MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Vốn là một trong những nguồn lực cơ bản để phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn, đây là điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên để đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho khách hàng và nền kinh tế, đòi hỏi các Tổ chức tín dụng (TCTD) phải khai thác hiệu quả nguồn vốn huy động.
Với chức năng trung gian tài chính lớn của nền kinh tế, các TCTD trên địa bàn Thành Phố Rạch Giá đã và đang tích cực đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ tiện ích, đa dạng hóa các hình thức huy động để thu hút khách hàng và người dân gửi tiền vào Ngân hàng. Tuy nhiên với tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng và nền kinh tế có xu hướng ngày càng tăng, là áp lực đòi hỏi các TCTD phải có chiến lược huy động vốn dài hạn, với các kế hoạch triển khai cụ thể trong từng thời kỳ, phù hợp với diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường, đảm bảo tạo ra nguồn vốn huy động đa dạng, với khả năng chủ động cao trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng cao nhất nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng – doanh nghiệp và nền kinh tế, nhu cầu vốn cho phát triển các dự án thuộc các chương trình kinh tế lớn của đất nước nói chung và của tỉnh Kiên Giang nói riêng.
Với những lý do và tính chất cần thiết nêu trên em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm góp phần tăng trưởng nguồn vốn huy động tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh tỉnh Kiên Giang” cho khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nội dung chủ yếu của đề tài là phân tích tình hình huy động vốn trong 3 năm tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tỉnh Kiên Giang và từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của Chi nhánh.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu từ các tài liệu có liên quan tại cơ quan thực tập: bảng cân đối chi tiết và báo cáo tài chính các năm 2004, 2005, 2006.
- Phương pháp so sánh: để xem xét tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu trong thời gian qua.
- Phương pháp tỷ trọng: để xem xét sự biến động của các chỉ tiêu.
- Phương pháp tỷ số: để xem xét kết quả hoạt động của Ngân hàng.
- Tham khảo tài liệu, tạp chí Ngân hàng
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi hoạt động của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Nhưng với bất kỳ hoạt động nào của Ngân hàng cũng đều có mục đích thúc đẩy phát triển nền kinh tế và mang lại hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng. Vì thời gian và kiến thức có hạn nên không thể đi sâu vào các hoạt động của Ngân hàng, mà chỉ tập trung nghiên cứu tình hình huy động vốn của Ngân hàng và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của Chi nhánh.
1.2.1 MỞ ĐẦU 1
2.2.1 Chương 1: 3
2.1 . Khái niệm về nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại: 3
2.2 1.2. Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn 3
2.3 1.3. Các hình thức huy động của Ngân hàng thương mại: 4
2.3.1 Tiền gửi thanh toán: 4
2.3.2 Tiền gửi tiết kiệm: 4
2.3.3 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: 5
2.3.4 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: 5
2.3.5 Tiền gửi tiết kiệm dự thưởng: 6
2.3.6 Tiền gửi tiết kiệm bậc thang: 7
2.3.7 Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá: 8
2.3.8 Phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn: 9
2.3.9 Phát hành giấy tờ có giá dài hạn: 10
2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn: 10
3.2.1 Chương 2: 13
3.1 Giới thiệu sơ lược về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh tỉnh Kiên Giang 13
3.1.1 Giới thiệu khái quát về tỉnh Kiên Giang 13
3.1.2 Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh tỉnh Kiên Giang 14
3.1.3 Cơ cấu tổ chức và chức năng hoạt động 15
3.1.4 Đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng qua 3 năm 20
3.1.5 Những thành tựu, thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng trong những năm qua 21
3.2 Thực trạng huy động vốn và tình hình sử dụng vốn của NH ĐT&PT Việt Nam chi nhánh tỉnh Kiên Giang 24
3.2.1 Thực trạng huy động vốn của Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam Chi nhánh tỉnh Kiên Giang 24
3.2.2 Lãi suất huy động 24
3.2.3 Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh 26
3.2.4 Thực trạng huy động vốn chung của Chi nhánh 26
3.2.5 Tình hình sử dụng vốn tại Chi nhánh trong 3 năm: 36
3.2.6 Tình hình cho vay của Chi nhánh 37
3.2.7 Tình hình thu nợ của Chi nhánh: 38
3.2.8 Tình hình dư nợ của Chi nhánh 39
3.3 Các yếu tố tác động đến hoạt động huy động vốn tại Chi Nhánh: 43
3.3.1 Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường vốn: 45
3.3.2 Cán bộ làm công tác nguồn vốn: 46
3.3.3 Những thông tin về hoạt động của Ngân hàng: 46
3.4 Những thuận lợi và khó khăn trong huy động vốn tại Chi nhánh: 47
4.2.1 Chương 3: 49
4.1 Phương hướng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Kiên Giang: 49
4.2 Giải pháp về huy động vốn: 50
4.2.1 Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động Ngân hàng: 51
4.2.2 Có chiến lược riêng về khách hàng: 52
4.2.3 Mở rộng mạng lưới giao dịch: 53
4.2.4 Đa dạng hoá các hình thức huy động: 54
4.2.5 Mở nhiều đợt khuyến mãi cho khách hàng: 57
4.2.6 Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên: 58
4.3 Một số kiến nghị: 59
5.2.1 KẾT LUẬN 62
63 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm góp phần tăng trưởng nguồn vốn huy động tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g kể ( tăng 28.779 triệu đồng ) tương ứng tăng 34,22% so với năm 2005.
Đối với loại tiền: tiền gửi VNĐ năm 2006 là 261.215 triệu đồng tăng 40.874 triệu đồng tương ứng tăng 18,55% so với năm 2005.tiền gửi ngoại tệ năm 2006 là 18.785 triệu đồng tăng 4.895 triệu đồng tương ứng tăng 35,24% so với năm 2005.
Đối với nguồn vốn huy động phân theo thời gian: tiền gửi ngắn hạn của khách hàng năm 2006 là 189.135 triệu đồng tăng 32.603 triệu đồng tương ứng tăng 20,83% so với năm 2005. Tiền gửi trung, dài hạn năm 2006 là 90.865 triệu đồng tăng 13.166 triệu đồng tương ứng tăng 16,94% so với năm 2005.
Với kết quả huy động vốn đạt được như vậy là do sự nổ lực của cán bộ công nhân viên của Chi nhánh đã không ngừng tìm tòi đổi mới chính sách huy động, linh hoạt hơn đối với từng loại khách hàng… Tuy huy động vốn đã được tăng trưởng tốt, nhưng thị phần huy động lại giảm, điều này Ngân hàng cần phải có biện pháp thích hợp để lấy lại thị phần - thị trường như: có chính sách giữ chân khách hàng truyền thống, sau đó khuyến khích thu hút khách hàng tiềm năng. Với quyết tâm và sự cố gắng không ngừng của Chi nhánh hy vọng trong những năm tới không những nguồn vốn huy động của Chi nhánh tăng mà thị phần của Chi nhánh cũng theo đó mà tăng lên.
Tóm lại: Qua việc phân tích tình hình huy động vốn qua 3 năm tại Ngân hàng cho thấy tình hình huy động vốn tại Ngân hàng có sự tăng giảm qua các năm, nhưng nhìn chung Ngân hàng đã cố gắng làm tốt công tác huy động vốn nhằm cung cấp đủ vốn trong việc kinh doanh của mình và góp phần vào công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội của Tỉnh. Nhưng muốn đứng vững và phát triển trong hệ thống Ngân hàng trong thời gian tới, Ngân hàng cần có đủ những chủ trương chính sách hợp lý, tạo ra nhiều sản phẩm huy động mới đáp ứng được nhu cầu mong mỏi của khách hàng vừa thu hút được khách hàng, vừa huy động được nguồn vốn phục vụ cho việc kinh doanh của Ngân hàng.
Tình hình sử dụng vốn tại Chi nhánh trong 3 năm:
Huy động vốn và sử dụng vốn là hai quá trình song song có mối quan hệ bổ sung cho nhau trong hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng huy động tiền gửi của các thành phần kinh tế để cho vay, nguồn vốn huy động càng nhiều thì Ngân hàng càng có điều kiện để mở rộng các hình thức đầu tư tín dụng. Mặt khác, công việc tín dụng của Ngân hàng đạt hiệu quả cao thì sẽ đảm bảo được nguồn vốn huy động và kích thích được khách hàng gửi tiền vào, ngược lại nếu công tác tín dụng của Ngân hàng gặp khó khăn thua lỗ sẽ làm mất lòng tin đối với khách hàng và khách hàng có thể rút hết tiền ra khỏi Ngân hàng, điều này sẽ làm giảm nguồn huy động của Ngân hàng.
