Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa -Hà Nội

Quan điểm của người lãnh đạo có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo cho kiểm toán nội bộ phát huy được vai trò và thực hiện được đầy đủ chức năng của mình. Bởi vậy để đảm bảo cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở Chi nhánh NHCTĐĐ phát huy được năng lực,sáng tạo và đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của mình, tôi xin đưa ra một số ý kiến đối với lãnh đạo chi nhánh NHCTĐĐ như sau: - Có chính sách về nhân sự cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ đúng đắn: Một chính sách đối đãi, thăng chức và đào tạo tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động kiểm toán nội bộ thực hiện nghiêm túc và có hiệu lực, hiệu quả. - Bên cạnh đó, việc tuyển chọn, điều chuyển những cán bộ kiểm toán tín dụng có kinh nghiệm, có trình độ, có kỹ thuật kiểm toán là một việc làm rất khó khăn và phức tạp vì vậy lãnh đạo ngân hàng nên có một chính sách tuyển chọn khoa học, có hệ thống tiêu thức về trình độ nhất định khi tuyển chọn. - Có sự phân quyền, phân nhiệm khoa học, đảm bảo hoạt động của bộ máy kểm tra, kiểm toán nội bộ phát huy tính tự chủ, tính độc lập trong công tác. Bằng việc ban hành các văn bản, quy chế quyết định về quyền hạn và trách nhiệm tương đồng cho bộ phận này nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các sai phạm có thể xảy ra của cán bộ nghiệp vụ, ngăn ngừa và phòng tránh các loại rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là rủi ro trong kinh doanh tín dụng . - Trang bị hệ thống máy vi tính và ứng dụng phần mềm trong kiểm tra, lập trình chương trình kiểm tra riêng là việc làm cần thiết của cán bộ lãnh đạo ngân hàng để đảm bảo tốt hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ, mặt khác đảm bảo an toàn thông tin trong ngân hàng. - Thường xuyên tổ chức những cuộc trao đổi, thảo luận một cách nghiêm túc giữa lãnh đạo và các phòng ban, bộ phận trong ngân hàng về lĩnh vực này, về các vấn đề nổi cộm cần giải quyết tại chi nhánh để thống nhất tư tưởng, tránh sự hiểu sai về công tác kiểm tra,kiểm toán nội bộ chỉ là "bới lông tìm vết" ở một số cán bộ Ngân hàng. - Đối với khó khăn trong công tác của kiểm toán viên tín dụng đối vơíi quy trình thẩm định các luận chứng kinh tế kỹ thuật, các dự án xây dựng lớn, dự án của khách hàng về đổi mới quy trình công nghệ của cán bộ tín dụng, với đề xuất về biện pháp xây dựng một tổ chuyên đề trong Ngân hàng chuyên nghiên cứu và kiểm toán lĩnh vực này, để đề xuất đó được đi vào thực tế, mong rằng ban lãnh đạo Ngân hàng Chi nhánh NHCTĐĐ có sự quan tâm, xem xét và phân tích tình hình thực tế của Ngân Hàng trên tất cả các khía cạnh, từ đó có quyết định đúng đắn, tạo điều kiện hỗ trợ cho bộ phận KTKTNB của chi nhánh NHCTĐĐ hoạt động hiệu quả hơn. Hiện nay theo chỉ thị của thống đốc NHNN, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng, vụ tổng kiểm soát đã xay dựng đề án về hoàn chỉnh, xây dựng lại bộ máy, bên cạnh đó có đề cập tới đề án thành lập phòng kiểm toán giám sát công nghệ công nghệ thông tin của ngành Ngân hàng, đề án dự kiến đi vào hoạt động vào năm 2002.

doc112 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa -Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tra, kiểm soát của Ngân hàng chủ yếu là phương thức kiểm tra tại chỗ, gây tăng chi phí cho Ngân hàng. Mặt khác những rủi ro xuất phát từ những sai phạm nghiệp vụ không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời dẫn đến rủi ro trong kiểm tra là rất cao. Bên cạnh đó tổ kiểm toán tín dụng hoạt động trong thời gian chưa dài, kinh nghiệm trong công tác còn những hạn chế nhất định do đó cần phải củng cố và hoàn thiện dần để nâng cao hiệu quả trong công tác. Với những khó khăn trước mắt, phòng kiểm tra, kiểm toán ngân hàng nói chung và các kiểm toán viên tín dụng nói riêng cần trang bị cho mình lượng kiến thức nhất định làm phương tiện để thực hiện nhiệm vụ, hoàn thiện chức năng của mình trong điều kiện mới. d. Chức năng của hoạt động kiểm toán chưa được thực hiện đầy đủ. Hoạt động kiểm toán chưa được thực hiện đầy đủ, mới chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh. Thực trạng này không chỉ tồn tại ở riêng NHCTĐĐ mà còn là hiện tượng phổ biến ở các chi nhánh khác, đơn vị khác (trừ phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ đóng tại trụ sở chính NHCTVN và ở một số đơn vị khác thực hiện tương đối nghiêm túc công tác này). Chức năng chính của công tác kiểm toán nội bộ nói riêng và công tác kiểm toán nói chung là kiểm tra, xác nhận và đánh giá một cách nghiêm túc, trung thực những thông tin được cung cấp bởi các bộ phận nghiệp vụ được kiểm tra. Mặt khác sản phẩm sau khi kiểm tra, kiểm toán phải là các báo cáo được trình bày với những đánh giá xúc tích nhất về thực trạng tổng thể hoạt động kinh doanh của đơn vị nào đó nói chung và những kết quả tổ chức nói riêng. Cũng xuất phát từ việc quyền hạn và phạm vi thẩm quyền của bộ phận này chỉ được trao trong một giới hạn nhất định cho nên không thể tránh được tình trạng các báo cáo mới chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh một cách khá chung chung. Phải chăng thực tế nàycũng xuất phát từ chính bản thân kiểm toán viên chưa có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về vị trí và vai trò của công tác mình đang đảm nhận,từ đó chưa nghiêm túc phấn đấu, xác lập cho mình một vị trí xứng đáng, tạo lập tiếng nói chung cho công tác kiểm tra, kiểm toán tại Ngân hàng. e. Hoạt động kiểm tra đột xuất còn rất hạn chế. Thực tế cho thấy hằng năm số lần kiểm tra đột xuất của tổ kiểm tra về nghiệp vụ tín dụng là rất nhỏ, do đó khả năng loại trừ một khối lượng lớn rủi ro trong kinh doanh tín dụng còn hạn chế. Vì hoạt động kiểm tra, kiểm toán của ngân hàng áp dụng theo hình thức định kỳ kế hoạch, chủ yếu một năm hai lần và có quy định số hồ sơ vay vốn của Khách hàng sẽ được kiểm tra nên có phần coi nhẹ công tác này. Tuy nhiên đây lại là một hạn chế của ngân hàng cần được tháo gỡ kịp thời để những rủi ro, khó khăn không có cơ hội phát sinh. Những rủi ro này chủ yếu là những rủi ro trọng yếu mà đến kỳ kế hoạch bộ phận kiểm tra, kiểm toán phát hiện ra cũng đã là gần quá muộn và phải sử dụng đến các cách xử lý nặng nề hơn. Xét về mặt bản chất thì dù là kiểm tra địng kỳ hay kiểm tra đột xuất cũng nhằm một mục tiêu là phát hiện và ngăn ngừa xử lý sai phạm, đảm bảo sự ổn định cho hạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy không nên quá coi trọng việc kiểm tra, kiểm toán định kỳ mà coi nhẹ kiểm tra, kiểm toán đột xuất, trong khi kiểm tra, kiểm toán đột xuất có thể hạn chế được tình trạng hoạt động theo lối mòn của công tác kiểm tra định kỳ và các sai phạm mới tinh vi hơn có thể "đột xuất" được phát hiện thông qua kiểm tra đột xuất. f. Hạn chế trong phối hợp giữa kiểm tra, pháp chế với phòng kinh doanh tín dụng. Hiện tượng