Khóa luận Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Việc xây dựng các quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế cho cả nước cũng như từng ngành phải đảm bảo tính hợp lý và ổn định, tránh sự trùng lập và thay đổi thường xuyên. Đặc biệt là các quy hoạch cụ thể phát triển kinh tế của từng ngành như chế biến lương thực, cơ khí, điện tử.nếu được lập ra một quy hoạch đúng đắn sẽ là những cơ sở tham khảo tốtcho cán bộ thẩm định khi thẩm định dự án trong vùng và ngành tương ứng, nhất là những dự án sử dụng hoàn toàn vốn vay ngân hàng. Chính phủ cần có sự chỉ đạo kịp thời, cụ thể hơn các văn bản quy định việc phối hợp và trách nhiệm của các bên: NHNN, Bộ KHĐT, Bộ Tài chính hoặc cơ quan chủ quản, trong việc thực hiện dự án, cần đặt ra cơ chế gắn kết hoạt động của dự án với các ý kiến thẩm định. Mặt khác chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng theo hướng điều tiết mềm dẻo và trao quyền độc lập tự chủ hơn nữa cho khu vực này. Đề nghị các bộ ngành sớm ban hành các quy định về đơn giá xây dựng tổng hợp, suất vốn đầu tư, định mức tiêu hao nguyên vật liệu.cho từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định tổng vốn đầu tư và các chi phí sản xuất hàng năm.

doc134 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2,5 935359,5 1172432,2 123,5% 302,3% 542,6% 8430427,5 1507182 636697,5 2221533,7 1,24% 0,8% 0,68% 1,89% Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chình của Tcty: EVN là doanh nghiệp đặc biệt của Nhà nước, có tài sản và nguồn vốn lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh. Đến 31/12/1997, Tổng tài sản của EVN là 56547528 triệu đồng. Số khấu hao cơ bản tăng từ #1100 tỷ VNĐ năm 1996 lên đến 2200 tỷ VNĐ năm 1997 và dự kiến năm 1998 đạt #2500 tỷ VNĐ. EVN thường xuyên có số dư tiền gửi tại VCB rất cao, trong mấy năm trở lại đây mức thấp nhất là # 220 tỷ VNĐ, cao nhất là #600 tỷ VNĐ. Nguồn doanh thu của EVN lớn và thường xuyên. Doanh thu các năm 1995-1996-1997 lần lượt là #5500 tỷ VNĐ, #6800 tỷ VNĐ, 8400 tỷ VNĐ. Lợi nhuận sau thuế của EVN cũng rất lớn, trong các năm 1995-1996-1997 lần lượt là #170 tỷ VNĐ, #940 tỷ VNĐ, #640 tỷ VNĐ. Trong những năm 1997-1998, do EVN tăng nhanh về tốc độ đầu tư, trong khi đó giá điện lại bị khống chế nên kết quả kinh doanh có giảm sút. Về tình hình công nợ, EVN có số dư nợ vay các tổ chức tài chính quốc tế khá lớn. Đây đều là các khoản vay dài hạn, lãi xuất thấp, cho đến nay EVN đã ký vay được # 450 triệu USD. Số vốn đã rút là #90 triệuUSD, ngoài ra EVN đã ký vay BTDV #1500 tỷ VNĐ là nguồn vốn tín dụng kế hoạch của Nhà nước. Về quan hệ tín dụng, EVN không có nợ quá hạn với VCB và các ngân hàng khác. Dự án đầu tư: Thực chất dự án đầu tư là dùng để lắp đặt 2 TBK 2 x 37,5 MW tại Trà Nóc-Cần Thơ với tổng số vốn đầu tư là #$22815094,00 Trong đó : Ngoại tệ : #$21406522,00 Nội tệ : #19,59 tỷ đồng (tương đương $1408542,00). * Mục tiêu của khoản vay: Theo dự báo trong tổng sơ đồ giai đoạn 4, nhu cầu phụ tải cho khu vực miền Tây Nam Bộ giai đoạn 97 - 98 khoảng 180 MW. Nguồn điện tại chỗ gồm nhiệt điện Trà Nóc cung cấp 108 MW. Các đường dây 220KV cung cấp 70 - 80 MW. Trong trường hợp sự cố hoặc cắt sửa chữa đường dây công suất khu vực thiếu hụt khoảng 70 - 80 MW. Đồng thời trong tương lai phụ tải khu vực này sẽ tăng khoảng 10% nên cũng thiếu công suất. Với thực trạng trên cho ta thấy sự cần thiết phải đầu tư xây dựng 2 TBK F6 tại nhà máy điện Trà Nóc. * Tính hợp lý của dự án đầu tư: Tình hình sản xuất và tiêu thụ điện năng tại Miền Nam: Quá trình cung cấp điện các năm qua cần được phân tích để làm cơ sở cho dự báo điện năng của giai đoạn sắp tới. Thống kê sản lượng điện từ 1980 - 1995 đã cho thấy diễn biến mức tiêu thụ điện năng ở Miền Nam như sau: (bao Ngân hàng Ngoại thương Việt Namồm CTĐL2 + CTĐL Tp.HCM và phần điện bán cho CTĐL3) Năm Sản lượng điện Công suất đỉnh Hệ số phụ tải Ghi chú GWH Gia tăng% MW Gia tăng% 1990 1991 1992 1993 1994 1995 3452.8 3793.3 4012.8 4662.3 5624.9 6897.3 12.5 9.9 5.8 16.2 20.6 22.6 665.0 711.0 789.0 853.4 1008 1217.3 18.8 6.9 11.0 8.2 18 20 59.3 60.9 58.1 62.8 63.7 64.7 TBK Bà Rịa + Thủ Đức vào Vh 500KV Cơ cấu thành phần điện năng tiêu thu được mô tả trong bảng như sau(1995) Công nghiệp : 46.5% Phi công nghiệp : 10.3% GTVT : 1.1% Nông nghiệp : 2.2% ASSH : 39.3% Tình hình sản xuất và tiêu thụ điện năng toàn quốc: được mô tả như sau Năm Sản lượng điện GWH Gia tăng % Ghi chú 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996* 8678 9152 9652 10729 12195 14640 16536 11.4 5.46 5.46 11.1 13.6 20 12.95 - 1993-1994 TBK Bà Rịa Thủ Đức vào lưới 1995 dd 500KV Bắc Nam Ghi chú: 1996 sản lượng theo kế hoạch Thành phần điện năng tiêu thụ được mô tả như sau(1995) Công nghiệp: 41.1% ASSH: 36.2% Phi công nghiệp: 8.1% Nông nghiệp: 13.6% Giao thông vận tải: 1% Nhận xét: Mức tăng trưởng phụ được ghi nhận như sau: giai đoạn Toàn quốc Miền nam 1990 - 1995 11% 14.8% Vào năm 1995 việc cung cấp điện tuy đã được cải thiện nhưng ở Miền Nam đa số các trạm trung giai 66/15KV, 110/15KV đã bị quá tải đưa đến việc hạn chế. ngoài ra một số các khu công nghiệp đang phát triển đều phải tự túc về nguồn điện( tân thuận - Amata) Sản lượng điện trên đầu người năm 1995 như sau: Toàn quốc: 201.9KWH/người/năm Miền Nam: 257.09KWH/người/năm Trong khi Thái Lan năm 1988 là 669 KWH/người/năm ứng với mức thu nhập đầu người 1040 USD Kết luận: Mặc dù vào năm 1995 sản lượng điện của toàn quốc đã gia tăng tới 20% và Miền Nam gia tăng22.6% nhưng do sản lượng điện trên đầu người còn thấp và khi trương trình chống quá tải tại các trạm trung gian được hoàn tất, phụ tải điện sẽ tiếp tục tăng ở mức cao. Dự báo phụ tải điện Dự báo phụ tải điện củaVNL tháng 9/1995 về phụ tải điện miền gần phù hợp với dự báo phụ tải do trung tâm năng lượng lập tháng 7/95 dựa trên báo cáo quy hoạch của 18 tỉnh và Tp HCM. Hiện nay, cácKCN mới chỉ bắt đầu xây dựng, giai đoạn từ 1996 đến 2005 sẽ có nhiều KCN đi vào hoạt động. Do đó yêu cầu phụ tải trong giai đoạn này tương đối cao. + Việc lắp đặt 2 TBK F6 tại Nhà máy nhiệt điện Cần Thơ là hết sức cần thiết bởi lẽ đây không những là giải pháp tình thế giải quyết 1 phần thiếu hụt công suất điện năng cho khu vực miền Tây mà còn góp phần điều tiết công suất để huy động thủy điện hợp lý hơn cho giai đoạn sau năm 2000. Nguồn điện ở nước ta hiện nay đang phụ thuộc phần lớn vào nguồn thủy điện mà thủy điện lại phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên: vào mùa khô thiếu nước phát