 7 năm đạt gần 20.000 tỷ đồng .Như đã nêu ở phần trước năm 1996 số người tham gia BHXH so với năm 1995 .Chính vì thế số thu BHXH năm 1996 là 2.569.733 triệu đồng, tăng gấp 3số thu năm 1995 (778,486 triệu đồng ).
Các năm 1997 ,1998 1999 ,số thu BHXH tăng liên tục với tốc độ cao .Số thu BHXH năm 2001 là 6334,65 tỷ đạt 103 ,3% tăng 21,9%so với năm 2000.Chúng ta sẽ thấy những thành tựu vượt bậc của BHXH Việt Nam nếu so sánh số thu BHXH giai đoạn 1995-2001 với số thu BHXH nhữnh năm trước khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam .Lấy năm 1994 làm mốc ,số thu BHXH năm 1994 là 420 tỷ đồng .Như vậy số thu BHXH năm 1995 là 778 tỷ đồng ,tăng đôi so với năm 1994 .Năm 2001 số thu BHXH là 6334,65 tỷ đồng ,tăng gấp 15 lần năm 1994.Như vậy chỉ qua 7 năm đổi mới hệ thống thu và quản lý thu hệ thống quỹ BHXH Việt Nam đã tăng gấp 15 lần
Số thu BHXH tăng nhanh liên tục qua các năm chứng tỏ cơ chế thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam đã đi đúng hướng,đảm bảo hiệu quả .Tuy nhiên số thu BHXH việt Nam vẫn thấp chưa xứng đáng với tiềm năng lao động lớn ở nước ta .Nguyên nhân của tình trạng này như sau :
Thứ nhất:
Số thu BHXH thấp do tỷ lệ đóng góp của người lao động và của người sử dụng lao động thấp chỉ bằng 20% so với tổng quỹ lương .Tỷ lệ này còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới . Tại các nước kinh tế phát triển như Bỉ ,tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 30%
đến 40%so với tổng quỹ lương.Mặt khác không những tỷ lệ đóng góp thấp mà tiền lương để trích nộp BHXH cũng thấp và không đồng đều giữa các thành phần kinh tế .Người tham gia BHXH có mức trích nộp thấp nhất là người lao động tại các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh cầm chừng .mà số doanh nghiệp này hiện nay không phải là nhỏ .Người tham gia BHXH có mức trích lập cao thường là người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.Người tham gia BHXH trong khối hành chính sự nghiệp có mức lương trích nộp bằng mức lương tối thiểu nhân hệ số cấp bậc ,chức vụ và các khoản phụ cấp từ ngày 1/1/2001 mức lương tối thiểu bằng 210.000 đồng .Trước đó mức lương tối thiểu bằng 144.000đồng .So với Indonesia- một nước nằm trong khu vực Đông Nam á,mức đóng góp tối thiểu bằng 1000Rp một ngày .
thứ hai :
Số thu BHXH thấp nhưng tỷ lệ nợ đóng tiền BHXH còn cao.Nhìn chung tiền BHXH nợ bình quân 500 tỷ đồng ,chiếm 11%-12% diện thu đã quản lý được .Nếu gọi tổng mức phải nộp BHXH là 100% trong một năm (12 tháng ) thì mức nợ một tháng chiếm 8,33% tương ứng 30 ngày ).Số nợ tiền BHXH qua các năm như sau
Bảng 2: S ố nợ tiền BHXH các năm1995-2001
Tính đến ngày
Số nợ /số phải nộp (%)
Số ngày nợ tương ứng (ngày)
31/12/1995
31/121996
31/121997
31/121998
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
11,3
8,3
11,2
10
9,0
9,0
6,7
40
31
40
36
32
32
26
Nguồn Tạp chí Bảo Hiểm 6/2002
Qua số liệu trên ta thấy hệ thống thu BHXH đã có nhiếu phấn đấu ,điều chỉnh thích hợp để rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH từ 40 ngày xuống 26 ngày như vậy giảm được gần 20 ngày .Mục tiêu của các năm tới là tiếp tục giảm số ngày chiếm dụng xuống mức phù hộp có thể chấp nhận đựơc
Tình hình nợ đọng ở từng khối loại hình như sau :
-Khối hành chính sự nghiệp :
Do có nguồn tiền lương và thu nhập ổn định ,được ngân sách nhà nước cấp nên mức chiếm dụng chỉ trong 7 ngày (ứng với chu kỳ phát lương )
Khối doanh nghiệp nhà nước:
Là khối có mức độ chiếm dụng cao nhất trong các khối với mức độ trên 2 tháng do khó khăn về việc làm ,thu nhập phương tính và trả lương
Các khối nói chung duy trì mức chiếm dụng trong vòng một tháng .