này xảy ra như là một kết quả thuộc về mặt bản chất mà tự bản thân mối quan hệ giữa người kiểm tra và người bị kiểm tra nảy sinh. Bởi lẽ trong công việc của bất kỳ một đối tượng nào vốn rất tôn trọng nguyên tắc "bí mật" và độc lập cũng không muốn có một lực lượng bên ngoài khách quan nào tác động. Do đó, chỉ khi lực lượng bên ngoài ấy đủ thẩm quyền và được trao quyền một cách đầy đủ thì mới có khả năng khai thác và được cung cấp thông tin từ đối tượng bị kiểm tra. Tuy nhiên mặc dù đã được xác lập là bộ phận thuộc quản lý của Giám đốc và hoạt động với nhiệm vụ là kiểm tra, kiểm toán các mặt nghiệp vụ của Ngân hàng song vì tính phức tạp của nghiệp vụ tín dụng mà sự phối hợp trong mối quan hệ giữa kiểm toán viên tín dụng với cán bộ tín dụng chưa đạt được kết quả toàn diện. Tồn tại này được coi là hệ quả của tồn tại tính độc lập chưa được đảm bảo trong kiểm tra, kiểm toán dẫn đến việc một số sai phạm phải phúc tra nhiều lần. Ngoài nguyên nhân trên còn một nguyên nhân nữa thuộc về bản thân kiểm toán viên trong việc đôn đốc và xử lý sai phạm kém kịp thời mà phòng kiểm toán tín dụng cũng cần có những chấn chỉnh. g, Những tồn tại khác. Ngoài những tồn tại trên, tổ kiểm toán tín dụng của ngân hàng còn gặp những khó khăn sau: - Khó khăn trong phối hợp với ngân hàng đối với việc xử lý TSTC, xử lý nợ tồn đọng (nợ quá hạn và nợ khó đòi) để thu vốn vay cho ngân hàng, xử lý tài sản của khách hàng qua đời để hoặc không để lại di chúc thừa kế, gây những tranh chấp không đáng có. Nguyên nhân chủ yếu là hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước và pháp luật chưa đồng bộ và còn nhiều bất cập. - Kiểm toán viên còn rất lúng túng khi kiểm tra những hồ sơ tín dụng có liên quan đến lĩnh vực xây dựng, quy trình công nghệ của máy móc, thiết bị vì ngân hàng cũng thường xuyên cho vay những dự án lớn để kế hoach đầu tư vào lĩnh vực xây dựng, đổi mới tài sản cố định và mở rộng việc tái sản xuất theo chiều sâu. Cho nên khi cán bộ tín dụng thẩm định những dự án này, kiểm toán viên tín dụng thực sự không biết việc thẩm định như vậy đã được hay chưa. Về tồn tại này chủ yếu do trình độ của kiểm toán viên về các lĩnh vực nàt còn nhiều hạn chế, mặt khác các cấp lãnh đạo ngân hàng cũng chưa có sự quan tâm đúng mức, hệ thống văn bản hướng dẫn quy trình kiểm tra còn nhiều bất cập. - Đối với nghiệp vụ bảo lãnh: quy chế bảo lãnh trong nước chưa được ban hành, trong quyết định 283 ban hành cùng quy chế hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của NHNN chưa đề cập đến việc KH phải ký quỹ bảo lãnh, hay NHTM phải trích lập quỹ bảo lãnh như thế nào, nên khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này gặp rất nhiều khó khăn, đây cũng là khó khăn đối với kiểm toán viên tín dụng khi tiến hành kiểm tra, kiểm toán, đặc biệt trong nhiều trường hợp các báo cáo kiểm tra, kiểm toán chưa đề cập cụ thể vấn đề này. - Tồn tại khác: Ngân hàng còn gặp khó khăn trong cho vay đầu tư bất động sản, một mặt do trình độ của cán bộ tín dụng về lĩnh vực này còn hạn chế, mặt khác do các văn bản pháp luật của Nhà nước trong hướng dẫn thực hiện còn nhiều bất cập. Tóm lại, cho dù xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan hay khách quan, những tồn tại trên về công tác kiểm tra, kiểm toán tín dụng của ngân hàng đều phải tìm biện pháp khắc phục. Việc khắc phục những tồn tại này chẵng những có ý nghĩa với bản thân phòng kiểm tra, kiểm toán ngân hàng trong việc đảm bảo vai trò, vị trí và sự tồn tại có ý nghĩa của nó mà đối với ngân hàng cũng vô cùng cần thiết, đảm bảo chất lượng toàn diện trên tất cả các mặt hoạt động của ngân hàng và làm trong sạch, lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đảm bảo mục tiêu: phát triển, an toàn và hiệu quả. Chương III một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ đối vơí hoạt động TD tại chi nhánh NHCTĐĐ I. Sự cần thiết phải giải quyết những tồn tại, những mặt chưa làm tốt của công tác kiểm tra TD tại chi nhánh NHCTĐĐ. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro là điều khó tránh khỏi, hậu quả của rủi ro phụ thuộc rất lớn vào việc ngân hàng phòng ngừa và hạn chế nó như thế nào, vì vậy việc làm thế nào để hạn chế rủi ro có tác dụng và hiệu quả là vấn đề thực sự quan trọng. Đặc biệt là đối với hoạt động kinh doanh tín dụng, vì đó là hoạt động đem lại nguồn thu nhập cao nhất cho ngân hàng, song cũng là hoạt động có nhiều rủi ro nhất . Xuất phát từ quan điểm đó, việc áp dụng các công cụ và phương tiện quản lý đối với hoạt động kinh doanh tín dụng được lãnh đạo NHCTĐĐ rất quan tâm trong đó kiểm tra, kiểm toán nội bộ là một công cụ, một chức năng quản lý quan trọng nhằm đảm bảo ổn định các mặt nghiệp vụ ngân hàng. Kiểm toán nội bộ với chức năng cơ bản là xác minh, thuyết phục để gây niềm tin cho những người quan tâm về những thông tin kinh tế, chức năng xác minh này là cơ sở cho việc thực hiện chức năng quản lý của lãnh đạo ngân hàng, là cơ sở để hoạt động của phòng nghiệp vụ tín dụng đạt được kết quả cao hơn. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là mọi mặt hoạt động của công tác kiểm tra, kiểm toán tín dụng đều tốt, hay đều "suôn sẻ", mà vì những lý do khác nhau vẫn có những tồn tại, những nhược điểm cần sửa đổi, những khó khăn cần tháo gỡ và khắc phục. Những tồn tại như: kết quả kiểm tra chưa cao (cả về số lượng, chất lượng) hay công tác kiểm soát từ xa chậm đổi mới, việc áp dụng tin học vào kiểm tra kiểm toán còn hạn chế, hoạt động kiểm tra đột xuất còn ít được áp dụng. Tính độc lập của kiểm toán nội bộ chưa được đảm bảo, sự phối hợp trong quan hệ giữa phòng nghiệp vụ với bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chưa nhịp nhàng thông suốt, kiểm toán chưa thực hiện đầy đủ chức năng của nó, mới chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh, và một số khó khăn khác. Nhận thức tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ và mức độ ảnh hưởng của những mặt còn tồn tại, khó khăn đó em xin đưa ra một số biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng, đồng thời em cũng xin được đưa ra một số kiến nghị là cơ sở để có thể thực hiện được những giải pháp đó. II. Một số biện pháp nhằm khắc phục hạn chế, tồn tại của công tác kiểm tra, kiểm toán tín dụng tại chi nhánh NHCTĐĐ. 