điện, vào mùa mưa lại không phát được hết công suất vì còn phục vụ công tác phòng chống lụt bão. Việc thiếu điện mùa khô năm 1998 là một ví dụ điển hình. Vì vậy việc khẩn trương xây dựng các nhà máy nhiệt điện là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Mặc dù giá thành sản xuất nhiệt điện cao hơn thủy điện song bù lại suất đầu tư nhiệt điện lại rẻ hơn thủy điện, thời giai thi công nhanh, đối với loại nhiệt điện chạy băng dầu hoặc khí thì thời giankhởi động máy phát điện lên lưới rất nhanh phù hợp chạy phủ đỉnh( bổ sung công suất vào giờ cao điểm) cũng như bù đắp thiếu hụt công suất. * Giá trị của dự án Vốn đầu tư cho dự án 2 TBK K6 2 x 37,5 MW bao gồm: + Phần thiết bị (CIF Cần Thơ): 250.393.000.000đVN + Vận chuyển : 1.500.000.000đVN + Xây lắp : 14.742.341.921đVN + KTCB khác : 2.482.630.849đVN + Dự phòng : 861.248.638đVN Tổng vốn đầu tư (tính tròn) : 270.000.000.000đVN Trong đó: -Vốn ngoại tệ : 22.660.000USD - Vốn nội tệ : 19,586 tỷ đVN Phân tích thế mạnh, điểm yếu, thời cơ, nguy cơ (SWOT)của dự án: Dự án mở rộng Nhà máy Nhiệt điện Cần Thơ, lắp đặt 2 TBK F6 đã được Chính phủ cho phép, Bộ Công nghiệp phê duyệt LCKTKT và kết quả đấu thầu, bộ thương mại cấp giấy phép nhập khẩu...nên nhìn chung thủ tục pháp lý là đầy đủ, thủ tục vay vốn đáp ứng yêu cầu theo qui định hiện hành. Về hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án: Đây là dự án mang tính quốc tế dân sinh nên rõ ràng có hiệu quả về mặt xã hội. Về mặt kinh tế nếu chỉ xét trong phạp vi dự án và giá bán điện của dự án bị khống chế theo giá bán điện qui định hiện nay thì dự án không có hiệu quả. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành điện: Các nguồn điện đều phát lên lưới điện quốc gia thống nhất và có tác dụng bổ xung, hỗ trợ cho nhau. Do đó, để đánh giá hiệu quả kinh tế của mỗi dự án cần xem xét ở góc độ tổng thể toàn hệ thống. Việc lắp đặt thêm 2 TBK F6 này sẽ giúp khai thác triệt để thủy điện làm tăng doanh thu từ thủy điện; đồng thời 2 TBK F6 này góp phần bù đắp thiếu hụt công suất, làm giảm tổn thất điện năng do truyền tải điện. Đứng trên phương diện tổng thể toàn mạng, dự án vẫn mang lại hiệu quả. Về tình hình tài chính của công ty cho đến nay là lành mạnh, cơ cấu vốn hợp lý, số thu nộp ngân sách lớn, không có nợ quá hạn các ngân hàng. Qua phân tích cân đối thu chi tài chính của Tcty giai đoạn 1998-2010( Báo cáo kế hoạch tài chính trình Bộ công nghiệp để Bộ trình Chính phủ), Tcty có khả năng trả các khoản đã vay và đang dự kiến vay(Dự án này) Tuy nhiên, Hội đồng cũng nhận thấy rằng: + Nhu cầu đầu tư cho ngành điện trong những năm tới rất lớn, nếu Tcty không được phép tăng giá điện hoặc mức tăng giá điện không đủ đáp ứng yêu cầu và nếu Chính phủ không có các chính sách hỗ trợ khác thì đến năm 2005 Tcty sẽ không đủ nguồn tài chính để đầu tư bổ sung. Cuối tháng 7 vừa qua Tcty đã trình Bộ Công nghiệp để Bộ trình Chính phủ về vấn đề này nhưng đến nay chưa có hồi âm. + Nợ vay nhập máy móc thiết bị rất lớn và hầu hết bằng ngoại tệ trong khi doanh thu bán điện chủ yếu bằng đồng Việt Nam nên khả năng rủi ro do biến động tỷ giá sẽ là sức ép ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của Tcty, mặc dù giá điện của Tcty xây dựng trình Chính phủ trên cơ sở tính bằng USD. Hội đồng tín dụng Sở cho rằng việc đầu tư cho Tcty điện lực là chủ trương đúng đắn, phục vụ thiết thực sự nghiệp CNH - HĐH của đất nước và lợi ích kinh tế của bản thân ngân hàng. 6. Phân tích kinh tế tài chính: Phân tích kinh tế: Trong các loại nhà máy dùng để phủ đỉnh và lưng, chỉ có TBK loại F6 mới có thể đáp ứng được yêu cầu về đưa dự án vào vận hành giữa năm 97. Nhiên liệu dùng cho nhà máy có 2 loại: DO và Condensate( tới năm 99 mới có) Để có cơ sở lựa chọn loại nhiên liệu có tính kinh tế nhất, cần phải xác định hi phí sản xuất điện( tại thanh cái nhà máy) dựa trên các điều kiện tính toán sau: + Phương án sử dụng DO: Vốn đầu tư: 24119 triệu USD Giá nhiên liệu: 297 USD/tấn( giá tại thời điểm tháng 10/96) + Phương án sử dụng Condensate: Vốn đầu tư: 25552 triệu USD Giá nhiên liệu: 192 USD/tấn( giá ước tính hiện nay) Kết quả tính toán giá thành điện sản xuất điện như sau: Phương án sử dụng DO: 9,389 USC/Kwh Phương án sử dụng Condensate: 6,226 USC/Kwh Kết luận: Sử dụng nhiên liệu Condensate có tính kinh tế hơn do có giá phí nhiên liệu thấp hơn nhiều so với dầu DO. Vì vậy phân tích tài chính lựa chọn phương án dùng nhiênliệu Condesate. Phân tích tài chính: B.1 Phương pháp luận: Phân tích tài chính dự án nhằm tính toán toàn bộ hiệu quả( lợi nhuận) và chi phí của công trình đứng trên quan điểm chủ thể đầu tư là chính. Phân tích tài chính nhằm đánh giá khả năng tồn tại về mặt thương mại của dự án. Hiệu quả tài chính được đánh giá qua các chỉ số sau:( IRR, NPV, Thời gian hoàn vốn) Do dự án có mục đích chạy phủ đỉnh và chạy lưng nên không thể áp dụng giá bán điện bình quân để phân tích tài chính. Để xác định giá bán điện của dự án, cần xác định giá điện bình quân có trong số trên cơ sở của giá bán điện cao điểm( đối với số giờ chạy phủ đỉnh) và giá bán điện bình quân toàn ngành( đối với số giờ chạy lưng còn lại) Dự kiến các tổ máy có tổng số giờ vận hành hàng năm là 4380 giờ. Trong đó: Số giờ chạy phủ đỉnh: 1250 giờ Số giờ chạy lưng : 3130 giờ Giá bán điện bình quân toàn ngành điện hiện nay( năm 96): 6 USC/Kwh (giá bán điện bình quân vào giờ cao điểm: 10 USC/Kwh) Như vậy, giá bán điện bình quân có trong số của dự án là 7,2 USC/Kwh đự kiến giá bán điện hàng năm của ngành điện sẽ tăng khoảng 0,5 USC/Kwh, như vậy dự kiến giá bán điện của dự án như sau: Năm 97: 9,7 USC/Kwh Năm 98: 8,2 USC/Kwh Năm 99 trở đi: 8,7 USC/Kwh B.2 Các điều kiện tính toán: TT Hạng mục Số liệu 1 2 3 4 5 6 7 8 Công suất lắp đặt - 1997 Điện năng sản xuất (MWh) Tỷ lệ tổn thất trên lưới (%) Vốn đầu tư: triệu USD Ngoại tệ Nội tệ Chi phí O & M (%) trên tổng vốn đầu tư khấu hao: theo phương thẳng đứng Chi phí nhiên liệu Suất hao nhiệt (Kcal/Kwh) Loại nhiên liệu + 2 năm đầu * giá phí(USD/tấn) + Các năm còn lại * giá phí(USD/tấn) Thuế doanh thu(%) 2 x 38,48 MW 302 20,2 25,552 23,793 1,756 2,5 20 năm 2810 DO 297 Condensate 192 4 Dự án được phân tích với 2 phương án vay vốn: Phương án 1: Vay vốn ngoại tệ và nội tệ để đầu tư xây dựng. Điều kiện vay vốn như sau: + Vốn ngoại tệ: Nguồn vốn: vay LIBOR + 0,485% Lãi suất : tạm tính 6,5%/năm Thời gian trả vốn: 6 năm + Vốn nội tệ: Nguồn vốn: vay NHNN Lãi suất : 13,2%/năm Thời gian trả vốn: 5 năm + Dựa theo lãi suất vay vốn ngoại tệ, nội