Như vậy là trong các công tác quản lý thu nợ đọng phải tập trung sự chú ý vào khối doanh nghiệp nhà nước hơn các khối khác .
Số nợ đọng ở các tỉnh thành phố cũng có mức độ nợ đọng khác nhau .Tình hình nợ đọng ở một số tỉnh thành phố năm 1999 như sau:
Bảng 3: Số tiền chiếm dụng BHXH ở một số tỉnh như sau
Tên tỉnh
Số nợ/Số phải nộp
Số ngày chiếm dụng tương ứng(ngày)
Số thực tế(tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
Phú Thọ
18/73
24
90
Hoà Bình
13/120
20
73
Thai Bình
7,7/38
15
54
Thanh Hoá
6,6/44
16
58
Gia Lai
16,6/102
16
58
Nguồn tạp chí BHXH,số 5/2000
Các tỉnh khác có mức nợ khoảng hơn một tháng
Trong mổi tỉnh ,số nợ của các đơn vị sử dụng lao động cũng có mức chiếm dụng khác nhau .nguyên nhân của tình trạng tiền BHXH nợ đọng như đã nêu ở trên xuất phát từ hai phía :nhà nước và các doanh nghiệp đóng BHXH
*Phía nhà nước :
-Hành lang pháp lý và những chế tài pháp luật nhà nước cho việc thu nộp BHXH chưa cụ thể và chưa đủ mạnh để buộc các chủ sử dụng lao động nộp BHXH đúng thời hạn đủ số lượng .Chính vì vậy mà nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ BHXH một cách trái pháp luật mà vẫn không bị xử lý .Theo nghị định 38 /CP của Chính phủ quy định : Xử phạt hành vi trốn tránh trách nhiệm nộp BHXH hoặc nộp chậm BHXH. Song thẩm quyền xử phạt thuộc về thanh tra nhà nước về lao động ,UBND các cấp .Như vậy là không có sự đồng bộ trong việc thu BHXH và xử phạt dẫn đến những việc khó khăn trong việc kết hợp thu BHXH và xử phạt để thu BHXH đạt hiệu quả cao nhất
-ở nhiều địa phương,các cơ quan quản lý nhà nước ,đoàn thể, quần chúng cơ quan bảo vệ pháp luật chưa tích cực phối hợp cùng các cơ quan BHXH thực hiện các biện pháp cưỡng chế các chủ sử dụng lao động đóng BHXH theo quy định của nhà nước
-Do quy trình tính lương và phát lương của hầu hết các đơn vị lĩnh lương tháng đều hoàn thành sau tháng .Dẫn đến việc nộp BHXH của tháng trước tháng sau mới nộp được.
*Về phía các đơn vị sử dụng lao động:
-Nhiều đơn vị thực hiện trả lương cho người lao động theo sản phẩm.Việc trả lương không chỉ phụ thục vào số lượng sản phẩm làm ra mà còn phụ thuộc vào việc sản phẩm có tiêu thụ được hay không .Vì vậy tiền BHXH cũng phải đợi dến khi thanh toán lương cho người lao động mới nộp.Tình trạng thường xảy ra ở các đơn vị sản xuất thủ công ,các nông ,lâm trường còn phụ thuộc vao cơ chế giao khoán đất đai .
-Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm trước đây(1997) đã trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp .Do sản xuất không ổn định nhiều doanh nghiệp thiếu việc làm cho người lao động , kinh doanh thua lỗ thậm chí còn nợ tiền lương của người lao động kéo theo nợ tiền BHXH.Những doanh nghiệp này tập trung ở một só ngành như du lịch ,thương mại dịch vụ …
Do chủ sử dụng lao động thiếu ý thức chưa thức sự quan tâm đến việc nộp BHXH,mặc dù khả năng của các doanh nghiệp này đủ sức thực hiện việc trích nộp đúng quy định,điều đó dẫn đến nợ giả tạo .Những doanh nghiệp này tập trung ở các ngành điện , nước,bưu chính viễn thông , hàng không …
-Một số doanh nghiệp cho rằng việc trích nộp 20% BHXH hàng tháng (trong đó ,người lao động đóng5%,người sử dụng lao động đóng15%)là quá lớn do đó đã trốn nộp BHXHhoặc cồ tình chiếm dụng quỹ BHXH để sử dụng trong sản xuất kinh doanh mà không chịu một biện pháp xử lý nào đáng kể .Các doanh nghiệp này tập trung chủ yếu ở các ngành giao thông vận tải và xây dựng .