Trên cơ sở thực hiện các giải pháp trong huy động vốn nhằm mang lại nguồn vốn kinh doanh cho Ngân hàng, thì Ngân hàng cần một đầu ra để mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng đó là công tác tín dụng. Việc đi tìm vốn đã khó, song việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại càng khó hơn.Với nguồn vốn tự huy động cộng với các nguồn vốn khác, Chi nhánh đã có kế hoạch sử dụng trong từng năm chủ yếu là cho vay đối với các thành phần kinh tế.
Tình hình cho vay của Chi nhánh
Xác định hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của Ngân hàng vì phần thu chủ yếu của Ngân hàng là cho vay. Với mục tiêu giúp đỡ cho các thành phần kinh tế mở rộng đầu tư, sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát triển kinh tế địa phương, Ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, đẩy mạnh đa dạng hoá các hình thức cho vay phù hợp với điều kiện của địa phương và định hướng kinh doanh của Ngành. Kết quả cho vay của Chi nhánh sẽ thể hiện dưới bảng số liệu sau:
Bảng 2.7: Phân tích doanh số cho vay của Chi nhánh
Đơn vị tính: Triệu đồng
Cho vay
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
số tiền
(%)
số tiền
(%)
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
466.000
194.000
520.000
220.000
630.000
250.000
54.000
26.000
111,59
113,40
110.000
300.000
121,15
113,64
Tổng
660.000
740.000
880.000
80.000
112,12
140.000
118,92
( Nguồn: Phòng Kế toán - Tài chính của chi nhánh)
Qua bảng số liệu trên đã thể hiện rõ doanh số cho vay của Chi nhánh tăng đều qua các năm, cụ thể năm 2004 doanh số cho vay của Chi nhánh là 660.000 triệu đồng. trong đó doanh số cho vay ngắn hạn là 466.000 triệu đồng chiếm 70,61% tổng doanh số cho vay, doanh số cho vay trung, dài hạn là 194.000 triệu đồng bằng 29,39% so với tổng doanh số cho vay. đến năm 2005 tổng doanh số cho vay là 740.000 triệu đồng tăng 80.000 triệu đồng tương ứng tăng 12,12% so với năm 2004. Trong đó, doanh số cho vay ngắn hạn là 520.000 triệu đồng bằng 70,27% so với tổng doanh số cho vay của năm và tăng 54.000 triệu đồng tương ứng tăng 11,59% so với năm 2004, doanh số cho vay trung, dài hạn là 220.000 triệu đồng bằng 27,73% so với tổng doanh số cho vay của năm và tăng 26.000 triệu đồng tương ứng tăng 13,40% so với năm 2004.
Năm 2006 tổng doanh số cho vay là 880.000 triệu đồng tăng 18,92% so với năm 2005. Trong đó, doanh số cho vay ngắn hạn năm 2006 là 630.000 triệu đồng bằng 71,59% so với tổng doanh số cho vay và tăng 110.000 triệu đồng tương ứng tăng 12,15% so với năm 2005, doanh số cho vay trung, dài hạn năm 2006 là 250.000 triệu đồng bằng 28,41% so với tổng doanh số cho vay của năm và tăng 30.000 triệu đồng tương ứng tăng 13,64% so với năm 2005. Điều này phản ánh sự mở rộng quy mô hoạt động và tốc độ tăng trưởng kinh doanh của Chi nhánh ngày càng cao.
Tình hình thu nợ của Chi nhánh:
Bên cạnh việc mở rộng đầu tư tín dụng thì việc thu nợ cũng không kém phần quan trọng. Sau khi giải ngân, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là thường xuyên kiểm soát vốn vay của khách hàng có sử dụng đúng mục đích hay không, để có biện pháp xử lý kịp thời, đồng thời công tác thu nợ cũng nêu lên hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Bảng số liệu dưới đây sẽ phản ánh rõ doanh số thu nợ của Chi nhánh:
Bảng 2.8: Phân tích doanh số thu nợ của Chi nhánh
Đơn vị tính: Triệu đồng
Thu nợ
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
số tiền
(%)
số tiền
(%)
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
415.000
145.000
455.000
185.000
685.000
295.000
40.000
40.000
109,64
127,59
230.000
110.000
150,55
159,46
Tổng
560.000
640.000
980.000
80.000
114,29
340.000
153,13
( Nguồn: Phòng kế toán – tài chính của Chi nhánh)
Bảng số liệu cho ta thấy rõ doanh số thu nợ năm 2004 là 560.000 triệu đồng trong đó thu nợ ngắn hạn là 415.000 triệu đồng chiếm 74,41% trong tổng doanh số thu nợ và thu nợ trung, dài hạn là 145.000 triệu đồng chiểm 25,59% đối với doanh số thu nợ trong năm. Năm 2005 doanh số thu nợ là 640.000 triệu đồng tăng 80.000 triệu đồng tương ứng tăng 14,29% so với năm 2004. trong đó thu nợ ngắn hạn năm 2005 là 455.000 triệu đồng chiếm 71,09% so với tổng doanh số thu nợ và tăng 40.000 triệu đồng tương ứng tăng 9,64% so với năm 2004, thu nợ trung, dài hạn năm 2005 là 185.000 triệu đồng chiếm 28,91% trong tổng doanh số thu nợ và tăng 40.000 triệu đồng tương ứng tăng 27,59% so với năm 2004. kết quả thu nợ năm 2006 là 980.000 triệu đồng tăng 340.000 triệu đồng tương ứng tăng 53,13% so với năm 2005. Trong đó,thu nợ ngắn hạn năm 2006 là 685.000 triệu đồng bằng 69,89% so với tổng doanh số thu nợ năm 2006 và tăng 110.000 triệu đồng tương ứng tăng 59,46% so với năm 2005. thu nợ trung, dài hạn năm 2006 là 295.000 triệu đồng bằng 30,11% so với tổng doanh số thu nợ của năm và tăng 110.000 triệu đồng tương ứng tăng 59,46% so với năm 2005.
Tình hình thu nợ của Chi nhánh nhìn chung có sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, điều này nói lên việc khách hàng đã sử dụng đúng mục đích và kinh doanh có hiệu quả và cũng là hiệu quả của việc cho vay đối với Chi nhánh, đống thời cũng cho thấy chất lượng quản lý và hiệu quả quản lý vốn của Chi nhánh đã được nâng cao. Bên cạnh đó, Ngân hàng đã chủ động tìm kiếm các giải pháp thu hồi nợ có hiệu quả, không ngừng kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể và cơ qua chức năng để tận thu các khoản nợ có tính chất chai lì.
Tình hình dư nợ của Chi nhánh
Khi đi vào hoạt động không một Ngân hàng nào là không có dư nợ, dư nợ phản ánh rõ nét tình hình hoạt động trong một thời điểm nhất định, đồng thời nó cũng cho thấy hiệu quả thẩm định khách hàng khi cho vay. Bảng kết quả dưới đây sẽ cho thấy rõ số dư nợ của Chi nhánh:
Bảng 2.9: Phân tích tình hình dư nợ của Chi nhánh
Đơn vị tính: Triệu đồng
Dư nợ
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
số tiền
(%)
số tiền
(%)
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
185.000
276.000
250.000
310.000
395.000
365.000
65.000
34.000
135,14
112,32
45.000
55.000
158
117,74
Tổng
460.000
560.000
760.000
100.000
121,74
200.000
135,71
( Nguồn: Phòng Kế toán – Tài chính của Chi nhánh)
Tình hình dư nợ trên bảng số liệu nhìn chung có sự tăng đều qua các năm cụ thể: năm 2004 dư nợ là 460.000 triệu đồng. Trong đó, dư nợ ngắn hạn là 185.000 triệu đồng bằng 40,22% so với tổng dư nợ của năm 2004,dư nợ trung, dài hạn là 276.000 triệu đồng bằng 59,78% so với tổng số dư nợ năm 2004.