tệ, lãi suất bình quân của dự án được xác định là 6,9% Phương án 2: Sử dụng khấu hao cơ bản để đầu tư toàn bộ dự án + Kết quả tính toán TT Hạng mục PA1 PA2 1 2 3 4 5 6 Giá bán điện thương phẩm bình quân( USC/Kwh) - 1997 IRR (%) NPV(r = 7%) triệu USD Thời gian hoàn vốn (năm) Giá thành sản xuất(Cent/Kwh) Dùng DO Dùng Condensate Thiếu hụt tài chính để thanh toán nợ trong 6 năm(triệu USD) 7,7 8,34 3,784 12 9,389 6,226 17,741 7,7 8,34 3,784 10 9,389 6,226 0 Nhận xét: - Nếu áp dụng giá bán điện bình quân của dự án như đề xuất ở trên, trong phương án 1 dự án đạt hiệu quả tài chính cao hơn nếu thu lợi tối thiểu của dự án(IRR cao hơn lãi xuất vay vốn bình quân) Tuy nhiên, do lãi auất vay vốn cao, thời hạn trả vốn nên nghĩa vụ trả nợ hàng năm khá lớn. Dự án có mức lợi nhuận không đủ để bù đắp khoản chi phí để thanh toán nợ. Như vậy, hàng năm ngành điện phải tìmnguồn vốn khác( khấu hao cơ bản của ngành) để bù đắp khoản thiếu hụt này. - Trong phương án 2, do sử dụng nguồn vốn thực có của ngành nên hàng năm dự án không phải thanh toán nghĩa vụ trả nợ. Mức sinh lời 8,34% có thể chấp nhận được đối với các loại tổ máy chạy phủ đỉnh và lưng. - Hiện nay, các tổ máy chạy phủ đỉnh trong ngành điện có chi phí giá thành lớn hơn nhiều. Kết luận và Kiến nghị: + Giá phí nhiên liệu DO hiện nay đã tăng lên quá cao do giá nhiên liệu trên thế giới tăng đột biến và thêm ảnh hưởng của mức thuế 20%. Do đó giá thành sản xuất điện với nhiên liệu DO tương đối cao 9,38 USC/ Kwh. Dự án sẽ bị lỗvới giá bán điện hiện nay dù là giá điện cao điểm. Trên cơ bản này, đối với TBK ngoài nguồn khí đốt, sẽ phải sử dụng loại nhiên liệu có giá phí rẻ hơn DO, cụ thể như Condensate. + Đầu tư bằng nguồn vốn khấu hao cơ bản sẽ thuận lợi hơn về cân bằng tài chính. + Hiện nay mức thuế đánh trên nhiên liệu sử dụng của ngành điện tương đối cao nên ảnh hưởng đến giá điện( DO = 20%, Condensate = 15%, FO = 4%) trong khi các dự án nhà máy điện BOT đều được miễn thuế nhập nhiên liệu. Kiến nghị Nhà nước xem xét chính sách thuế đối với nhiên liệu sử dụng sản xuất điện. Hiệu quả kinh tế: IV. Những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam : IV.1 Những nhân tố khách quan: Thứ nhất: Do việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê chưa được thực hiện nghiêm túc ở các doanh nghiệp nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc hoạch toán của cá doanh nghiệp nhiều khi không đúng thực chất và chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc nên khó đánh giá thực trạng khả năng tài chính, tình hình thanh toán, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác việc hoạch toán không được cập nhật, doanh nghiệp chỉ có cân đối tài khoản hoặc lập quyết toán theo tháng, quý, thậm chí 6 tháng một lần nên số liệu cung cấp cho ngân hàng không kịp thời. Trung tâm CIC ngân hàng Nhà nước lấy số liệutừ các bảng cân đối tài khoản, bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp do ngân hàng cung cấp thường bị chậm và cũng không chính xác. Việt Nam chưa có một con số thống kê những tiêu chuẩn chung của ngành. Đây là những chỉ tiêu kinh tế, tài chính kỹ thuật quan trọng được tổng kết qua hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Qua các chỉ tiêu đó, ngân hàngcó được cơ sở để đánh giá năng lực trình độ thực sự của doanh nghiệp - chủ đầu tư và đánh giá hiệu quả thực sự của dự án hay loại trừ những dự án không hiệu quả. Bên cạnh đó, số liệu nêu trong báo cáo khả thi hoặc luận chứng kinh tế kỹ thuật còn thiếu chính xác. Trong đó các con số dự kiến về cân đối thu chi, về khả năng tiêu thụ thường là ước tính, chưa mang tínhkhoa học cao. Từ kết quả đó những chỉ tiêu NPV, IRR, điểm hòa vốn và mốc để so sánh các chỉ tiêu đó cũng chưa chuẩn xác Việc tổng hợp thông tin, đánh giá, xếp loại doanh nghiệp chưa có cơ quan nào chính thức thực hiện. Mặt khác chưa có một khuynh hướng chung về tiêu chuẩn, về phương pháp phân loại doanh nghiệp. Có tình trạng cùng một doanh nghiệp nhưng chủ đầu tư xếp họ loại A, ngân hàng thương mại xếp họ loại B, ngân hàng ngoại thương xếp họ loại C... Thư hai: Hệ thống các công ty, cơ quan tư vấn về thẩm định dự án nhất là phương diện thị trường, kỹ thuật còn rất ít, chưa phát triển mạnh để các ngân hàng thương mại thuê để xem xét một số mặt liên quan đến dự án. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp mua phải thiết bị công nghệ lạc hậu của nước ngoài hoặc không phù hợp với yêu cầu của dự án. Thứ ba: Định hướng qui hoạch phát triển kinh tế từng ngành, từng vùng, từng địa phương, từng tổng công ty chưa cụ thể, rõ ràng. Hoặc chủ trương của các ngành hữu quan không thống nhất dẫn đến khó khăn cho công tác xây dựng các dự án, thẩm định dự án, cũng như các quyết định của ngân hàng. thứ tư: Đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ điều kiện vay vốn, dự án chưa đủ tiêu chuẩn để được đầu tư vốn cho nên việc thẩm định và đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay là rất khó khăn. Nhiều doanh nghiệp chưa minh chứng được năng lực sản xuất tốt, tài chính lành mạnh để có đủ điều kiện vay vốn hay không, nhất là điều kiện vốn tự có để tham gia vào dự án. Thông thường, chủ đầu tư chỉ có vốn tự có tham gia bằng đất đai, nhà xưởng có sẵn. Họ cố tình đưa giá lên cao cho đủ phần vốn tham gia chiếm 30% tổng chi phí dự án. Tuy nhiên ở đây ta cũng cần thấy rằng công tác công chứng chưa thật nghiêm minh. Một số dự án xin vay vốn chỉ nhằm xây dựng một phần trong tổng thể phát triển của dự án hoặc doanh nghiệp xin vay để mua thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất... Như vậy, việc tính toán hiệu quả kinh tế của dự án hết sức khó khăn và thường là tính doanh thu, chi phí, lợi nhuận chung của cả dây chuyền đầu tư của toàn doanh nghiệp. VI.2. Những nhân tố chủ quan: Nhận thức về thẩm định tài chính: Tầm quan trọng, vị trí của thẩm định dự án về mặttài chính chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều khi trong hoạt động thẩm định dự án còn quá chú trọng đến mặt pháp lý, kỹ thuật, công nghệ, xã hội mà xem nhẹ phần thẩm định tài chính có được hiệu quả hay không. Việc thẩm định tất cả các mặt của dự án là hết sức quan trọng nhưng đối với một ngân hàng thương mại, đặc biệt đối với các dự án cho lĩnh vực kinh doanh thì hiệu quả tài chính là điểm cốt lõi để đánh giávà lựa chọn dự án. Về phương pháp thẩm định tài chính đầu tư tại ngân hàng, các chỉ tiêu tài chính chưa được chú trọng, đặc biệt các chỉ tiêu liên quan đến giá trị thời gian của tiền