Khóa luận Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Phát triển nghiệp vụ thanh toán thẻ là một định hướng về đổi mới hoạt động của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Cho đến nay công tác phát hành và thanh toán thẻ đã được thực hiện ở NHNT hơn 10 năm. Thời gian đó chưa phải là dài nhưng cũng đủ để ta nhìn nhận và đánh giá về nó. Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của NHNT đã có những thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ làm đại lý thanh toán cho các tổ chức thẻ quốc tế thì nay đã tự phát hành thẻ. Doanh số thanh toán có thời kỳ tăng trưởng hơn 200%. Tuy nhiên, những kết quả đạt đựơc chưa phải là nhiều. Mặc dù NHNT đã có những cố gắng nhưng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ở NHNT thực sự chưa phát triển lắm. NHNT còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc chưa giải quyết được trong việc phát hành và thanh toán thẻ. Những khó khăn, vướng mắc xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là công tác phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, chưa tìm được khách hàng ở thị trường trong nước- Đây là một thị trường đầy tiềm năng. Xác định được nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong phát hành và thanh toán thẻ, NHNT có thể chưa khắc phục và thay đổi ngay được vi chúng đòi hỏi phải có qúa trình, tốn nhiều thời gian và nỗ lực. Song cùng với sự chỉ đạo thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước, sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và sự cố gắng của toàn NHNT trong xu thế phát triển chung của thế giới, tôi hy vọng rằng những giải pháp được đưa ra trong chuyên đề này sẽ đóng góp phần nào vào quá trình phát triển dịch vụ thẻ thanh toán ở NHNT nói riêng và Việt Nam nói chung.

doc96 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng kinh doanh thẻ của NHNT chưa phát triển trong thời gian qua. Những vướng mắc này là mục tiêu giải quyết ở chương ba Chương iii một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng ngoại thương việt nam I. định hướng phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại nhnt việt nam Định hướng phát triển thẻ thanh toán trong hệ thống NHVN Trước một tình hình thực tế là tình hình sử dụng quá nhiều tiền mặt trong nền kinh tế không có dâú hiệu giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên gây nhiều khó khăn cho nền kinh tế và các cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cùng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang có hoạt động cụ thể nhằm đẩy mạnh phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ở Việt Nam. Định hướng phát triển nghiệp vụ thẻ ở nước ta trong thời gian tới phải mang tính tập trung, đồng bộ, đều khắp, vừa kết hợp tận dụng mọi nguồn lực của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng có mạng lưới rộng khắp. Khuyến khích các ngân hàng tham gia vào hoạt động thẻ, kể cả các chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh. Các ngân hàng phối kết hợp với nhau trong việc xây dựng một hệ thống máy móc kỹ thuật nhằm làm cho quá trình thanh toán được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tình trạng việc ai nấy làm như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước sẽ xúc tiến để chuẩn bị cho ra đời một trung tâm thanh toán trong tương lai nhằm quản lý và tạo điều kiện thanh toán nhanh chóng cho các ngân hàng. Trong giai đoạn tới hứa hẹn có nhiều ngân hàng tham gia vào thanh toán thẻ và như vậy thị trường thẻ sẽ trở nên sôi động hơn. Cho đến nay, ngoài các ngân hàng đi trước trong hoạt động này như NHNT VN, ngân hàng cổ phần á châu... đã và đang có nhiều ngân hàng khác nhập cuộc với nhiều mức độ khác nhau. Ngoài ra còn nhiều ngân hàng khác đang trong quá trình chuẩn bị và học tập kinh nghiệm. Ngân hàng nhà nước sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho các ngân hàng này tham gia hoạt động thẻ một cách nhanh chóng, đồng thời là chiếc cầu nối liên kết các ngân hàng để cùng giúp nhau phát triển nghiệp vụ thanh toán này. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai hàng loạt máy ATM dành cho thẻ quốc tế và nội địa. Trong những năm tới, thẻ là thị trường rộng lớn bỏ ngỏ cho các ngân hàng, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Trong tháng 9 năm 1998, một hội thảo với chuyên đề “mở rộng phạm vi sử dụng và phát hành thẻ ở ngân hàng Việt Nam” đã được tổ chức tại Việt Nam. Tại hội thảo, nhiều chuyên gia ngân hàng đã tham dự và đã mở rộng ra một triển vọng to lớn cho việc phát triển thẻ ở Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ có kế hoạch tổ chức một cuộc hội thảo chuyên đề như trên nhằm chuẩn bị tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của một trung tâm thanh toán bù trừ thẻ , séc và có thể là hối phiếu thương mại. Định hướng phát triển của NHNT trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ Phát hành và thanh toán thẻ chưa phải là một nghiệp vụ lớn tại NHNT VN. Nếu đem so sánh lợi nhuận thu được từ hoạt động này với thu nhập của toàn ngân hàng, ta có thể thấy rõ điều này. Tuy nhiên trong chiến lược phát triển của ngân hàng, ban lãnh đạo ngân hàng vẫn coi trọng công tác này. Trong những năm trước mắt, phát hành và thanh toán thẻ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh ở NHNT. Đặc biệt ngân hàng sẽ dành phần lớn số phí thu được từ hoạt động này để tái đầu tư và các mặt của công tác phát hành và thanh toán thẻ. * Đối với nghiệp vụ phát hành thẻ Tập trung nỗ lực để đẩy mạnh công tác phát hành thẻ, từng bước đưa công tác này trở thành hoạt động chính trong hoạt động thẻ tại ngân hàng. Phối hợp phòng thẻ với các phòng ban khác như phòng tín dụng, phòng hối đoái nhằm tạo nên sự nhịp nhàng trong phát hành thẻ, đưa nghiệp vụ phát hành thẻ thực sự trở thành một hình thức cho vay mới của ngân hàng. Xúc tiến các chương trình tiếp thị, quảng cáo, khuyến mãi lớn nhằm giới thiệu sản phẩm mới của ngân hàng. Xem xét, nghiên cứu việc liên kết phát hành thẻ với các tổ chức tín dụng như các cá nhân, tổ chức kinh doanh, tổ chức xã hội khác. Nghiên cứu nhằm đa dạng hoá các sản phẩm thẻ tín dụng phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ khác nhau của khách hàng. Tiếp tục nghiên cứu để cho ra đời các sản phẩm thẻ phục vụ nhu cầu chi tiêu đang tăng lên của các công ty, tổ chức như thẻ mua sắm, thẻ công ty. Trong đó có thể nghiên cứu tiếp tục khai thác việc phát hành và ứng dụng, kết hợp công nghệ thẻ chíp và thẻ từ để tạo ra loại thẻ mang nhiều chức năng khác nhau trên cùng một tấm thẻ. Căn cứ vào tình hình thực tế phát hành và thanh toán thẻ nội địa VCB Card, thẻ rút tiền tự động ATM, NHNT tạm thời không nhân rộng loại thẻ này nhằm tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, củng