Năm 2005 dư nợ là 560.000 triệu đồng tăng 100.000 triệu đồng tương ứng tăng 21,74% so với năm 2004. Trong đó, dư nợ ngắn hạn là 250.000 triệu đồng bằng 44,64% so với tổng dư nợ của năm và tăng 65.000 triệu đồng tương ứng tăng 35,14% so với năm 2004; dư nợ trung, dài hạn là 310.000 triệu đồng bằng 55,36% so với tổng dư nợ của năm và tăng 34.000 triệu đồng tương ứng tăng 12,32% so với năm 2004.
Dư nợ năm 2006 là 760.000 triệu đồng tăng 200.000 triệu đồng tương ứng tăng 35,71% so với năm 2005. Trong đó, dư nợ ngắn hạn là 395.000 triệu đồng bằng 51,97% so với tổng dư nợ của năm và tăng 45.000 triệu đồng tương ứng tăng 58% so với năm 2005; dư nợ trung, dài hạn là 365.000 triệu đồng bằng 48,03% so với tổng số dư nợ của năm và tăng 55.000 triệu đồng tương ứng tăng 17,74% so với năm 2005.
Dư nợ tăng qua các năm cũng có thể là một dấu hiệu kinh doanh có hiệu quả của Chi nhánh vì dư nợ tăng mà nợ xấu lại giảm, làm cho lợi nhuận của Chi nhánh tăng lên. Điều này chứng tỏ chi nhánh đang mở rộng hoạt động kinh doanh, nhất là công tác tín dụng, nâng cao uy tín của Chi nhánh đối với khách hàng.
Nhìn chung công tác tín dụng tại Chi nhánh có bước tăng trưởng, nhưng mức độ tăng trưởng còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế địa phương. Mặt khác, trong mấy năm qua một phần hoạt động tín dụng của Chi nhánh không thuận lợi là do tình hình biến động rất lớn về giá gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mộ số doanh nghiệp gặp khó khăn từ đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc đầu tư tín dụng của Chi nhánh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bằng sự nổ lực phấn đấu của Ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh đã mạnh dạng chuyển hướng đầu tư tín dụng sang các ngành nghề và lĩnh vực khác như: xăng dầu, xi măng, khai thác chế biến hải sản, nhà ở,… Năm 2005 là năm thực hiện theo quyết định 149/2001-TTG ngày 05/10/2001 của Thủ Tướng Chính Phủ và chỉ đạo của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam số 1269/NHNN – BGV ngày 23/10/2001 và Chỉ thị số 3370/CT – KHPT ngày 30/11/2001 của Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam về việc sử lý nợ tồn động, Chi nhánh đã rà soát, phân tích, xác định nợ xấu và rủi ro tìm ẩn, từ đó đề xuất phương án xử lý để thu hồi nợ và đến cuối năm 2005 đã xử lý dứt điểm số nợ tồn động. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì ngoài thị phần huy động vốn thì thị phần tín dụng cũng là một yếu tố quan trọng, nó phần nào thể hiện uy tín và chất lượng kinh doanh của Ngân hàng trên địa bàn. Dưới đây là bảng số liệu thể hiện thị phần tín dụng của Chi nhánh qua 3 năm:
Bảng 2.10: Phân tích thị phần tín dụng của Chi nhánh qua 3 năm
Đơn vị tính: %
Thị phần
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
Tín dụng
8,731
7,221
7,511
- 17,295
104,016
( Nguồn: Phòng tín dụng của Chi nhánh)
Biểu đồ 2.3: Thị phần tín dụng của Chi nhánh qua 3 năm
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy thị phần tín dụng của Chi nhánh có sự biến động không đều, cụ thể như: năm 2004 thị phần tín dụng của Chi nhánh trên địa bàn là 8,731%, nhưng đến năm 2005 lại giảm còn 7,221% giảm 17,295% so với năm 2004. Sang năm 2006 thị tín dụng của Chi nhánh phần nào được cải thiện là 7,511% tăng 4,016% so với năm 2005.
Tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh nhìn chung qua các năm có chiều hưởng tăng trưởng tốt, nhưng thị phần tín dụng của Chi nhánh biến động không đều cũng là một vấn đề đáng quan tâm đối với Ngân hàng. Hiện nay trên địa bàn có rất nhiều đối thủ cạnh tranh kể cả lĩnh vực huy động vốn lẫn công tác tín dụng, Ngân hàng nào cũng muốn lôi kéo, thu hút nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng mình, để làm được như vậy, các Ngân hàng đều đưa ra mức lãi suất hấp dẫn với mức lãi suất cao dành cho nguồn vốn huy động và lãi suất thấp áp dụng cho cho vay. Đối với khách hàng khi đi vay tiền thì người nào cũng muốn vay với lãi suất thấp để họ có thể an tâm sử dụng số tiền vay của mình vào đúng mục đích kinh doanh, nhưng do Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Chi Nhánh Kiên Giang là một NHTM Nhà Nước nên phải chịu sự quản lý của Nhà Nước về lãi suất, Ngân hàng khó có thể tự ý hạ mức lãi suất cho vay xuống quá thấp. Vì như vậy sẽ làm cho chệnh lệch giữa đầu vào – ra không được bao nhiêu, khi đó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng. Năm 2006, thị phần tín dụng có chiều hướng tăng lên đó là một dấu hiệu tốt, đó là kết quả của sự không ngừng đổi mới phong cách làm việc cũng như có sự điều chỉnh mức lãi suất phù hợp. Từ đó, việc kinh doanh của Ngân hàng ngày càng được mở rộng, Ngân hàng ngày càng tạo dựng được niềm tin và uy tín đối với khách hàng.
Trong những năm tới, Chi nhánh sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động thông qua việc điều chỉnh cơ cấu tài sản nợ - tài sản có theo hướng: từng bước đẩy mạnh sang hoạt động dịch vụ, hoạt động đầu tư vốn, giảm dần tín dụng, nhất là tín dụng trung dài hạn, tín dụng thuộc đối tượng xây lấp, tăng tín dụng ngắn hạn trong đó tập trung vào tín dụng thương mại xuất nhập khẩu, tín dụng ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể, đẩy mạnh tín dụng cá nhân, tín dụng tiêu dùng,… tập trung cho những lĩnh vực, khu vực, ngành nghề, địa bàn có khả năng sinh lời và nguồn thu tín dụng lớn đảm bảo tăng trưởng nhưng an toàn, rủi ro thấp, sinh lời và thu nhập nhiều hiệu quả cao.
Tóm lại: Qua việc phân tích tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng qua 3 năm cho thấy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có chiều hướng tăng trưởng tốt. Từ đó Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Chi Nhánh Kiên Giang luôn tìm tòi đối tượng để mở rộng tín dụng, cân đối nguồn vốn cho vay, thu nợ hài hoà, đảm bảo hiệu suất sử dụng vốn có hiệu quả. Chi nhánh cũng đã lựa chọn những khách hàng có năng lực, quan hệ tín dụng rõ ràng, cán bộ tín dụng làm tốt công tác kiểm tra việc sử dụng vốn và đôn đốc thu nợ đúng hạn.
Các yếu tố tác động đến hoạt động huy động vốn tại Chi Nhánh:
Tập quán dân cư:
Hiện nay khi nói đến Ngân hàng thì đại đa số người dân đều đã quá quen thuộc. Tuy nhiên cũng còn một số người do trình độ dân trí còn thấp, chưa hiểu hết được những lợi ích mà ngân hàng đem lại cho mình và họ cũng lo ngại, sợ khi giao dịch với Ngân hàng, đó là những người dân mang nặng tâm lý như:
Ngại rủi ro khi giao dịch với Ngân hàng.
Thủ tục phiền phức khi giao dịch với Ngân hàng.
Mặc cảm không dám giao dịch với Ngân hàng đối với người có thu nhập chưa cao.
Sợ để lộ thông tin về thu nhập khi giao dịch với Ngân hàng đối với người có thu nhập cao.