chưa được hiểu một cách đầy đủ và chưa được áp dụng rộng rãi trong hoạt động thẩm định. Cán bộ Đội ngũ cán bộ thẩm định tại ngân hàng còn thiếu, chưa đáp ứng đầy đủ đòi hỏi của công việc. Tại một số chi nhánh chưa có cán bộ thẩm định chuyên trách về dự án, còn thiếu những kiến thức tổng quát về thị trường, về dự án, về chế độ kiểm toán, tài chính mới được bổ sung, sửa đổi. Ngoài ra ngân hàng chưa có chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thẩm định một cách tổng thể và cơ bản. Việc đào tạo hiện nay mới chỉ dựa trên hình thức tập huấn hoặc tự đào tạo. Hoạt động tổ chức: Các văn bản, quy chế qui định chưa rõ trách nhiệm, nhiệm vụ của từng cấp, từng cán bộ thẩm định; thiếu sự kiểm tra giám sát. Hoạt động điều hành đôi lúc chưa chặt chẽ. Chế độ khen thưởng, đãi ngộ với cán bộ công tác tốt chưa được quan tâm đúng mức để khuyến khích họ làm việc có hiệu quả hơn. Thông tin, trang thiết bị Phương pháp lưu trữ thông tin chưa tiện trong việc tra cứu và tốn nhiều thời gian. Nguồn cung cấp thông tin còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn phương tiện thông tin đại chúng hoặc lấy từ một số cán bộ ngành có liên quan do vậy chất lượng thông tin chưa cao, chưa đủ. Các phần mềm tin học chuyên dụng cho việc dự báo, tính toán, phân tích công việc thẩm định chưa được nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi. Chương III Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . I. Định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam : Chuyển sang cơ chế hoạt động mới được 11 năm( từ năm 1990) và5 năm hoạt động theo mô hình mới( từ năm 1996) một chặng đường ngắn ngủi nhưng những gì mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đạt được thật đáng tự hào. Có được những thành quả này là kết quả của sự chỉ đạo sáng suốt của Chính phủ, sự lãnh đạo điều hành và quản lý của hội đồng quản trị, Ban giám đốc và sự nỗ lực, đóng góp của toàn thể cán bộ, công nhân viên ngân hàng. Trong chiến lược phát triển lâu dài, Ngân hàng đã đặt ra cho mình những nguyên tắc định hướng làm cơ sở nền tảng cho mọi hoạt động của Ngân hàng đó là: Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2001 của Chính phủ và định hướng nhiệm vụ của ngân hàng năm 2001, trên cơ sở phân tích và đánh giá các mặt hoạt động trong năm qua, NHNT dự kiến các chỉ tiêu kinh doanh chnhs của năm 2001 như sau: 1.Tăng trưởng tổng nguồn vốn 19 – 20%. 2.Tăng trưởng dư nợ tín dụng 20 – 22%. 3.Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ dưới 4,0% 4.Thị phần trong thanh toán xuất nhập khẩu 29% 5.Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 5% Để thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh trên, đòng thời thực hiện chủ trương tái cơ cấu, NHNT sẽ triển khai các công tác dưới đây : 1. Triển khai thực hiện Đề án Tái cơ cấu NHNT Đề án tái cơ cấu NHNT là một đề án có tính tổng hợp và chiến lược phản ánh những tồn tại yếu kém của NHNT và vạch ra những hướng đi và các biện pháp tháo gỡ trong từng giai đoạn. Việc triển khai đề án sẽ tiến hành trong 5 năm, Trong đó năm 2001 là năm mở đầu – năm đặt nền móng cho việc triển khai Đề án. Bởi vậy đây là công tác trọng tâm trong năm nay. Việc triển khai đề án trong năm 2001 cần đạt được một số mục tiêu sau đây: Thành lập công ty quản lý tài sản (AMC) để xử lý một bước căn bản nợ tồn đọng và tạo cơ sở tập trung xử lý, khai thác tài sản; Đổi mới một bước cơ cấu tổ chức và mô thức quản lý theo hướng nâng cao tính chủ động, linh hoạt của các bộ phận, các khâu tiếp cận khách hàng; nâng cao tính phối hợp, thống nhất trong hệ thống;đảm bảo tính kỷ cương trong công tác quản trị điều hành; thiết lập và nâng cao thiết chế an toàn thông qua thành lập Uỷ ban Quản Lý và phòng ngừa rủi ro, Hội đồng Quản lý tài sản nợ - tài sản Có; Bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý các mặt hoạt động của NHNT; Đổi mới phương thức kiểm tra nội bộ, đảm bảo tính độc lập cho cán bộ kiểm tra kiểm soát, tạo thành công cụ giám sát, điều hành của lãnh đạo ở các cấp; Xây dựng nền móng cho việc phát triển và mở rộng một số loại hình dịch vụ mới, đa dạng hoá thêm một bước hoạt động kinh doanh. 2. Đẩy mạnh công tác huy động vốn để đạt mức tăng trưởng tổng nguồn vốn 19 - 20% Để thích ứng với sự thay đổi trong môi trường hoạt động ngân hàng cần tiếp tục thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn (trả lãi trước, có thưởng ...), bổ sung các loại kỳ hạn, áp dụng lãi suất linh hoạt ... để phát triển nguồn vốn nhất là vốn tiền đồng. Bên cạnh đó cần chú trọng mở rộng mạng lưới chi nhánh, các phòng giao dịch tại các trung tâm kinh tế, khu vực đông dân cư. 3. Tăng cường hoạt động tín dụng nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng 20 - 22%, đồng thời nâng cao chấy lượng tín dụng, giữ tỷ lệ NQH dưới mức 4,0%. Để thực hiện nhiệm vụ này cần chủ động, tích cực tìm kiếm các dự án khả thi. Các khách hàng vay hoạt động tốt, có khả năng trả nợ không phân biệt loại hình sở hữu. Bên cạnh đó cần bám sát các dự án lớn, các chương trình kinh tế trọng điểm, các tổng công ty có vị trí quan trọng ...để đẩy mạnh cho vay nhằm phục vụ tốt hơn sự nghiệp phát triển của nền kinh tế đất nước. Để nâng cao chất lượng tín dụng cần cải tiến phương pháp quản lý rủi ro tín dụng, hoàn thiện hệ thống phân loại các khoản vay và phân loại khách hàng. 4. Làm tốt công tác thanh toán, giữ thị phần 29% trong kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước. Để duy trì thế mạnh trong công tác thanh toán cần đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ vào công tác thanh toán để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ khách hàng; đổi mới hơn phong cách, thái độ phục vụ;áp dụng rộng rãi hơn trong hệ thống các biện pháp thu hút khách hàng như giảm phí thanh toán ưu tiên mua bán ngoại tệ...; thống nhất trong toàn hệ thống về phương pháp đánh giá, phân loại khách hàng và ngân hàng đại lý. 5. Thực hiện tốt công tác khách hàng. Chú trọng việc củng cố và phát triển đội ngũ khách hàng, đặc biệt là những khách hàng chiến lược bằng những giải pháp tăng cường tiếp cận và thu hút khách hàng thống nhất từ Trung ương tới chi nhánh. Sớm ban hành quy chế về chi hoa hồng của hệ thống. 