1. Đề xuất về biện pháp khắc phục đối với những tồn tại, hạn chế của công tác kiểm toán tín dụng. a. Giải pháp để nâng cao chất lượng công tác KTKTNB đối với hoạt động tín dụng. Kết quả kiểm tra, kiểm toán của năm 2000 đối với những món vay, số dư nợ năm 1999 chưa cao, về số tương đối đạt là 42% tổng dư nợ thực tế đạt được của ngân hàng trong năm 1999, về cơ cấu dư nợ cũng chưa kiểm tra hết (kiểm tra theo cơ cấu dư nợ) và chất lượng kiểm tra cũng chưa cao. Đồng thời những khản cho vay, những món vay xuất hiện trong năm 2000 chưa được kiểm tra, kiểm toán vì thuộc nhiệm vụ năm 2001. Thực tế này cho thấy nên có những biện pháp, những thay đổi phù hợp trong kế hoạch, chương trình kiểm tra, kiểm toán để có thể hạn chế những sai phạm xảy ra, những biện pháp đó là: -Về việc xây dựng kế hoạch kiểm toán, ngân hàng không chỉ đề ra kế hoạch kiểm tra theo từng phòng kinh doanh (như nhiêm vụ kế hoạch năm 2000) mà nên đặt ra các chỉ tiêu cụ thể như: tỷ lệ dư nợ nhất định phải kiểm tra trong tổng dư nợ tại thời đIểm kiểm tra, kiểm toán. Đối với nợ quá hạn cũng đặt ra tỉ lệ phải kiểm toán nhất định. Mặt khác nên kiểm tra gối đầu giữa các kỳ và kiểm tra dứt điểm đê tránh không hoàn thành được nhiệm vụ kỳ kiểm toán. Trong mỗi kỳ kiểm toán cũng nên áp dụng một số phương pháp kiểm toán như: không kiểm toán lần lượt hoặc ngẫu nhiên các hồ sơ tín dụng của khách hàng mà có thể kiểm toán theo quy mô dư nợ, hay tuỳ theo mức độ trầm trọng sai phạm từ kỳ kiểm toán trước (còn gọi là kiểm toán theo nguyên tắc ưu tiên mức độ sai phạm). Hay kiểm toán theo hồ sơ của từng cán bộ tín dụng nắm giữ trong kỳ kế hoạch. Việc kiểm toán theo những phương pháp này có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra sự khoa học trong kiểm toán, tức là kiểm toán hết được các hồ sơ mà vẫn nhấn mạnh được những điểm cần chú ý, những sai phạm trọng yếu sẽ được phát hiện và làm giảm rủi ro trong kiểm tra, kiểm toán, những sai phạm mới nảy sinh cũng được phát hiện và sẽ được kết luận có được đưa vào danh mục những sai phạm cần tăng cường theo dõi và sửa chữa hay không? Về việc kiểm toán những hồ sơ có dư nợ nhỏ hoặc những khách hàng có nợ quá hạn nhỏ cũng không nên bỏ qua mà càng phả được quan tâm, chú trọng kiểm toán để tránh xảy ra rủi ro hệ thống, rủi ro dây truyền, kiểm toán những món vay này cũng nên kiểm toán theo những phương pháp đã nêu ở trên. Khi kiểm toán, đối với những sai phạm lặp lại của cán bộ tín dụng, kiểm toán viên tín dụng cần tăng cường đôn đốc, có giải thích trên cơ sở những nguyên tắc tín dụng và nguyên tắc kế toán, nguyên tắc trong hoạt động, trong công tác của một cán bộ ngân hàng. Trong trườg hợp tái phạm nhiều lần, không có thái độ nghiêm túc trong làm việc hoặc không có ý định sửa chữa, kiểm toán viên tín dụng có thể đề xuất những kiến nghị với Giám đốc để xử lý trường hợp đó. Muốn vậy, mọi nguyên tắc tín dụng, nguyên tắc trong hoạt động của một cán bộ Ngân hàng, kiểm toán viên tín dụng cũng phải nắm chắc và tuân thủ triệt để thì mới có căn cứ, đảm bảo tình hợp lý, hợp pháp khi đưa ra kiến nghị cho các trường hợp này. b. Tăng cường công tác kiểm soát từ xa và áp dụng cộng nghệ tin học vào kiểm tra kiểm toán - Kiểm soát từ xa là hình thức kiêm tra của cán bộ kiểm tra đối với đối tượng được kiểm tra dưới các hình thức các biên bản, báo cáo, các thông tin hoạt động được cung cấp từ chính các đối tượng được kiểm tra đó mà các cán bộ kiểm tra không đến trực tiếp kiểm tra, kiểm toán. - Tác dụng của hình thức kiểm tra này: nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin của kiểm toán về đối tượng được kiểm tra, từ đó có những kết luận tổng quát, đầy đủ nhất về đối tượng đó cung cấp cho lãnh đạo ngân hàng những thông tin chính xác để có quyết định kinh doanh, quyết định quản trị đúng đắn . Như vậy việc tăng cường công tác kiểm soát từ xa kết hợp kiểm tra tại chỗ của tổ kiểm tra tín dụng cũng như của phòng kiểm tra, kiểm toán Ngân hàng hết sức cần thiết, một mặt để hoàn thiện hệ thống thông tin Ngân hàng, mặt khác phát hiện sai phạm kịp thời, hạn chế và khắc phục rủi ro một cách hiệu quả, đảm bảo tính kinh tế . - Bên cạnh việc số lần kiểm tra, kiểm soát từ xa nhỏ, việc áp dụng công nghệ tin học vào kiểm tra còn nhiều bất cập. Hiện số máy vi tính trang bị cho phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ rất ít, việc nối mạng chưa được thực hiện cũng như một hệ thống lập trình riêng về kiểm tra, kiểm toán làm cho công tác kiểm tra, kiểm toán chưa cập nhật được thông tin kịp thời, chi phí còn cao. Trên thực tế, muốn nắm được thông tin về đối tượng cần kiểm tra, NH hoặc phải kiểm tra tại chỗ (theo định kỳ hoặc đột xuất) hoặc phải chờ các báo cáo được gửi từ đối tượng được kiểm tra đến cho phòng kiểm tra dưới hình thức bản báo cáo trực tiếp . Như vậy nên chăng ngân hàng phải trang bị thêm máy vi tính, thực hiện nối mạng nội bộ để phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ có thể kiểm tra các phòng nghiệp vụ bất cứ lúc nào. Từ thực tế này cần có sự quan tâm thoả đáng của cấp Trung ương để đảm bảo hoạt động kiểm toán nội bộ của chi nhánh được tốt hơn. Mặt khác bản thân cán bộ kiểm toán nội bộ cũng phải trang bị cho mình kiến thức về sử dụng máy,về kiểm tra trên máy như thế nào đối với từng chỉ tiêu, nghiệp vụ. Hai biện pháp giải quyết tồn tại về công tác kiểm soát từ xa và ứng dụng tin học trong kiểm tra hết sức quan trọng, trong đó giải quyết tồn tại về tăng cường công tác kiểm soát từ xa là một việc làm thiết thực và cần làm ngay. Biện pháp về tăng cường ứng dụng tin học trong kiểm tra mặc dù còn phụ thuộc nhiều vào đều kiện khách quan nhưng không thể xem nhẹ. Hai yếu tố này phải được thực hiện song song, đồng bộ vì chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu công tác kiểm soát từ xa được tăng cường nhưng vẫn làm bằng phương tiện thủ công là "đợi" các phòng gửi thông tin đến mà không áp dụng máy vi tính vào kiểm soát từ xa thì kết quả , tác dụng kiểm tra có tăng nhưng chi phí vẫn cao, không đảm bảo hiệu quả kiểm tra. c. áp dụng kiểm tra đột xuất đối với hoạt động tín dụng. Về mặt bản chất kiểm tra đột xuất không phải là kiểm tra định kỳ nhưng có thể là kiểm tra tại chỗ hoặc kiểm soát từ xa. Đặc trưng của công tác kiểm tra đột xuất là bí mật hơn kiểm tra định kỳ (vì về mặt thời gian đối tượng kiểm tra không được biết). Mặt khác tác dụng của kiểm tra tín dụng là để nắm được những thông tin chính xác, khách quan hơn tình trạng cho vay,dư nợ của các phòng, các bộ phận kinh doanh tín dụng của ngân hàng, và mang tính răn đe để các bộ phận nghiệp vụ chú ý làm tốt hơn. Do vậy hoạt động này cần phải tăng cường hơn nhằm phát hiện ngăn ngừa các sai phạm của cán bộ tín dụng cũng như các sai phạm trong giao dịch giữa Ngân hàng với khách hàng để có biện pháp quản lý đúng đắn. Muốn vậy, khi thực hiện công tác này tổ kiểm toán tín dụng cần phải có một hệ thống thông tin tương đối hoàn chỉnh về đối tượng được kiểm tra, để có thể nắm bắt được các vấn đề nổi cộm, những khâu trọng yếu được cán bộ tín dụng xử lý như thế nào, hay nắm được tình hình kết quả cấp tín dụng , theo dõi thu nợ ra sao của cán bộ tín dụng để có tư duy đúng đắn khi kiểm tra đột xuất. Kiểm tra đột xuất của ngân hàng đôi khi cũng chỉ nhằm hoàn thành kế hoạch kiểm tra một cách hình thức, tình trạng này cần phải loại bỏ, khi kiểm tra, kiểm toán đột xuất phải trả lời được những câu hỏi sau: - Tại sao phải tiến hành kiểm tra đột xuất? - Kiểm tra đột xuất vấn đề gì, kiểm tra đối tượng nào? - Kiểm tra đột xuất như thế nào? - Hiệu quả