Ngoài ra, đối với người dân chỉ buôn bán nhỏ thì họ chỉ muốn giữ tiền ở nhà để phục vụ cho tiêu dùng hằng ngày của mình. Vì vậy, Ngân hàng cần có những biện pháp để thu hút mọi người dân đến giao dịch với Ngân hàng nhằm huy động được tối đa nguồn tiền nhàn rỗi của dân chúng để phục vụ tốt cho việc kinh doanh của mình. Nếu làm được như vậy, Ngân hàng sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ đầu tư và phát triển của mình trong nền kinh tế - xã hội Tỉnh nhà.
Chính sách lãi suất:
Lãi suất luôn là một công cụ huy động vốn quan trọng để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng và có tác động trực tiếp đến quy mô cũng như lượng vốn huy động được. Nhưng đối với NHTM Nhà Nước thì phải chịu sự quản lý của Nhà Nước về mức lãi suất. Các Ngân hàng này không thể tự quyết định mức lãi suất cho mình mà phải cân đối mức lãi suất sao cho phù hợp vừa có thể đáp ứng mong muốn của khách hàng vừa có thể huy động được nguồn vốn cho Ngân hàng. hiện nay trên địa bàn Tỉnh Kiên giang có tổng cộng 06 NHTM ( Quốc doanh) đang hoạt động dưới sự quản lý của Nhà Nước về mức lãi suất. Cụ thể là:
Bảng lãi suất huy động của các NHTM ( Quốc doanh ) trên địa bàn
Đơn vị tính: %
Ngân hàng
NHĐT&PT
NHNN&
PTNT
NHCT
NHNT
NHPTN
ĐBSCL
NHPT
kỳ hạn
* TGKKH
0,25
0,25
0,25
0,25
0,30
0,30
* TGCKH
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
13 tháng
18 tháng
24 tháng
36 tháng
60 tháng
0,50
0,55
0,65
0,65
0,69
0,70
-
-
0,75
0,77
0,61
0,61
0,63
0,65
0,69
0,70
0,72
0,74
0,76
-
0,55
-
0,64
0,65
0,69
0,70
-
-
-
0,50
0,60
0,64
0,65
0,69
0,70
0,72
-
0,75
-
0,78
0,45
-
0,68
0,71
0,75
0,77
-
0,79
0,82
0,50
0,60
0,64
0,67
0,69
0,70
-
0,78
0,80
( Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Công tác huy động vốn ngày càng gặp khó khăn, do các Ngân hàng trên địa bàn ngày càng nhiều, cạnh tranh ngày càng gay gắt với nhiều hình thức như bốc thăm trúng thưởng, gửi tiền có tặng phẩm,… Bên cạnh các NHTM Quốc doanh, Ngân hàng còn phải cạnh tranh với các NHTM cổ phần với chính sách lãi suất hấp dẫn, bởi họ không bị chi phối bởi lãi suất trần và sàn của hiệp hội Ngân hàng nên lãi suất huy động thường là rất cao, hấp dẫn được đối tượng khách hàng là dân cư và các đối tượng nhỏ lẻ khác,… Vì vậy, đòi hỏi các NHTM Quốc doanh phải biết liên kết lại với nhau để thu hút khách hàng và giảm bớt sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng với nhau.
Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường vốn:
Trên địa bàn Tỉnh Kiên Giang có đủ 6 NHTM Quốc doanh, các NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, các Quỹ tín dụng nhân dân,… Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các Ngân hàng tự do cạnh tranh với nhau trên cơ sở tôn trọng pháp luật của Nhà Nước. Do vậy, các Ngân hàng này có nhiều hính thức đa dạng trong huy động nhằm thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng mình hơn, tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn trong giao dịch với Ngân hàng. Vì vậy, muốn đứng vững trong cạnh tranh và không ngừng phát triển đòi hỏi Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang phải kinh doanh có lãi và có hiệu quả ngày càng cao, đa dạng hoá các loại hình huy động và không ngừng đổi mới trong các hình thức kinh doanh của mình để có thể đứng vững trong điều kiện hội nhập của nước ta hiện nay. Ngoài ra, Ngân hàng còn phải cạnh tranh với các tổ chức kinh tế, các Công ty tài chính, đặc biệt là chương trình tiết kiệm Bưu điện của Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện. Hiện nay, dịch vụ này đã rộng khắp tất cả các Tỉnh, Thành trong cả nước và tận đến vùng sâu, vùng xa. Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện tham gia vào thị trường Ngân hàng theo Quyết định số 270 do Thủ Tướng Chính Phủ Phan Văn Khải ký ban hành ngày 31/10/2005 đã mở đường cho Công ty dịch vụ Bưu điện (thuộc VNPT) lấn sâu hơn vào thị trường Ngân hàng, Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện sẽ được phép cung ứng các dịch vụ thanh toán như séc rút tiền mặt, thẻ ATM, thu hộ, chi hộ,…( theo kinh tế và đô thị _ 9/11/2005).
Trong khi các Ngân hàng chủ yếu hoạt động tập trung ở khu vực đô thị, các khách hàng thuộc loại “vừa” và “lớn” thường được chú trọng hơn thì Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện lại hướng tới khu vực dân cư có thu nhập thấp ở nông thôn, miền núi để thu hút các khoản tiền nhỏ lẻ và hết sức cần thiết bằng mạng lưới bưu cục rộng khắp vốn rất gần gủi. Đây là điều mà các Ngân hàng cần quan tâm và khắc phục nhằm đưa ra định hướng phát triển cho mình trong tương lai.
Cán bộ làm công tác nguồn vốn:
Hiện nay, Chi nhánh có lượng cán bộ công nhân viên làm công tác nguồn vốn tương đối đầy đủ bao gồm 6 người làm ở Phòng kế hoạch nguồn vốn – thanh toán quốc tế và 15 người làm tại quầy huy động vốn. Tuy nhiên, các nhân viên còn thiếu sự nhạy bén và năng động trong công việc, nên việc tìm kiếm mời gọi khách hàng đến giao dịch với Chi nhánh đạt hiệu quả chưa cao. Ngoài ra, Ngân hàng đang áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác huy động vốn, nhưng việc ứng dụng các phần mềm tiện ích phục vụ khách hàng còn hạn chế. Chính vì vậy, việc thu hút khách hàng về giao dịch với Ngân hàng là một điều còn khó khăn. Bên cạnh đó , trụ sở giao dịch lại nhỏ hẹp, không có bãi đậu xe miễn phí cho khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng, điều này gây tâm lý lo sợ mất xe đối với khách hàng có đi xe đến giao dịch với Ngân hàng.
Mạng lưới giao dịch của Ngân hàng trên địa bàn hiện nay có tất cả là 6 máy ATM. Ngoài máy ATM đặt tại hội Sở chính là thuận tiện cho khách hàng, còn các máy ATM còn lại thì được đặt ở những vị trí chưa thuận lợi cho khách hàng đến rút tiền. Cụ thể là máy ATM thì phải được đặt ở mặt tiền hoặc ở trước cổng trường hay trước siêu thị, như vậy khi khách hàng muốn rút tiền sẽ dể dàng hơn, như vậy khách hàng mới thấy hết được các tiện ích khi giao dịch với Ngân hàng.
Những thông tin về hoạt động của Ngân hàng:
Thông tin là một công cụ không thể thiếu đối với mọi người dân. Người dân có thể biết được những thông tin trong và ngoài nước qua sách báo, đài phát thanh, truyền hình,… để họ biết được những tin tức thời sự nóng bỏng về chiến tranh, giá cả, kinh tế,…do người dân còn mang nặng tâm lý e ngại khi đến giao dịch với Ngân hàng và họ không hiểu về các sản phẩm giao dịch của Ngân hàng nhiều. Nhưng do tính chất và đặc điểm riêng của lĩnh vực Ngân hàng nên thông tin của Ngân hàng chỉ có tính chất tuyên truyền nội bộ. Tuy nhiên, Ngân hàng cần mở rộng tuyên truyền rộng rãi cho người dân về mục tiêu hoạt động của mình, giúp cho người dân hiểu thêm về Ngân hàng, hiểu thêm về những lợi ích mà Ngân hàng đem lại, giải đáp những thắc mắc và hướng dẫn thủ tục cho người dân về các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Như vậy, Ngân hàng mới có thể thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng.