Một nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là số nợ tồn đọng trước đây tồn tích lại ,đơn vị sử dụng lao động chưa có nguồn họăc chưa đủ cơ sở để xử lý,hoặc giải trình xin xử lý xoá nợ ,nên vẩn phải treo nợ trên số sách .
Tình hình thu quỹ BHXH và chiếm dụng tiền BHXH các năm trước đây là như vậy nhưng năm 2002 thu BHXH lại có những khó khăn riêng do tiền lương tối thiểu được điều chỉnh từ18000 đồng /tháng lên 210000đồng /tháng
Hơn nửa tình tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm không đạt được mức kế hoạch .Lý do là một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định ,một số lĩnh vực sản xuất hãng xuất khẩu thị trường bị thu hẹp… do đó tình hình nợ tiền BHXH có nguy cơ tăng lên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh gặp khó trong việc khai thác ,sử dụng nguồn lực nên người sử dụng lao động né tránh hay cố tình không nộp tiền BHXH không đăng ký tham gia BHXH cho người lao động mặt khác năm 2002 là năm toàn ngành sẽ đánh gía kết quả năm năm thực hiện chỉ thị 15 /CT-TƯ của bộ chính trị về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện chế độ BHXH là năm Quốc hội thông qua luật BHXH,đây cũng là động lực để toàn ngành hoàn thành vượt mức kế hoạch nhưng đây cũng là thách thức đối với cán bộ của ngành .Một khó khăn không kém phần quan trọng đó là quyết định số 20/2002/QDTG ngày 24/1 và thông tư liên tịch số09/TTLT-BLD-TBXH-BYT-BTC ngày 8/2/2002về việc chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXHViệt Nam do đó ảnh hưởng lớn đến công tác thu vá quản lý thu quỹ BHXH.Với những khó khăn như trên để hoàn thành kế hoạch thu BHXH phải có những thích hợp cùng với nổ lự c của toàn ngành .
Nguồn thu chủ yếu của quỹ BHXH là đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động .Bên cạnh đó tiền nộp phạt của các doanh nghiệp nộp chậm tiền BHXH cũng góp không nhỏ vào quỹ.hiện nay ,tiền nộp phạt khi nộp chậm tiền BHXH do bộ tài chính quy định theo khung nộp phạt chung là :
Phạt mỗi năm không quá hai lần ,mổi lần không quá 1,5 triệu ,giống như quy định nộp chậm thuế VAT và BHYT.Số tiền nộp phạt này chỉ mang tính chất cảnh cáo mà không có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng thời hạn quy định .Một nguồn thu khác cũng rất quan trọng của quỹ BHXH là lải đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH .Mặc dù lãi suất của các lỉnh vực đầu tư thấp khoảng 5%-6% mổi năm Tổng số tiền sinh lời của quỹ từ năm 1995 đến 2000 là 745 tỷ .Tính đến cuối năm2000 tiền nhàn rổi của quỹ là15.697 tỷ đồng (lớn nhất từ trước đền nay) và bổ sung cho quỹ BHXH hơn 600 tỷ đồng ngoài ra năm 1999 quỹ BHXH đã mua hơn 500 tỷ đồng công trái Nhà nước với lãi suất 50% năm năm đây là nguồn vốn dài hạn cho quỹ ,đồng thời góp phần hỗ trợ tài chính cho Nhà nước.
Từ những nguồn thu ở trên ,đóng góp của người lao động người sử dụng lao động , và các khoản thu khác BHXH Việt Nam chi trả trợ cấp cho người lao động .Trong thời gian qua để đảm bảo chi trả trợ cấp nhằm ổn địng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Nhà nước vẩn phải bổ sung liên tục vào quỹ BHXH.