6. Nâng cấp hai phòng Kinh doanh ngoại tệ. Cần củng cố và nâng cấp hai phòng kinh doanh ngoại tệ tại TW và CN. HCM để đóng vai trò là trung tâm quản lý ngoại tệ trong toàn hệ thống, đáp ứng yêu cầu cần phát triển ngày một cao của thị trường, đồng thời để đối phó với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài. 7. Củng cố chi nhánh. Quan tâm củng cố một số chi nhánh yếu kém thông qua việc tăng cường. cán bộ lãnh đạo có năng lực quản lý, bổ sung cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Tăng cường, củng cố cơ sở vật chất, trang thiết bị tạo điều kiện thuận lợi để chi nhánh hoạt động kinh doanh có hiệu quả. 8. Phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn kể cả việc đào tạo cho cấp quản lý. Triển khai hoạt động trung tâm đào tạo của NHNT. Gắn liền đào tạo với việc cán bộ phù hợp . Kiến nghị với các cơ quan cấp trên có cơ chế đơn giá tiền lương thích hợp nhằm khuyến khích người lao động làm việc trong DNNN nói chung, NHTMQD nói riêng nâng cao chất lượng và hiệu quả của công việc, phát huy tính sáng tạo và gắn bó với ngân hàng. Đảm bảo thực hiện được những chiến lược chung và những định hướng về hoạt động cho vay đã đặt ra. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ nhiều hoạt động khác nhau. Trong đó, một điều rõ ràng là hiệu quả, an toàn, chất lượng tốtnhất, rủi ro thấp nhất chỉ có thể có được trước hết và bắt đầu là công tác thẩm định dự án và chất lượng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Nó không phải là điều kiện duy nhất nhưng là điều kiện cơ bản, nền tảng. Nó thể hiện vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác thẩm định đã được xác định ngay trong chiến lược, định hướng hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương. II. Một số định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Trong thời gian tới, công tác thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng cần dựa trên định hướng sau: Công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng phải đứng trên giác độ người cho vay, người bỏ vốn để xem xét. Thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong từng ngành và nhằm phục vụ cho hoạt động cho vay của ngân hàng ngoại thương trong từng giai đoạn. Công tác thẩm định dự án đầu tư phải được phổ cập hóa trong toàn hệ thống với tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu và đòi hỏi khác nhau. Công tác này phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại, bám sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ của ngân hàng. Công tác thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, chỉ đạo điều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay. III. Một số giải pháp: Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư ngày càng được khuyến khích, mở rộng. Vai trò của công tác thẩm định dự án đầu tư ngày càng trở nên quan trọng, có ảnh hưởng tới chất lượng các khoản vay và lợi nhuận của ngân hàng. Từ thực trạng đó, hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phải nhanh chóng phát triển và hoàn thiện. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, tôi đã được xem xét hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng. Nhận thức được những kết quả đã đạt được cũng như các mặt còn tồn tại, hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các nguyên nhân chủ quan và khách quan, tôi xin đề ra một số giải pháp nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: Về phương pháp thẩm định Xử lý thông tin Vấn đề con người Về tổ chức điều hành III.1 Về phương pháp thẩm định: Trước hết Ngân hàng nên cập nhật những thay đổi về chính sách của Nhà nước liên quan đến các chỉ tiêu trong hoạt động thẩm định, đặc biệt là các chỉ tiêu về tài chính như chính sách về thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, các qui định về trích khấu hao tài sản cố định và ứng dụng các chỉ tiêu đó trong phân tích cho phù hợp. Ngân hàng phổ cập và áp dụng cho thích hợp những phương pháp thẩm định của các nước trên thế giới, qua đó trên thực tiễn tình hình Việt Nam mà ứng dụng. Từ đó, Ngân hàng có một cơ sở để xem xét dự án từ khâu tiếp nhận đến lúc giải ngân được tiến hành thống nhất và đạt hiệu quả cao. Ngân hàng tăng cường áp dụng các chỉ tiêu tài chính, đặc biệt là những chỉ tiêu có tính đến giá trị thời gian của tiền vào quá trình thẩm định và xét duyệt dự án đầu tư, kiểm tra các chỉ tiêu đang sử dụng để hạn chế và chuẩn lại phương pháp thẩm định dự án đầu tư. Vấn đề giá trị thời gian của tiền: Đây là vấn đề mấu chốt của thẩm định tài chính dự án đầu tư nhưng chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức. Một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là dự án đầu tư thường kéo dài trong nhiều năm, các lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai đoạn khác nhau nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau thì không giống nhau. Vì vậy cần phải có một phương pháp qui đổi giá trị của dòng tiền xuất hiện ở các thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm để xem xét, phân tích, đánh giá. Từ đó hiệu quả của công tác thẩm định tài chính của dự án sẽ được nâng cao. áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại Ngân hàng cần phổ cập và tăng cường áp dụng những phương pháp, chỉ tiêu thẩm định dự án đầu tư hiện đại trên cơ sở tham khảo, học hỏi của các ngân hàng hiện đại trên thế giới. Các phương pháp này rất phổ biến trong rất nhiều tài liệu, nhưng vấn đề là lựa chọn chỉ tiêu, phương pháp nào để áp dụng cho phù hợp với thực tiễn từng dự án là điều quan trọng. Ngân hàng cần áp dụng nhiều hơn nữa các chỉ tiêu: giá trị hiện tại ròng NPV, tỷ suất sinh lời nội bộ IRR, chỉ số doanh lợi PI để làm chỉ tiêu trong đánh giá, lựa chọn dự án. Ba chỉ tiêu này là cực kỳ quan trọng, phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án đầu tư và cần phải được áp dụng đồng thời để bổ sung hỗ trợ cho nhau. Tính dòng tiền: Phần lớn các dự án đầu tư đều có giá trị thu hồi. Tài sản cố định, các máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng khi dự án kết thúc còn có một giá trị nhất định: Khi chúng được bán, thanh lý, sẽ thu hồi được một dòng tiền cuối dự án. Một điều chú ý là dòng tiền này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó là luồng tiền hoạt động trước thuế. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần tính khoản thu hồi vốn lưu động ròng, khoản thu hồi này sẽ được cộng vào luồng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Tính doanh thu và chi phí. Doanh thu và chi phí là hai yếu tố quan trọng của dự án. Nó có ảnh hưởng đến việc tính toán các chỉ tiêu còn lại trong thẩm định dự án. Đây là bước quan trọng nhưng cũng rất khó khăn trong quá trình phân tích. Việc dự báo doanh thu bán hàng liên quan đến các nhân tố như khuynh hướng tăng trưởng kinh tế, giá cả, ... Tính khấu hao. Khi tính khấu hao, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chú ý tới cơ cấu của chi phí đầu tư cho dự án để áp dụng các tỷ lệ khấu hao phù hợp. Đối với phần chi phí trước vận hành, Ngân hàng cần tính tách riêng ra để thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp cùng với chi phí xây lắp. Tính lãi suất chiết khấu Ngân hàng có thể áp dụng 2 cách tính lãi suất chiết khấu: Tính chi phí bình quân gia quyền của vốn đầu tư làm lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam rất khó tính chi phí vốn tự có của doanh nghiệp Lấy lãi suất trái phiếu kho bạc Nhà nước làm tỷ lệ chiết khấu cộng thêm một mức độ rủi ro tương ứng của lĩnh vực, nhành nghề sản xuất kinh doanh mà dự án hoạt động. Thông thường các dòng tiền của dự án trong suốt thời kỳ phân tích được chiết khấu với tỷ lệ không đổi. Tuy nhiên ngân hàng có thể sử dụngcác tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh các tác động của môi trường kinh tế tới dự án, chẳng hạn như tác động của lạm phát. Trong những năm mà nguồn vốn khan hiếm, ngân hàng có thể tính tỷ lệ chiết khấu cao do chi phí vốn vay và ngược lại, tỷ lệ chiết khấu thấp hơn trong những năm nguồn vốn dồi dào. Phân tích tài chính. Công tác phân tích tài chính của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần tập trung vào việc xem xét kế hoạch tài chính ngắn hạn và các chỉ tiêu phân tích tài chính ở từng năm. Đặc biệt Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chú trọng tới hình thức thanh toán của dự án thông qua việc xem xét nhu cầu về vốn lưu động, tính hợp lý của các chính sách tiền mặt, chính sách dự trữ, tín dụng thương mại. Những chính sách này phải được bảo đảm cân đối các luồng tiền mặt ra và luồng tiền mặt vào của dự án. Ngân hàng cũng cần phải lập thêm các bảng dự trù cân đối tài sản, cân đối thu chi, kế hoạch Ngân quỹ để thuận tiện trong việc phân tích tài chính. Các bảng tính. Trong bảng tính hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần sửa đổi một số chỉ tiêu như : thuế VAT không nằm trong kế hoạch chi phí vì nó không phải là chi phí của doanh nghiệp. Ngân hàng cũng cần lập thêm bảng phân tích dòng tiền để thấy rõ các dòng tiền ra, vào của dự án và thuận lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR. Phân tích về độ nhạy. Một dự án đầu tư thường tồn tại trong một thời gian dài, các dòng tiền đi vào và đi ra khỏi dự án trong thời gian đó. Luồng tiền ròng của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà mỗi yếu tố ở mỗi mức độ khác nhau đều có tính không chắc chắn nhất định, hay còn gọi là rủi ro. Bằng việc phân tích độ nhạy, Ngân hàng sẽ thu được mức độ chắc chắn của các yếu tố cần xác định và kết quả hoạt động của dự án. Vì vậy, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có thể loại bớt được các dự án có mức độ rủi ro cao. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần nên xem xét sự biến động của tỷ lệ chiết khấu tới các chỉ tiêu NPV, PI đối với tất cả dự án đầu tư vì những chỉ tiêu này rất nhạy cảm với tỷ lệ chiết khấu. III.2 Xử lý thông tin: Chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào số lượng cũng như chất lượng thông tin thu thập được. Chính vì thế, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thiện, xây dựng một hệ thống thu thập thông tin và xử lý thông tin, nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Để đạt được mục tiêu đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phải làm những việc sau: Hiệu quả của công tác thẩm định dự án phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác và kịp thời của thông tin. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc nắm bắt thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác là vô cùng cần thiết và là cơ hội góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ thuận tiện, hiện đại. Những thông tincần thiết liên quan đến dự án phải được truy cập một cách đầy đủ. Thông tin phải đa dạng ở mọi lĩnh vực, ngành, khu vực khác nhau trong cả nước. Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro, kết nối chặt chẽ hệ thống thông tin với các ngân hàng khác. Chủ động tìm và đề nghị ban lãnh đạo cho phép mua các tài liệu, sách báo phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ thẩm định và tư vấn đầu tư. Ngân hàng nên đa dạng nguồn cung cấp thông tin và đưa các phương pháp thu thập thông tin hiện đại vào phục vụ công tác thẩm định qua các xa lộ thông tin. Bước đầu, có thể thực hiện việc kết nối, tham gia vào mạng Internet, trung tâm cung cấp thông tin trong nước để khai thác các thông tin về tình hình trong nước và quốc tế. Ngân hàng cần xây dựng hệ thống cung cấp thông tin để thông tin được thông suốt trong toàn hệ thống. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có một hệ thống mạng lưới chi nhánh toàn quốc. Vì vậy đây là một tiềm lực rất lớn cho việc khai thác, thu thập và cung cấp thông tin. Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng phục vụ cho hoạt động thẩm định. Trong đó phải tập hợp lưu trữ những thông tin cần thiết về ngành, lĩnh vực, khu vực khác nhau trong cả nước. Phát triển theo hướng các chi nhánh thu thập lưu giữ thông tin về tình hình cụ thể ở địa bàn, khu vực hoạt động của mình; Trung ương lưu giữ nắm thông tin chung, tổng thể trên toàn quốc. Giữa Trung ương và chi nhánh thực hiện trao đổi thường xuyên qua hệ thống thông tin nội bộ. Tuy nhiên, ngân hàng cần phải có biện pháp mã hóa những cơ sở dữ liệu để tránh sự xâm nhập và " ăn cắp " thông tin. III.3 Vấn đề con người Trên thực tế, quá trình thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi cán bộ thẩm định phải cókiến thức tổng quát và toàn diện về kinh tế, pháp luật, kỹ thuật, công gnhệ, thông tin, thị trường, kiến thức tài chính có liên quan đến các phương diện của dự án. Tuy nhiên sẽ không hợp lý nếu đòi hỏi ngay lập tức cán bộ thẩm định có đầy đủ các yếu tố trên. Đứng trước tình hình đó, trước mắtngân hàng cần phải nâng cao kiến thức của cán bộ thẩm định bằng cách thực hiện đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Ngân hàng cần thường xuyên hướng dẫn các văn bản, luật, chế độ, chính sách mới của Chính phủ và các bộ, ngành quản lýcủa Nhà nước cho hệ thống các cán bộ nghiệp vụ, thẩm định tại chi nhánh cũng như trung ương. Tăng cường kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ thẩm định dự án đối với các chi nhánh. Tổ chức các buổi trao đổi nghiệp vụ chuyên môn trong các phòng