Những thuận lợi và khó khăn trong huy động vốn tại Chi nhánh:
Thuận lợi:
Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam Chi Nhánh Tỉnh Kiên Giang có những thuận lợi sau:
Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Chi Nhánh Tỉnh Kiên Giang là một NHTM Quốc doanh đóng trên địa bàn thị xã nhằm hổ trợ vào chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Ngân hàng đã tạo dựng được uy tín và niềm tin cho khách hàng. Vì thế, Ngân hàng đã có được những khách hàng truyền thống và thường xuyên đến giao dịch với Ngân hàng.
Trụ sở Ngân hàng đặt trên đường Nguyễn Trung Trực _ đường giao thông chính của Thành phố Rạch Giá và có đặt một máy ATM trước cửa Ngân hàng rất thuận tiện cho khách hàng đến rút tiền và giao dịch với Ngân hàng.
Các giấy tờ, biểu mẫu luôn được đổi mới, cải tiến nhằm làm cho các giao dịch giữa Ngân hàng và khách hàng nhanh chống thuận tiện cho khách hàng thoải mái khi đến giao dịch với Ngân hàng.
Ngân hàng đã áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ: máy vi tính, máy Fax, máy in nhằm phục vụ tốt nhất công việc huy động vốn và đặc biệt là việc kinh doanh của Ngân hàng.
Khó khăn:
Tuy có những thuận lợi trong công tác huy động vốn nhưng Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang cũng gặp phải những khó khăn sau:
Môi trường cạnh tranh gay gắt, vì trên địa bàn có rất nhiều Ngân hàng và Ngân hàng nào cũng muốn thu hút được nhiều khách hàng nên hình thức huy động vốn rất đa dạng tạo cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn.
Do cán bộ làm công tác huy động vốn thiếu sự nhạy bén và các sản phẩm huy động chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Do Ngân hàng không thể tự quyết định mức lãi suất cho mình, mà đây là công cụ quan trọng trong công tác huy động vốn nên đã phần nào ảnh hưởng đến công tác huy động vốn.
Cơ cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh vẫn chưa hợp lý. Nguồn vốn huy động của Chi nhánh phần lớn tập trung ở tiền gửi của TCKT. Đây là nguồn huy động có chi phí rẻ nhưng tính ổn định lại không cao. Chính vì thế, thời gian qua chi nhánh cũng đã gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc sử dụng nguồn vốn tự huy động để đáp ứng cho hoạt động tín dụng, phải phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn điều chỉnh từ Trung Ương với lãi suất cao. Mặt khác, nguồn huy động tiền gửi bằng ngoại tệ Chi nhánh huy động được cũng tương đối cao nhưng việc sử dụng cho vay vẫn còn hạn chế, từ đó làm ảnh hưởng đến chênh lệch đầu vào – ra của Chi nhánh.
Tóm lại: Mặc dù Ngân hàng chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố trên, cùng với những thuận lợi và khó khăn đã nêu, nhưng Ngân hàng luôn tìm cách khắc phục mọi khó khăn để ngày càng tạo dựng được niềm tin, uy tín cho khách hàng.
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH TỈNH KIÊN GIANG
Phương hướng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Kiên Giang:
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phát triển và vững mạnh trong điều kiện hội nhập Quốc tế, Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang đã đưa ra phương hướng phát triển từ năm 2006 – 2010 phục vụ ngày càng tốt hơn cho khách hàng của mình, cũng như việc đảm bảo cho điều kiện hoạt động kinh doanh của Ngân hàng:
Đẩy mạnh công tác huy động vốn nhằm cung cấp đủ vốn phục vụ cho việc kinh doanh, đầu tư và phát triển của Ngân hàng nói riêng, của Tỉnh nói chung. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề vì trên địa bàn có đủ 6 NHTM Nhà nước và các Ngân hàng khác.
Chính sách khuyến khích thu hút tiền gửi của các TCKT, trước mắt là giữ vững lượng tiền gửi của các khách hàng truyền thống, sau đó cần có biện pháp khuyến khích khách hàng mới.
Mở rộng khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ đang có của Chi nhánh bằng cách tăng cường quảng cáo, nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ giao dịch viên. Tạo dựng uy tính, chất lượng ngày càng cao khi khách hàng đến giao dịch.
Mở rộng mạng lưới giao dịch để tăng cường khả năng huy động vốn và phát triển dịch vụ, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động tại các Phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm hiện có đảm bảo đủ điều kiện nâng cấp lên Chi nhánh cấp 1, Phòng giao dịch theo đúng định hướng của BIDV Trung Ương.
Tiếp thị và tranh thủ sự ủng hộ của Hội Sở chính để tiếp cận, tìm giải pháp thu hút nguồn tiền gửi của các tổ chức như Quỹ hổ trợ phát triển, Kho Bạc Nhà Nước,…các tổ chức xã hội, các Ban quản lý dự án, các Tổng Công ty có nguồn tiền gửi lớn để tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng tiền gửi của các tổ chức, giảm lãi suất bình quân đầu vào tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc ưu đãi sử dụng các dịch vụ đa dạng, tăng cường khai thác các tiện ích trong chương trình hiện đại hoá, áp dụng những dịch vụ Ngân hàng hiện đại như rút tiền tự động, trả lương thanh toán tiền hàng, từng bước mở thêm các sản phẩm dịch vụ mới như Smart@account, Homebanking, POS,…
Tiếp tục đẩy mạnh dịch vụ trả lương tự động kết hợp với phát hành thẻ ATM, hướng tập trung vào các trường Đại Học, Cao Đẳng, Viện Nghiên Cứu và các doanh nghiệp lớn, lựa chọn những địa điểm có lợi thế, đông người sử dụng thẻ để triển khai lắp đăt máy ATM.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn và bản lĩnh nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu huy động vốn, kinh doanh của Ngân hàng.
Phát triển dịch vụ thanh toán thẻ để thu hút khách hàng đến giao dịch mở tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh. Thoả thuận với các doanh nghiệp thực hiện việc trả lương qua tài khoản cho cán bộ công nhân viên, thanh toán hoá đơn điện thoại, thanh toán tiền mua hàng ở siêu thị,… Sử dụng dịch vụ như một sản phẩm bổ trợ, vừa có thể thu hút tiền gửi vừa có thể quảng bá các dịch vụ hiện đại của Ngân hàng, từng bước nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của Chi nhánh trong hoạt động kinh doanh.
Giải pháp về huy động vốn:
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính hiện nay trên địa bàn Thành Phố Rạch Giá là khá gay gắt. Để đứng vững được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này, đòi hỏi các Ngân hàng phải năng động, tích cự tìm kiếm, thu hút và giữ chân khách hàng. Bởi khách hàng là người sẽ quyết định lựa chọn Ngân hàng để giao dịch. Ngân hàng nào đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích nhất, phục vụ khách hàng tốt nhất, Ngân hàng đó sẽ chiếm lợi thế. Khách hàng là nền tảng cho sự gia tăng nguồn vốn chảy vào Ngân hàng và cũng là nền tảng cho sự tăng trưởng của Ngân hàng. Sự thành công của các nhà quản lý Ngân hàng trong việc gia tăng nguồn vốn hoạt động chứng tỏ sự tin tưởng và chấp nhận của khách hàng đối với Ngân hàng. Điều này có ý nghĩa rất lớn để tạo thế cạnh tranh với các đối thủ khác.
Có rất nhiều biện pháp nhằm đem lại kết quả tích cực cho hoạt động huy động vốn. trong phạm vi hiểu biết cá nhân, tôi xin nêu ra một số giải pháp mà Ngân hàng có thể nghiên cứu thực hiện nhằm khơi tăng nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động Ngân hàng:
Hiện nay, việc sử dụng các công cụ tuyên truyền ở các NHTM Việt Nam nói chung và Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang nói riêng vẫn còn hạn chế. Các Ngân hàng hầu như chưa có sự đầu tư thích đáng cho hoạt động tuyên truyền lẫn quảng cáo. Chính vì thế, hình ảnh của Ngân hàng trong con mắt của phần lớn dân chúng vẫn còn khá mờ nhạt, nhiều sản phẩm dịch vụ Ngân hàng vẫn còn khá xa lạ với họ. Một số Ngân hàng có những hình thức khuyến mãi hấp dẫn nhưng việc giới thiệu chỉ hạn chế ở phạm vi của Ngân hàng bằng băng rol, tờ bướm, thông báo. Những biện pháp này chỉ đem lại hiệu quả đối với khách hàng có giao dịch với Ngân hàng mà thôi, chứ đối với những khách hàng tiềm năng (những người chưa có thói quen giao dịch với Ngân hàng và những người đang giao dịch với Ngân hàng cạnh tranh) thì hầu như không có tác dụng vì họ không biết đến. Do đó, Ngân hàng cần phối hợp khuyến mãi với công tác quảng cáo thì mới đem lại tác dụng tích cực. Công tác tuyên truyền có ý nghĩa quan trọng vì đem lại cho khách hàng ấn tượng về một Ngân hàng thân thiện, gần gũi và năng động.
