Khóa luận Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Ngoài những vấn đề trên, vấn đề con người trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là vấn đề cốt lõi và là nền tảng cho sự thành công của thị trường chứng khoán. Để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả cần phải có những con người hiểu biết, có kiến thức đầy đủ về quản lý, điều hành, phân tích và kinh doanh chứng khoán; đồng thời phải phổ cập kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng, các nhà đầu tư và các nhà quản trị doanh nghiệp. Có thể nói rằng, nếu như yếu tố kinh tế là nền tảng, yếu tố pháp lý là công cụ, yếu tố tâm lý là động lực thì yếu tố con người bao trùm lên tất cả các yếu tố đó. Có những con người hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán sẽ có pháp luật về thị trường chứng khoán, sẽ có người mua, người bán chứng khoán và sẽ có công nghệ chứng khoán. Sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong công chúng Việt Nam hiện nay còn ở mức rất thấp. Những khái niệm căn bản về chứng khoán, cổ phiếu, môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành, vv. chưa được phổ cập và luật pháp hoá ở mức tối thiểu cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp đào tạo những kiến thức căn bản của kinh tế thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng cho đội ngũ các nhà đầu tư và đông đảo công chúng. Đồng thời phải tuyên truyền giải thích, phổ cập kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ở Việt Nam hiện nay để giải quyết vấn đề này cần phải: - Thống nhất chương trình, nội dung đào tạo vào một mối là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước trên cơ sở nội dung, yêu cầu của đào tạo mà xây dựng hệ thống giáo trình, tiêu chuẩn, nội dung đào tạo thống nhất trong cả nước. - Đồng thời tiến hành đào tạo các loại cán bộ sau: + Cán bộ quản lý của Uỷ ban chứng khoán . + Cán bộ vận hành tại Sở giao dịch chứng khoán. + Cán bộ kinh doanh chứng khoán. Trong đó đào tạo cán bộ quản lý của Uỷ ban chứng khoán và đội ngũ giáo viên cho thị trường chứng khoán cần đi trước một bước. - Nội dung đào tạo: + Tổ chức đào tạo cơ bản chung, sau đó chuyển sang đào tạo chuyên sâu cho từng cán bộ. Trên cơ sở đó tiến hành tổ chức đào tạo thực hành cho các đối tượng đã qua loại hình đào tạo cơ bản và chuyên sâu. + Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo thực hành ở nước ngoài. + Bên cạnh đào tạo chuyên môn sẽ tiến hành đào tạo qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua chương trình học của các trường Đại học, trường Phổ thông để phổ cập cho dân chúng hiểu về thị trường chứng khoán. Tất cả các cá nhân muốn làm việc trong ngành chứng khoán phải qua đào tạo, thi tuyển và được Uỷ ban chứng khoán cấp bằng hành nghề. - Kinh phí đào tạo: Trong thời gian đầu Nhà nước hỗ trợ đầu tư kinh phí cho quá trình đào tạo (cơ sở, giáo trình, giảng viên.), kết hợp tận dụng triệt để nguồn kinh phí viện trợ giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế, các Công ty chứng khoán đồng thời thu hút thêm phí đóng góp của các tổ chức có người được cử đi học và của cá nhân để đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của công tác đào tạo.

doc101 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tiếp tục sắp xếp những doanh nghiệp Nhà nước hiện có. Trên cơ sở ổn định và nâng cao hiệu quả của những doanh nghiệp Nhà nước đã được Chính phủ sắp xếp theo Chỉ thị số 500/TTg. Tiến hành điều chỉnh tình trạng cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước không phù hợp với quy mô ngành, lãnh thổ và chấn chỉnh tình trạng doanh nghiệp đang hoạt động quá yếu kém, thua lỗ triền miên, vốn ít, công nghệ lạc hậu...Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp công ích, các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế để sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cũng cần mạnh dạn làm trong sạch và lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng Tổng công ty mới có Hội đồng Quản trị và Công ty cổ phần Nhà nước. Chúng ta biết rằng, Công ty cổ phần là loại hình công ty cung cấp chủ lực hàng hoá chứng khoán cho thị trường vốn vì đặc điểm của nó là phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng. Số công ty cổ phần càng nhiều thì số lượng và chủng loại chứng khoán càng tăng, các nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn mục tiêu đầu tư và phân tán rủi ro. Ngược lại, nếu có ít công ty cổ phần thì khả năng đầu tư vào một số loại chứng khoán càng cao, lúc đó sẽ làm cho thị trường chứng khoán biến động lớn và gây nên các cơn sốc làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Đối với Việt Nam trong giai đoạn qua, cùng với qúa trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, từ chỗ 12.000 doanh nghiệp Nhà nước vào đầu những năm 1990, đến nay sau quá trình sắp xếp lại hiện có khoảng 5.600 doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng đã có trên dưới 60 ngân hàng và công ty tài chính cổ phần, với tổng số vốn hoạt động lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Các Công ty cổ phần bước đầu hoạt động khá vững chắc, tỷ trọng tăng trưởng vốn khá cao, nhiều công ty sau một thời gian hoạt động đã xin tăng vốn điều lệ lên hàng chục lần. Ví dụ như Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu, với số vốn hoạt động ban đầu là 70 tỷ đồng nay đã tăng lên 350 tỷ đồng, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín cũng đã xin tăng vốn điều lệ từ 150 tỷ đồng lên 250 tỷ đồng v.v. Ngoài ra, các lĩnh vực bảo hiểm, xây dưng, điện toán... cũng đã thành lập nhiều Công ty cổ phần và hoạt động có hiệu quả, điều đó tỏ rõ vai trò to lớn của loại hình Công ty cổ phần trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thành lập các Công ty cổ phần hiện nay cũng chưa được khuyến khích một cách thoả đáng trong các chính sách thuế, cũng như sự bảo trợ của Nhà nước và các cấp chủ quản chuyên ngành.Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần tổ chức một cơ quan có chức năng quản lý về mặt Nhà nước và hỗ trợ đối với loại hình Công ty này, đặc biệt là các Công ty cổ phần có vốn sở hữu Nhà nước trên 50%. Giải quyết được những tồn tại nêu trên sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các Công ty cổ phần ra đời (đặc biệt là các Công ty cổ phần công cộng) hoạt động một cách có hiệu quả, qua đó tạo ra một khối lượng lớn các cổ phiếu cho thị trường chứng khoán. II. Giải pháp về hệ thống pháp lý liên quan đến thị trường chứng khoán và TRUNG TÂM giao dịch chứng khoán 1. Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam Khác với nhiều nước mà thị trường chứng khoán đã được hình thành từ lâu, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã được hoàn chỉnh, ở Việt Nam thị trường chứng khoán, cũng như các yếu tố sản xuất khác(như thị trường sức lao động , thị trường bất động sản, thị trường công nghệ,chất xám...) còn là yếu tố khá mới mẻ. Do vậy, cơ sở hình thành mảng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán- hình thức pháp lý của quan hệ kinh tế trong thị trường đặc thù này còn ở mức rất sơ khai và nói chung còn rất manh mún. Đến nay, mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động của thị trương chứng khoán có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau (Luật, Pháp Lệnh, Nghị Định, Quyết Định, Thông Tư). Tuy nhiên, các văn bản điều chỉnh pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh về các hoạt động liên quan đến chứng khoán đều là những văn bản có giá trị pháp lý dưới Luật, trong đó văn bản điều chỉnh trực tiếp và quan trọng nhất là Nghị Định 48/CP ngày 11/7/1998 của chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nhìn chung, chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán với các bộ phận tối thiểu gồm có: - Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành - Điều kiện và thể thức kinh doanh - Quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán, thị trường chứng khoán đã hình thành. Tuy nhiên, về nội dung các quy định hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể, nếu so sánh với thông lệ chung, đặc biệt là so với quy định của các nước trong khu vực thì không ít những vấn đề nổi lên cần tháo gỡ: a. Vấn đề cơ chế và hình thức phát hành cổ phiếu. Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán của ta hiện nay chưa có các quy định điều chỉnh về phát hành riêng lẻ. Luật Công ty trước đây cũng như Luật Doanh nghiệp hiện nay không phân biệt cụ thể việc phát hành tư nhân và phát hành ra công chúng. Nghị Định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định rõ chỉ điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Tuy pháp luật chưa quy định rõ đâu là phát hành chứng khoán có tính riêng lẻ, nhưng các quy định trong Luật Công ty trước đây đã thể hiện những nguyên tắc và cơ chế của phát hành tư nhân. Nhưng Luật Doanh nghiệp năm 1999 lại bỏ mất các quy định của việc phát hành tư nhân của Luật Công Ty trước đây. Do vậy, có thể nói hiện nay pháp luật chứng khoán của chúng ta chưa có quy định về phát hành tư nhân mà chỉ có các quy định về phát hành chứng khoán ra công chúng. Cần bổ sung quy định này trong Luật Doanh nghiệp. b. Về cơ cấu các loại thị trường Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán mới chỉ quy định về thị trường giao dịch tập trung. Trong khi đó, do bị hạn chế bởi cơ chế phát hành sẽ có nhiều loại chứng khoán không đủ điều kiện để niêm yết tại thị trường chứng khoán tập trung, đặc biệt là trái phiếu. Như vậy sẽ có một lượng chứng khoán không nhỏ được phát hành mà không có nơi giao dịch. Để khắc phục tình trạng này, pháp luật cần có quy định bổ sung và tìm ra giải pháp tạo ra khả năng giao dịch cho các chứng khoán trên. Ví dụ mở thị trường OTC. c. Về thời hạn và tính chuyển nhượng của chứng khoán chưa được quy định rõ ràng. Trong Luật Công ty trước đây, mặc dù có sự phân định giữa cổ phiếu ký danh (không được tự do chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng hạn chế) và cổ phiếu vô danh (tự do chuyển nhượng) nhưng lại chưa được hướng dẫn cụ thể về phạm vi và đối tượng chuyển nhượng; hoặc các trái phiếu, thời hạn ngắn nên đã hạn chế khả năng chuyển nhựơng lưu thông, khiến cho số lượng chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán còn manh mún. d. Về các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán Theo điều 29 Nghị định 48/1998/NĐ_CP “các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm hoặc các tổng công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải lập Công ty chứng khoán độc lập”. Tuy nhiên, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 lại không cho phép các tổ chức tín dụng được phép trực tiếp hoặc gián tiếp kinh doanh chứng khoán (mặc dù Chính Phủ cũng khắc phục bằng cách ra quyết định của Thủ tướng, cho phép các tổ chức tín dụng thành lập các công ty chứng khoán độc lập). Sự không đồng bộ này một phần nào đã gây khó khăn, cản trở hoạt động của các công ty chứng khoán- các trung gian đóng vai trò tích cực trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. e. Về khả năng tham gia của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Trên phương diện kinh doanh luật pháp nhiều nước không cho phép các Công ty chứng khoán nước ngoài trở thành viên của sở giao dịch, mà chỉ cho phép tham gia dưới hình thức liên doanh vơí các công ty nội địa hoặc mở chi nhánh, đặt văn phòng để làm môi giới gián tiếp. Về đầu tư các nước trong khu vực đều có quy định cụ thể hạn chế về số lượng, danh mục các loại cổ phiếu bán cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo kinh nghiệm một số nước trong khu vực Việt Nam cũng mở cửa thị trường đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên việc mở cửa cần có bước đi phương hướng cụ thể cần có hạn chế nhất định, việc mở cửa phải được thực hiện từ từ đảm bảo an toàn cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả bền vững tránh những tác động xấu từ bên ngoài. điều 67 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 quy định: Tổ chức kinh doanh nước ngoài muốn kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam phải thành lập Công Ty liên doanh với đối tác Việt Nam. Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg về bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, điều 6 quy chế qui định tổng số giá trị cổ phần bán cho nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty; quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10/6/1999 về tỷ lệ tham gia của các bên nước ngoài vào TTCK VN quy định: các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu, 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành (điều 1,2); tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào công ty chứng khoán liên doanh tối đa là 30% (điều 3). 