3. Tình hình ngân sách nhà nước cấp cho quỹ BHXH
Để đảm bảo nguồn kinh phí lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH.Nhà nước quy định : Ngân sách Nhà nước trợ cấp hưu trí cho cán bộ ,công chức quân nhân đã nghỉ việc trước năm 1995 đang hưởng lương hưu và các chế độ trợ cấp hàng tháng khác .Như vậy là quỹ BHXH không phải chi một khoản trợ cấp khá lớn cho người lao động trong một thời gian dài .Quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp cho cán bộ ,công chức ,quân nhân hưởng trợ cấp sau năm 1995.Tuy nhiên trong 7 năm qua khi so sánh tổng chi BHXHvà tổng thu BHXH chúng ta thấy số thu BHXH không thể bù dắp cho chi BHXH chẳng hạn trong năm 2000 tổng thu 5.198,2 tỷ trong lúc đó tổng chi là 7807,8 tỷ mặt
khác số tiền nợ BHXH trên toàn quốc trong năm 2001là 427 tỷ đồng trong đó số nợ tồn từ 7/1995 trở về trước là 148,8 tỷ chiếm 35%
Chính vì vậy những năm qua ngân sách Nhà nước luôn phải bù đắp cho quỹ BHXH.Tình hình cụ thể như sau :
Đơn vị tỷ đồng
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Số tiền
1153,98
4771,05
5691,66
5759
6700,31
6247,9
7235,24
Nguồn :Tạp chí BHXH số 7/2002
Qua biểu trên ta thấy ngược với xu hướng tăng của tổng chi BHXH qua các năm 1995-2001 nguồn vốn ngân sách nhà nước trong quỹ BHXH có xu hướng giảm dần từ 96,19% năm 1995 xuống 81,24% năm 2000 và năm 2001 là 78%.Như vậy giai đọan 1995 đến 2002 tỷ lệ ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH giảm bình quân 3% một năm .So với giai đoạn 1990-1994 trước khi đổi mới hệ thống BHXH nguồn vốn ngân sách nhà nước trong quỹ BHXH là khoảng 90% và luôn có xu hướng tăng lên.
Vậy là trong khoảng thời gian qua công tác thu quỹ BHXH đã đạt được một số thành công nhất định .Tuy vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào ngân sách xã hội ,quỹ BHXH đã dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nước,giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách Nhà nước và hoà hệ thống tài chính quốc gia .Để đạt được những thành tựu trên BHXH Việt Nam đã có nhiều cải tiến trong hệ thống quản lý BHXH nói chung và quản lý thu BHXH nói riêng.
4.Quản lý thu BHXH
Yêu cầu của ngành BHXH nói chung và yêu cầu của công tác quản lý thu BHXH nói riêng là cập nhật và lưu trữ trong một thời gian dài các thông tin về đối tượng tham gia BHXH như họ tên ,năm sinh ,giới tính,thời gian tham gia BHXH …và về các đơn vị sử dụng lao động như tổng quỹ tiền lương tham gia BHXH,số tiền nộp BHXH kỳ này ,số tiền BHXH còn nợ đọng .Chính vì thế mà ngành BHXH luôn cần lưu trữ một số lượng lớn hồ sơ tài liệu :Trước kia công tác quản lý thu BHXH được thực bằng phương pháp thủ công trên giấy tờ vừa tốn kém vừa khó đảm bảo tính chính xác kịp thời .Trong thời đại công nghệ tin học phát triển như vũ bão và được áp dụng rộng rải khắp nơi BHXH Việt Nam đã từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu BHXH.
Cho đến nay cả 3 cấp BHXH : cấp huyện ,cấp tỉnh ,cấp Trung ương đều đã được trang bị máy vi tính để thực hiện không những công tác thu mà còn các công tác khác của ngành BHXH như quản lý sổ BHXH chi trả trợ cấp cho người lao động .áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH đã có một số tác dụng sau :
*Giảm nhẹ sức lao động thủ công trong hoạt động thống kê báo cáo thu BHXH,đồng thời đảm bảo tính chính xác kịp thời của các báo cáo thu hàng quý của BHXH các cấp
*Thúc đẩy các đơn vị sử dụng lao động quan tâm đến việc báo các số người tham gia BHXH,mức lương tham gia BHXH để phản ánh chính xác kịp thời tình hình thu nộp BHXH của đơn vị .
*Tiết kiệm thời gian luân chuyển chứng từ truyền đạt thông tin giữa các cấp BHXH.
Tuy đã trang bị hệ thống máy vi tính cho các cấp BHXH nhưng các chương trình được sử dụng đều là những chương trình riêng lẻ ,không có sự liên kết giữa các cấp BHXHvà chưa tạo điều kiện cho việc kết hợp công tác quản lý thu BHXHvà công tác khác trong ngành .Hơn nữa mỗi cấp BHXH lại sử dụng một chương trình khác nhau .Đặc biệt có nơi vẩn sử dụng những chương trình đã lạc hậu vì vậy cũng không có khả năng liên kết giửa các cấp BHXH với nhau Trong thời gian tới để bảo đảm công tác thu BHXH cũng như bảo đảm sự phát triển của toàn ngành ,BHXH Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin và nối mạng toàn quốc.