Ngân hàng có thể thực hiện đoạn phim “ tự giới thiệu “ phát trên truyền hình. Thông điệp gửi đi phải ngắn gọn, hấp dẫn với nội dung chủ yếu là giới thiệu về Ngân hàng và những sản phẩm. Đồng thời, đăng một tin trên trang báo (không phải là báo chuyên ngành) giới thiệu đặc điểm của một loại sản phẩm nào đó, sau một thời gian đổi sang sản phẩm khác. Có nhiều khách hàng rất ngại phải đến Ngân hàng hỏi thăm về các loại sản phẩm dịch vụ vì sợ mất thời gian, hoặc sợ nhân viên Ngân hàng không giải thích đủ. Việc giới thiệu sản phẩm trên báo chí hoặc tuyên truyền sẽ thoả mãn được nhu cầu thông tin của khách hàng và nếu thấy thông tin đó thoả mãn nhu cầu của mình, khách hàng sẽ đến Ngân hàng để “ mua” loại sản phẩm đó.
Những thông tin về tình hình kinh doanh của Ngân hàng cũng nên đưa lên báo chí. Đây là hình thức quảng cáo ít tốn kém chi phí nhưng hiệu quả cao. Thông tin về Ngân hàng càng nhiều thì hình ảnh của Ngân hàng càng nổi bậc, tạo niềm tin cho khách hàng. Ngoài ra, Chi nhánh nên tham gia vào những hoạt động xã hội như tham gia tài trợ các chương trình, hoạt động văn hoá – xã hội của địa phương, các công tác từ thiện,…, vừa góp phần chia sẻ khó khăn với cộng đồng vừa để quảng bá thương hiệu của Ngân hàng một cách rộng rãi.
Hàng năm, Ngân hàng nên tổ chức buổi họp mặt với những khách hàng thân thiết để tạo mối quan hệ tình cảm giữa Ngân hàng với khách hàng, đồng thời Ngân hàng cũng nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của khách hàng để kịp thời điều chỉnh, phục vụ khách hàng tốt hơn.
Có chiến lược riêng về khách hàng:
Tiến hành phân loại khách hàng, tập trung xây dựng các sản phẩm tiện ích dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại mà Trung Ương triển khai thực hiện thông qua dự án hiện đại hoá: giao dịch 1 cửa, gửi tiền 1 nơi, rút tiền được ở nhiều nơi…
Trong nghiệp vụ huy động vốn, Ngân hàng phải xác định khách hàng tìm năng của mình là ai. Có như vậy, Ngân hàng mới có chính sách thu hút và phát triển các sản phẩm tiền gửi phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Do đó, Ngân hàng cần làm những cuộc khảo sát thị trường để có thể biết được những nhu cầu của khách hàng nhằm đưa ra những biện pháp phục vụ ngày càng tốt hơn, cụ thể:
Đối với nhóm khách hàng có thu nhập chưa cao và có nhu cầu tích luỹ tập trung vào các đối tượng như: cán bộ công chức nghĩ hưu, các doanh nhân thành đạt, các vận động viên thể thao thành danh được hưởng lương cao,… Đặc điểm của nhóm khách hàng này là họ có nhu cầu gửi hoặc đầu tư lâu dài, thường xuyên, ổn định, có thể chấp nhận rủi ro để hưởng lãi suất cao.
Đối với nhóm khách hàng có thu nhập chưa cao và chưa có nhu cầu tích lũy dài hạn tập trung chủ yếu vào các đối tượng công nhân viên chức,… Đặc điểm của nhóm khách hàng này là có thu nhập ổn định và có nhu cầu gửi tiền vì mục đích giao dịch, an toàn và sử dụng các dịch vụ tiện ích khác của Ngân hàng.
Tạo dựng uy tín và niềm tin cho khách hàng khi giao dịch với Ngân hàng. Nên tạo cho khách hàng những bất ngờ như tặng quà cho khách hàng khi đến ngày sinh nhật của họ, làm cho họ có những suy nghĩ tốt về Ngân hàng và có thể người này nói với người kia về Ngân hàng mình và sẽ có rất nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng hơn.
Cần có mức lãi suất hợp lý và trao đổi những thông tin về các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng khi khách hàng đến giao dịch với thái độ ân cần, lịch thiệp và vui vẻ của cán bộ nhân viên Ngân hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng để thu hút khách hàng.
Ngân hàng nên tiến hành làm việc với các trường Đại Học, Cao Đẳng trên địa bàn để đề nghị mở tài khoản tiền gửi từ các khoản thu học phí. Làm được như vậy khách hàng mới thấy hết được các tiện ích của Ngân hàng mang lại.
Mở rộng mạng lưới giao dịch:
Để mở rộng mạng lưới giao dịch, Ngân hàng cần tìm hiểu và khảo sát trước khi quyết định mở phòng giao dịch. Ngân hàng phải mở phòng giao dịch của mình sao cho thuận tiện cho người dân. Ngân hàng cần phải nghiên cứu địa bàn nơi mở phòng giao dịch xem khách hàng có nhu cầu gì đối với Ngân hàng. Có như vậy, khi mở phòng giao dịch thì sẽ được sự ủng hộ của rất nhiều khách hàng nhằm giúp cho Ngân hàng ngày càng phát triển và vững mạnh trong nền kinh tế thị trường hiện nay và thu hút được nguồn vốn phục vụ cho kinh doanh của mình.
Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch mới thì Ngân hàng cũng cần nghiên cứu nâng cấp mở rộng mạng lưới các Chi nhánh trực thuộc, các Phòng giao dịch, bàn tiết kiệm dân cư tại các địa bàn trọng điểm có tiềm năng như Phú quốc, cảng cá Tắc Cậu, Trung tâm thương mại Rạch Sỏi, siêu thị.
Đa dạng hoá các hình thức huy động:
Một trong những giải pháp cơ bản nhất để khơi tăng nguồn vốn huy động là sự đa dạng của những sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng. Sản phẩm dịch vụ Ngân hàng càng đa dạng thì cơ hội gia tăng nguồn vốn huy động càng cao. Hiện nay, đời sống nhân dân ngày càng phát triển, nhu cầu của họ cũng từ đó mà tăng theo. Muốn thu hút và giữ chân khách hàng, Ngân hàng phải làm sao để thoả mãn nhu cầu của họ. Bên cạnh những hình thức huy động truyền thống, Ngân hàng cần phát triển thêm những hình thức huy động mới để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Nếu Ngân hàng không tung ra một loại sản phẩm nào đó, trước sau gì những Ngân hàng khác cũng sẽ thực hiện và ngân hàng có thể sẽ bị mất khách hàng. Nguyên nhân thành công của các nhà kinh doanh, trước hết là ở chỗ biết “đón đầu” thị trường, “bắt mạch” chính xác nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng để đưa ra những sản phẩm phù hợp, và kinh doanh Ngân hàng cũng không ngoại lệ.
Đối với các hình thức huy động mà Ngân hàng đã và đang thực hiện, Ngân hàng cần cải thiện theo các hướng sau:
Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Ngân hàng đã linh hoạt trong việc mở nhiều kỳ hạn tiền gửi cho khách hàng với mức lãi suất hợp lý cho từng kỳ hạn gửi. Nhưng để khuyến khích khách hàng gửi tiền ngày càng nhiều vào Ngân hàng, thì Ngân hàng cần kèm theo những phần quà như: nón, ba lô, viết…khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nhằm tạo sự chú ý cho khách hàng. Có thể số tiền gửi vào ngân hàng của khách hàng phải theo mức qui định của ngân hàng mới nhận được phần quà hay không cần theo mức qui định nhưng vẫn được nhận quà tặng. Có như vậy, ngân hàng mới thu hút được tối đa lượng tiền nhàn rỗi của khách hàng gửi vào ngân hàng.