cố mạng lưới thanh toán thẻ nội địa để cho ra đời một loại thẻ hoàn thiện nhất trong tương lai. * Đối với nghiệp vụ thanh toán thẻ Đảm bảo hoạt động ổn định của phần mềm quản lý và xử lý cấp phép, thanh toán cũng như tăng cường phối kết hợp chặt chẽ với bưu điện. Tiếp tục tăng cường công tác Marketing để duy trì và phát triển các ĐVCNT; mở rộng mạng lưới ĐVCNT đến các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ mới, tiếp tục duy trì chính sách khách hàng như hiện nay đối với các ĐVCNT. Nghiên cứu kết hợp thanh toán thẻ với các nghiệp vụ khác của ngân hàng nhằm đảm bảo cung cấp các sản phẩm ngân hàng một cách đồng bộ và có sức cạnh tranh nhất. Tiếp tục đầu tư cho việc tự đọng hoá tại các ĐVCNT, nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ. Tăng cường sự hợp tác với các ngân hàng chưa thanh toán thẻ để mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý và mở rộng mạng lưới ĐVCNT của NHNT trên toàn quốc. * Về tổ chức con người Tuyển thêm một số nhân viên mới từ bên ngoài kết hợp với việc chuyển số nhân viên ở bộ phận khác sang để đáp ứng đầy đủ nhu cầu đặt ra. Các nhân viên cũ và mới tiếp tục tập huấn trong nước và nước ngoài. Các chương trình đào tạo sẽ được cải tiến cho phù hợp với sự thay đối nhanh chóng của công nghệ thẻ trên thế giới. Gây dựng tình đoàn kết trong các nhân viên để học hỏi lẫn nhau và giúp nhau hoàn thành công việc chung. * Về công nghệ và kỹ thuật Đầu tư thêm một số máy móc hiện đại kết hợp với nâng cấp và hoàn thiện tiếp hệ thống máy móc hiện có; dần dần đồng bộ hoá hệ thống máy móc kỹ thuật dùng trong lĩnh vực thẻ; định kỳ mời chuyên gia nước ngoài sang bảo dưỡng các thiết bị phục vụ phát hành và thanh toán thẻ. ii. một số giải pháp đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại nhnt vn Giải pháp cho việc phát hành thẻ tại Vietcombank 2.1.1 Thực hiện chiến lược Marketing một cách mạnh mẽ và đồng bộ Đối với các nước phát triển thì thẻ là phương tiện thanh toán tiện ích và thiết yếu, nhưng đối với Việt Nam, tuy thẻ ra đời được hơn 10 năm nhưng nó vẫn còn là một phương tiện thanh toán mới mẻ. Đại đa số dân chúng quan niệm rằng thẻ là thẻ là một phương tiện thanh toán của người nước ngoài và của những người giàu có, không phù hợp với những người dân bình thường có mức thu nhập bình thường và thấp. Quan niệm này xuất phát từ chỗ mọi người chưa được hiểu và biết đến những tiện ích thực sự của thẻ, họ coi việc sử dụng thẻ là phức tạp, không đảm bảo chắc chắn, đôi khi họ không hình dung được nếu phát hành một tấm thẻ thì phải làm những gì, và sử dụng nó như thế nào- chắc là “rích rắc” lắm và phí nộp chắc phải cao lắm. Đó là chưa kể đến những người dân sống ở nông thôn, đa phần là dân trí thấp, họ còn chưa hiểu và chưa hình dung được khái niệm thẻ như thế nào huống chi là nói đến sử dụng thẻ. Vì vậy, phổ biến, tiếp thị và quảng cáo một cách đồng bộ và sâu rộng đến mọi tầng lớp dân cư là một vấn đề cốt yếu để có thể mở rộng thị trường thẻ đầy tiềm năng ở Việt Nam. Nhưng hiện nay, khâu Marketing thẻ của NHTM Việt Nam và Vietcombank chưa rộng rãi và hiệu quả. Việc thực hiện một chiến lược Marketing rộng rãi và đồng bộ có thể thông qua các hình thức: Đẩy mạnh quảng cáo trên các phương tiệ thông tin đại chúng như: báo chí, truyền hình, hay các pano quảng cáo trên đường phố... Với báo chí ta có thể viết nên những nét độc đáo nhất của thẻ và sự thuận lợi của khách hàng khi sử dụng thẻ; trên truyền hình có thể làm các chương trình tìm hiểu cũng như giải đáp các thắc mắc về thẻ, để từ đó phổ biến những kiến thức rộng rãi tới mọi đối tượng dân cư. Đồng thời, Vietcombank cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ cho các trò chơi kiến thức, trò chơi kinh tế...để nhân đó truyền bá về thẻ cũng như các dịch vụ khác về ngân hàng. Ngoài ra, công nghệ thông tin phát triển, Internet cũng là phương tiện hữu hiệu để quảng cáo cho sản phẩm thẻ nói riêng và Vietcombank nói chung. Tổ chức các buổi toạ đàm, nói chuyện về thẻ tín dụng tại các trường đại học kèm theo các chương trình văn hoá. Thẻ là một vấn đề mới mà đội ngũ sinh viên luôn muốn tiếp thu cái mới. Do đó, các buổi toạ đàm sẽ đạt được kết quả cao. Thông qua đội ngũ sinh viên năng động sẽ có thể phổ biến thẻ đến được nhiều người. Mặt khác họ có thể là nhóm khách hàng tiềm năng của ngân hàng trong tương lai. Dựa vào tâm lý khách hàng muốn mua hàng hoá với giá rẻ, Vietcombank có thể ký hợp đồng đại lý với một số ĐVCNT như: siêu thị, cửa hàng, khách sạn...để họ chấp nhận giảm giá khi khách hàng thanh toán bằng thẻ của Vietcombank phát hành. Đổi lại, Vietcombank sẽ trả khoản phí do giảm giá đó cho các ĐVCNT khi nhận được hoá đơn thanh toán thẻ từ các ĐVCNT này đưa đến. Mặt khác, các ĐVCNT sẽ được Vietcombank giới thiệu với khách hàng khi phát hành thẻ cho họ. Thực hiện theo cách này, không những tạo ra đòn bẩy khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ vì được giảm giá, mà còn giúp các ĐVCNT tăng doanh số bán hàng. Tất nhiên giải pháp này chỉ thực hiện trong một giai đoạn ngắn cho đến khi thẻ do Vietcombank phát hành trở nên quen thuộc với khách hàng. Tăng cường việc tiếp cận, khuyến mại và quảng cáo với các công ty lớn và những đối tượng khách hàng tiềm năng như các công ty liên doanh; các văn phòng đại diện nước ngoài tại Việt Nam; các cán bộ công nhân viên của một số nghành có thu nhập cao như dầu khí, điện lưc, bưu điện, hàng không...; các chủ doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước;... Đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra nhiều hình thức thẻ mới phù hợp: Hiện nay, NHNT mới chỉ phát hành các loại thẻ như là Master thẻ Visa, ATM, cần mở rộng thêm các hình thức thẻ mới có hạn mưc tín dụng thấp hơn loại thẻ chuẩn (dưới 10 triệu) để phù hợp hơn với các hình thức chi tiêu trong nước... nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng, phong phú của khách hàng, đồng thời thoả mãn cả đối với những đối tượng khách hàng có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, trong việc thực hiện chiến lược Marketing đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam và NHNT còn một vấn đề tương đối khó khăn bởi vì đối với một loại hình kinh doanh chưa thực sự phát triển mà sử dụng một nguồn chi phí quá lớn để quảng cáo trong khi chưa hẳn chắc chắn sẽ thành công một cách tối đa và nhanh chóng thì còn là một mạo hiểm lớn trong lĩnh vực kinh doanh. Do vậy, vấn đề tồn tại ở đây là chi phí từ đâu ra và có thể thu hồi được chi phí trong một khoảng thời gian nhất định hay không. Phương pháp tốt cho điều kiện hiện nay là Marketing thẻ nên nhằm vào các đối tượng khách hàng mục tiêu là dân cư thành thị và các thành phố lớn, những người có thu nhập tương đối cao và ổn định, thường xuyên có những khoản chi tiêu