Bên cạnh việc trang bị các phương tiện thông tin hiện đại ,BHXH cũng luôn chú trọng đến việc nâng cao nguồn lưc con người .Hàng năm cán bộ hoạt động trong ngành được đào tạo mới hoặc đào tạo lại trong công tác quản lý quỹ BHXH,bảo toàn và phát triển quỹ ,các nghiệp vụ cơ bản trong công tác BHXH cơ sở khoa học của việc hoạch định chinh sánh chế độ ,đặc biệt ngành chú trọng vào công tác phổ cập tin học cho cán bộ trong toàn ngành và có đội ngũ chuyên viên kĩ thuật giỏi về xử lý những vấn đề trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu BHXH.
Như vậy sau một thời gian áp dụng hệ thống thu và quản lý thu mới BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể như số người tham gia BHXH tăng số thu BHXH tăng qua các năm … Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã đạt được BHXH Việt Nam còn gặp một số khó khăn như tình hình nợ đọng còn nhiều quỹ BHXH chưa đủ khả năng chi trả cho người lao động ngân sách Nhà nước vẫn phải bao cấp.Để khắc phục những khó khăn trên trong những năm tới các ngành các cấp sẽ đưa ra những biện pháp hữu hiệu .Và sau đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện về công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
Phần III :
Một số giải pháp hoàn thiện thu và quản lý thu quỹ BHXH việt nam .
Các giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện hệ thống thu chi và quản lý thu quỹ BHXH phù hợp với định hưóng phát triển chung của ngành , xu hướng phát triển chung của thế giới .
Một số định hướng phát triển :
- Coi trọng phát triển về chiều rộng bao gồm cả mở rộng đối tượng tham gia và các hình thức tham gia BHXH . Về mở rộng đối tượng tham gia BHXH :BHXH thu hút tất cả các đối tượng lao động thuộc các thành phần kinh tế .Về hình thức tham gia :Gồm hai hình thức tự nguyện và bắt buộc . Ngoài ra cần có nhiều loại hình BHXH tự nguyện để phù hợp với khả năng đóng góp của người lao động, của người dân .
- Dần cải tiến hoàn thiện phương pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ nhằm thu đúng thu đủ tiền đóng BHXH của người lao động , người sử dụng lao động theo đúng pháp luật . Từ đó thúc đẩy và cải thiện tình hình thu BHXH để đáp ứng nhu cầu BHXH của người lao động
- QuỹBHXH phải được quản lý nhằm bảo tồn và tăng trưởng nhằm giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà nước .
- Từng bước hiện đại hoá cơ chế thu và quản lý thu quỹ BHXH
Những giải pháp cụ thể
2.Tăng số người tham gia BHXH
*Tăng đối tượng lao động thuộc diện tham gia BHXH
Hiện nay dân số Việt Nam khoảng 78 triệu người , cơ cấu dân số trẻ số người lao động trong độ tuổi lao động chiếm phầp lớn dân số khoảng 46 triệu người . Hằng năm lượng lao động tăng tự nhiên khoảng 1,2 triệu người, tuy nhiên số người lao động thuộc diện tham gia BHXH chỉ đạt 60% lực lượng lao động .Như vậy chỉ còn 40% lực lượng lao động chưa tham gia BHXH, cũng có nghĩa cuộc sống của những người này chưa được bảo đảm bằng chế độ BHXH và có sự không công bằng giữa những người lao động . Mặt khác trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng nêu rõ chủ trương của Đảng là “mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế “.Đồng thời do yêu cầu chung của tổ chức lao động quốc tế ILO là “tất cả mọi người với tư cách là thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng BHXH”. Vì vậy , đối tượng thuộc diện tham gia BHXH phải được mở rộng . Theo quy định trong điều lệ BHXH thì những đối tượng sau chưa được tham gia BHXH:
*Người lao động trong các doanh nghiệp có ít hơn 10 lao động .
*Người lao động trong khu vực tiểu thủ công nghiệp
*Người lao động trong khu vực nông nghiệp và nông thôn .
*Người lao động tự tạo việc làm từ khu vực phi chính thức .