Đối với tiền gửi thanh toán:
Ngân hàng đã phát hành thẻ ATM của Ngân hàng giúp cho khách hàng thuận tiện trong việc rút tiền và thanh toán qua thẻ. Hệ thống Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam đang áp dụng công nghệ hiện đại là đưa vi tính vào trong quản lý và nối mạng nội bộ nên khách hàng gửi tiền một nơi và rút được nhiều nơi. Ngoài ra, Ngân hàng nên đưa các loại hình dịch vụ mới vào trong thanh toán nhằm giúp cho khách hàng ngày càng sử dụng thuận tiện và nhanh chóng trong thanh toán mà không cần phải đến Ngân hàng như Mobile Banking, Home Banking, Internet Banking.
Đối với việc phát hành kỳ phiếu:
Ngân hàng cần chú ý mức lãi suất nên không cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm cùng kỳ hạn. Trong trường hợp Ngân hàng cần vốn đột xuất để phục vụ cho việc kinh doanh của mình thì khi phát hành kỳ phiếu có thể nâng lãi suất phát hành nhưng không vượt qua khung lãi suất do Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước quy định và công bố rộng rãi cho mọi người đều biết.
Ngoài ra, Ngân hàng có thể phát triển thêm các hình thức huy động mới như:
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có lãi thưởng: “ Gửi tiền càng nhiều, lãi suất thưởng càng cao”. Với hình thức gửi tiết kiệm này, ngoài lãi suất thông thường, khách hàng còn được hưởng lãi suất thưởng theo số tiền thực gửi.
LSTK kỳ hạn có lãi thưởng = LSTK của kỳ hạn tương ứng + LS thưởng
( Mức tiền gửi tiết kiệm và lãi suất thưởng của mức tiền gửi tiết kiệm đó là do Ngân hàng quy định).
Giữ hộ vàng:
Trong tình hình giá vàng tăng vọt như hiện nay, người dân đổ xô nhau đi mua vàng. Đây là điều mà các Ngân hàng nên quan tâm vì khi người dân mua vàng về dự trữ thì họ sẽ lo sợ bị trộm cắp. Vì vậy, Ngân hàng nên mở dịch vụ giữ hộ vàng với thời gian không hạn chế để đáp ứng nhu cầu về an toàn tài sản của khách hàng với một mức phí hợp lý và chỉ thu một lần ngay khi gửi vào. Nếu làm được như vậy, Ngân hàng sẽ ngày càng tạo dựng niềm tin và uy tín cho khách hàng, đồng thời sẽ thu hút nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng hơn.
Tiết kiệm hưu trí:
Đây là loại tiết kiệm giúp cho những người đang còn làm việc tích luỹ được một số vốn cần thiết để bảo vệ khi về già. Về mục đích, hình thức này tương tự như sản phẩm bảo hiểm, nhưng linh hoạt hơn ở chỗ người gửi không bị ràng buộc về thời hạn gửi số tiền gửi. Tuỳ theo khả năng tích luỹ của mình, họ có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và gửi vào bao nhiêu cũng được, chứ không phải đóng theo định kỳ, định mức như bảo hiểm. Nếu người gửi tiền chết trước hạn, phần vốn gốc tích luỹ không mất đi mà được thừa kế trọn vẹn theo pháp luật. Sau một thời gian nhất định đã thoả thuận trước ( tối thiểu 10 năm ), người gửi tiền có thể được hoàn trả gốc và lãi, hoặc chuyển đổi thành khoản thu nhập ổn định trọn đời.
Tiết kiệm giáo dục:
Ngày nay, đời sống kinh tế xã hội phát triển cao, các bậc cha mẹ có nhiều điều kiện để chăm sóc con mình tốt hơn, họ quan tâm nhiều đến tương lai của những đứa con mình. để tạo lập nguồn tài chính cho con học hành của trẻ trong tương lai, ngay từ khi trẻ còn nhỏ, một phần thu nhập của cha mẹ sẽ được gửi vào Ngân hàng theo định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý. Đồng thời, cha mẹ cũng khuyến khích con gửi chung vào những khoản tiền như tiền mừng tuổi, sinh nhật, tiền thưởng học sinh giỏi,…số tiền này sẽ không được rút ra cho đến khi đứa bé trưởng thành. Trong thời gian đó, tiền lãi sẽ được nhập vào gốc. Việc mở tài khoản cho con sẽ tạo thói quen tiết kiệm cho trẻ khi còn bé, đồng thời hình ảnh về Ngân hàng sẽ được định hình rất sớm trong đầu óc của trẻ.
Đa dạng hoá danh mục các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng, cụ thể như: Mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện tử, dịch vụ thẻ ATM, thẻ Power, Homebanking, Phonebanking, POS trả lương qua tài khoản,.. tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp có nguồn thu lớn như Công ty bảo hiểm, Công ty xi măng, Công ty điện báo điện thoại, Công ty xổ số,.. để tiếp thị triển khai dịch vụ mới BIDV – Smart@ account. Như vậy, sẽ đảm bảo sự phát triển liên tục cho Ngân hàng. Tuy nhiên, việc cho ra đời một sản phẩm nào đó không chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của Ngân hàng, mà quan trọng nhất là phải có sự sẵn sàng của số cầu trên thị trường nếu không sản phẩm đó sẽ bị đào thải ngay. Nguyên tắc cơ bản của hoạt động marketing là “bán những gì khách hàng, chứ không phải bán những gì Ngân hàng có”. Vì vậy, sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp là phải xuất phát từ nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng nên có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu của khách hàng làm định hướng cho việc hoàn thiện sản phẩm hiện có và phát triển sản phẩm mới. Có như vậy, sự ra đời của các sản phẩm mới đảm bảo tính hiệu quả và thiết thực bộ phận này có thể thuộc phòng nguồn vốn hoặc là một phòng, ban riêng biệt.
Mở nhiều đợt khuyến mãi cho khách hàng:
Hiện nay, các hình thức khuyến mãi trong lĩnh vực tiêu dùng rất phong phú và thu hút rất đông người tham gia, doanh số các mặt hàng đều tăng gấp đôi, gấp ba lần so với trước khuyến mãi. Ngân hàng cũng là một ngành kinh doanh, việc mở các đợt khuyến mãi cho khách hàng tham gia là hết sức cần thiết, vì chương trình khuyến mãi là một chương trình có sự hấp dẫn cao đối với mọi người dân. Bất cứ một Ngân hàng nào khi mở đợt khuyến mãi thì cũng được sự hưởng ứng nhanh chống của người dân. Đây là biện pháp thu hút nguồn vốn huy động cao nhất của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng cần có những biện pháp, chính sách hợp lý để có thể mở được nhiều đợt khuyến mãi cho khách hàng để đem lại tối đa nguồn vốn huy động cho Ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho công việc kinh doanh của mình và nhất là trong nhiệm vụ đầu tư và phát triển của đất nước nói chung và của Tỉnh Kiên Giang nói riêng. Đồng thời Ngân hàng cần nghiên cứu các loại quà tặng, quà lưu niệm hấp dẫn, có giá trị để làm quà tặng khách hàng và đưa ra các sản phẩm tiền gửi mới như áp dụng hình thức lãi suất bậc thang, khi đó khách hàng gửi tiền với số lượng càng nhiều thì lãi suất sẽ càng cao…Đối với khách hàng khi tham gia các đợt khuyến mãi của Ngân hàng thì ngoài lãi suất được hưởng, khách hàng còn được nhận những phần quà có giá trị hoặc tham gia chương trình xổ số trúng thưởng với giá trị giải thưởng cao.
Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên:
Yếu tố con người bao giờ cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của bất kỳ tổ chức nào chứ không riêng gì Ngân hàng. Với Ngân hàng, đây là yếu tố mang tính quyết định rất lớn, bởi đội ngũ nhân viên là những người tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng, góp phần tạo nên bộ mặt cho Ngân hàng. Chất lượng đội ngũ nhân viên sẽ quyết định chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Nhân viên có nhiệt tình, tâm huyết với công việc, có am tường nghiệp vụ thì hiệu quả của công việc mới tốt.