kiểm tra đột xuất đạt đến đâu? d. Đảm bảo tính độc lập của Kiểm toán viên và của bộ phận kiểm toán nội bộ. Xuất phát từ những nguyên nhân mô hình tổ chức và cơ chế tổ chức, là hạn chế gây ra nhiều khó khăn cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ của ngân hàng khi hoạt động. Tính độc lập có ý nghĩa quyết định tới chất lượng của cuộc kiểm toán, do đó để đảm bảo được tính độc lập cho kiểm toán viên nộ bộ, cấp lãnh đạo Ngân hàng phải trao cho kiểm toán viên tín dụng một quyền hạn đủ rộng, các khía cạnh cần kiểm tra trong tín dụng phải được thực hiện triệt để để đảm bảo các nguyên tắc tín dụng trong nghiệp vụ tín dụng phải được thực hiện đầy đủ, các nguyên tắc kiểm toán cũng được thực hiện đầy đủ. Mặt khác, cán bộ kiểm tra, kiểm toán cũng phải hoạt động thực sự nghiêm túc, tạo sự tin tưởng, nơi lãnh đạo và các phòng ban nghiệp vụ khác để tạo ra sức nặng trong tiếng nói của kiểm toán viên tín dụng. e. Phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong kiểm tra kiểm toán, thực hiện tốt giữa tự kiểm tra nghiệp vụ và kiểm toán nội bộ. - Về mặt pháp lí: hệ thống văn bản pháp quy phải được thực hiện đung đắn. Muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình, cán bộ kiểm tra tín dụng phải kiểm tra chặt chẽ, nghiêm túc sự tuân thủ pháp luật của cán bộ tín dụng. Còn cán bộ tín dụng, muốn tránh rắc rối, muốn đảm bảo hoạt động của mình không bị phê bình thì buộc bộ phận này cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy tắc, tuân thủ pháp luật. Làm được như vậy tránh những bất đồng và mâu thuẫn xảy ra giữa cán bộ tín dụng và kiểm toán viên, mặt khác hệ thống văn bản pháp luật hiện nay kém tính đồng bộ do đó kiểm toán viên phải có trách nhiệm giảng giải những vướng mắc, khó hiểu của cán bộ tín dụng nhằm góp phần đạt được mục tiêu của toàn hệ thống. Thường xuyên có những cuộc trao đổi, thảo luận về vấn đề này. - Về mặt phối hợp giữa tự kiểm tra nghiệp vụ tín dụng và kiểm tra, kiểm toán nội bộ tín dụng: Rõ ràng rằng khi kinh doanh tín dụng, cán bộ tín dụng, phải làm mọi cách để tăng hiệu hiệu quả tín dụng và giảm rủi ro cho ngân hàng do đó mỗi cán bộ tín dụng phải là một kiểm toán viên nội bộ tự kiểm tra hoạt động, công tác của mình. Cả hai bộ phận này phải tôn trọng tính tập thể, tôn trọng thẩm quyền của nhau. Kiểm toán viên tién hành kiểm tra tín dụng cũng không ngoài một mục đích nào khác là ổn định tìn hình kinh doanh tín dụng của ngân hàng, đảm bảo kinh doanh tín dụng đúng nguyên tắc, loại trừ những rủi ro phát sinh trong kinh doanh tín dụng. Điều quan trọng là mặc dù có mâu thuẫn thuộc về bản chất trong quan hệ kiểm tra giữa người được kiểm tra và ngưi kiểm tra, song cả hai đối tượng phải có nhạn thức rằng: qua kiểm tra bộ phận tín dụng sẽ biết mình sai ở đâu để có những thay đổi làm cho họ tốt hơn vàđối với kiểm toán viên, qua kiểm tra sẽ thấy được những mặt mình chưa làm được. Trong khía cạnh này hai bộ phận này nên có sự hỗ trợ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ . Mặt khác cả hai bộ phận đều nằm trong một thẻ thống nhất, tức là hoạt động vì sự tồn tại, phát triển của ngân hàng, cho nên cả hai bộ phận này phải cùng nhau giải quyết mâu thuẫn, xây dựng lại quan điểm để hệ thống hoạt động tốt hơn. f. Thực hiện đầy đủ chức năng của kiểm toán nội bộ. - Giải quyết khó khăn này không chỉ thuộc trách nhiệm của kiểm toán viên tín dụng, của lãnh đạo ngân hàng mà còn tuỳ thuộc rất nhiều vào sự quản lý của Nhà nước, các văn bản liêm quan đến lĩnh vực này cũng chưa đề cập cụ thể, vì vậy đòi hỏi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tạo hành lang pháp lý đầy đủ để chức năng của kiểm toán phát huy hết tác dụng. Về phía các cán bộ kiểm toán tín dụng phải áp dụng các kiến thức, kỹ thuật kiểm toán của các đoàn thanh tra, kiểm toán khi kiểm tra các mặt nghiệp vụ của ngân hàng để tổ chức một cuộc kiểm toán tín dụng thực sự khoa học trên cơ sở quy trình kiểm tra tín dụng đã được ban hành và đang áp dụng. Đảm bảo thực hiện đầy đủ các bước kiểm toán sau: - Xác định đối tượng, mục tiêu của cuộc kiểm toán. - Xác định rủi ro trọng yếu khi kiểm toán . - Lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán. - Kiểm toán vấn đề trọng tâm như thé nào và rà soát ra sao. - Việc áp dụng điện toán như thế nào khi kiểm toán. - Lập báo cáo kiểm toán, cơ sở là chế độ báo cáo của Nhà nước quy định. d. Giải pháp cho các vấn đề khác. Đối với khó khăn trong phối hợp với ngân hàng trong việc xử lý tài sản thế chấp, nợ tồn đọng để thu nợ cho Ngân hàng. Việc xử lý tài sản của khách hàng qua đời để lại di sản thừa kế, gây những tranh chấp không đáng có. -Trước tiên các kiểm toán viên tín dụng cần phải được khẳng định rằng: các lĩnh vực trên thuộc trách nhiệm, thẩm quyền được tham gia vào quá trình xử lý. Họ không thể làm ngơ khi các lĩnh vực này thuộc đối tượng của nghiệp vụ tín duụng mà không thuộc đối tượng của kiểm tra tín dụng. -Biện pháp cụ thể: cán bộ kỉem tra muốn tham gia kỉem tra lĩnh vực này phải có cái nhìn đúng đắn, có nhận thức và kiến thức đầy đủ hơn đối với những khía cạnh đó. +, Đối với việc xử lý tài sản thế chấp, nợ tồn đọng (bao gồm nợ khó đòi và nợ quá hạn) để thu nợ cho ngân hàng. Theo điều 32, khoản 1 cua nghi định 178 của chính phủ ngày 29-12-1999 có nêu: "Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ mà tài sản thế chấp tiền vay chưa được xử lý theo thoả thuận thì Ngân hàng có quyền xử lý tài sản đảm bảo tiền (TSĐB) vay để thu nợ ". Tuy nhiên nghị định này chưa phải đã được áp dụng triệt để để ngân hàng có thể thu hồi được vốn bằng cáh bán các TSĐB tiền vay đó. Bởi lẽ trong trường hợp khách hàng cố tình không trả nợ, không ký giấy uỷ quyền bán tài sản cho trung tâm phát mại hoặc cơ quan đấu giá thì trung tâm phát mại không dám (vì về nguyên tắc là không đủ thẩm quyền ) bán TSĐB đó (Vì chưa chuyển quyền sở hữu), cho nên Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát mại tài sản. Hiện Ngân hàng Đống Đa đang gặp một số trường hợp như trên với giá trị vốn vay khá lớn cũng đang chờ tiếng nói của các cơ quan pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình bằng việc ra các văn bản tầm luật để thi hnàh được điều 32 NĐ 178 và các thông tư liên quan ( Thông tư 08, 06 ngày 4-4-2001). + Đối với việc xử lý tài sản của những KH qua đời để lại di sản hừa kế tại ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng qua đời để lại di chúc ghi rõ việc phân chia tài sản, tổng giá trị tài sản tại ngân hàng thì lại là vấn đề bình thường mà các Ngân hàng vẫn gặp phải và các cơ quan pháp luật, toà án có thể giải quyết được. Vấn đề cần bàn ở đây là trường hợp khách hàng không ghi rõ trong di chúc là để lại cho ai và đặc biệt là trường hợp giá trị di chúc lớn hơn tà sản khách hàng gửi tại Ngân hàng (chủ yếu là sổ tiết kiệm và tàI khoản tiền gửi cá nhân). Vậy thi việc xử lý của Ngân hàng như thế nào? Liệu các luật vể giải quyết tố tụng, tranh chấp áp dụng cho các trường hợp trên đã đảm bảo thoả đáng cho các bên hay chưa? Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, bộ luật dân sự do Quốc hội nước CHXHCNVN ban hành ngày 28- 10- 1995 được coi là cơ sở duy nhất quyết định về việc thừa kế, nhưng còn nhiều khó khăn, bất cập trong xử lý. Đơn cử như trong trường hợp người chết đã lập di chúc nhưng sau đó lập di chúc khác thay thế di chúc trước thì di chúc trước bị huỷ bỏ (điều 665 bộ luật dân sự). Nhưng luật không nói rõ và quy định thế nào là di chúc đủ tính pháp lý, cho nên ngân hàng khó có thể xác định được bản di chúc nào là cuối cùng và có hiệu lực? Hay Ngân hàng phải chú ý, kiểm tra người lập di chúc còn có những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay không ngoài việc căn cứ váo nội dung di chúc. Bởi vậy nếu Ngân hàng có những sơ xuất nhỏ trong việc phân chia di sản thừa kế thì hậu quả xảy ra sẽ không lường hết được. Việc Ngân hàng cử người tham gia quan hệ tố tụng và đại diện trước các cơ quan pháp luật chỉ là tình thế bắt buộc mà các Ngân hàng không muốn xảy ra. Nâng cao trình dộ không những về lĩnh vực tín dụng, kiểm tra, kiểm toán mà kiến thức về pháp luật trong xử lý các vụ việc hư trên cũng thuộc trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán viên tín dụng. Những khó khăn trước mắt của ngân hàng về các vấn đề nếu trên không chỉ là vấn đề nhận thức mà còn là vấn đề có tính cấp thiết phải giải quyết đòi hỏi mỗi cán bộ phải chung sức đồng tâm. * Đối với khó khăn trong kiểm tra, kiểm toán đối với nghiệp vụ bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh trong nước trong Quyết định còn nhiều bất cập. Trong quyết định 283 của NHNN chưa đề cập đến việc khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh hay việc trích quỹ bảo lãnh còn chưa được đề cập cụ thể dẫn đến việc Ngân hàng rất lúng túng khi thực hiện nghiệp vụ này. Đây cũng là khó khăn của kiểm toán viên tín dụngkhi tiến hành kiểm tra, kiểm toán đối với nghiệp vụ này. Thực tế này cho thấy tổ KTKTNB tín dụng phải có biện pháp, cách thức kiểm toán trong kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh theo quy chế bảo lãnh hiện hành, đồng thời có những kiến nghị với cấp lãnh đạo Ngân hàng cấp trên trong việc sửa đổi quy chế tạo điều kiện cho Ngân hàng CTĐĐ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh thông suốt và hiệu quả. * Đối với khó khăn: thiếu kinh nghiệm của kiểm toán viên tín dụng trong kiểm tra quá trình thẩm định các dự án vay vốn lớn của khách hàng liên quan đến xây dựng và đổi mới quy trình công nghệ hoặc cho vay đầu tư bất động sản ( BĐS ). -Về cho vay đầu tư BĐS ở Ngân hàng rất ít tuy nhiên không phải là không có, cho nên khi kiểm toán, kiểm toán viên cần chú ý những yếu tố sau: + Địa điểm đầu tư kinh doanh. + Giá cả, khả năng có thể thu nhập được từ việc tài trợ cho kinh doanh BĐS của khách hàng. + Kiểm tra dự kiến cho thuê BĐS của khách hàng có hợp lý và khả thi không? + Tình hình kinh tế- xã hội hiện nay có cho phép đầu tư kinh doanh BĐS không? Thị trường BĐS có nhộn nhịp, sôi động không? + Quy luật lên xuống cung cầu về sử dụng và đầu tư bất động sản. + Kinh nghiệm của nhà nhà kinh doanh đầu tư, tài trợ BĐS. + Chú ý sử dụng thẩm định viên từ bên ngoài. - Thẩm định các dự án vay vốn lớn của khách hàng liên quan đến xây dựng và đổi mới quy trình công nghệ. + Phải nắm chắc quy luật của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thường bị lạc hậu hoá trong điều kiện nền khoa học hiện đại ngày nay. + Công nghệ thông tin, khoa học hiện đại là một nhu cầu không thể thiếu song cũng phải nắm được rủi ro lớn do chính ngành công nghiệp ấy mang lại. + Việc thẩm địnhcác luận các luận chứng kỹ thuật của cán bộ tín dụng về các công trình xây dựng phải được kiểm tra xát sao và kỹ càng hơn. Tuy nhiên, muốn làm được điều này, phải nắm và hiểu thật sâu về các yếu tố tham gia vào một dự án xây dựng: chẳng hạn yếu tố xây lấp, thiết bị, kỹ thuật cơ bản khác, nguồn vốn đầu tư xây dựng và lãi suất vay ngân hàng khi đầu tư xây đựng . Quy trình thực hiện dự án hết sức phức tạp, nằm ngay trong bản thân từng công đoạn và rủi ro tín dụng có thể xảy ra bất cứ lúc nào, do vậy tổ kiểm tra, kiểm toán tín dụng không được bỏ qua một khâu thẩm định nào, không những thế pghải biết được cán bộ tín dụng thẩm định như vậy đã đúng chưa, quy trình thẩm định này có phù với nội dung và đặc điểm của dự án không ? Thật vậy kiểm tra lại quá trình thẩm định các dự án, luận chứng kinh tế kỹ thuật của các công trình xây dựng của cán bộ tín dụng là việc làm hết sức quan trọng, việc kiểm tra như thế nào cho hiệu quả lại thực sự quan trọng hơn. Một biện pháp quan trọng xin được đề xuất đối với việc kiểm tra quy trình thẩm định của cán bộ tín dụng đối với các luận chứng kĩ thuật của cáccông trình xây dựng là: - Kiểm tra quy trình thẩm định: khi thẩm định phải tuân theo trình tự sau: Kiểm tra việc lập luận chứng kinh tế, việc duyệt thiết kế. Việc dự toán có hợp lí chưa; thực hiện dự án (như thế nào, có đúng không?); việc nghiệm thu thanh toán và thanh lí hợp đồng. Trong quy trình này chú ý trong khâu lập luận chứng kinh tế kỹ thuật: việc thiết kế bản vẽ đã đưược phê chuẩn chưa, tránh trường hợp khi lập là một bản vẽ, khi xây dựng và tính quyết toàn lại là một bản vẽ khác, trong trường hợp phát sinh chi phí do bản vẽ mới sẽ ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng đã dược phê duyệt bởi lẽ nếu khách hàng yêu cầu cho vay thêm do bản vẽ thay đổi, liệu ngân hàng không cho vay đã dám chắc thu hồi nợ đầy đủ (hay ít nhất các tranh chấp sẽ không xảy ra?). Thứ hai, trong khâu dự toán, chú ý chi phí cho đấu thầu và các vấn đề liên quan đến đấu thầu. ./ Tổ chức dấu thâù Quốc tế hay trong nước, chi phí bao nhiêu, thủ tục, hợp đồng đấu thầu, các thông báo trúng thầu.Trong dự toán cũng chú ý đến việc áp dụng đơn giá thanh toán cho từng hạng mục công trình giữa nhà trúng thầu và nhà thầu (nhà tổ chức đấu thầu); kiểm tra các chi phí phát sinh trong thi công. Đặc biệt phải kiểm tra trình độ kĩ sư, cán bộ công nhân dược thuê (cả hiện tại và tương lai khi dự án đi vào hoạt động), kiểm tra thời gian bảo hành từng gói thầu, từng hạng mục, hay thời gian bảo hành công trình, có lớn hơn hoặc bằng thời gian cho vay thu nợ không? Theo kinh ngiiệm của những chuyên gia về lĩnh vực này cho rằng một dự án lớn với việc tổ chức đấu thâù có chất lượng có chi phí nhỏ hơn hoặc bằng giá trị dự toán của người đầu tư xây dựng thì dự án ấy khi cho vay có khả năng thu hồi nợ gần như caonhất so với các tiêu chí khác.Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng quan diểm này là hợp lý, tuy nhiên cũng tuỳ từng điều kiện, từng dự án mà kiểm toán viên tín dụng xác định được quan điểm khoa học khi kiểm tra. Do lĩnh vực đầu tư xây dựng và công nghệ hiện đại là lĩnh vức có tính chất hết sức phức tạp, thẩm định của cán bộ tín dụng về lĩnh vực này là hết sức khó khăn, do mối quan hệ phức tạp giữa tín dụng, đầu tư tín dụng với đầu tư cho các lĩnh vực đó, nên chăng ngân hàng cần xây dựng tổ chức thêm một tổ chuyên đề chuyên nghiên cứu và kiểm toán về các vấn đề nêu trên, hoặc tổ tư vấn kỹ thuật. ngân hàng hỗ trợ cho bộ phận kiểm toán tín dụng nói riêng, phòng KTKTNB Ngân hàng nói chung hoạt động tốt hơn, hoặc cũng do điều kiện thực tế chưa cho phép có thể để bộ phận này trực thuộc quản lý của phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ Ngân hàng . Trên đây là một số biện pháp xin được đề xuất nhằm khắc phục, hạn chế những khó khăn, những vướng mắc, tồn tại của tổ kiểm tra, kiểm toán tín dụng trong hoạt động năm 2000, là cơ sở tiền đề cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh tốt hơn trong những năm tiếp theo. III. Những kiến nghị cụ thể . Để giải quyết các tồn tại và thực hiện được các biện pháp đã được đề xuất ở trên, em xin đưa ra một số ý kiến sau: Trước hết các cán bộ kiểm toán viên tín dụng của Ngân hàng cần xác định được những tồn tại, những khó khăn vướng mắc chưa làm được của tổ kiểm toán tín dụng là do những nguyên nhân nào, yếu tố khách quan nào tác động đến, và đặc biệt trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại, các tồn tại ấy có thể thực hiện, giải quyết ngay chưa hay phụ thuộc vào thời gian? Theo em, để khắc phục những tồn tại trên, để thực hiện được các biện pháp đã đề xuất, phụ thuộc rất lớn vào môi trương kinh tế xã họi- môi trường luật pháp hay cụ thể là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, vào môi trường hoạt động của ngân hàng hay cụ thể là quan điểm của cấp lãnh đạo ngân hàng, vào cái nhìn của của các bộ phận nghiệp vụ khác. Và điều quan trọng hơn cả là đối với mỗi cán bộ kiểm toán viên, trang bị cho mình những hành trang gì, phương tiện nào để có thể đảm bảo sự tồn tại của mình không phải là hình thức, không chỉ là một công cụ qản lý bình thường mà phải thực sự là một yếu tố cấu thành của chi nhánh, mà thiếu nó, hiệu quả kinh doanh của chi nhánh không được bảo đảm. Em xin được đi vào từng vấn đề cụ thể như sau: 1, Đối với các cơ quan Nhà nước và Ngân hàng cấp trên. Trong bối cảnh chung của cả nước mặc dù đã hết sức đề cao vai trò của kiểm toán nội bộ nhưng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở NHCTĐĐ còn gặp rất nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được mục đích và yêu cầu đặt ra. Bởi lẽ, hoạt đọng kiểm toán còn là hoạt đng hết sức mới mẻ, khuôn khổ và môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm tra, kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng đã được tạo dựng nhưng chưa đầy đủ và hoàn thiện. Các kỹ năng hướng dẫn cần thiết và kỹ năng kiểm toán chưa được hệ thống hoá, các văn bản pháp quy về kiểm toán đã được triển khai nhưng chưa đồng bộ nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước và tổ chức tín dụng còn nhiều lúng túng, hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam còn nhiều bất cập, cần xem xét và có những chỉnh sửa cho phù hợp. a. Kiến nghị với NHNN và các cấp có thẩm quyền về hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ Theo quy chế hiện hành về tổ chức hoạt động của bộ máy kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN của tổng giám đốc NHCTVN, các phòng (tổ) kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các chi nhánh, đơn vị trong hệ thống, trong đó có chi nhánh NHCTĐĐ hoạt động chịu sự chỉ đạo thống nhất về mặt chuyên môn, nghiệp vụ của hệ thống bộ máy kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN do tổng GĐ NHCTVN quản lý, chỉ đạo và điều hành. Tuy nhiên trên thực tế lợi ích của bộ phận này gắn liền với các Chi nhánh, đơn vị đó, cho nên có phần làm giảm tính độc lập và chủ động của các kiểm toán viên nội bộ. Mặt khác, những tháng đầu năm 2001, Thống đốc NHNN đã có chỉ thị cho vụ tổng kiểm soát xây dựng đề án về hoàn chỉnh xây dựng lại bộ máy với nội dung mọi phòng (tổ) kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các Chi nhánh, đơn vị đóng tại các chi nhánh, đơn vị đó nhưng toàn bộ hoạt động đều chịu sự giám sát và quản lý trực tiếp của TƯ, vấn đề hưởng lương, thưởng cũng do Trung ương quyết định, đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa làm tăng tính độc lập, mở rộng phạm vi quyền hạn và trách nhiệm cho bộ phận kiểm toán nội bộ Ngân hàng Về vấn đề này tôi xin được đưa ra kiến nghị sau: để đảm bảo tính độc lập và tự chủ, phát huy tính sáng tạo trong công tác của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng, NHNN nên sớm có quyết định ban hành quy chế mới về cơ cấu tổ chức hoạt động của hệ bộ máy kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN và có các văn bản hướng dẫn thực hiện đầy đủ, kịp thời, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động kiểm toán nội bộ phát huy được đầy đủ vai trò và chức năng của mình. b. Kiến nghị với các cấp lãnh đạo Ngân hàng cấp trên về việc trang bị thêm máy vi tính cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ NHCTĐĐ: Hiện nay, theo chỉ thị của Thống đốc NHNN, vụ tổng kiểm soát đã có chủ chương xây dựng phòng kiểm toán giám sát cộng nghệ thông tin của ngành ngân hàng, điều này cũng có nghĩa là mỗi phòng kiểm tra,kiểm toán nội bộ phải có một lượng máy tính nhất định và đều phảinối mạng trong hệ thống. Vì vậy, để chỉ thị này sớm được đi vào thực tế, đề nghị cấp lãnh đạo NHNN, NHCTVN có quyết định về bố trí số máy vi tính trong các phòng, tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng và trong quyết định có nói rõ nguồn kinh phí, tạo đIều kiện cho CNNHCTĐĐ nói riêng và các đơn vị ngân hàng khác nói chung thực hiện tôt công tác của mình. c. Kiến nghị với NHNN và các cấp về giải quyết TSTC thu hồi nợ tồn đọng. Hiện nay số dư nợ có tài sản thế chấp làm đảm bảo chiếm tỉ trọng rất lớn tại chi nhánh, tuy nhiên việc xử lý TSTC như thế nào, quy trách nhiệm cho các cơ quan có liên quan trong hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ ra sao, còn là một dấu chấm lửng. Thực tế cho thấy đến nay chưa có văn bản nào của Nhà nước và Thành phố về trình tự thực hiện xử lý tài sản thế chấp đảm bảo nợ vay ngân hàng cũng như việc quy trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương, các ngành trong việc hỗ trợ NH thu hồi nợ.Trước tình hình này, tôi đề nghị: - Đối với NHNNVN, các bộ: Sớm ban hành thông tư liên bộ NHNN - Bộ tài chính - Bộ tư pháp - Bộ công an - tổng cục địa chính...hướng dẫn thủ tục về thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn Ngân hàng, đặc biệt là thủ tục và phương thức xử lý TSTC để làm căn cứ pháp lý cho chính quyến địa phương và các sở, ban ngành của các tỉnh, Thành phố có căn cứ pháp lý phối hợp giải quyết, xử lý TSTC (như: nhà, đất) để thu hồi nợ khi người vay, người bảo lãnh không trả được nợ vay cho Ngân hàng. - Đối với chính quyền địa phương Thành phố hà nội: đề