Trong những đối tượng lao động trên thì chỉ có người lao động trong các doanh nghiệp có ít hơn 10 lao động là Nhà nước có khả năng kiểm soát nghề nghiệp , thời gian hoạt động và thu nhập của họ . Do vậy trong thời gian tới khi mở rộng đối tượng thuộc diện tham gia BHXH cần tập trung vào người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có ít hơn 10 lao động .D o thu nhập của đối tượng lao động trong khu vực này còn thấp và do khả năng quản lý ngành BHXH còn hạn chế nên trước hết cần mở rộng đối tượng thuộc diện tham gia BHXH trong các doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên và tham gia BHXH dưói hình thức bắt buộc ngoài ra cũng cần nên mở rộng đối tượng là giáo viên các trường dân lập ,tư thục các cấp từ mẫu giáo đến đại học về đối tượng này hiện nay đang được thực hiện ở một số tỉnh . Sở dĩ như vậy là loại hình trường dân lập ,tư thục , đang phát triển mạnh mẽ ; Thu nhập của đối tượng này lại tương đối cao , ổn định và dễ quản lý
Những đối tượng khác chưa được tham gia dưói hình thức bắt buộc thì có thể tham gia dưới hình thức tự nguyện . Do tính chất lao động của họ rất đa dạng và thu nhập của họ cũng khó kiểm soát nên cách thức tổ chức này sẽ linh hoạt hơn .Nhà nước đề ra khung pháp lý , định hướng chung còn mức đóng góp BHXH tuỳ thuộc vào khả năng thu nhập của người lao động và sẽ có nhiều mức đóng góp khác nhau để người lao động có thể lựa chọn . Bên cạnh đó để hỗ trợ thêm giúp cho các đối tượng này có khả năng tham gia BHXH tự nguyện ,Nhà nước vẫn phải quy định mức đóng góp tối thiểu của người sử dụng lao động nhưng số tiền này được trả trực tiếp cho người lao động để họ tự tham gia BHXH.
Bên cạnh việc tăng số lao động thuộc diện tham gia BHXH thì việc tăng số người tham gia BHXH cũng tất quan trọng
*Tăng số người tham gia BHXH
Trên thực tế thì số người tham gia BHXH trên cả nước chỉ chiếm trên25% số người thuộc diện tham gia BHXH .Còn lại 75% chưa tham gia vì nhiều nguyên nhân khác nhau như đã phân tích ở phần II
Vì vậy một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là tăng số ngưới tham gia BHXH . Giải quyết được những vấn này không những đảm bảo tăng nguồn thu chu quỹ BHXH mà còn giúp người lao và người sử dụng lao động được hưởng quyền lợi chính đáng và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với xã hội.
Nguyên nhân chính của vấn đề số lao động tham gia BHXH thấp là chủ sử dụng lao động cố tình trốn tránh đăng ký tham gia BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn (chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ).Để giải quyết vấn đề này cùng với giải quyết một loạt các vấn đề khác trong ngành BHXH , cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH – Bộ Lao động , thương binh và xã hội cần nhanh chóng hoàn thiện dự thảo luật BHXH để trình Quốc hội thông qua . Khi luật BHXH được thông qua , nó sẽ tạo một hành lang pháp lý hoàn chỉnh khiến chủ các doanh nghiệp không viện lý do để trốn tránh đăng ký tham gia BHXH nếu họ muốn tiếp tục hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật . Các quy định về đăng ký số lao động trong các doanh nghiệp , số lao động tham gia BHXH , báo cáo về quỹ lương của doanh nghiệp phải được quản lý chặt chẽ ngay từ khi ban hành giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp . Ngoài ra Nhà nước cũng cần quy định các chế tài phạt hoặc đình chỉ công việc kinh doanh đối với những doanh nghiệp không đăng ký tham gia BHXH cho người lao động. Đối với các cấp BHXH thì cần quy định chỉ tiêu thu BHXH thành chỉ tiêu pháp lệnh và có những chỉ tiêu khen thưởng nhằm tạo động lực thúc đẩy cho BHXH các cấp hoàn thành chỉ tiêu thu .
Một nguyên nhân quan trọng khác của tình trạng này là do không những người sử lao động mà cả người lao động chưa nhận thức được đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH dẫn đến họ chưa được thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện các chế độ và chính sách BHXH theo đúng quy định pháp luật. Để giải quyết vấn đề này BHXH Việt Nam cần nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH cả về mặt nội dung và hình thức tuyên truyền . Về nội dung tuyên truyền BHXH bao gồm tuyên truyền về nội dung , bản chất nhân văn , nhân đạo của BHXH , nhận thức được tham gia BHXH là quyền lợi và nghĩ vụ của mỗi người được pháp luật quy định do vậy khi chủ sử dụng lao động trốn nộp BHXH cho người lao động là vi phạm pháp luật , người lao động có quyền đòi hỏi và yêu cầu người sử dụng lao động đảm bảo quyền lợi của mình .Về hình thức tuyên truyền nên sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau để phù hợp với nhận thức , tâm lý , trình độ của người lao động và người sử dụng lao động . Đối với người lao động nên sử dụng nhiều hình thức trực quan sinh động như truyền hình , sách hỏi đáp về BHXH tờ gấp giới thiệu về BHXH , các loại ấn phẩm tuyên truyền như áp phính , tranh cổ động , lịch , vật lưu niệm có nội dung BHXH , thông qua các cuộc thi về tìm hiểu BHXH sáng tác các ca khúc về BHXH … Trong đó các nội dung tuyên truyền cần biên tập ,cô đọng ,dễ hiểu , hấp dẫn . Các ấn phẩm tuyên truyền cầc được phổ cập một cách rộng rãi đến tận người lao động , đơn vị sử dụng lao động dưới dạng tặng phẩm tuyên truyền . Đối với người sử dụng lao động , BHXH cấp tương ứng cần thường xuyên cử cán bộ BHXH đến đơn vị để hướng dẫn , kiểm tra thực hiện các chính sách BHXH .Một hình thức tuyên truyền rất hiệu quả đối với người lao động và người sử dụng lao động là tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở sản xuất kinh doanh . Ngoài ra BHXH Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng như đài truyền hình Việt Nam , đài tiếng nói Việt Nam , các báo (báo quân đội nhân dân , báo nhân dân ,báo lao động , thời báo tài chính , doanh ngiệp …)để tuyên truyền về BHXH
Ngoài việc nâng cao số lượng người lao động đóng góp vào quỹ BHXH ,cũng như rất cần thiết nâng cao chất lượng đóng góp,nghĩa là mức độ đóng góp của mổi người .
2.2 Giải pháp tăng thu quỹ BHXH.
Hiện nay BHXH Việt Nam quy định :người lao động nào có đóng góp BHXH thì mới có quyền hưởng BHXH theo quy định .Nhưng trong thực tế ,quỹ BHXH vẫn chưa đủ khả năng chi trả các khoản trợ cấp cho người lao động ,ngân sách Nhà nước hàng năm vẫn phải bao cấp phần lớn cho quỹ theo tính toán nếu tiếp tục tình trạng thu BHXH thấp số chi ngày tăng thì đến năm 2030 quỹ BHXH sẽ bằng không và không có khã năng chi trã cho người lao động nữa ,mặt khác một thực tế là mức đóng góp BHXH cũa lao động Việt Nam còn thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế giới .Vì vậy một biện pháp quan trọng cần thiết sắp tới là tăng mức đóng góp BHXH .Sỡ dĩ mức đóng góp BHXH thấp một phần là do tiền lương đóng BHXH thấp hơn nhiều so với thu nhập thực tế của người lao động .trong thời gian qua Nhà nước đã nâng tiền lương tối thiểu từ 144.000đồng lên 210.000 vào năm 2001để tiền lương sát với thu nhập thực tế của người lao động .Trong thời gian tới mức tiền lương tối thiểu cũng cần được tiếp tục tăng lên cũng như khả năng kiểm soát thu nhập của người lao động .Tuy nhiên để giải quyết được vấn đề này ,BHXH cần có sự phối hợp của các ngành các cấp khác như bộ tài chính ,bộ lao động ,Thương binh và xã hội …
Một biện pháp khác để tăng mức đóng góp BHXH là nâng tỷ lệ đóng góp bắt buộc .Biện pháp này cần được thưc hiện từng bước và phối hợp với việc tăng tiền lương tối thiểu để tránh sự xáo trộn lớn trong thu nhập của người lao động .Tỷ lệ đóng góp cụ thể và mức tiền lương tối thiểu tương ứng như sau:
Năm
Tiền lương tối thiểu
(Đồng)
Tỷ lệ đóng góp so với quỹ lương (%)
2001-2005
400000
30%-35%(Người lao động đóng góp 40%,người sử dụng lao động đóng60%)
2005-2010
800000
40%-50%(người lao động đóng 50%,người sử dụng lao động đóng 50%)
Cùng vời các biện pháp tăng doanh số thu quỹ BHXH BHXH Việt Nam cần có những biện pháp tích cực để đảm bảo thu đúng thu đủ và truy thu tiền BHXH .BHXH Việt Nam quy định chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các cơ quan , đơn vị nộp chậm tiền BHXH .Đồng thời thường xuyên cử cán bộ đến các đơn vị sử dụng lao động để kiểm tra đôn đốc nộp BHXH và trích lập ,thưởng cho cán bộ thu BHXH nếu quản lý công tác thu tốt , hiệu quả .Ngoai ra một biện pháp rất hữu hiệu khác là không thực hiện chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động ở các đơn vị nợ đọng tiền BHXH quá lâu với số lượng lớn . Biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người lao động nhưng chính họ sẽ gây sức ép để chủ sử dụng lao động đóng BHXH .