2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán 2.1. Phương hướng chung: a. Tiếp tục thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, xây dựng các trung tâm chứng khoán đủ mạnh tiến tới thành lập Sở giao dịch chứng khoán, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng XIII chỉ rõ cần “chú ý thêm những hình thức mới như đầu tư tài chính (bên ngoài góp vốn) mua cổ phần, nhưng không tham gia quản lý” thử nghiệm việc cho phép Công ty và người nước ngoài mua cổ phiếu của các Công ty cổ phần trong nước, kể cả các doanh nghịêp Nhà nước cổ phần hóa, trong hạn mức quy định đối với ngành nghề kinh doanh. b. Pháp điển hoá các quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho đầy đủ, hệ thống và đồng bộ, tiến tới xây dựng và ban hành Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán. hiện các quy định ở ta điều chỉnh về chứng khoán còn tản mạn, không đồng bộ. Hầu hết các văn bản trên đều dựa trên cơ sở tham khảo luật pháp và kinh nghiệm thực tế về tổ chức thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Tuy vậy, trong giai đoạn trước mắt, để chuẩn bị đầy đủ điều về thể chế và kinh nghiệm thực tiễn cho việc xây dựng một bộ luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chúng ta phải quan tâm trước hết tới việc pháp điển hoá pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hiện hành. Thông qua việc hệ thống hoá, sửa đổi bổ sung, ban hành các qui định mới, hoàn thiện một bước (có tính chất hệ thống và đồng bộ hoá) các qui định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hiện hành, tạo điều kiện cho việc xây dựng luật trong một vài năm tới. c. Đồng bộ hoá các thể chế và định chế liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các vấn đề cần phải hoàn thiện để đồng bộ hoá với pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo thêm động lực cho việc hình thành và hoạt động của thị trường chứng khoán : - Pháp luật về doanh nghiệp. Thể hiện trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện, cơ chế để các doanh nghiệp gặp được người đầu tư bằng phát hành cổ phiếu qua thị trường chứng khoán. - Pháp luật về đầu tư pháp luật về đầu tư đảm bảo cho nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp bằng góp vốn thành lập chuyển đổi hình thức thành Công ty cổ phần, chuỷên đổi vốn góp thành chứng khoán một cách dễ dàng, thuận lợi. - Pháp luật về tài chính cần phải tạo cho thị trường nhiều loại giấy tờ có giá có thể trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khóan; hình thành các qui định về kiểm toán, kế toán chứng khoán... - Hoàn thiện đồng bộ các pháp luật khác có liên quan đến chứng khoán va thị trường chứng khoán như pháp luật lao động, pháp luật hành chính - tư pháp, pháp luật hình sự, giải quyết các tranh chấp; giẩi thể phá sản.. d. Giữ vững ổn định chính trị kinh tế, đảm bảo môi trường đầu tư. đây là vấn đề quan trọng, có ý nghiã lâu dài, chiến lược đối với hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai. Sự ổn định về chính trị kinh tế tạo tâm lý an tâm cho nhà đầu tư. e. Hiện đại hoá đội ngũ những người làm chứng khoán (quản lý và kinh doanh), các phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động của thị trường chứng khoán. đây là vấn đề mang tính kỹ thuật, tạo khả năng mua bán, thanh toán chứng khoán một cách dễ dàng. 2.2. Giải pháp cụ thể a. Hoàn thiện các qui định về phát hành tư nhân (bán riêng). Phát hành tư nhân là việc phát hành chứng khoán(cổ phiếu) một cách riêng lẻ tức là nhà phát hành bán cổ phiếu trực tiếp cho nhà đầu tư, không phải là chào bán qua công chúng trên thị trường chứng khoán. tuy phát hành tư nhân không thông qua và được thực hiện bởi thị trường giao dịch tập trung nhưng nó tạo ra các chứng khoán- hàng hoá để có thể giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung sau này. b. Hoàn thiện các qui định pháp luật về tạo lập các loại chứng khoán và khả năng giao dịch chúng trên thị trường tập trung. Như phân tích ở trên, các qui định về chứng khoán ở nước ta hiện còn nhiều hạn chế, đặc biệt về cơ chế phát hành, thời hạn lưu hành chứng khoán, khiến cho lượng hàng hoá tồn tại trên thị trường chứng khoán rất hạn chế. Trong khi đó có nhiều loại chứng khoán (đặc biệt là các chứng khoán có lợi tức cố định) không đủ điều kiện để niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung, phần nào làm giảm tính hấp dẫn và sôi động của thị trường giao dịch chứng khoán. vì vậy nên tạo ra các thị trường giao dịch phi tập trung (thị trường OTC). c. Hoàn thiện các qui định pháp luật về các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. Trước mắt là các cơ quan quản lý điều hành và giám sát thị trường chứng khoán. cac cơ quan này bao gồm Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Bộ tài chính, Ngân hàng trung ương, Bộ tư pháp, Sở giao dịch chứng khoán (trung tâm giao dịch chứng khoán) hiệp hội những nhà kinh doanh chứng khoán... Hiện nay ta đã có cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khóan là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước(được thành lập theo Nghị quyết số 75/CP ngày 28/11/1996 của chính phủ) cùng các cơ quan giám sát có liên quan. Tuy nhiên, cơ chế luật pháp về sự phối hợp trong tham gia tổ chức, giám sát thị trường chứng khoán chưa được hình thành. Các cơ quan liên quan chỉ mới tham gia ở một mức độ và phạm vi còn rất thấp, dựa trên những quy định hiện hành về chức năng, nhiệm vụ quản lý của ngành mình- Sở giao dịch chứng khoán- Một định chế trung tâm của thị trường chứng khoán mới được hình thành với tính chất là một tổ chức điều hành mang tính chất quá độ - trung tâm giao dịch chứng khoán. các trung tâm này thuộc sở hữu Nhà nước, trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận. Trong tương lai, cần hoàn thiện các qui định luật pháp đối với định chế quan trọng này, xây dựng Sở giao dịch chứng khoán trở thành một chủ thể độc lập về tổ chức cũng như tài chính, hoạt động phi lợi nhuận. Bên cạnh đó cần phải nghiên cứu cho phép ra đời Hiệp hội các thành viên và cũng là tăng cường khả năng giám sát đối với thị trường. - Các nhà phát hành, theo qui định của pháp lụât hiện hành, có các nhà phát hành sau: Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp Nhà nước (trong đó có DNNN cổ phần hoá), Công ty cổ phần, quỹ đầu tư chứng khoán và các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng. Tuy nhiên các quy định hịên hành có giá trị pháp lý còn thấp. Vì vậy cần phải ban hành đầy đủ các quy chế pháp lý có giá trị tiêu chuẩn hơn, đồng thời tạo ra thói quen và tâm lý kinh doanh cho khách hàng. - Các nhà đầu tư: là những người bỏ tiền túi ra đầu tư chứng khoán nhằm mục tiêu lợi nhuận. Họ gồm các nhà doanh nghiệp, các công ty, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các quỹ bảo hiểm... và lực lượng đông đảo là các tầng lớp dân cư. mặc dù hiện chúng ta chưa có một hành lang pháp lý bảo đảm an toàn cho các nhà đầu tư nên trước mắt cần có một chính sách thích hợp nhằm truyền bá những kiến thức cần thiết vào tầng lớp dân chúng để họ hiểu biết và tham gia vào thị trường này. - Về các công ty chứng khoán. cần phải mở rộng thêm các đối tượng được phép tham gia cung ứng các dịch vụ liên quan đến họat động kinh doanh chứng khóan, sửa đổi các quy chế pháp lý điều chỉnh các nghiệp vụ kinh doanh chứng khóan như tự doanh, môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, lưu ký thanh toán bù trừ ... - Về các định chế tài chính trung gian.cần hoàn thiện các quy định về mặt pháp lý điều chỉnh sự hoạt động của các tổ chức tín dụng, luật kinh doanh bảo hiểm...mở rộng phạm vi hoạt động của các tổ chức này tham gia vào thị trường chứng khoán. d. Bổ sung , hoàn thịên các quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển từ loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghịêp, để các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều cơ hội hơn trong việc tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. e. Về bán cổ phần, cổ phiếu cho người nước ngoài và việc tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. đây là một vấn đề có tính liên quan đến hội nhập. Quan điểm của chúng ta là mở cửa kinh tế ra khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên việc mở cửa trên tinh thần đảm bảo cho thị trường trong nước hoạt động hiệu quả góp phần xây dựng nền kinh tế quốc dân phát triển vững bền. Hệ thống pháp lý của chúng ta cũng đã có những hạn chế nhất định đối với sự tham gia của chủ thể nước ngoài vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. III. Các giải pháp về cơ sở vật chất, kỹ thuật 1. Hệ thống giao dịch chứng khoán Hiện nay, hầu hết các thị trường chứng khoán mới nổi ở Châu á đều áp dụng theo phương thức đấu lệnh. Ưu điểm của cơ chế này là: các thiết bị kỹ thuật liên quan đến hệ thống giao dịch không quá phức tạp, giá cả đầu tư hợp lý và hiện có rất nhiều nhà cung cấp “trọn gói”. Hệ thống đấu lệnh có cấu trúc và vận hành khá đơn giản , trên cơ sở tập hợp các lệnh mua và bán đưa vào hệ thống, giá chứng khoán sẽ được xác định theo các nguyên tắc ưu tiên giá, thời gian, khối lượng ...cơ chế này phản ánh giá của một chứng khoán là giá của một nhà đầu tư sẵn sàng mua và người khác sẵn sàng bán, không có chênh lệch, các nhà đầu tư có thể đạt được mức giá tốt hơn vì họ chỉ phải trả tiền hoa hồng mà không phải trả tiền chênh lệch. Hệ thống đấu lệnh cho phép quản lý thị trường dễ hơn, vì nó hạn chế được tính phức tạp nảy sinh đối với hệ thống đấu giá là đảm bảo các nhà tạo lập thị trường luôn tiếp cận được với tình hình thực tế thông qua các cuộc đàm thoại, vì vậy các mức giá được niêm yết luôn phải có khoản chênh lệch và luôn đảm bảo các giao dịch tại các mức giá đã niêm yết. Việc ứng dụng công nghệ điện toán trong giao dịch là một vấn đề cần được tính đến đối với việc hình thành thị trường chứng khóan ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta có điều kiện thuận lợi là nước đi sau, kế thừa được những kinh nghiệm của các nước đi trước thành công cũng như thất bại mà bản thân các nước đó đã gặp phải. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, việc trang bị hệ thống giao dịch tự động ngay từ đầu sẽ có điều kiện thuận lợi cho hoạt động sau này, điều mà các nước trước đây khó chuyển đổi, vì đã tạo ra những thói quen cho công chúng, các nhà đầu tư, đặc biệt là đội ngũ những người làm việc trong lĩnh vực này. Chính vì thế, hiện nay những sở giao dịch chứng khoán lâu đời trên thế giới như Tokyo, New York, Frankfurt... vẫn phải áp dụng hệ thống giao dịch bán thủ công song hành với hệ thống giao dịch tự động, mặc dù khả năng tài chính và công nghệ điện toán của họ có thể đáp ứng việc trang bị hệ thống giao dịch tự động hoàn toàn. Đối với Việt Nam, trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển muộn, chúng ta có được những lợi thế so sánh do công nghệ điện toán phát triển, vì vậy chúng ta nên tiến hành chương trình tự động ngay từ đầu. Còn nếu bắt đầu bằng thủ công cho đơn giản và tiết kiệm kinh phí đầu tư , ngay sau đó thay thế bằng hệ thống tự động thì sẽ tốn kém rất nhiều. Trong giai đoạn hiện nay, chỉ nên lắp đặt hệ thống thiết bị với bộ xử lý có phần cứng và phần mềm đáp ứng được những giao dịch hiện tại và khả năng phát triển của thị trường trong tương lai. Các thiết bị lắp đặt nên ở trạng thái hở để khối lượng giao dịch tăng lên có thể nâng cấp, mở rộng công suất xử lý của hệ thống. Cách làm như vậy sẽ cho phép tiết kiệm được các chi phí ban đầu, đồng thời vẫn đảm bảo tính liên tục của hệ thống khi thị trường phát triển. 2. Hệ thống đăng ký, thanh toán, bù trừ và lưu ký chứng khoán Hệ thống thanh toán, bù trừ và lưu giữ chứng khoán có hai chức năng cơ bản là chức năng thanh toán bù trừ bằng tiền, bằng chứng khoán và chức năng lưu giữ chứng khóan, thực hiện việc chuyển giao chứng khoán băng hình thức thích hợp giữa các bên. Do yếu tố lịch sử và địa lý, nhiều nước trên thế giới có một hoặc nhiều trung tâm thanh toán, bù trừ, lưu giữ chứng khoán tách rời so với hệ thống đăng ký chứng khoán. ở một số nước, việc thanh toán, bù trừ và việc lưu giữ chứng khoán do các tổ chức khác nhau đảm nhiệm. Tuy nhiên cũng có một vài nước mà chủ yếu là các nước đi sau, cả 4 chức năng trên do một trung tâm đảm nhận. Trên thực tế các trung tâm này luôn phải hoạt động gắn bó với nhau. Bởi vậy việc thành lập một trung tâm đảm nhận cả 4 chức năng: đăng ký, thanh toán, bù trừ và lưu trữ chứng khoán sẽ có nhiều ưu điểm trong việc thanh toán, chuyển giao chứng khoán cũng như quyền sở hữu chứng khoán. Một vấn đề đặt ra là có nên thành lập một trung tâm cho tất cả các loại chứng khoán hay có hai trung tâm (một trung tâm cho tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ và một trung tâm cho cổ phiếu và trái phiếu, trái phiếu công ty). Thí dụ như ở Mỹ có trung tâm lưu giữ (CSD) cho cổ phiếu và trái phiếu công ty, đồng thời có trung tâm do ngân hàng dự trữ liên bang đảm nhận chuyên lưu trữ tín phiếu. Kho bạc và trái phiếu chính phủ. ở Anh cũng có trung tâm Gilt chuyên lưu giữ kho bạc và trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, một số nước như Đức, Trung Quốc lại xây dựng một trung tâm cho tất cả các loại chứng khoán. Việc tồn tại hai trung tâm tách rời như trên là do vấn đề lịch sử cũng như liên quan đến quyền hạn quản lý của ngân hàng TW. Việc phân chia như vậy thường có nhược điểm là lãng phí và chồng chéo. Bởi vậy một số nước như úc, pháp đang có kế hoạch hợp nhất các trung tâm làm một. Về việc tập trung chứng khoán và bút toán ghi sổ: trước đây việc phát hành chứng khoán được thực hiện dưới hình thức chứng chỉ hiện vật (vô danh hoặc chi danh). Cùng với việc phát triển hệ thống thanh toán, bù trừ và lưu giữ chứng khoán, rất nhiều nước đã chuyển sang hình thức ghi sổ bằng cách hạch toán trên tài khoản trong hệ thống đã được điện tử hoá. Phương thức này đã được cả thế giới chấp nhận, nó cho phép phi vật chất hoá chứng khoán (không dùng giấy tờ) hoặc tập trung (lưu giữ các chứng chỉ tại một trung tâm). Hiện nay Pháp, Đan Mạch, Na Uy đã gần như phi vật chất hoá hoàn toàn. Các nước như Đức, Anh, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, ấn Độ cũng đang trong quá trình phi vật chất hoá hoàn toàn chứng khoán. Việc phi vật chất chứng khoán có những lợi ích sau đây: 1. Giảm bớt chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển chứng khoán 2. Giảm bớt thời gian và chi phí thanh toán, chuyển giao 3. Giảm bớt những rủi ro trong thanh toán Hệ thống thanh toán, bù trừ và lưu trữ chứng khoán của Việt Nam nên xây dựng theo mô hình sau: - Cung cấp dịch vụ cho mọi loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu và tín phiếu). Không thành lập trung tâm riêng cho tín phiếu kho bạc nhà nước và trái phiếu chính phủ như một số nước đã làm. - Kết hợp chức năng đăng ký, bù trừ, thanh