dịch vụ như đi công tác trong và ngoài nước, nghỉ ngơi tại khách sạn, buôn bán kinh doanh hàng hóa... Ngoài ra, một bộ phận lớn nữa là các nhà đầu tư, chuyên gia nước ngoài,... có nhu cầu chi tiêu thường ngày lớn. Một bộ phận nữa có xu hướng tăng lên là học sinh, sinh viên đi học ở nước ngoài được gia đình bảo lãnh sử dụng thẻ ở nước ngoài. Như vậy, thực hiện chiến lược Marketing thẻ một cách đồng bộ, rộng rãi là rất cần thiết. Nhưng dể thực hiện một cách hiệu quả nhất thì các ngân hàng cần tìm ra được nhóm khách hàng tiềm năng và từ đó có những biện pháp đẩy mạnh hoạt động Marketing nhằm biến những khách hàng tiềm năng đó thực sự trở thành khách hàng của ngân hàng. 2.1.2 Hoàn thiện và đơn giản hoá quy trình phát hành thẻ Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng trong nước và nước ngoài trên thị trường hiện nay, để trở thành một ngân hàng có quy mô và uy tín trong lĩnh vực phát hành thẻ là một điều vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh thẻ tại NHNT VN. Theo xu hướng này, khách hàng có quyền lựa chọn cho mình một ngân hàng mà họ cho là có uy tín nhất và các thủ tục tiến hành nhanh gọn nhất. Chính vì vậy, cùng với uy tín của mình, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa quy trình phát hành thẻ. Hiện nay, Vietcombank phát hành thẻ dựa trên thế chấp và ký quỹ với mức quỹ là 125% hạn mức thẻ, đồng thời quy trình thẩm định phát hành thẻ của Vietcombank cũng rất chặt chẽ. Với cách làm việc này, tất nhiên ngân hàng sẽ không lo rủi ro, nhưng lại gây khó khăn cho khách hàng muốn sử dụng thẻ dẫn đến số lượng thẻ phát hành của ngân hàng chưa được cao. Với những tiện ích thật sự của thẻ, khách hàng sử dụng thẻ không chỉ đơn thuần làm phương tiện thanh toán mà còn tăng khả năng tài chính ngắn hạn. Vì vậy, trong quá trình thẩm định để phát hành thẻ ngân hàng cũng nên xét đến tính ổn định của thu nhập, uy tín của khách hàng và có thể coi đó là một hình thức đảm bảo phát hành thẻ chứ không cần đòi hỏi khách hàng ký quỹ hay thế chấp tài sản nữa. Nghĩa là các điều kiện về thế chấp và ký quỹ trong phát hành thẻ có thể xử lý linh hoạt hơn tuỳ vào từng đối tượng khách hàng. Để làm tốt điều này, Vietcombank cần đẩy manh việc mở rộng tài khoản cá nhân tại ngân hàng. Huy động mở tài khoản cá nhân sẽ giúp lượng khách hàng của ngân hàng tăng lên, thu hút lượng vốn trong các tầng lớp dân cư một cách triệt để. Từ đó có được cơ sở theo dõi tình hình tài chính của khách hàng, mặt khác phối hợp với một số công ty, doanh nghiệp để khuyến khích cho họ trả lương cho nhân viên vào tài khoản tại Vietcombank, như vậy có thể giảm thiểu được rủi ro của ngân hàng, lại có thể thu hút được một lượng khách hàng lớn sử dụng thẻ. Hợp lý hoá chi phí sử dụng thẻ Hiện nay, chi phí sử dụng thẻ còn nhiều bất hợp lý, chưa phù hợp với thực trạng tiêu dùng và sử dụng của khách hàng đặc biệt là đối tượng khách hàng là người dân Việt Nam. Trong khi sử dụng thẻ, ngoài phí thường niên thì chủ thẻ phải trả thêm các khoản khác như lãi suất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí trả chậm, phí rút tiền mặt, phí xin cấp phép... Các khoản chi phí này làm cho việc sử dụng thẻ đắt hơn nhiều so với chi tiêu bằng tiền mặt. Thêm nữa, lãi suất đối với tín dụng thẻ lại cao hơn so với tín dụng thông thường là một điều bất hợp lý. Theo thực trạng thống kê, số khách hàng sử dụng thẻ chủ yếu là người nước ngoài (chiếm 75%), còn số khách hàng là người Việt Nam chỉ chiếm 25% so với doanh số dử dụng thẻ. Đây là một sự bất cân bằng lớn bởi vì người Việt Nam với những khoản chi tiêu ít thì họ có thể sử dụng trực tiếp bằng tiền mặt chứ không cần dùng đến phương tiện thẻ thanh toán với một lượng chi phí lớn hơn hẳn như thế. Trong điều kiện hiện nay, khách hàng là người Việt Nam đại bộ phận đều cho rằng tỷ lệ phí, lãi áp dụng cho các giao dịch thẻ của NHNT là quá cao. Với mức phí hiện tại, các cá nhân người Việt Nam có thu nhập hàng tháng từ 2 triệu trở lên cũng khó có thể sử dụng thẻ được. Vì vậy, chi phí sử dụng thẻ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số phát hành và sử dụng thẻ. Để doanh số này ngày càng tăng lên và có sự cân bằng giữa lượng khách hàng trong nước và nước ngoài thì NHNT cần có những chính sách hợp lý hoá các loại chi phí cho việc phát hành và sử dụng thẻ, đặc biệt là đối với những khách hàng trong nước có mức thu nhập chưa cao. Trong năm 2001 vừa qua, NHNT VN đã có những thay đổi đáng kể nhằm tăng cao doanh số phát hành và sử dụng thẻ, cụ thể như: quy định cho giám đốc các ngân hàng cơ sở được quyền quyết định phát hành tín chấp cho các chủ thể xét thấy có uy tín. Đồng thời, có thể nâng hạn mức tín dụng cho các chủ thẻ có chu cầu đột xuất một cách hợp lý mà không lấy phí hoặc bảo lãnh cho những chủ thẻ đi công tác đột xuất mà chưa trả nợ được trên sao kê trong một khoảng thời gian nhất định. Để mở rộng hơn nữa nghiệp vụ phát hành thẻ, ngân hàng cần có thêm những chính sách, chương trình khuyến khích khách hàng như có thể tặng một tháng lãi suất cho những thẻ mới phát hành, hay giảm phí thường niên trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Ngoài ra, cần điều chỉnh lãi suất đối với tín dụng thẻ sao cho luôn ở mức thấp hơn hoặc bằng với lãi suất tín dụng thông thường. Thực hiện được như vậy, chắc chắn doanh số phát hành và sử dụng thẻ sẽ tăng lên do yếu tố tâm lý của khách hàng. Có thể trong thời gian đầu doanh số thu phí của ngân hàng không cao, nhưng trong một tương lai không xa, ngân hàng sẽ có một tiềm năng cho lĩnh vực phát hành và sử dụng thẻ. 2.1.3 Đào tạo và củng cố hơn nữa nguồn nhân lực của ngân hàng Trong con mắt của khách hàng thì nhân viên chính là hình ảnh của ngân hàng. Mọi cư xử, hoạt động của đội ngũ nhân viên có ảnh hưởng trực tiếp đến bộ mặt và uy tín của ngân hàng. Chính vì vậy mà công tác đào tạo và củng cố nguồn nhân lực của một ngân hàng là yếu tố cần thiết. Với cơ cấu 20% nhân viên là đội ngũ tiến sĩ, hơn 70% nhân viên ở trình độ đại học và dưới 10% tôt nghiệp các trường cao đẳng, tại chức, NHNT VN có một đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, vững chuyên môn, đảm bảo tốt công việc của mình. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới và tiềm năng của hoạt động kinh doanh thẻ thì như vậy là chưa đủ. Trong hoạt động kinh doanh thẻ, chúng ta chưa có các chuyên gia hàng đầu, các cán bộ quản lý điều hành và các cán bộ nghiệp vụ ngoài trình độ ngoại ngữ tương đối phải có một trình độ kiến thức nhất định. Do vậy, để nâng cao chất lượng và số lượng phát hành thẻ nói riêng và kinh doanh thẻ nói chung, Vietcombank cần có những biện pháp, chính sách đầu tư cho nguồn nhân lực cả về lượng và về chất. Các cán bộ quản lý điều hành ngoài những nỗ lực của bản thân phải được tham gia các khoá học dài hạn, bài bản, có thời gian thực tập để có kiến thức chuyên sâu và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong kinh doanh thẻ. Cũng cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ hoặc cử đi học tại các tổ chức thẻ quốc tế để thường xuyên bổ xung, nâng cao trình độ. Ngoài ra không thể thiếu các kế hoạch tuyển chọn, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ mới đáp ứng yêu cầu công việc và vận hành tốt những máy móc thiết bị hiện đại. Trong nghiệp vụ phát hành thẻ, các nhân viên giao dịch cũng góp phần đáng kể trong việc thu hút khách hàng. Khi khách hàng đến ngân hàng giao dịch, trong tiếp đón niềm nở, tận tình, chu đáo, nhân viên giao dịch có thể hướng dẫn cho khách hàng những tiện ích của thanh toán thẻ với một thủ tục đơn giản... sẽ giúp khách hàng cảm thấy thoải mái và mong muốn được sử dụng thẻ. Muốn vậy, ngân hàng cần mở các lớp đào tạo về cả chuyên môn lẫn tâm lý để mọi nhân viên đều có khả năng nắm bắt tâm lý khách hàng, luôn tạo tâm lý thoải mái, vui vẻ, tin tưởng vào khách hàng. Đây là yếu tố quan trọng để khuyến khích, thu hút khách hàng. 2.1.4 Tạo ra nhiều hình thức mới mẻ phù hợp với điều kiện của Việt Nam Để thu hút mọi tầng lớp dân cư trong nước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần tạo ra những loại thẻ tín dụng nội địa phù hợp với đặc điểm thị trường trong nước. Trong những năm gần đây, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tạm ngừng việc phát hành thẻ ATM và thẻ VCB CARD. Tuy trong năm 2002 này việc triển khãi hệ thống ATM đã bắt đầu thực hiện nhưng ngân hàng cũng cần nghiên cứu kỹ cả về việc mở rộng thị trường để tiếp tục nhân rộng mạng lưới phát hành và sử dụng thẻ của tất cả các loại thẻ. Để mở rộng phát hành hai loại thẻ tín dụng quốc tế là Master và Visa Card, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát hành thêm thẻ ghi nợ Master và Visa Card. Theo cách phát hành này, ngân hàng có thể phát hành cho một số đối tượng có tài khoản tại ngân hàng, hạn mức chi tiêu sẽ phụ thuộc vào số dư trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Phát hành thêm thẻ ghi nợ một mặt có thể đẩy mạnh được hoạt động phát hành và sử dụng thẻ tại ngân hàng, mặt khác đây cũng là một hình thức huy động vốn rất tốt của ngân hàng. Cách sử dụng thẻ ghi nợ không khác gì so với thẻ tín dụng, thẻ này chỉ khác ở một điểm là chi tiêu bảng thẻ ghi nợ tuỳ thuộc vào số dư tài khoản tại ngân hàng hiện có của chủ thẻ chứ không theo hạn mức tín dụng. Nếu được như vậy, một người dân Việt Nam không có đủ 10 triệu đồng (hạn mức tối thiểu của thẻ chuẩn hiện nay là 10 triệu đồng) vẫn có thể sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá dịch vụ. Mỗi khi khách hàng chi tiêu, hoặc rút tiền mặt, các thông tin sẽ được chuyển về trung tâm để cấp phép đồng thời khấu trừ luôn số tiền vào tài khoản của khách hàng. Có thể nói đây là một hình thức đa dạng hoá các sản phẩm thẻ tạo ra một lượng tăng trong phát hành thẻ mà lại hạn chế được rủi ro do khách hàng không thanh toán. 2.1.6. Tăng cường thiết lập mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế để mở rộng phạm vi phát hành và sử dụng thẻ Trên cơ sở mối quan hệ sẵn có, Vietcombank phải thường xuyên củng cố và tạo lập hơn nữa mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, trọng tài quốc tế, các ngân hàng trong và ngoài nước. Mối quan hệ này sẽ giúp cho Vietcombank có được một quy mô hoạt động lớn và uy tín trên thương trường, các sản phẩm thẻ phát hành của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được mở rộng với đa chủng loại từ các tổ chức thẻ quốc tế, từ đây Ngân hàng Ngoại thương sẽ ngày càng trở thành thành viên chính thức của các tổ chức thẻ lón nhất trên thế giới. Đồng thời, các sản phẩm thẻ của Vietcombank cũng sẽ có điều kiện thanh toán dễ dàng, thuận lợi cho người sử dụng thẻ khi ngân hàng có mối quan hệ rộng rãi. Ngoài ra, các chi phí thanh toán cũng sẽ giảm thiểu do mối quan hệ trực tiếp của Ngân hàng Ngoại thương với các ngân hàng trong và ngoài nước. Là yếu tố trực tiếp nâng cao doanh số sử dụng thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Với một mối quan hệ rộng lớn và chặt chẽ như vậy sẽ là điều kiện để Vietcombank có được thông tin thường xuyên, cập nhật liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ để ngày càng hoàn thiện hoạt động phát hành của mình, theo kịp sự tiến bộ của thế giới. Giải pháp cho việc thanh toán thẻ tại Vietcombank Mở rộng mạng lưới các ĐVCNT ĐVCNT là một chủ thể không thể thiếu được trong quá trình chấp nhận thẻ. Số lượng ĐVCNT là một trong những yếu tố quan trọng đẩy mạnh doanh số thanh toán của thẻ. Do vậy, yếu tố đầu tiên để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thanh toán thẻ là mở rộng mạng lưới ĐVCNT. Tính đến nay, tổng số các ĐVCNT của Ngân hàng Ngoại thương hiện có trong cả nước là3.052 đơn vị (trong đó có khoảng hơn 1.000 đơn vị được lắp máy thanh toán thẻ tự động EDC). Với một mạng lưới ĐVCNT như vậy, có thể nói là còn rất mỏng, chưa thể đáp ứng được yêu cầu thực tế trên thị trường thẻ Việt Nam như hiệ nay. Đại đa số khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương là khách hàng truyền thống, là các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các khách hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn một ngân hàng tốt nhất phục vụ cho việc kinh doanh của mình. Vì vậy, Ngân hàng Ngoại thương đã quán triệt một tinh thần là đơn vị nào đã ký hợp đồng chấp nhận thẻ với Ngân hàng Ngoại thương là bằng mọi biện pháp sẽ giữ chân khách hàng, không để họ đến với các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, các ĐVCNT của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện nay tập trung nhiều nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp đến là Hà Nội, An Giang, Vũng Tàu... với mạng lưới ĐVCNT phân bố không đồng đều như vậy thì chưa thể đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thẻ. Trong thời gian vừa qua, NHNT VN cũng đã và đang sử dụng một số biện pháp nhằm mở rộng các ĐVCNT như lắp đặt các máy đọc thẻ miễn phí tại các điểm chấp nhận thẻ này. Giải pháp này chỉ có tính tạm thời và không thể là giải pháp lâu dài vì một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, chi phí cho mỗi máy là khá cao nên để có nhiều ĐVCNT thì chi phí đầu tư là quá lớn; Thứ hai, vì là trang thiết bị miễn phí nên nhiều ĐVCNT còn chưa và không có ý thức giứ gìn, bảo quản đặc biệt là ở Việt Nam. Nên thực tế hiện nay, ngân hàng cần ĐVCNT hơn là ĐVCNT cần ngân hàng. Vậy ngân hàng cần có hướng giải quyết như thế nào để ĐVCNT cần ngân hàng và ngân hàng có thể mở rộng số lượng các ĐVCNT. Để thực hiện giải pháp này, ngân hàng nên: tập trung tăng cường công tác tiếp thị đến nhiều cửa hàng có doanh số tiêu thụ cao, nhiều khu vui chơi giải trí lớn để khuyến khích các nơi này làm ĐVCNT. Trong tương lai nên chú ý mở rộng mạng lưới ĐVCNT đến cả những điểm kinh doanh nhỏ, nhà hàng nhỏ, khu nhà trọ,... Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần phải tăng cường hoạt động tiếp thị đối với các ĐVCNT, phải cho họ thấy rõ được lợi ích của việc thanh toán thẻ. Cũng có thể khi phát hành thẻ cho chủ thẻ, Ngân hàng Ngoại thương thực hiện luôn công việc quảng cáo cho ĐVCNT. Việc này không những tạo ra cho các ĐVCNT mở rộng được một thị trường khách hàng đa dạng, mà một khi họ được Ngân hàng Ngoại thương- một ngân hàng tầm cỡ đứng ra quản cáo thì tên tuổi của doanh nghiệp và vị thế của những đơn vị này được nâng gia trị thêm lên trên thương trường. Khi đó có rất nhiều các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh, bán hàng đều muốn tham gia vào mạng lưới ĐVCNT của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Một giải pháp khác là Ngân hàng Ngoại thương nên hạ mức phí mà ngân hàng áp dụng cho các ĐVCNT. Mức phí hiện nay được quy định là từ 2,5- 3,6% tuỳ theo từng loại thẻ. Một khoản bằng 3% giá trị thì có vẻ nhỏ nhưng nếu so sánh với lợi nhuận của các ĐVCNT thì khoản tiền trên không bé chút nào. Như vậy, khi bán cho khách hàng sử dụng thẻ thì lợi nhuận của các ĐVCNT sẽ bị giảm đi một khoản đáng kể. Hơn nữa, việc chấp nhận thẻ hiện nay cũng chưa thu hút thêm một lượng khách hàng đáng kể cho cửa hàng. Do đó các ĐVCNT không mặn mà lắm với việc chấp nhận chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Từ đó ta thấy được việc hạ mức phí áp dụng cho các ĐVCNT trước mắt có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng đối với từng giao dịch nhưng như thế sẽ kích thích được các ĐVCNT nhận thanh toán bằng thẻ. Việc giảm chi phí đối với các ĐVCNT còn tạo ra sự kích thích đối với các điểm bán hàng khác tham gia vào mạng này. Tăng cường chiến lược Marketing Chiến lược Marketing trong thanh toán thẻ cũng gắn chặt với chiến lược Marketing trong phát hành thẻ. Tiến hành Marketing thẻ là tiến hành quảng cáo, xúc tiến sử dụng cho cả việc phát hành và thanh toán thẻ. Vì vậy, để hoàn thiện hơn công tác Marketing, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngoài các chiến lược Marketing nhằm nâng cao doanh số phát hành và sử dụng thẻ thì không thể không quan tâm đến việc xúc tiến một chiến lược Marketing cho hoạt động thanh toán thẻ. ở Việt Nam hiện nay, hoạt động thanh toán thẻ ngoài việc mạng lưới ĐVCNT còn mỏng thì còn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi một yếu tố khách quan nữa là thói quen tiêu dùng của người dân. Nếu như một thị trường mà người dân chỉ có thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt sẽ không thể là thị trường tốt để phát triển thị trường thẻ nói chung và hoạt động thanh toán thẻ nói riêng. Sở dĩ có tồn tại này là do một phần nền kinh tế Việt Nam so với các nước khác chưa thực sự phát triển, thu nhập của người dân còn thấp, trình độ dân trí không cao. Vì vậy, số người dân sử dụng thẻ thanh toán rất ít. Theo quy luật của nền kinh tế, cung chỉ nhiều khi có cầu nhiều. Do vậy, hiện tượng trên ảnh hưởng nhiều đến tâm lý các ĐVCNT. Có thể nói, nhiệm vụ của chiến lược Marketing trong công tác thanh toán thẻ chính là ở chỗ cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước thì phải làm sao cho người dân tiếp xúc được trực tiếp và biết đến những tiện ích của việc thanh toán thẻ một cách thực sự, giảm đi thói quen tiêu dùng bằn tiền mặt của người dân. Và lúc này khi nhu cầu thanh toán thẻ của người dân lên cao thì tất nhiên các điểm cung ứng tiền mặt, các ĐVCNT sẽ mọc lên như nấm. Các biện pháp có thể áp dụng là quảng cáo các loại thẻ do Vietcombank thanh toán và các ĐVCNT cuả Vietcombank trên báo chí, truyền hình,... khuyến khích người dân sử dụng và thanh toán thẻ bằng các chương trình tiếp thị, khuyến mại rộng rãi. Ngoài ra cũng cần ngày càng cung cấp cả về số lượng lẫn chất lượng cung ứng của các ĐVCNT. 2.3 Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng tham gia thanh toán thẻ Thường xuyên giữ mối quan hệ với các ngân hàng thanh toán thẻ để cùng nhau trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong việc thanh toán thẻ. Đặc biệt, khi đã có Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt Nam thì việc giữ mối quan hệ này là rất thuận lợi. Nhờ có Hiệp hội, các ngân hàng trong nước có thể liên kết với nhau, đề ra đường lối, chính sách chung về phí, quy trình thanh toán nhằm chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh từ các ngân hàng nước ngoài, đồng thời tạo ra sự thống nhất trong hoạt động kinh doanh thẻ tại Việt Nam. Mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng thanh toán thẻ ở Việt Nam đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán thẻ của từng ngân hàng thành viên và của Việt Nam nói chung. Điều này làm cho uy tín của các NHTM Việt Nam tăng lên trên thương trường quốc tế, tăng sự tin tưởng của các tổ chức thẻ quốc tế cũng như của khách hàng. Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ bằng mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên đã đề ra được nhiều quyết sách chung cho hoạt động của mình và trình lên ngân hàng Nhà Nước, trình lên chính phủ góp phần làm cho hoạt động thanh toán thẻ ở Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn. Ngân hàng cần xây dựng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ kỹ thuật và trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ thanh toán thẻ Trong năm vừa qua, tại phòng quản lý thẻ đã tổ chức hội nghị tập huấn về thẻ cho toàn hệ thống. Đây là một hội nghị được chuẩn bị rất công phu, có sự đầu tư về thời gian, về soạn thảo văn bản hướng dẫn, in ấn, báo cáo, soạn thảo tài liệu phục vụ đại biểu,... và về tổ chức hội nghị. Các báo cáo viên thuyết trình đều được chuẩn bị kỹ nên các báo cáo về nghiệp vụ thẻ đều được đánh giá thành công. Nhờ đó mà các cán bộ nghiệp vụ thẻ trong toàn hệ thống có thể nắm bắt được quy trình nghiệp vụ phát hành, thu nợ và thanh toán thẻ một cách có hệ thống và tự tin hơn. Hội nghị tập huấn lần này có thể nói là đã thành công tốt đẹp. Ngân hàng đã được đánh giá các ưu, khuyết điểm trong nghiệp vụ thẻ, những vướng mắc cần được tháo gỡ và sau hội nghị thì một số bất cập đã được khắc phục. Cũng trong năm 2002 vừa qua, cùng với sự phát triển của hoạt động kinh doanh thẻ, phòng quản lý thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương đã có ba cán bộ tin học nhằm quản lý một cách chặt chẽ hơn nghiệp vụ thẻ. Nhưng hiện nay, so với công việc của phòng thẻ thì số lượng nhân viên còn thiếu. Do đó, trong thời gian tới ngân hàng cần có chiến lược đào tạo cán bộ nhân viên để phù hợp với yêu cầu. Đồng thời, ngân