Để đồng bộ với đối tượng thu BHXH phức tạp số lượng thu lớn BHXH Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế quản lý thu quỹ BHXH .
2.3 Giải pháp quản lý thu quỹ BHXH .
Để đảm bảo tính chính xác , kịp thời của công tác quản lý thu quỹ BHXH gồm : Quản lý đối tượng tham gia BHXH , quản lý tiền thu , tiền nợ quỹ BHXH BHXH Việt Nam nên sử dụng máy vi tính cho các cấp BHXH .Nhưng tình hình áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu còn nhiều bất cập cần giải quyết .Trước hết BHXH Việt Nam cần hỗ trợ thêm kinh phí cho BHXH cấp tỉnh , huyện để thay thế các chương trình quản lý đã cũ , lac hậu và không hiệu quả .Bên cạnh đó BHXH Việt Nam nên thuê hoặc mua những chương trình quản lý hiệu quả và cho sử dụng chương này trên toàn quốc . Các chương này cần dược nối mạng liên kết tạo điều kiện cho các cấp trong thu và quản lý thu trên máy vi tính .Do việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quản lý , cán bộ trong ngành cũng cần được nâng cao về trình độ tin học .Cần mở các lớp tin học quản lý cho cán bộ công chức toàn ngành . Các lớp học này phải có chương trình dạy và cấp chứng chỉ . Các cán bộ mới tuyển yêu cầu phải có trình độ tin học phù hợp với ngành .Ngoài việc nâng cao trình độ tin học , trình độ nghiệp vụ của cán trong ngành cũng cần được nâng cao . Mục tiêu mỗi năm toàn ngành phải có 20% cán bộ được đào tạo mới hoặc đào tạo lại , tập trung vào các lĩnh vực quản lý quỹ BHXH , cơ sở khoa học của việc thực hiện chính sách chế độ , những vấn đề cơ bản về bảo toàn và phát triển quỹ BHXH …
Vấn đề đầu tư phát triển quỹ BHXH để tăng thu cho quỹ …Trong thời gian qua phần lợi nhuận đầu tư mang lại chưa đóng góp nhiều cho quỹ BHXH cũng như chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của quỹ BHXH . Theo định hướng phát triển ngành BHXH thì quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tự hạch toán cân đối thu chi , BHXH Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý sự nghiệp BHXH do vậy BHXH Việt Nam là tổ chức quản lý và quyết định đầu tư vồn nhàn rỗi quỹ BHXH .BHXH Việt Nam cần được giao quyền tự do lựa chọn các dự án nằm trong khuôn khổ quy định của Nhà nước để đầu tư theo cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về mức độ hiệu quả , cũng như rủi ro trong đầu tư tài chính .Ngoài ra Nhà nước cũng cần hỗ trợ cho việc đầu tư của quỹ BHXH như : Ưu tiên cho BHXH Việt Nam trong việc đầu tư vào các lĩnh vực (như đầu tư xây dựng các công trình công cộng , các khu chung cư …)giảm thuế hoặc miễn thuế thu nhập (trong trường hợp cụ thể ) từ các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH .Điều này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH tự hạch toán cân đối thu chi
Danh mụctài liệu tham khảo
1.Bài viết của tổ chức lao động quốc tế tại hội thảo quốc gia về phát triển
BHXH Việt Nam từ 30/9 đến 1/10 năm 1999
2.Công ước về an toàn xã hội của tổ chức lao động quốc tế ngày 28/6/1952
3. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm ,NXB Thống Kê năm 2000
4.Nghị định số 12 /CP ngày 26/1/1995
5.Tạp chí BHXH số ra hàng tháng
6.Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 7/2001
7.Một số tài liệu khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35298.doc