toán và lưu trữ vào một trung tâm. - Chỉ xây dựng một hệ thống vùng thì phải nối mạng coi như chi nhánh của hệ thống chính. - Việc tự động hoá khâu đăng ký, thanh toán, bù trừ phải đi trước một bước. - Hình thức phát hành chứng khoán : chỉ phát hành chứng chỉ cho loại chứng khoán ghi danh. Trường hợp phát hành vô danh thì phải lưu giữ tại một trung tâm. - Ngay từ đầu cần mở rộng và khuyến khích hình thức chứng khoán ghi sổ, thộng qua việc giảm phí với việc lưu giữ tập trung và áp dụng phí cao đối với người cần chứng chỉ cầm tay. Người có chứng khoán ghi sổ sẽ được cấp sổ chứng khoán (như sổ tiết kiệm) để làm bằng chứng sở hữu và theo dõi mọi giao dịch của họ về chứng khoán. - Cho phép cả ngân hàng và công ty chứng khoán trở thành công ty lưu ký. Các khách hàng sẽ mở tài khoản tại công ty lưu ký, các công ty lưu ký lại mở tài khoản và lưu trữ tại trung tâm. việc lưu trữ phải tách rời tài sản giữa công ty chứng khoán và khách hàng. Trung tâm sẽ mở tiểu khoản cho từng khách hàng của công ty lưu ký chứng khoán. 3. Mức độ tự động hoá Thị trường chứng khoán các nước trên thế giới đã và đang trải qua 3 cấp tự động hoá như sau: + Hệ thống giao dịch thủ công, đó là hình thức giao dịch bằng tay, bằng miệng. Hình thức nay đã tồn tại rất nhiều năm trong lịch sử phát triển thị trường chứng khoán ở các nước truyền thống. Cho đến thời điểm hiện nay không còn một sở giao dịch chứng khoán nào áp dụng hoàn toàn hình thức thủ công như trước đây. + Hệ thống bán tự động, tức là hình thức kết hợp một phần nhỏ thủ công với trợ giúp của máy tính. Hầu như thanh toán khâu truyền lệnh và hệ thống thông tin đã được tự động hoá, còn khâu giao dịch cũng chỉ tồn tại một phần nhỏ dưới hình thức giao thủ công. Hình thức này rất phổ biến với sở giao dịch các nước truyền thống như(Mỹ, Đức, Nhật..). Tuy nhiên các nước này cũng đang có kế hoạch tự động hoá hoàn toàn trong vài năm tới. +Hệ thống tự động hoá hoàn toàn, là hệ thống trong đó các khâu đã được tự động hoá hoàn toàn. Giữa các khâu(khâu thanh toán, lưu giữ, khâu truyền lệnh, khâu ghép lệnh, khâu thông tin) đã có sự liên kết thành hệ thống. Nhiều nước như Malaixia, Thái Lan, Đài Loan... mức tự động hoá đã đạt đến trình độ không còn có sàn giao dịch. Mọi giao dịch đều được thực hiện thẳng từ công ty môi giới thông tin qua hệ thống xử lý trung tâm tại sở giao dịch. Việc tự động hoá mang lại rất nhiều ưu thế cho việc phát triển thị trường chứng khoán nó cho phép : - Tăng tốc độ, khối lượng giao dịch - Giảm chi phí giao dịch - Giảm bớt rủi ro và tăng khả năng thanh toán của thị trường - Tăng khả năng thanh tra, giám sát,điều tra. Trong điều kiện hiện chi phí cho hệ thống tự động hoá ngày càng có xu hướng giảm thì Việt Nam nên tiến hành chương trình tự động hóa ngay trong giai đoạn đầu. Nếu bằng giao dịch thủ công thì sẽ tốn kém. Quá trình tự động hoá này kéo dài khoảng 1-2 năm và có thể khởi động từng phần ngay sau 6 tháng đầu. Trong những năm đầu tập trung chủ yếu vào tự động hoá khâu thanh toán, bù trừ và lưu giữ chứng khoán sau đó chuyển sang truyền lệnh và cuối cùng là khâu giao dịch. Ngoài ra trong thời gian đầu chỉ cần lắp đặt thiết bị với công suất xử lý thấp, giá rẻ. Các thiết bị lắp đặt nên để ở trạng thái mở để khối lượng giao dịch tăng lên có thể lắp đặt thêm nhằm mở rộng công suất xử lý của hệ thống. Cách làm như vậy sẽ cho phép tiết kiệm chi phí thiết bị ban đầu đồng thời vẫn bảo đảm tính liên tục của hệ thống khi thị trường phát triển. IV. Giải pháp về thành lập tổ chức trung gian Trên thế giới hiện nay có nhiều loại mô hình tổ chức trung gian tài tính tham gia vào thị trường chứng khoán. ở một số nước như Mỹ , Nhật bản , Canada, Hàn Quốc, các hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nhằm đảm bảo tính độc lập trong kinh doanh và tránh bớt rủi ro cho hoạt động ngân hàng. Còn ở một số nước khác như Cộng hoà liên bang Đức, Ôxtrâylia thì các hoạt động chứng khoán lại được gộp chung với các nghiệp vụ tín dụng và thanh toán của ngân hàng thương mại. Mô hình hoạt động này có ưu điểm là giữa các lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm, thương mại, tín dụng, ngoại hối có thể san đi bù lại lợi nhuận cho nhau, hạn chế bớt rủi ro trong một số mặt nghiệp vụ vào từng thời gian nhất định. Đây là loại mô hình hoạt động có tính chất tập đoàn, nên có nhiều khả năng đối phó với nguy cơ phá sản hơn mô hình độc lập. Mô hình này cũng cho phép các ngân hàng thông qua các hoạt động cấp tín dụng cho các khách hàng, hiểu rõ được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, trên cơ sở đó giúp cho việc phân tích, đánh giá chứng khoán được tôt hơn. tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế nhất định là không chuyên sâu nên kỹ năng chuyên doanh không mạnh và hoạt động tín dụng ngân hàng chịu sự chi phối của kinh doanh chứng khoán. ở Việt Nam, nhờ có một hệ thống ngân hàng với những kinh nghiệm nhất định trong quá trình hoạt động về hoạt động kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là hệ thống ngân hàng hai cấp đã hoạt động theo tín hiệu của thị trường, có đội ngũ quản lý và nhân viên tác nghiệp được đào tạo khá cơ bản, nhanh nhạy với cơ chế thị trường, có hệ thống giao dịch bước đầu được hiện đại hoá theo công nghệ hiện đại, nên các ngân hàng thương mại tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán là cần thiết, đảm bảo được sự hỗ trợ về chuyên môn. Tuy nhiên, để phòng ngừa rủi ro và tránh những tác động ảnh hưởng của kinh doanh chứng khoán đến hoạt động tiền tệ - tín dụng của ngân hàng, nhằm bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền thì nên cho các ngân hàng kinh doanh chứng khoán dưới hình thức một doanh nghiệp độc lập là các Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc tham gia góp vốn theo mô hình Công ty cổ phần. Bên cạnh đó, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nên cho phép thành lập các Công ty chứng khoán. Điều kiện bắt buộc chung đối với các Công ty chứng khoán phải là Công ty cổ phần hoặc là Công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm và thao túng doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số người. Hiện nay, ở Việt Nam các doanh nghiệp đang chịu sự chi phối và điều chỉnh của nhiều bộ luật khác nhau như: Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thương mại, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng.... Trong tình hình như vậy, chỉ nên cho phép hai loại doanh nghiệp là Công ty cổ phần và Công ty trách nhiệm hữu hạn (kể cả liên doanh) được tham gia kinh doanh chứng khoán. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh hay các Tổng công ty mạnh trực thuộc Chính phủ muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập cac công ty độc lập hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Công ty chứng khoán có thể được thành lập 100% vốn Nhà nước dưới hình thức thành lập Công ty con của các ngân hàng thương mại quốc doanh hoặc góp vốn của nhiều doanh nghiệp Nhà nước vào một công ty. Cách làm như vậy cho phép thống nhất mô hình tổ chức hoạt động của Công ty chứng khoán, đồng thời tạo ra sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. 