hoặc giữa các phòng thẩm định của các chi nhánh lớn, đồng thời tạo điều kiện cho các anh chị em được tham dự các khóa đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ trong và ngoài ngành, nhằm nâng cao trình độ, năng lực của tất cả các cán bộ trong phòng. Đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng, thẩm định dự án chuyên trách, nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng trong cả quá trình đầu tư. Đây cũng là biện pháp tích cực chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư XDCB. Ngân hàng phải có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích ý thức, trách nhiệm và tinh thần vươn lên hoàn thiện của mỗi cán bộ. Ngân hàng phải có chính sách khuyến kích cán bộ tự đào tạo nâng cao trình độ như bố trí về thời gian, trợ cấp học phí, trợ cấp tiền mua tài liệu...cho những cán bộ theo học những lớp tại chức, bằng hai, các khóa học khác ngoài giờ. Tuy nhiên, điều quan trọng là các cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và luôn có ý thức vươn lên để hoàn thiện nốt công việc được giao. Chính vì vậy, ngân hàng phải có chính sách khen thưởng đối với những cán bộ, chuyên gia làm việc giỏi để tránh hiện tượng "chảy máy chát xám"; cũng như cần phải có biện pháp xử lý đối với các cán bộ làm việc không nghiêm túc gây thất thoát tài sản của ngân hàng . III.4 Về tổ chức diều hành Phòng thẩm định và các phòng ban có liên quan cần phải sắp xếp theo hướng tinh giản, gọn nhẹ nhưng cũng phải đảm bảo chất lượng cao trong công việc. Sắp xếp cán bộ đúng vị trí theo khả năng và năng lực của mỗi người để phát huy trình độ và kinh nghiệm của từng cá nhân. Các dự án đưa đến Ngân hàng Ngoại thương có qui mô, lĩnh vực rất đa dạng. Ngân hàng nên bố trí những dự án có qui mô lớn, tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt có trình độ giỏi và nhiều kinh nghiệm. Ngân hàng nên qui định chi tiết cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ với kết quả thẩm định dự án. Ngân hàng cũng nên rà soát lại các cán bộ thẩm định, những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu thì chuyển sang làm công việc khác, bổ sung thêm cán bộ thẩm định cho những chi nhánh còn thiếu. Công tác tổ chức thẩm định trong toàn hệ thống cần được hoàn thiện theo hướng tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng Dự án, phòng Thẩm định và đầu tư chứng khoán, phòng tín dụng và các phòng ban khác, đặc biệt là với phòng khách hàng. Phòng khách hàng có nhiệm vụ theo dõi công tác khách hàng trên toàn hệ thống. Nguồn thông tin mà khách hàng thu thập được là rất lớn và tổng hợp. Tuy nhiên, phòng khách hàng chủ yếu là báo cáo trực tiếp lên ban lãnh đạo, hầu như chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng Khách hàng với phòng Dự án, phòng Thẩm định và đầu tư chứng khoán trong việc trao đổi thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng nên thiết lập một cơ chế liên hệ giữa các phòng này để sử dụng những kết quả mà phòng khách hàng có được. Ngân hàng cần hình thành một mối quan hệ về hoạt động thẩm định với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và đầu tư...và các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, ngân hàng nên phát động phong trào nghiên cứu khoa học để qua đó tập hợp các đề xuất sáng kiến có giá trị để áp dụng cho toàn hệ thống. Hàng năm trên cơ sở kế hoạch chung, ngân hàng cần xây dựng một chương trình kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định và có tổ chức tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm. VI. Một số kiến nghị để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư là một quá trình phức tạp, được xem xét ở phạm vi rộng, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Để đảm bảo cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại các ngân hàng đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các ngành các cấp. Chỉ trên cơ sở có một kế hoạch tổng thể, toàn diện thì những giải pháp đề ra ở trên mới có tính khả thi. Xuất phát từ yêu cầu phát triển chung của ngành ngân hàng, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau đối với hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: IV.1 Đối với ngân hàng Nhà nước: Đối với ngân hàng Nhà nước cần phải hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại nâng cao nghiệp vụ thẩm định. Ngân hàng Nhà nước mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng( CIC). Ngân hàng Nhà nước thường xuyên kiểm tra giám sát chế độ cung cấp thông tin khách hàng tại các ngân hàng theo qui chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Hàng năm ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định Bộ tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành quy chế thành lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, cho phép trích tỷ lệ phần trăm trên tổng dư nợ, được đưa vào chi phí để kịp thời bù đắp rủi ro tín dụng theo tinh thần Nghị định 59 của Chính phủ. Cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng và của nền kinh tế, ngày càng có nhiều các dự án lớn cần có sự tham gia đồng tài trợ của nhiều ngân hàng nhằm phân tán rủi ro. Bởi vậy hoạt động đồng tài trợ cần có sự tham gia củaNgân hàng Nhà nước trong việc xây dựng quy trình thẩm định, cơ chế làm việc đồi với các dự án này. IV.2 Kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ, các ngành 1. Thiết lập một hệ thống chính sách vĩ mô đầy đủ, đồng bộ và hợp lý đi đôi với khung pháp luật hoạt động hiệu quả là vấn đề đầu tiên và cần giải quyết Việc xây dựng các quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế cho cả nước cũng như từng ngành phải đảm bảo tính hợp lý và ổn định, tránh sự trùng lập và thay đổi thường xuyên. Đặc biệt là các quy hoạch cụ thể phát triển kinh tế của từng ngành như chế biến lương thực, cơ khí, điện tử...nếu được lập ra một quy hoạch đúng đắn sẽ là những cơ sở tham khảo tốtcho cán bộ thẩm định khi thẩm định dự án trong vùng và ngành tương ứng, nhất là những dự án sử dụng hoàn toàn vốn vay ngân hàng. Chính phủ cần có sự chỉ đạo kịp thời, cụ thể hơn các văn bản quy định việc phối hợp và trách nhiệm của các bên: NHNN, Bộ KHĐT, Bộ Tài chính hoặc cơ quan chủ quản, trong việc thực hiện dự án, cần đặt ra cơ chế gắn kết hoạt động của dự án với các ý kiến thẩm định. Mặt khác chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng theo hướng điều tiết mềm dẻo và trao quyền độc lập tự chủ hơn nữa cho khu vực này. Đề nghị các bộ ngành sớm ban hành các quy định về đơn giá xây dựng