hàng phải kết hợp với các tổ chức thẻ quốc tế để tổ chức tập huấn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ nhân viên kinh doanh thẻ. Cán bộ nhân viên phải luôn luôn được trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cách nắm bắt được tâm lý khách hàng sao cho không bị thụt lùi với trình độ của nhân viên ngân hàng bạn và trình độ của cán bộ thẻ trên khu vực và trên thế giới. Hoạt động kinh doanh thẻ luôn gắn liền với máy móc trang thiết bị hiện đại. Do đó, ngân hàng phải đào tạo một lực lượng nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao trong bảo dưỡng, lắp đặt máy móc thiết bị của nghiệp vụ thẻ. Đội ngũ này nên được tổ chức riêng biệt so với đội ngũ kỹ thuật của ngân hàng để khi cần thiết thì luôn có nhân viên kỹ thuật kịp thời xử lý. Lực lượng này phải có kiến thức chuyên sâu về trang thiết bị máy móc thanh toán thẻ. Có như vậy mới có thể giải quyết được các sự cố bất ngờ xảy ra (máyin thẻ bị hỏng, việc nối mạng bị trục trặc,...) để không làm giảm doanh số kinh doanh thẻ của ngân hàng. Cùng với công tác nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và nhân viên kỹ thuật, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải luôn nâng cao chất lượng các trang thiết bị kỹ thuật. Trang bị kỹ thuật phục vụ hoạt động thanh toán thẻ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trình độ kỹ thuật công nghệ là yếu tô quyết định chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ và thành bại trong cạnh tranh. Do vậy, một trong những định hướng lớn trong hoạt động vủa Vietcombank nói chung và quản lý thẻ của Vietcombank nói riêng là tăng cường đầu tư vào công nghệ thanh toán thẻ cả về phần cứng và phần mềm. Thực tế hiện nay, để phát triển nghiệp vụ thanh toán thì ngoài việc tăng về số lượng và chất lượng thanh toán cho các ĐVCNT thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên cho phép các ĐVCNT ứng tiền mặt cho khách hàng để chủ thẻ có thẻ rút tiền mặt tại các ĐVCNT chứ không chỉ ứng tiền mặt được tại các chi nhánh hay ngân hàng đại lý thanh toán tại ngân hàng. Hoàn thiện và luôn nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ , phương tiện kỹ thuật, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ giữ vững được vị trí xứng đáng trong hoạt động kinh doanh thẻ tại thị truờng Việt Nam- một thị trường bỏ ngỏ. Phát huy vai trò là một ngân hàng thanh toán Vietcombank thu được lợi nhuận không nhỏ từ việc thanh toán thẻ Visa, Master, JCB, Amex. Do vậy, trong lĩnh vực nàyVietcombank cần phát huy vai trò của mình để thành công hơn nữa trong nghiệp vụ thanh toán thẻ. Cụ thể là: Chấp hành tốt các quy định nghiêm ngặt trong quy trình thanh toán thẻ đối với mỗi loại thẻ theo đúng quy định quốc tế để không xảy tranh chấp làm mất thời gian, công sức, tiền bạc và giảm uy tín của ngân hàng. Khuyến khích các ĐVCNT của Vietcombank làm tốt việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thanh toán bằng thẻ hài lòng hơn. Tiếp tục phối hợp với các ĐVCNT, cơ quan công an... để kịp thời phát hiện các trường hợp giả mạo về thẻ hay các thẻ có vấn đề mà không làm ảnh hưởng đến khách hàng, làm cho các khách hàng trung thực không cảm thấy bị xúc phạm. Vai trò thanh toán thẻ của ngân hàng tăng lên cũng đồng nghĩa với uy tín của Vietcombank tăng lên. Từ đây có điều kiện để ngân hàng có những chính sách phát triển riêng của mình nhằm tăng lợi nhuận bằng cách tăng số loại thẻ thanh toán và phạm vi thanh toán của thẻ. 2.3. Phòng chống rủi ro trong phát hành và thanh toán thẻ Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng có rủi ro, và vấn đề rủi ro là khó tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh thẻ. Ngân hàng phải làm gì để phòng chống rủi ro là một câu hỏi lớn đặt ra. Ngân hàng Ngoại thương nói riêng và các ngân hàng kinh doanh thẻ nói chung phải không ngừng nghiên cứu, phân tích, học hỏi và phối hợp với nhau để tìm ra cách phòng chống rủi ro hiệu quả nhất. Rủi ro không loại trừ bất cứ một khâu nào trong hoạt động kinh doanh thẻ. Với những rủi ro thường gặp trong phát hành và thanh toán thẻ tín dụng (đã nêu ở chương I), để ngăn ngừa, phòng chống rủi ro này, Ngân hàng Ngoại thương nên: Kiểm tra xác minh các thông tin trong hồ sơ khi phát hành thẻ trước khi xét duyệt phát hành cho khách hàng. Và để thuận lợi cho khách hàng ở xa, ngân hàng có thể giao thẻ cho khách hàng qua đường bưu điện, để phòng chống rủi ro trong khâu này, chi nhánh phải theo rõi sát việc nhận thẻ của khách hàng và thông báo kịp thời lên Trung tâm thẻ mở khoá cho phép khách hàng sử dụng thẻ. Thẻ phải được gửi bằng thư bảo đảm. Để xác định thẻ được gửi đến đúng địa chỉ, trước khi gửi thẻ cho chủ thẻ, ngân hàng nên gọi điện thông báo cho chủ thẻ và giao cho chủ thẻ một mật mã nhận thẻ, đề nghị chủ thẻ thông báo ngay cho ngân hàng khi nhận được thẻ qua đường bưu điện. Ngân hàng đề nghị chủ thẻ cho biết mật mã. Nếu khớp đúng, ngân hàng mới mở khoá cho phép khách hàng sử dụng thẻ. Mặt khác, để ngăn chặn việc sử dụng thẻ của nguời khác, ngân hàng nên áp dụng cho các loại thẻ đều có ảnh của chủ thẻ trên bề mặt thẻ. Điều này sẽ giúp cho các ĐVCNT an tâm hơn trong việc kiểm tra thẻ. Nếu ngân hàng nhậ được những thông báo thay đổi của chủ thẻ, ngân hàng chỉ chấp nhận những thông báo được xác minh là xác thực. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải thường xuyên liên hệ với tổ chức thẻ quốc tế và các thành vieen khác để có điều kiện cập nhật kịp thời và liên tục các thông tin về quản lý rủi ro, thẻ cấm lưu hành trên các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế như MATCH, SAFE của Master Card, hay NMAS của Visa và thông báo kịp thời cho các chi nhánh, ĐVCNT. Ngân hàng Ngoại thương trước khi ký kết hợp đồng thanh toán thẻ với ĐVCNT phải tìm hiểu kỹ, đặc biệt là về tư cách, hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính của ĐVCNT. Thường xuyên tổ chức tập huấn và cung cấp tài liệu về chấp nhận thanh toán thẻ cho các ĐVCNT, hướng dẫn họ sử dụng và bảo quản thiết bị thanh toán thẻ. Mọi hỏng hóc phải thông báo kịp thời cho Ngân hàng và chỉ có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hoặc đại lý (được chỉ định) mới được sử chữa các hỏng hóc đó. Ngân hàng phải thường xuyên đến và kiểm tra hoạt động kinh doanh thẻ của ĐVCNT để tránh tình trạng nhân viên các ĐVCNT làm sai quy trình thanh toán thẻ. Thêm vào đó, trong kinh doanh thẻ để hạn chế được rủi ro và giảm chi phí trong quản lý rủi ro, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên kết hợp với các ngân hàng kinh doanh thẻ tại Việt Nam để cùng nhau tìm ra các biện pháp phòng chống hữu hiệu nhất. Ví dụ như chỉ cần một ngân hàng lập danh sách các loại thẻ cấm lưu hành, sau đó in ấn gửi cho các ĐVCNT của ngân hàng, chi phí sẽ do các ngân hàng đống góp theo tỷ lệ số lượng các ĐVCNT của ngân hàng mình. Trên thực tế biện pháp liên kết luôn tỏ ra hữu hiệu trong mọi hoạt động. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần phải trích lập một quỹ dự phòng riêng để bù đắp cho các rủi ro phát sinh từ nghiệp vụ thẻ. Để thúc đẩy quá trình giao dịch, giảm chi phí cũng như rủi ro trong việc tra soát, khiếu nại bồi hoàn, các ngân hàng kinh doanh thẻ cần có những biện pháp hữu hiệu để có thể liên lạc và giải quyết với nhau trước khi thực hiện theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế. Làm như vậy vừa có thể tạo hoà khí giữa các bên tham gia lại không tốn một khoản chi phí không cần thiết. Như vậy, trước mắt để hạn chế và phòng chống rủi ro, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phải thực hiện tốt nhất các quy định của tổ chức thẻ quốc tế cũng như các quy định của Ngân hàng Nhà Nước về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đồng thời cũng yêu cầu các ĐVCNT thực hiện tốt mọi quy định về thanh toán thẻ. iii.một số kiến nghị 3.1. Dành một số ưu tiên đối với những hoạt động liên quan đến thẻ Công nghệ thẻ là một công nghệ hoàn toàn mới ở Việt Nam. Máy móc thiết bị đều là những loại máy hiện đại mà Việt Nam chưa thể sản xuất được, thậm chí ngay cả những linh kiện thay thế cũng chưa có tại Việt Nam. Việc giao nhận sửa chữa thiết bị hiện nay chưa được miễn thuế hay tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng buộc các ngân hàng phải tăng phí mua sắm thiết bị. Vì vậy, nhà nước cần xem xét giảm thuế nhập khẩu cho những máy móc phục vụ cho công nghệ thẻ ở Việt Nam hay ít ra cũng có thể tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu này. Việc này sẽ giúp ngân hàng giảm được chi phí đầu tư hay thời gian trong công tác phát hành và thanh toán thẻ. Thanh toán thẻ là một hình thức thanh toán rất hữu ích. Nó làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Đối với các mặt hàng khác khi muốn khuyến khích phát triển, Nhà nước thường xuyên giảm thuế cho mặt hàng đó. Vậy thanh toán thẻ cũng là một hình thức thanh toán mới rất hữu ích. Hiện nay mức thuế Nhà nước áp dụng cho thanh toán thẻ là 10% (GTGT). Đây là mức thuế bình thường áp dụng cho các loại hình dịch vụ khác. Để khuyến khích, Nhà nước nên giảm xuống còn khoảng 5% là hợp lý. Tuy nhiên, bởi vì giá trang thiết bị của hình thức này là rất đắt, nếu đánh thuế cao sẽ làm tăng giá thành, từ đó không khuyến khích được thanh toán thẻ phát triển. 3.2. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ Hiện nay, một số tội phạm có liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. ở Việt Nam, hành lang pháp luật còn chưa được đồng bộ và có nhiều sơ hở, hơn nữa trang bị kỹ thuật còn thiếu. Đây là điều kiện thuận lợi cho bọn tội phạm hoạt động. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh để xây dựng một hành lang pháp luật đồng bộ, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành, đưa ra các khung hình phạt cụ thể cho những tội phạm có liên quan về thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số,... Nhất là trong năm 2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đưa máy ATM vào hoạt động. Máy này thường được đặt ở những nới công cộng. Nhưng xét về một mặt nào đó thì việc tự giác thi hành pháp luật của người dân Việt Nam còn thấp và chưa có một khung hình phạt cụ thể. Do đó, nếu đặt máy ATM ở nới công cộng sợ rằng chi phí bỏ ra để bảo vệ máy ATM có thể cao hơn lợi nhuận thu được từ máy đó. Vì vậy, Nhà nước cần cần nhanh chóng hoàn thiện một hành lang pháp lý hoàn chỉnh nhằm giúp người dân có ý thức tuân thủ luật pháp và tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh thẻ phát triển hơn. 3.3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Việc đầu tư xây dựng sơ sở hạ tầng, trang thiết bị để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không là vấn đề của riêng nghành ngân hàng mà của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy, Nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng. Riêng đối với lĩnh vực thẻ, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ mà nếu chỉ có nghành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi. 3.4. Ngân hàng Nhà nước cần tạo tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát hành , sử dụng và thanh toán thẻ Hiện nay, hoạt động thanh toán thẻ còn rời rạc, chưa thống nhất trên toàn quốc. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét đến việc xây dựng một hệ thống thanh toán thẻ toàn quốc bao gồm một trung tâm xử lý thanh toán được kết nối với tất cả ngân hàng thành viên tham gia nhằm mở rộng phát hành, thanh toán thẻ nội địa cũng như quốc tế. Hệ thống này có ý nghĩa bao trùm trên cả hai mặt: kinh tế va quản lý. Một mặt chúng ta có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư cho các ngân hàng, có được hệ thống thanh toán liên hàng, đồng thời mở rộng được phạm vi sử dụng thẻ của khách hàng. Mặt khác, Nhà nước sẽ tăng cường được việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát tình hình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ Hoàn chỉnh môi trường pháp lý là vấn đề cần thiết để thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong xã hội. Thẻ do Vietconbank phát hành hiện nay chịu sự quy định chặt chẽ của Hiệp hội thẻ quốc tế. Nhưng chỉ như vậy là chưa đủ. Cần có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện, đầy đủ cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có duy nhất một Quy chế của Ngân hàng Nhà nước về phát minh, sử dụng và thanh toán thẻ (ban hành ngày 19/10/1999). Đó chỉ là một vản bản có tính chất hướng dẫn chung còn về quy trình cụ thể thì do từng ngân hàng tự đề ra, chứ không có sự thống nhất chung. Một khi thẻ đã được sử dụng phổ biến và trở thành phương tiện thanh toán hữu hiệu thì rất cần có một pháp lệnh về thẻ thanh toán với những điều khoản chặt chẽ, thống nhất với các văn bản có liên quan đến quản lý ngoại hối, tín dụng chung. Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các ĐVCNT nhưng chưa có phần đề cập đến hạn mức thanh toán và tín dụng của thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Chính sách quản lý ngoại hối cần phải có quy định riêng cho thẻ thanh toán, nhất là thẻ tín dụng quốc tế nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ nhưng vừa phải tạo điều kiện cho phát hành thẻ của ngân hàng và sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế ở mức độ nào đó. Chính sách tín dụng phải có quy định riêng cho thẻ tín dụng- một loại hình tín dụng mới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, đảm bảo tín dụng cho khách hàng của mình, giảm khó khăn, phiền hà cho khách hàng để tăng lượng khách hàng sử dụng thẻ. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng chủ thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản vay thông thường mà có thể nới rộng hơn và lưu tâm hơn đến khả năng thanh toán của khách hàng căn cứ vào tính ổn định thường xuyên của thu nhập. Ngoài ra, cũng cần quy định rõ vấn đề liên quan đến dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro cho chủ thẻ và ngân hàng. 3.6. Nâng cao ý thức và trình độ của người dân Đây là một khâu quan trọng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế phục vụ cho lưu thông hàng hoá hàng hóa dịch vụ mà còn đóng góp để có được một xã hội văn minh, lịch sự, tiên tiến. Hiện nay, ở Việt Nam còn rất nhiều người còn không biết đến dịch vụ thẻ là gì. Vì vậy, cần có những phương pháp giáo dục cần thiết ngay từ bậc học phổ thông như nâng cao trình độ tin học của học sinh từ cấp phổ thông cơ sở để chúng có thể nắm được những khái niệm, nguyên tắc cơ bản về việc ứng dụng tin học. Từ đó chúng sẽ tiếp cận được với dịch vụ thẻ của ngân hàng. Ngoài ra cần tạo ra cho chúng những ý thức bảo vệ của công, như trong việc bảo vệ các thiết bị, máy móc đặt ở những nơi công cộng. Đây là những nền tảng vũng chắc không chỉ đề phát triển dịch vụ thẻ mà còn xây dựng một xã hội Việt Nam văn minh, lịch sự và phát triển. Kết luận Phát triển nghiệp vụ thanh toán thẻ là một định hướng về đổi mới hoạt động của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Cho đến nay công tác phát hành và thanh toán thẻ đã được thực hiện ở NHNT hơn 10 năm. Thời gian đó chưa phải là dài nhưng cũng đủ để ta nhìn nhận và đánh giá về nó. Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của NHNT đã có những thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ làm đại lý thanh toán cho các tổ chức thẻ quốc tế thì nay đã tự phát hành thẻ. Doanh số thanh toán có thời kỳ tăng trưởng hơn 200%. Tuy nhiên, những kết quả đạt đựơc chưa phải là nhiều. Mặc dù NHNT đã có những cố gắng nhưng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ở NHNT thực sự chưa phát triển lắm. NHNT còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc chưa giải quyết được trong việc phát hành và thanh toán thẻ. Những khó khăn, vướng mắc xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là công tác phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, chưa tìm được khách hàng ở thị trường trong nước- Đây là một thị trường đầy tiềm năng. Xác định được nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong phát hành và thanh toán thẻ, NHNT có thể chưa khắc phục và thay đổi ngay được vi chúng đòi hỏi phải có qúa trình, tốn nhiều thời gian và nỗ lực. Song cùng với sự chỉ đạo thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước, sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và sự cố gắng của toàn NHNT trong xu thế phát triển chung của thế giới, tôi hy vọng rằng những giải pháp được đưa ra trong chuyên đề này sẽ đóng góp phần nào vào quá trình phát triển dịch vụ thẻ thanh toán ở NHNT nói riêng và Việt Nam nói chung. Tài liệu tham khảo Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Minskin, NXB khoa học kỹ thuật năm 1995. Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ vào Việt Nam, Lê Văn Tề, NXB trẻ năm 1999. Phạm Ngọc Trung (chủ biên), Marketing trong ngân hàng, NXB Thống kê, năm 1996. Văn kiện đại hội Đảng VIII, NXB Sự thật, năm 1998. Quyết định 22/QĐ NH1 ngày 21/02/1994 về quy chế phát hành và sử dụng séc. Nghị định số 30/CP ngày 09/05/1996 về hướng dẫn thực hiện phát hành và sử dụng séc. Quyết định số 94/QĐ/NHNT/HĐQT về biểu phí phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ quốc tế. Quy chế về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ quốc tế của NHNT VN. Tờ trình của phòng quản lý thẻ NHNTVN lên ban lãnh đạo. Báo cáo thường niên NHNT từ năm 1996 đến năm 2002. Thị trường tài chính số 6 năm 2002. Tạp chí ngân hàng số chuyên đề tháng 11-1998. Thông tin NHNT. Tài liệu tập huấn thanh toán thẻ NHNT. Thông tư số 07/TT/NH1 về hướng dẫn thực hiện việc phát hành, sử dụng và thanh toán séc. Hướng dẫn thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của NHNT VN. Cẩm nang thực hiện dịch vụ American express của NHNT VN American express Card Acceptance Common Questions Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Lý luận chung về thẻ thanh toán 4 I. Tổng quan về thẻ thanh toán 4 1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của thẻ thanh toán 4 1.2. Khái niệm, đặc điểm cấu tạo phân loại thẻ 5 1.3. Quy trình phát hành và thanh toán thẻ 9 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát hành và thanh toán thẻ 14 1.5. Một số tiện ích của thẻ thanh toán 17 1.6. Một số rủi ro trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ 19 II. Kinh nghiệm và xu thế phát triển của công tác phát hành, xử dụng và thanh toán thẻ trên thế giới 21 2.1. Kinh nghiệm của tổ chức thẻ American Express 21 2.2. Xu thế phát triển thẻ tín dụng tại một số khu vực trên thế giới 23 2.3. Triển vọng phát triển của công nghệ thẻ ở Việt Nam 25 Chương II: Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28 I. Tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thẻ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28 II. Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 30 2.1. Công tác phát hành thẻ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 30 2.2. Công tác thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 44 III. Một số hạn chế, khó khăn cần giải quyết trong công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 56 3.1. Đối tượng sử dụng thẻ còn hạn chế 57 3.2. Môi trường thanh toán thẻ nhỏ 58 3.3. Công nghệ thẻ chưa đáp ứng được yêu cầu 59 3.4. Rủi ro phát sinh trong phát hành và thanh toán thẻ 60 Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 62 I. Định hướng phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 62 1.1. Định hướng phát triển thẻ thanh toán trong hệ thống ngân hàng Việt Nam 62 1.2. Định hướng phát triển của NHNT trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ 63 II. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 66 2.1. Giải pháp cho việc phát hành thẻ tại Vietcombank 66 2.2. Giải pháp cho việc thanh toán thẻ tại Vietcombank 75 2.3. Phòng chống rủi ro trong phát hành và thanh toán thẻ 81 III. Một số kiến nghị 85 3.1. Dành một số ưu tiên đối với những hoạt động liên quan đến thẻ 85 3.2. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ 86 3.3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 86 3.4. Ngân hàng Nhà nước cần tạo tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. 87 3.5. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ 87 3.6. Nâng cao ý thức và trình độ của người dân 88

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0552.doc
Tài liệu liên quan