nghị thành lập ban chỉ đạo của thành phố Hà nội xử lý TSTC ( nhà, đất) để thu hồi nợ cho ngân hàng. Ban chỉ đạo là do đại diện của uỷ ban nhân dân thành phố làm trưởng ban, kinh phí hoạt động có thể do các NHTM có nợ tồn đọng đóng góp. Mặt khác về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho các cá nhân có nợ quá hạn ở ngân hàng đề nghị uỷ ban nhân dân các cấp, sở địa chính nhà đất nên ưu tiên hơn, hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ nhanh chóng. - Đối với toà án: Đề nghị đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án liên quan đến TSTC và xét xử dứt đIểm các vụ việc, không để dây dưa kéo dài. Riêng đối với cơ quan thi hành án: cần có cơ chế, trách nhiệm trong việc thực hiện thi hành án. d. Kiến nghị các cơ quan liên quan trong việc giải quyết thừa kế: Vấn đề này hiện nay đang làm đau đầu lãnh đạo ngân hàng, phòng kinh doanhtín dụng và bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng mà đặc biệt là tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ tín dụng. Trường hợp khách hàng đột ngột qua đời để lại một lượmh tài sản ở ngân hàng và với những người công dân thường xuyên lui tới ngân hàng, họ cho biết họ là người thân, là ruột thịt, là con nuôi... với chủ tài sản. Đó là khó khăn mà ngân hàng đang chờ đợi pháp luật của Nhà nước lên tiếng. Trong bối cảnh Quốc tế hoá và tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, giá trị tài sản cá nhân ngày càng lớn và các mối quan hệ giửa ngân hàng và khách hàng ngày càng phức tạp, mối quan hệ đó không chỉ liên quan đến công dân Việt Nam mà còn cả với người nước ngoài đang sống ở Việt Nam và ở nước ngoài. Vì vậy nếu ngân hàng có những sơ xuất, những quyết định sai lầm trong giải quyết, xử lý di sản thừa kế của KH, thì hậu quả không biết sẽ ra sao. Vấn đề về đồng sở hữu đứng tên hai hoặc nhiều cá nhân trên tài khoản, pháp luật ngân hàng chưa có hướng dẫn cụ thể. Đứng trước khó khăn này, tôi đề nghị: các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật dân sự về vấn đề thừa kế, xử lý các tài sản thừa kế theo di chúc để lại của KH hoặc với những tài sản của những khách hàng qua đời đột ngột, việc quy trách nhiệm trong xử lý của các cấp có thẩm quyền liên quan. Giải quyết được vấn đề này thực sự có ý nghĩa rất lớn, đáp ứng được mong muốn của ngân hàng và những người quan tâm. e. Kiến nghị với NHNN liên quan đến việc ban hành quy chế bảo lãnh: Hiện nay việc ban hành quy chế bảo lãnh của NHNN đối với các NHTM còn rất nhiều bất cập làm cho ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và rất lúng túng trong khi thực hiện nghiệp vụ này, đây cũng là những trăn trở của bộ phận kiểm tra, kiểm toán, đặc biệt là tổ kiểm toán tín dụng của ngân hàng. Xuất phát từ thực tế này, đề nghị: NHNN cần sớm ban hành quy chế mới về bảo lãnh, tái bảo lãnh và ký quỹ bảo lãnh cho cả hai nghiệp vụ bảo lãnh trong nước và bảo lãnh nước ngoài kết hợp với vấn đề đảm bảo an toàn cho hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh theo quy định tại quyết định số 48/QĐ/NHNN ngày 8-2-1999 của Thống đốc NHNN, tạo đIều kiện cho Chi nhánh thực hiện tốt nghiệp vụ này. 2. Kiến nghị đối với lãnh đạo NHCTĐĐ. Quan điểm của người lãnh đạo có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo cho kiểm toán nội bộ phát huy được vai trò và thực hiện được đầy đủ chức năng của mình. Bởi vậy để đảm bảo cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở Chi nhánh NHCTĐĐ phát huy được năng lực,sáng tạo và đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của mình, tôi xin đưa ra một số ý kiến đối với lãnh đạo chi nhánh NHCTĐĐ như sau: - Có chính sách về nhân sự cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ đúng đắn: Một chính sách đối đãi, thăng chức và đào tạo tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động kiểm toán nội bộ thực hiện nghiêm túc và có hiệu lực, hiệu quả. - Bên cạnh đó, việc tuyển chọn, điều chuyển những cán bộ kiểm toán tín dụng có kinh nghiệm, có trình độ, có kỹ thuật kiểm toán là một việc làm rất khó khăn và phức tạp vì vậy lãnh đạo ngân hàng nên có một chính sách tuyển chọn khoa học, có hệ thống tiêu thức về trình độ nhất định khi tuyển chọn. - Có sự phân quyền, phân nhiệm khoa học, đảm bảo hoạt động của bộ máy kểm tra, kiểm toán nội bộ phát huy tính tự chủ, tính độc lập trong công tác. Bằng việc ban hành các văn bản, quy chế quyết định về quyền hạn và trách nhiệm tương đồng cho bộ phận này nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các sai phạm có thể xảy ra của cán bộ nghiệp vụ, ngăn ngừa và phòng tránh các loại rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là rủi ro trong kinh doanh tín dụng . - Trang bị hệ thống máy vi tính và ứng dụng phần mềm trong kiểm tra, lập trình chương trình kiểm tra riêng là việc làm cần thiết của cán bộ lãnh đạo ngân hàng để đảm bảo tốt hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ, mặt khác đảm bảo an toàn thông tin trong ngân hàng. - Thường xuyên tổ chức những cuộc trao đổi, thảo luận một cách nghiêm túc giữa lãnh đạo và các phòng ban, bộ phận trong ngân hàng về lĩnh vực này, về các vấn đề nổi cộm cần giải quyết tại chi nhánh để thống nhất tư tưởng, tránh sự hiểu sai về công tác kiểm tra,kiểm toán nội bộ chỉ là "bới lông tìm vết" ở một số cán bộ Ngân hàng. - Đối với khó khăn trong công tác của kiểm toán viên tín dụng đối vơíi quy trình thẩm định các luận chứng kinh tế kỹ thuật, các dự án xây dựng lớn, dự án của khách hàng về đổi mới quy trình công nghệ của cán bộ tín dụng, với đề xuất về biện pháp xây dựng một tổ chuyên đề trong Ngân hàng chuyên nghiên cứu và kiểm toán lĩnh vực này, để đề xuất đó được đi vào thực tế, mong rằng ban lãnh đạo Ngân hàng Chi nhánh NHCTĐĐ có sự quan tâm, xem xét và phân tích tình hình thực tế của Ngân Hàng trên tất cả các khía cạnh, từ đó có quyết định đúng đắn, tạo điều kiện hỗ trợ cho bộ phận KTKTNB của chi nhánh NHCTĐĐ hoạt động hiệu quả hơn. Hiện nay theo chỉ thị của thống đốc NHNN, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng, vụ tổng kiểm soát đã xay dựng đề án về hoàn chỉnh, xây dựng lại bộ máy, bên cạnh đó có đề cập tới đề án thành lập phòng kiểm toán giám sát công nghệ công nghệ thông tin của ngành Ngân hàng, đề án dự kiến đi vào hoạt động vào năm 2002. Trước tình thế này Ngân hàng phải có chương trình đà tạo cán bộ một cách nghiêm túc, khoa học và hiệu quả để tránh xảy ra những điều không may, giảm vị thế và uy tín của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.