tổng hợp, suất vốn đầu tư, định mức tiêu hao nguyên vật liệu...cho từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định tổng vốn đầu tư và các chi phí sản xuất hàng năm. Đề nghị các Bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư; nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định dự án nhất là về các mặt kỹ thuật, công nghệ, thị trường, kinh tế xã hội, đánh giá tác động của môi trường để làm căn cứ cho ngân hàng thẩm định dự án. Các Bộ chủ quản cần hệ thống hóa các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình đảm trách. Hàng năm, những thông tin này sẽ được công bố một cách công khai qua các tài liệu chuyên ngành hoặc tập hợp lại ở các trung tâm thông tin của ngành để giúp chủ đầu tư cũng như ngân hàng thương mại thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin phục vụ cho việc lập và thẩm định dự án. Nhà nước cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên đối với kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì phải thoát ly khỏi chức năng quản lý nhà nước, để tập trung vào công tác quản lý xây dựng, tổ chức hoạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Mặt khác, việc có quá nhiều quy chế không những làm cho các quan chức địa phương tuỳ tiện áp dụng để tạo cơ hội tư lợi, tham nhũng mà còn gây trở ngại cho việc gia tăng đầu tư. Những quy định, điều khoản không rõ ràng cũng làm khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc đánh giá tính pháp lý của hồ sơ xin vay. Điều này dẫn đến hậu quả sai lầm khi một số dự án đầu tư không đủ giấy tờ nhưng do những quen biết lại xin được những chứng nhận cần thiết. Vì vậy các cán bộ thẩm định không nên chỉ nhìn vào con dấu và chữ ký để đưa ra kết luận. Mặc dù trên danh nghĩa, các thành phần kinh tế được bình đẳng như nhau nhưng trên thực tế hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài vẫn còn bị phân biệt đối sử. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước với sự hậu thuẫn về mọi mặt của nhà nước lại không phát huy hết hiệu quả. Môi trường kinh doanh bất bình đẳng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư bởi vì nó tạo ra tâm lý thiênvị cho các doanh nghiệp quốc doanh của các cán bộ thẩm định, tín dụng. Đôi khi các doanh nghiệp còn làm ăn thua lỗ vẫn có thể tìm đến các thẻ chế chính trị xin trợ cấp để tiếp tục hoạt động hay trả nợ ngân hàng. Như vậy một cách gián tiếp, cán bộ tín dụng đã bỏ qua dự án có khả năng sinh lời cao hơn và vì thế nguồn vốn đã bị sử dụng lãng phí. Để giải quyết thực trạng trên, Nhà nước cần xem xét lại các quy chế chính sách của mình tạo cho môi trường kinh doanh một “ sân chơi bình đẳng “. Để tạo điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định, cùng với sự xã hội hoá, quốc tế hoá đầu tư, Chính phủ Việt Nam nên: Thực hiện cải cách các thủ tục, chính sách Chính phủ duyệt và công khai quy hoạch phát triển kinh tế xã hội các ngành, địa phương, các vùng không gian mở. Có sự sắp xếp và lựa chọn dự án theo không gian, thời gian. Nhà nước nên có thứ tự ưu tiên, quy hoạch chi tiết các dự án đầu tư. Quy hoạch nguồn vốn đầu tư cân đối với mỗi dự án. Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Các doanh nghiệp và cá nhân tự chịu trách nhiệm phần vốn của mình trên cơ sở dự án được phê duyệt. Hoàn thiện các luật Ban hành luật đầu tư trong nước và ngoài nước. Hoàn thiện chính sách sử dụng và quy hoạch đất đai trong lĩnh vực đầu tư. Chính sách lãi suất phải được sửa đổi một cách hợp lý. áp dụng luật ngân hàng để gắn trách nhiệm của người đi vay với pháp luật. 2. Hoàn thiện công tác kiểm toán, kế toán: Công tác kiểm toán - kế toán ở Việt Nam hết sức lộn xộn đặc biệt với khu vực ngoài quốc doanh. Hiện nay, ngoài một số DNNN, một số DNTN làm ăn lớn liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu có hoạt động kế toán nghiêm túc tuân theo quy định của nhà nước còn lại hầu hết các doanh nghiệp tư nhân và một số DNNN nhỏ thực hiện công tác kế toán tuỳ tiện, sơ sài chủ yếu là hình thức ghi sổ. Do đó việc đánh giá chính xác tài chính của doanh nghiệp này là hết sức khó khăn. Tình trạng “ sổ ma ” còn phổ biến; một quyển gốc phản ánh tình hình kinh doanh thực tế, một quyển chuyên dùng để tính với phòng thuế, một quyển để đối phó với hoạt động kiểm tra của ngân hàng. Vì vậy cán bộ thẩm định rất khó khăn trong việc kiểm tra các số liệu kế toán của doanh nghiệp khi trình lên ngân hàng xin vay vốn. Để có được số liệu thực tế của doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng phải lao động thực sự, có kinh nghiệm và trách nhiệm thì mới thu được các chỉ tiêu có ý nghĩa phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho công tác thẩm định thu được kết quả cao thì cán bộ thẩm định, tín dụng đưa vào công ty kiểm toán. Vì vậy, Nhà nước cần chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định. Chính phủ cần ban hành quy chế bắt buộc và công khai kiểm toán của các doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp ngân hàng trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án. 3. Hoàn thiện công tác công chứng giấy tờ Các dự án vay vốn cần có nhiều giấy tờ liên quan và công tác công chứng sẽ đảm bảo tính hợp pháp của các giấy tờ đó.Các giấy tờ cần công chứng bao gồm giấy tờ nhà đất,cầm cố tài sản vv...Sự xác thực trong hoạt động công chứng và chính xác sẽ góp phần nâng coa chất lượng công tác thẩm định. Nhưng năm vừa qua,nhưng rủi ro và đổ vỡ tín dụng tại các ngân hàng có sự đóng góp không nhỏ của sự quản lý lỏng lẻo,làm ăn không nghiêm túc của các cán bộ công chứng giấy tờ trong việc xác nhận sai lệch về giá trị tài sản thực sự của chủ đầu tư đem cầm cố,bảo lãnh.Nhưng dự án EPCO Minh Phụng TAMEXCO làm thất thoát hàng ngàn tỷ đồng cho ngân hàng. Ngoài ra,việc tính toán phí công chứng hợp đồng cầm cố,thế chấp hiện nay chưa thống nhất.Phòng công chứng nhà nước áp dụng 2 hình thức tinh phí: Bằng 0,2%giá trị hợp đồng tín dụng hoặc bằng 0,2% giá trị hợp đồng cầm cố thế chấp.Vì vậy,việc tính phí nên quy định 1 mẫu cụ thể hợp lý tren cơ sở chứng thực của công chứng xác nhận năng lực về chủ thể kí kết hợp đồng,tính pháp lý của các văn bản kí kết và các văn bản liên quan để tránh đội giá đi vay của các doanh nghiệp. Nhà nước nên có biện pháp khuyến khích để nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ công chứng nhằm ngăn chặn tệ nạn nhận hối lộ của chủ đầu tư và xác định sai giá trị tài sản cầm cố./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28234.doc
Tài liệu liên quan