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. Thường xuyên mở các lớp tập huấn để nâng cao tay nghề, vừa tập trung vào các nội dung nghiệp vụ truyền thống, vừa tập trung vào công nghệ Ngân hàng hiện đại, nghiệp vụ Ngân hàng mới,…Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng cần đưa một số cán bộ có năng lực tham gia các khoá đào tạo và học tập thêm kinh nghiệm ở nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện cho nhân viên học thêm các lớp ngoại ngữ, tin học bổ sung vào chuyên môn. Chất lượng chuyên môn cao của nhân viên là yếu tố rất quan trọng để thu hút đối tượng khách hàng là doanh nghiệp - những người có yêu cầu cao về tính chuyên nghiệp, trình độ lành nghề và sự am hiểu của nhân viên Ngân hàng.
Đối với những nhân viên làm công tác huy động vốn, phong cách phục vụ giữ vai trò rất quan trọng, có thể ảnh hưởng đến quyết định có nên tiếp tục giao dịch với Ngân hàng không. Nếu được phục vụ tốt, khách hàng sẽ hài lòng và có thiện cảm với Ngân hàng, thậm chí họ còn giới thiệu cho bạn bè, người thân và Ngân hàng lại có thêm nhiều khách hàng mới. Ngược lại, khi khách hàng không hài lòng về điểm gì trong cung cách phục vụ của nhân viên, họ sẽ ngừng giao dịch với Ngân hàng và sẽ nói những gì bực bội cho bạn bè và người thân của mình biết. Điều đó sẽ làm cho uy tín của Ngân hàng giảm sút.
Những cán bộ được bố trí làm công tác huy động vốn, ngoài tiêu chuẩn không thể thiếu là tinh thông nghiệp vụ, thao tác nhanh chóng, chính xác các nghiệp vụ, họ còn phải là người có tác phong nhanh nhẹn, thái độ vui vẻ, lịch thiệp, tính cách trung thực và có khả năng giao tiếp với khách hàng. Về ngoại hình, nên chọn những người dể nhìn, trẻ tuổi không nên đưa những người có vẻ mặt lạnh lùng vào làm ở những quầy huy động vốn. Do đó, để đem lại hiệu quả cho công tác huy động vốn, Ngân hàng cần đặc biệt chú trọng huấn luyện và nâng cao phong cách phục vụ của nhân viên.
Khi tiếp xúc với khách hàng, nhân viên giao dịch bao giờ cũng tỏ thái độ niềm nở, ân cần vui vẻ, ngay cả đối với những khách hàng khó tính nhất. Sự nhiệt tình của nhân viên sẽ làm giảm đi cảm giác e ngại của khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng, nhất là những khách hàng mới đến giao dịch lần đầu. Nhân viên cần giúp đỡ khách hàng trong việc điền thông tin vào giấy gửi tiền hay rút tiền, nhất là những khách hàng lớn tuổi. Nhân viên quầy huy động vốn phải có giọng nói rõ ràng, không quá to hay quá nhỏ. Khi khách hàng kết thúc giao dịch, nhân viên cần nói lời “cảm ơn khách hàng đã lựa chọn dịch vụ của Ngân hàng”. Những thắc mắc của khách hàng cần phải được giải thích bằng thái độ lịch thiệp và chuyên nghiệp. Ngoài ra, nhân viên cũng phải giới thiệu đặc điểm sản phẩm của ngân hàng tận tình và chi tiết để giúp khách hàng chọn đúng loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu.
Một số kiến nghị:
Đối với Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam Chi Nhánh Tỉnh Kiên Giang:
Để việc huy động vốn tại Ngân hàng ngày càng tăng trưởng và ổn định nhằm đáp ứng tốt cho việc kinh doanh của Ngân hàng, cần thực hiện một số biện pháp như:
Ngân hàng nên thành lập thêm bộ phận tiếp thị của Ngân hàng nhằm góp phần giúp cho Ngân hàng trong việc tuyên truyền quảng bá các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng đến với khách hàng. Để khách hàng có thể biết đến Ngân hàng và hiểu được sự tiện lợi mà Ngân hàng đem lại cho họ.
Ngân hàng cần thành lập thêm một bộ phận nghiên cứu thị trường. Bộ phận này có thể giúp cho Ngân hàng biết những mong muốn của khách hàng khi đến Ngân hàng để giao dịch và Ngân hàng cần phải làm gì để thu hút và giữ chân khách hàng.
Ngân hàng phải lấp đặt thêm máy ATM để có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng thẻ ATM của khách hàng cũng như áp dụng dịch vụ trả lương tự động qua tài khoản.
Hiện nay, tiền gửi thanh toán của TCKT là nguồn huy động có chi phí rẻ nhất. Đề nghị Ngân hàng sớm nghiên cứu để triển khai các sản phẩm huy động mới và hấp dẫn áp dụng cho các tổ chức để thu hút tiền gửi của thành phần này.
Ngân hàng cần mở rộng qui mô lớn hơn nữa như: Mở thêm Phòng giao dịch Tân hiệp, Gò Quao,… nhằm cũng cố vị thế và nâng cao công tác huy động vốn cho Ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho việc kinh doanh của mình và nhiệm vụ đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Đối với Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam:
Hiện tại, trước áp lực cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng, để giữ ổn định nguồn vốn, Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang đang phải áp dụng lãi suất huy động ở mức khá cao nhưng lãi suất cho vay thì lại chưa thể điều chỉnh cho tương xứng. Do vậy, đề nghị trung Ương có biện pháp hổ trợ Chi nhánh về lãi suất và nguồn vốn điều chuyển để Chi nhánh có đủ nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng, cải thiện được chênh lệch lãi suất đầu vào – ra.
Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ nhằm nâng cao tay nghề phục vụ tốt cho việc huy động cũng như hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Đa dạng hoá các loại hình huy động nhằm đáp ứng được mong mỏi của khách hàng.
Đối với UBND các cấp chính quyền có liên quan:
Các Cơ quan, các Cấp lãnh đạo của Tỉnh nên quan tâm, cung cấp những thông tin về định hướng phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh nhằm giúp cho ngân hàng đề ra những biện pháp, chiến lược phát triển đáp ứng tốt nhu cầu kinh doanh của mình, cũng như việc đáp ứng tốt các công trình đầu tư của Tỉnh.
Các cơ quan, các cấp lãnh đạo của tỉnh cần đưa ra những chủ trương, chính sách hợp lý để tổ chức kinh tế trên địa bàn có thể kinh doanh đạt hiệu quả cao, vừa có thể tạo dựng bộ mặt mới cho Tỉnh, vừa giúp cho Ngân hàng thu hồi được nợ của khách hàng.
KẾT LUẬN
¯
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi phải có nguồn vốn to lớn được huy động và sử dụng hiệu quả. Nguồn vốn cần thiết này được hình thành chủ yếu bằng con đường huy động vốn qua các Ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động này đã có vai trò quan trọng giờ lại càng quan trọng hơn. Vốn huy động không chỉ là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của riêng bản thân Ngân hàng, mà còn có tác động tích cực đến sự tăng trưởng và phát triển chung của cả nền kinh tế. Vì vậy, các Ngân hàng cần phải nổ lực nhiều hơn nữa trong công tác huy động vốn nhằm khơi tăng nguồn vốn huy động vào Ngân hàng.
Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang trong nhiều năm qua luôn giữ vững vị thế của một Ngân hàng phục vụ đầu tư và phát triển. Ngân hàng đã đạt được những thành tựu khả quan trong công tác huy động vốn, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của thời gian tới, Ngân hàng cần phấn đấu khai thác tốt hơn mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Những kiến nghị đưa ra trong khoá luận này tuy xuất phát từ tình hình thực tế của Chi Nhánh Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Kiên Giang nhưng cũng có ý nghĩa nhất định đối với việc thu hút vốn huy động vào Ngân hàng của các Ngân hàng thương mại khác. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ huy động vốn, không chỉ riêng các Ngân hàng tự tìm giải pháp mà cần có sự phối hợp với các ngành liên quan cũng như sự hổ trợ của Nhà nước. Có như vậy, chúng ta mới thực hiện thành công chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoaluan07_k4_9345.doc