Đặc biệt, tại đại hội tổng kết kết quả của kiểm toán nhà nước 5 năm hoạt động, trong bàI phát biểu của mình, ông Trương Đình Song- vụ trưởng vụ tổng kểm soát NHNNVN nói "Từ 2001 trở đi sẽ tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính ngay trước khi các đơn vị kết thúc năm tài chiính, đây là một bước cải tiến đáng kể, phù hợp với điều kiện, vai trò của kiểm toán nội bộ, giảm đến mức thấp nhất những sai sót trước khi báo cáo được phê chuẩn và tổng hợp báo cáo tài chính của NHNN trước khi kiểm toán nhà nước vào kiểm toán hàng năm". Đây phải chăng là một thách thức, cũng là cơ hội cho lãnh đạo Ngân hàng chứng tỏ tài năng, trình độ quản lý của mình. 3. Kiến nghị đối với kiểm toán viên tín dụng Ngân hàng CTĐĐ. Trước thực trạng về đội ngũ cán bộ kiểm tra, kiểm toán nội bộ hiện nay của NHCTĐĐ em xin có kiến nghị như sau: Cán bộ kiểm toán tín dụng không chỉ nghiên cứu và học tập đối với lĩnh vực chuyên trách mà còn phải tìm hiểu và nghiên cứu các lĩnh vực có liên quan. Cụ thể: -Những kiến thức về lĩnh vực tín dụng: + Nắm bắt quy chế cho vay, các quy chế liên quan đến td của Nhà nước và NH đảm bảo kiểm tra về mặt nguyên tắc của cán bộ tín dụng . + Nghiên cứu sâu hơn về nguyên tắc giải ngân (nguyên tắc bốn mắt); trình tự giải ngân, tập trung vào khâu thẩm định, đặc biệt là thẩm định luận chứng kinh tế kỹ thuật của các dự án liên quan đến xây dựng và quy trình công nghệ. + Nắm bắt về quy chế quy trình nghiệp vụ tín dụng và công tác kiểm toán tín dụng. Nhanh chóng nắm bắt những thay đổi của môi trường luật pháp, môi trường kinh doanh, kinh tế hiện nay. -Về trình độ chuyên môn: không ngừng nâng cao trình độ kiểm tra, kiểm toán, áp dụng và học hỏi kinh nghiệm của các đoàn kiểm tra, kiểm toán, thanh tra của Nhà nước, của NHNN vào công tác. Từ đó kết hợp với các phương pháp kỹ thuật, chương trình kiểm toán tại chi nhánh đang áp dụng để có hiệu quả kiểm tra hơn. -Về lĩnh vực tin học và tin học chuyên ngành kiểm toán phải nhanh chóng nghiên cứu, học tập và trang bị kiến thức cho mình. -Mạnh dạn đưa ra chính kiến của mình đối với mọi đối tượng có liên quan trong công tác: lãnh đạo, đối tượng kiểm tra, kiểm toán , cơ quan Nhà nước. Đây cũng là một đIều kiện, một tiêu chí để khẳng định ai là một kiểm toán viên thực thụ. -Trong công tác phải khéo léo, thông minh, có sáng tạo, tránh dập khuôn. Thường xuyên học tập và nghiên cứu trên các lĩnh vực khác. Trên đây là những ý kiến theo quan đIểm chủ quan dựa trên những nghien cứu thực tiễn tại Ngân hàng và trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Mong rằng những ý kiến này góp một phần nhỏ bé vào sự thay đổi diện mạo của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ Ngân hàng theo đúng nghĩa tiích cực của nó nhằm hoàn thiện bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các NHTM Kết luận Kiểm toán hình thành và phát triển trong bối cảnh chuyển đổi nền nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình cải cách hành chính quốc gia thể hiện rất rõ một nhu cầu không thể thiếu được của kiểm toán đặc biệt là kiểm toán hoạt động, trong đó kiểm toán nội bộ chủ yếu thực hiện chức năng này. Kiểm toán nội bộ với vai trò là một bộ phận chức năng giúp Giám đốc và cấp lãnh đạo ngân hàng kiểm toán, xác nhận và đánh giá toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận, phòng ban trong hệ thống. kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ nhưng phù hợp với điều kiện mới của Quốc gia và thông lệ Quốc tế, nó thay thế cho hệ thống kiểm tra kế toán thời bao cấp trước đây nhưng nội dung và phương pháp nghiệp vụ chác chắn là toàn dện và tiên tiến hơn nhiều. Kiểm toán tín dụng là một bộ phận, một lĩnh vưc của kiểm toán nội bộ. vậy muốn khẳng định được tiếng nói của mình, kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm toán tín dụng nội bộ ngân hàng nói riêng phải làm gi? Bằng mọi cách phát huy nội lực của mình, phải vận động hết mình, tăng cường trí tuệ, sáng tạo trong việc thâm nhập vào thế giới kiến thức hiện đại để làm chủ hành vi, tư duy, khả năng độc lập sẵn có của mình, khẳmg định vai trò của hệ thống kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường. Việc một số doanh nghiệp nhà nước, một số công ty và các tổ chức kinh tế phải giải thể bộ máy kiểm toán nội bộ trongthời gian qua chứng tỏ việc chưa quan tâm đúng mức của Nhà nước, đặc biệt là việc tạo ra hành lang pháp lý chưa đủ mạnh và còn nhiều thay đổi, bên cạnh đó cũng chứng tỏ sự non kém trong trình độ và nhận thức của các cán bộ kiểm toán, sự thiếu bản lĩnh của cấp lãnh đạo đơn vị. Bởi lẽ quy luật cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường do đó bất kì một chủ thể kinh tế nào thiếu bản lĩnh, thiếu can đảm và sáng suốt trong kinh doanh khó có thể giữ được vị thế và uy tín của mình trên thị trường. Trong thời gian thực tập tại phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ CHNHCTĐĐ, nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động này, em đã chọn đề tài" Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCTĐĐ" Em mong rằng bài khoá luận này sẽ góp một phần nhỏ bé vào viẹc khẳng định tiếng nói của một kiểm toán viên tín dụng và vị trí cần tạo lập của hoạt động kiểm toán nội bộ trong các NHTM nói riêng và KTNB trong nền kinh tế thị trường nói chung. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, cần có sự đồng tâm, hiệp lực, ủng hộ của tất cả các đối tượng trong xã hội từ Trung ương đến địa phương, đến từng cán bộ kiểm toán tín dụng ngân hàng. Để những cống hiến, đóng góp của hoạt động này đối với sự phát triển Ngân hàng thực sự có ý nghĩa, cần phải được trân trọng và phát huy, mặt khác những tồn tại, hạn chế trong công tác này sẽ được tháo gỡ, loại bỏ. Các tài liệu tham khảo: 1. Các sách về kiểm toán: - Kiểm toán nội bộ, lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ Kiểm toán nội bộ hiện đại. - Cẩm nang kiểm toán viên Nhà nước - Kiểm toán Auditing - Để trở thành Kiểm toán viên. - Những chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế. 2. Các sách về nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng: Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. 3. Các sách về hạch toán kế toán Ngân hàng, hạch toán kế toán doanh nghiệp. 4. Các văn bản pháp quy của Nhà nước và pháp luật về hoạt động Ngân hàng và các tổ chức tín dụng. 5. Các văn bản, quy chế của Nhà Nước về hoạt động kiểm toán, tín dụng NH. 6. Các tạp chí ngân hàng, tạp chí kiểm toán, tạp chí thanh tra, kiểm tra. 7. Thời báo ngân hàng. 8. Các báo cáo, biên bản kiểm tra, kiểm toán của NHCTĐĐ, biên bản kiểm tra, phúc tra của kiểm toán Nhà nước, thanh tra Nhà nước. Báo cáo tổng kết hoạt động hệ thống kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN. 9. Các tài liệu khác. Chi nhánh nhct đống đa cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------o0o--------- Bản nhận xét (Của đơn vị thực tập) Đơn vị thực tập : Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa. Sinh viên thực tập : Trương Thị Hà. Khoa : Tài chính Ngân hàng, ngành kế toán kiểm toán. Trường Đại học dân lập Đông Đô. ý kiến nhận xét của đơn vị thực tập: Hà Nội, ngày....tháng .......2001 Chữ ký của Giám đốc NH: Chữ ký của Trưởng phòng KTKT nội bộ Ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28218.doc
Tài liệu liên quan