1. Công ty chứng khoán Tính đến nay Việt Nam đã có 7 Công ty chứng khoán được thành lập. Tuy vậy, việc phát hành các trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty và cổ phiếu của các công ty cổ phần vẫn được thực hiện trên thị trường. Các chứng khoán này được phát hành trên thị trường sơ cấp phần lớn không thông qua các tổ chức bảo lãnh mà được bán lẻ trực tiếp ra công chúng. Do vật, các chứng khoán này rất khó chuyển nhượng. 1.1. Các mặt hoạt động của Công ty chứng khoán - Hoạt động trên thị trường sơ cấp: Công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường sơ cấp với vai trò là người bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là hoạt động nhằm hỗ trợ cho Công ty phát hành hoặc chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua chứng khoán để bán lại. Hoạt động của tổ chức bảo lãnh phát hành bao gồm các nghiệp vụ sau: nghiên cứu và tư vấn cho nhà phát hành chứng khoán cách thức phát hành, cơ cấu phát hành và cách thức đặt giá chứng khoán; hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết cho đợt phát hành; thoả thuận cho các nhà bảo lãnh phát hành khác để thực hiện nghiệp vụ đồng bảo lãnh phat hành; tiến hành thăm dò thị trường và phân phối chứng khoán ra công chúng; thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và các dịch vụ sau khi phát hành.... Ngoài ra, các Công ty chứng khoán còn hoạt động trên thị trường sơ cấp trong vai trò là nhà đại lý phân phối chứng khoán. - Hoạt động trên thị trường thứ cấp: Hoạt động của Công ty chứng khoán trên thị trường giao dịch mua bán lạI (thị trường thứ cấp) gồm các nghiệp vụ sau: + Môi giới chứng khoán, là hoạt động trung gian hoặc đại diện cho khách hàng để thực hiện các giao dịch mua, bán chứng khoán và hưởng hoa hồng môi giới. + Giao dịch chứng khoán cho bản thân (tự doanh), là các hoạt động mua, bán chứng khoán cho chính công ty nhằm thu được lợi nhuận trên cơ sở biến động của thị giá chứng khoán. + Tư vấn đầu tư chứng khoán, là các hoạt động tư vấn liên quan đến phát hành, chào bán và giao dịch các loại chứng khoán trên thị trường nhằm tăng khả năng sinh lời và hạn chế bớt rủi ro cho chính các nhà đầu tư cũng như các tổ chức phát hành. + Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán, nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng theo hợp đồng đã thoả thuận. + Hoạt động lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản và chuyển quyền sở hữu chứng khoán cho khách hàng, ngoài ra tổ chức lưu ký có thể thực hiện thêm các dịch vụ đại diện sở hữu chứng khoán cho khách hàng, dịch vụ chi trả cổ tức.... Đối với Việt Nam trong giai đoạn đầu xây dựng thị trường chứng khoán, các mặt nghiệp vụ này có thể kết hợp trong một Công ty chứng khoán hoặc chuyên doanh cho từng nghiệp vụ. Việc quy định cho từng loại hình nghiệp vụ về vốn kinh doanh cũng như ràng buộc pháp lý khác cần dựa trên mức độ, phạm vi và tác động của các lĩnh vực này mang lại. 1.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam Việc lựa chọn mô hình Công ty chứng khoán Việt Nam cần được căn cứ vào các điều kiện hiện tại của nền kinh tế và khả năng phát triển trong tương lai theo xu hướng quốc tế hóa. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi thị trường vốn chưa phát triển, việc cho phép các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, bảo hiểm, các Tổng công ty mạnh tham gia vào thị trường chứng khoán là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, để hạn chế rủi ro của thị trường chứng khoán đối với các nghiệp vụ ngân hàng, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư chứng khoán và những người gửi tiền trong các ngân hàng thương mại, chỉ nên cho phép thành lập dưới hình thức các Công ty chứng khoán độc lập để tham gia vào thị trường chứng khoán. Về số lượng Công ty chứng khoán tham gia thị trường, trong thời gian đầu do số lượng chứng khoán cũng như doanh số giao dịch chưa cao, chúng ta nên hạn chế thành lập các Công ty chứng khoán, chỉ nên thành lập khoảng từ 10 - 15 Công ty và tập trung vào các ngân hàng thương mại và Công ty tài chính, Bảo hiểm. Muốn được thành lập và đi vào hoạt động, các Công ty chứng khoán đều phải hội đủ các điều kiện về vốn kinh doanh, giấy phép hành nghề của các nhân viên và giấy phép thành lập do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Các tiêu chuẩn này được quy định tối thiểu cho từng loại hình nghiệp vụ kinh doanh (vốn pháp định); tư vấn đầu tư chứng khoán vốn (3 tỷ đồng); môi giới chứng khoán (3 tỷ đồng); tự doanh (12 tỷ đồng); quản lý danh mục đầu tư (3 tỷ đồng); bảo lãnh phát hành (22 tỷ đồng). Các Công ty chứng khoán có thể hoạt động từng loại hình nghiệp vụ và cũng có thể hoạt động cho tất cả các loạI hình nghiệp vụ. Trong trường hợp hoạt động tổng hợp số vốn tối thiểu được tính cho tổng cộng các nghiệp vụ nêu trên. Ngoài ra, Công ty chứng khoán phải tuân thủ các quy định về thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật, chịu sự kiểm tra, giám sát của Sở giao dịch, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và tuân thủ các quy định về kế toán, kiểm toán độc lập.... 2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, trong thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc huy động vốn cho phát triển đất nước là rất cần thiết, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Nguồn vốn này sẽ đầu tư vào các dự án dài hạn thuộc các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong thời gian qua, công chúng đã quên thuộc với loại hình đầu tư thông qua tiết kiệm ngân hàng, còn với loại hình quỹ đầu tư thì tỏ ra còn mới mẻ (mặc dù chúng ta đã có một số loại hình quỹ hoạt động gần giống với quỹ đầu tư như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí...). Quỹ đầu tư ra đời sẽ tạo ra một kênh huy động vốn mới, thu hút các nguồn vốn dài hạn cho phát triển kinh tế. Huy động vốn thông qua quỹ đầu tư sẽ đảm bảo lợi ích cho cả người đầu tư lẫn người nhận đầu tư. Quỹ đầu tư là một loại quỹ chung của nhiều người cùng góp vốn nhằm tăng cường tính hiệu quả của vốn đầu tư, đặc biệt đối với những dự án quy mô lớn cần nhiều vốn đầu tư. Ưu điểm của quỹ đầu tư là tập hợp những nguồn vốn nhỏ của các đơn vị, cá nhân để đưa vào hoạt động kinh doanh, đồng thời quy tụ được đội ngũ những người quản lý quỹ đầu tư có trình độ chuyên môn, có khả năng phân tích các lĩnh vực đầu tư để đầu tư vốn vào những nơI có khả năng sinh lợi cao nhất. Hiện nay trên thế giới các quỹ đầu tư được thành lập theo các mô hình khác nhau, có thể là một quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng Công ty cổ phần hoặc được tổ chức dưới hình thức quỹ tín khác. Nhưng nhìn chung các nước có thị trường chứng khoán mới nổi thường áp dụng mô hình tín khác. Theo mô hình này, các quỹ chỉ được phép phát hành các chứng chỉ đầu tư tham gia vào quỹ, các chứng chỉ này chỉ có quyền hưởng lợi nhuận từ các khoản thu nhập do quỹ đầu tư mang lại và tài sản ròng của quỹ chứ không có quyền biểu quyết như cổ phiếu. Các quỹ đầu tư này sẽ được một Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư và sử dụng nguồn vốn của quỹ để đầu tư vào các lĩnh vực sinh lợi, chứ không được phép phát hành trái phiếu để vay vốn thị trường và chỉ được phép vay vốn ngắn hạn ngân hàng để trang trảI một số khoản chi cần thiết tạm thời khi chưa có khả năng thu hồi vốn ngay. Phạm vi hoạt động của quỹ đầu tư thường rất rộng mặc dù chủ yếu các quỹ đầu tư thường chỉ đầu tư vào các chứng khoán là những tài sản có tính thanh khoản cao nhưng quỹ còn có thể đầu tư vào các lĩnh vực khác như bất động sản, các công trình cơ sở hạ tầng.... Để đảm bảo việc quản lý các tài sản của quỹ đầu tư trong quá trình hoạt động, Công ty quản lý quỹ phải thuê một ngân hàng giám sát thực hiện việc đầu tư của quỹ và việc tuân thủ của Công ty quản lý quỹ đối với các nhà đầu tư theo điều lệ hoạt động của quỹ đầu tư. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có một số quỹ hoạt động, trong đó phần lớn là chi nhánh các quỹ đầu tư nước ngoài và một số quỹ đầu tư liên doanh. Tuy nhiên, hoạt động của các quỹ này chỉ mới ở mức thăm dò thị trường và chuẩn bị cơ hội cho việc đầu tư vào thị trường chứng khoán nên không phát huy được hiệu quả, thậm chí một số quỹ đầu tư nước ngoài đã chấm dứt hoạt động. Hiện chỉ có quỹ đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đang trong quá trình chuẩn bị phát hành các chứng chỉ đầu tư vào phát triển khu đô thị mới ở tại Thành phố và dự kiến niêm yết các chứng chỉ này tại Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông. Để tạo điều kiện tham gia vào thị trường chứng khoán, chúng ta cần phải sớm thành lập các quỹ đầu tư trên cơ sở các giấy phép được cấp từ Công ty quản lý quỹ đầu tư nhằm tạo ra cơ hội thu hút vốn vào các dự án đầu tư dài hạn và tăng cung hàng hoá chứng khoán cho thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Công ty quản lý quỹ đầu tư Một trong những yếu tố then chốt của việc thành lập và đảm bảo thành công hoạt động của các quỹ đầu tư là đội ngũ cán bộ quản lý quỹ. Việc thành lập Công ty quản lý tách khỏi quỹ đã nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp của quản lý quỹ và khi một Công ty quản lý quỹ quản lý nhiều quỹ khác nhau thì khả năng phân tích và đánh giá của họ sẽ tổng hợp hơn nhiều so với việc từng quỹ tự đứng ra tổ chức ban quản lý riêng cho mình. Để thực sự là người quản lý vốn tin cậy của khách hàng, Công ty quản lý quỹ phải là một pháp nhân đầy đủ do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải đạt được các tiêu chuẩn quy định về trình độ chuyên môn, vốn hoạt động và tư chất đạo đức nghề nghiệp để tránh những xung đột lợi ích có thể xảy ra đối voứi các nhà đầu tư cũng như các quỹ đầu tư. Việc thành lập Công ty quản lý quỹ ở Việt Nam là một công việc mới mẻ, mặc dù trước đây chúng ta đã có các quỹ đầu tư nhưng vẫn chưa có Công ty quản lý quỹ. Vì vậy, để tận dụng khả năng về vốn, chúng ta nên thành lập các Công ty quản lý quỹ dưới hình thức các Công ty cổ phần hay Công ty trách nhiệm hữu hạn mà cổ đông là các ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính, Bảo hiểm, các Tổng công ty mạnh có khá năng tham gia đầu tư chứng khoán và có thể là Công ty tài chính nước ngoàI có kinh nghiệm về quản lý quỹ. Còn đối với các Công ty chứng khoán thì có thể tham gia Công ty quản lý quỹ với một tỷ lệ cổ phần hạn chế, nhằm tận dụng được đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất tạo ra nguồn thu, tránh được xung đột về lợi ích giữa các nghiệp vụ quản lý quỹ với các nghiệp vụ môi giới đầu tư, giao dịch cho bản thân. Nhằm bảo vệ an toàn cho quỹ đầu tư, việc đầu tư vào các chứng khoán của các Công ty quản lý quỹ cũng được quy định chặt chẽ, chẳng hạn như khống chế mức tỷ lệ sử dụng số tiền của một quỹ đầu tư vào một loại chứng khoán naò đó và tỷ lệ đầu tư quá lớn vào số chứng khoán của một công ty phát hành. Hiện nay, chúng ta đã có những quy định cụ thể cho việc thành lập Công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán (Nghị định số 48/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán). Theo đó, Công ty quản lý quỹ chỉ được thành lập dưới hình thức Công ty cổ phần hay Công ty trách nhiệm hưũ hạn, có vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng, các nhân viên hoạt động trong Công ty quản lý quỹ phải có giấy phép hành nghề do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Hoạt động của Công ty quản lý quỹ phải tuân thủ các nguyên tắc: Công ty quản lý quỹ chỉ được đầu tư vốn của quỹ đầu tư chứng khoán vào chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với điều lệ quỹ; Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ đầu tư chứng khoán để đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành, không được quá 10% tổng giá trị tài sản của một quỹ đầu tư chứng khoán vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành; Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của tất cả các quỹ đầu tư chứng khoán do mình quản lý để đầu tư qua 49% tôngr giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành; ngoài ra Công ty quản lý quỹ không được dùng vốn và tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán để cho vay và bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào... 4. Giải pháp thành lập các công ty kiểm toán Hiện nay, trên thị trường đã có các Công ty kiểm toán độc lập trong và ngoài nước đang hoạt động trên các lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, do chúng ta trước đây chưa có thị trờng chứng khoán cho nên các mặt hoạt động này còn diễn ra tẻ nhạt và không thực sự mang nhiều ý nghĩa. Để chuẩn bị các điều kiện cho việc phát hành các cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng đòi hỏi các chủ thể phát hành phải có xác nhận của các đơn vị kiểm toán độc lập, do vậy khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động, các doanh nghiệp phát hành chứng khoán tăng lên, lúc này đòi hỏi phải có một số lượng lớn các Công ty kiểm toán đủ mạnh, có uy tín đứng ra kiểm toán các doanh nghiệp. Qua đó các nhà đầu tư có thể có một cơ sở nhìn nhận và đánh giá khách quan tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nền kinh tế nước ta trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Do đó, việc thành lập các Công ty kiểm toán là hết sức cần thiết. V. Hệ thống quản lý - giám sát thị trường ở bất kỳ một mô hình tổ chức và phương thức hoạt động nào của Sở giao dịch chứng khoán nói riêng và toàn bộ thị trường chứng khoán nói chung. Để đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách an toàn, công bằng và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các nhà đầu tư cũng như việc giám sát thị trường, nhằm mục tiêu phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Nhà nước cần phải tham gia vào quá trình tổ chức xây dựng và quản lý, giám sát thị trường. Từ nghiên cứu mô hình hệ thống kiểm soát chứng khoán của các nước trên thế giới, xin đưa ra một số kiến nghị sau: - Hệ thống giám sát cần được tổ chức gọn nhẹ, hoạt động hữu hiệu, có kế thừa và hoàn thiện tiếp theo thời gian và có sự phân cấp quản lý ở các mức độ khác nhau: + Cấp giám sát tại tổ chức kinh doanh chứng khoán, các công ty chứng khoán, các tổ chức phụ trợ trên thị trường đều phải thành lập các bộ phận giám sát, điều tra và kiểm toán nội bộ. Ngoài ra, các tổ chức này còn chịu sự kiểm tra, giám sát của các tổ chức có chức năng quản lý, giám sát cấp trên. Đó là Sở giao dịch chứng khoán,Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và các tổ chức thanh tra, kiểm toán của Nhà nước. + Cấp giám sát tại thị trường giao dịch tập trung: Sở giao dịch chứng khoán phải thành lập các bộ phận giám sát thường xuyên và bộ phận thanh tra riêng. Ngoài ra, còn phải có bộ phận thanh tra, giám sát và kiểm toán đối với các Công ty chứng khoán thành viên, các Công ty niêm yết và bộ phận này phải chịu sự quản lý, giám sát của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. + Cấp giám sát tại Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, ngoài việc theo dõi các vụ chuyên môn, vụ thanh tra phải giám sát và thanh tra toàn bộ các hoạt động có liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các vi phạm pháp luật sẽ được tiến hành xử lý theo quy định phân cấp cụ thể, từ hình thức xử phạt hành chính, đình chỉ hoạt động một thời gian, đình chỉ vĩnh viễn, thu hồi giấy phép hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. - Về cơ quan quản lý, giám sát: Trên thế giới về cơ bản có một số mô hình sau: + Nhà nước trực tiếp điều hành, kiểm soát thị trường chứng khoán (Hà Lan, Bồ Đào Nha...). + Giao trách nhiệm quản lý thị trường chứng khoán cho một bộ phận của Chính phủ (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan...), trách nhiệm này được giao cho Bộ Tài chính. + Giao trách nhiệm quản lý, giám sát thị trường chứng khoán cho các cơ quan chuyên môn thực hiện theo luật định (Anh, Mỹ, Pháp, ý, Hy Lạp, Thái Lan...). Không có một mô hình sẵn có nào về cơ chế quản lý, điều hành, giám sát thị trường chứng khoán cho cả thế giới. Mỗi nước tuỳ theo chế độ chính trị, cấu trúc của ngành công nghiệp chứng khoán mà hệ thống quản lý bắt buộc phải phù hợp với thực trạng mỗi nước về thị trường và môi trường chính trị. Đối với Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò chính trong việc kiểm soát giao dịch chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán thông qua các cơ quan và tổ chức nhất định. Những tổ chức này đặt dưới sự quản lý pháp lý của một bộ máy nào đấy hoặc trực thuộc Chính phủ nhưng phải được độc lập về chức năng kiểm soát và giám sát. Trong thời kỳ đầu tạo dựng tiền đề để xây dưng Sở giao dịch chứng khoán ở Việt Nam, chức năng này có thể giao cho Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Điều cần thiết là cơ quan này ohải có một bộ phận chuyên trách đặt ngay trong sàn giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán để kiểm soát và giám sát tại nơi, tại chổ. Trong vấn đề này có thể tham khảo cách tổ chức của Đức để tận dụng cơ sở hạ tầng vầ kỹ thuật và nhân sự. VI. Vấn đề đào tạo Ngoài những vấn đề trên, vấn đề con người trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là vấn đề cốt lõi và là nền tảng cho sự thành công của thị trường chứng khoán. Để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả cần phải có những con người hiểu biết, có kiến thức đầy đủ về quản lý, điều hành, phân tích và kinh doanh chứng khoán; đồng thời phải phổ cập kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng, các nhà đầu tư và các nhà quản trị doanh nghiệp. Có thể nói rằng, nếu như yếu tố kinh tế là nền tảng, yếu tố pháp lý là công cụ, yếu tố tâm lý là động lực thì yếu tố con người bao trùm lên tất cả các yếu tố đó. Có những con người hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán sẽ có pháp luật về thị trường chứng khoán, sẽ có người mua, người bán chứng khoán và sẽ có công nghệ chứng khoán. Sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong công chúng Việt Nam hiện nay còn ở mức rất thấp. Những khái niệm căn bản về chứng khoán, cổ phiếu, môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành, vv... chưa được phổ cập và luật pháp hoá ở mức tối thiểu cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp đào tạo những kiến thức căn bản của kinh tế thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng cho đội ngũ các nhà đầu tư và đông đảo công chúng. Đồng thời phải tuyên truyền giải thích, phổ cập kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng. ở Việt Nam hiện nay để giải quyết vấn đề này cần phải: - Thống nhất chương trình, nội dung đào tạo vào một mối là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước trên cơ sở nội dung, yêu cầu của đào tạo mà xây dựng hệ thống giáo trình, tiêu chuẩn, nội dung đào tạo thống nhất trong cả nước. - Đồng thời tiến hành đào tạo các loại cán bộ sau: + Cán bộ quản lý của Uỷ ban chứng khoán . + Cán bộ vận hành tại Sở giao dịch chứng khoán. + Cán bộ kinh doanh chứng khoán. Trong đó đào tạo cán bộ quản lý của Uỷ ban chứng khoán và đội ngũ giáo viên cho thị trường chứng khoán cần đi trước một bước. - Nội dung đào tạo: + Tổ chức đào tạo cơ bản chung, sau đó chuyển sang đào tạo chuyên sâu cho từng cán bộ. Trên cơ sở đó tiến hành tổ chức đào tạo thực hành cho các đối tượng đã qua loại hình đào tạo cơ bản và chuyên sâu. + Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo thực hành ở nước ngoài. + Bên cạnh đào tạo chuyên môn sẽ tiến hành đào tạo qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua chương trình học của các trường Đại học, trường Phổ thông để phổ cập cho dân chúng hiểu về thị trường chứng khoán. Tất cả các cá nhân muốn làm việc trong ngành chứng khoán phải qua đào tạo, thi tuyển và được Uỷ ban chứng khoán cấp bằng hành nghề. - Kinh phí đào tạo: Trong thời gian đầu Nhà nước hỗ trợ đầu tư kinh phí cho quá trình đào tạo (cơ sở, giáo trình, giảng viên...), kết hợp tận dụng triệt để nguồn kinh phí viện trợ giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế, các Công ty chứng khoán đồng thời thu hút thêm phí đóng góp của các tổ chức có người được cử đi học và của cá nhân để đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của công tác đào tạo. Mục Lục Lời nói đầu Kết luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan VMinh.doc
  • docBia Minh.doc
  • docloi noi dau.doc
  • doctai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan