Trong xu thế quốc tế, hóa toàn cầu hóa hiện nay, việc tham gia các định chế thương mại, tài chính quốc tế và việc thực hiện các cam kết hoặc đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế sẽ đem lại những lợi ích to lớn. Các tổ chức quốc tế là cầu nối giúp Việt Nam tiếp cận tốt hơn tới các nguồn vốn đầu tư lớn từ nước ngoài, đồng thời xoá bỏ đáng kể hàng rào thuế quan của các nước trên thế giới hiện đang áp dụng đối với hàng hóa của Việt Nam, đồng thời triển khai có hiệu quả luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ công nghệ kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế xã hội. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật đối với đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển biến có tính chất đột phá trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp. Cải cách mãnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân – khu vực kinh tế năng động và về lâu dài sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ bình đẳng khi tiếp cận với các nguồn lực tham gia xuất nhập khẩu.
Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam sẽ gặp nhiều thuận lợi đặc biệt trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Để bảo vệ bí quyết công nghệ trong nước, máy móc thiết bị của nhiều nước chịu mức thuế xuất khẩu rất nặng, khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) mà các nước này là thành viên hoắc ký kết hiệp định thương mại song phương với các nước này, mức thuế trên được hạ thấp hoặc xoá bỏ, rất có lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những thay đổi như vậy, mong rằng Công ty sẽ đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh.
86 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Technoimport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
Technoimport đặc biệt chú trọng việc tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế thị trường định hướng của nhà nước thuộc các trọng điểm kinh tế như chế biến nông sản sau thu hoạch xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu nông nghiệp cho sản phẩm nông nghiệp; chương trình phát triển những nghành kinh tế mũi nhọn, hiện đại hoá hệ thống giao dịch, y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nhằm phục vụ công nông ngư nghiệp, chú ý vào phát triển kinh tế xã hội, văn hoá của nhân dân thông qua việc nhập khẩu hợp lý, tăng cường năng lực của từng đơn vị, từng địa phương, thực hiện và hoàn thành kế hoạch nhà nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cụ thể Công ty sẽ tiến hành hoạt động theo các mặt sau :
Nhập khẩu tự doanh và nhập khẩu uỷ thác các công trình thiết bị toàn bộ, các dây truyền công nghệ, máy móc, thiết bị lẻ, nguyên nhiên liệu… phục vụ sản xuất, xây dựng, đầu tư chiều sâu, mở rộng và hiện đại hóa các công trình kinh tế văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng và các loại hàng hóa khác phục vụ tiêu dùng
Xuất khẩu trực tiếp các hàng hóa do công ty đầu tư sản xuất và liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế khác tạo ra. Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ và các hàng hóa khác theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
Thực hiện các hoạt động tư vấn thương mại bao gồm: Việc tìm kiếm các đối tác đầu tư, cung cấp thông tin, tính toán hiệu quả kinh tế của các công trình và các luận chứng kinh tế, xác định nguồn vốn đầu tư và giá cả thiết bị nguyên vật lệu, soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu và đầu tư.
Thực hiện việc liên doanh liên kết trực tiếp với các đơn vị sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước để phát triển và mở rộng phạm vi kinh doanh, tổ chức mạng lưới kinh doanh có hiệu quả
Phân cấp thanh toán cho các đơn vị cơ sở, các phòng xuất nhập khẩu, thực hiện hạch toán tổng hợp toàn công ty để đảm bảo điều hoà vốn, điều hoà kế hoạch, chỉ đạo xuyên suốt nghiệp vụ, đảm bảo kinh doanh đạt hiệu quả co nhất.
Theo như kế hoạch, Technoimport sẽ được cổ phần hoá vào năm nay (năm 2008). Do vậy cơ chế hạch toán của công ty sẽ thay đổi phù hợp với công ty cổ phần và luật doanh nghiệp. Công ty sẽ không còn các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu nữa. Công ty đang dần dần chuyển đổi cơ chế quản lý theo xu hướng cổ phần hóa.
II. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật
1. Nâng cao trình độ và tăng cường phát triển nguồn nhân lực của Công ty
Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước mắt cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng không chỉ về kỹ thuật và thương mại mà còn am hiểu luật pháp và giỏi ngoại ngữ. Hiện nay ở nước ta đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu thiết bị toàn bộ, từ những người lập dự án, thẩm định công nghệ kỹ thuật, phê duyệt hợp đồng, cho đến những cán bộ tư vấn là những người trực tiếp tham gia công tác nhập khẩu máy móc công nghệ... vẫn chưa có đủ kinh nghiệm và trình độ để thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất.
Để khắc phục vấn đề này cần có những chính sách thích hợp cải cách hệ thống giáo dục đại học và sau đại học theo hướng chú ý hơn tới đào tạo cán bộ thực hành, cần thực hiện một chương trình đào tạo sau đại học có chọn lọc về một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật lựa chọn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động gửi sinh viên tốt nghiệp đại học xuất sắc tới các trường hàng đầu ở nước ngoài để tu nghiệp; thành lập các chương trình ngắn hạn để bồi dưỡng cho các giáo sư của các trường đại học cập nhập được những thành tựu mới trong một số lĩnh vực khoa học kỹ thuật chọn lọc; có chính sách đãi ngộ tốt đối với người có năng lực như hình thành một chương trình hỗ trợ kinh phí ngắn hạn cho các cán bộ nghiên cứu trẻ trở về sau khi hoàn thành học tập cao học từ nước ngoài. Đó có thể được xem như là những công cụ về mặt chính sách có hiệu quả nhằm nâng cao tiềm năng nghiên cứu và trình độ khoa học kỹ thuật của con người. Đội ngũ trí thức ở Việt Nam cần được khuyến khích thoả đáng để có cơ hội và tăng cường khả năng tìm tòi nghiên cứu, thu nhận thêm những kiến thức bổ ích về thương phẩm, kỹ thuật công nghệ đang liên tục thay đổi trên thế giới và nắm chắc quy định của pháp luật quốc tế trong hoạt động nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật công nghệ.
Do đặc trưng nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ có liên quan tới rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy nó đòi hỏi cán bộ của Công ty phải có kiến thức sâu rộng trong nhiểu lĩnh vực. Nhưng trên thực tế, hầu hết các cán bộ trong Công ty chỉ được đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực như nghiệp vụ ngoại thương, các nghiệp vụ vi tính, nghiệp vụ ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và thực hiện tốt chức năng của mình, Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ. Cụ thể những cán bộ kỹ thuật thì cần đào tạo thêm các nghiệp vụ về ngoại thương, còn những cán bộ về ngoại thương cần đào tạo thêm các kiến thức về marketing, phổ biến các kiến thức liên quan đến luật pháp, tập quan thương mại xuất nhập khẩu của các nước, các khu vực trên thế giới liên quan đến thiết bị toàn bộ, nâng cao các kỹ năng về ngoại ngữ, tin học cho họ. Bên cạnh tổ chức các khóa học đào tạo ngắn hạn, Công ty nên khuyến khích các cán bộ tự đi học, tự trạng bị cho mình những kiến thức chuyên môn còn thiếu thanh toán một phần chi phí cũng như tạo điều kiện về thời gian và phương tiện phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu cho các cán bộ.
Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Technoimport không tránh khỏi những yếu kém chung của doanh nghiệp nhà nước. Một trong các yếu kém đó là yếu kém trong công tác quản lý lao động. Công ty cần phải có biện pháp thưởng phạt rõ ràng và hiệu quả. Trong phương án cổ phần hóa, Công ty đang có kế hoạch cho nghỉ một loạt các cán bộ chưa đến tuổi nghỉ hưu trong khi chưa đưa vào đội ngũ cán bộ trẻ để kế cận. Như vậy là rất lãng phí những kinh nghiệm mà các cán bộ lâu năm đã có được và muốn truyền dạy lại cho lớp thế hệ trẻ trong khi các thế hệ trẻ có nhiệt tình và năng nổ nhưng kinh nghiệm để nhập khẩu ủy thác thiết bị toàn bộ lại chưa có nhiều bởi nhập khẩu ủy thác thiết bị toàn bộ là một nghiệp vụ khó đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải nhanh nhạy và giàu kinh nghiệm mới có thể hoàn thành tốt nghiệp vụ này.
Hiện nay, Công ty có trên 90% cán bộ có trình độ đại học, có kinh nghiệm nhưng đa phần đã lớn tuổi nên Công ty cần có chính sách tuyển dụng mới. Đối tượng của chính sách này có thể là các sinh viên giỏi mới ra trường, có trình độ năng động nhiệt tình trong công việc, hăng say tìm tòi nghiên cứu hoạt động có hiệu quả có ý nguyện gắn bó lâu dài với Công ty. Tuy họ chưa có kinh nghiệm nhưng với sự giúp đỡ, chỉ bảo của các cán bộ giàu kinh nghiệm trong Công ty thì chắc chắn trong tương lai họ sẽ là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay.
Cũng giống như các công ty nhà nước khác, trong Công ty vẫn còn nhiều trường hợp chưa chấp hành nghiêm túc các nội quy, quy định của Công ty về kỷ luật lao động như: đi làm muộn, về sớm... Để giải quyết tận gốc vấn đề này, Công ty cần phải bố trí công việc, phù hợp với khả năng chuyên môn của từng người, tạo điều kiện cho họ học tác phong làm việc của nước ngoài. Bên cạnh đó, Công ty phải có nhiều biện pháp cứng rắn như nhắc nhở phê bình trước toàn Công ty, nặng hơn là trừ vào lương, thưởng, các khoản phụ cấp của họ. Có như vậy hoạt động của Công ty mới đi vào nề nếp và quy củ và làm tăng thêm tính hiệu quả trong kinh doanh.
Ngoài ra, Công ty nên sử dụng các hình thức động viên, thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần để động viên cán bộ trong Công ty. Cụ thể như quy định một khoản tiền thưởng cho cán bộ khi họ ký kết hợp đồng nhập khẩu có giá trị cao, hoặc có chính sách tặng quà cho họ nhân những ngày lễ lớn, sinh nhật... để tạo tâm lý tốt cho họ khi làm việc tại Công ty.
Công ty cần bố trí lực lượng lao động cho hợp lý hơn để có thế phát huy tối đa năng lực sáng tạo của từng người. Với những cá nhân kinh doanh không có hiệu quả, Công ty có thể giảm biên chế hoặc thuyên chuyển công tác, còn đối với những cá nhân kinh doanh đem lại hiệu quả cao cho Công ty thì cần có chế độ khen thưởng thích đáng. Có như vậy mới tạo điều kiện thúc đẩy các cán bộ công nhân viên trong Công ty hoạt động tích cực và có hiệu quả.
2. Hoàn thiện hơn nữa các nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ
Cho dù là một công ty có thâm niên trong nhập khẩu thiết bị toàn bộ song trước những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, Công ty vẫn cần không ngừng hoàn thiện các nghiệp vụ xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ của mình cụ thể như:
Ngay từ khi lựa chọn đối tác kinh doanh, Công ty cần phải tìm hiểu kỹ đối tác về lĩnh vực kinh doanh, khả năng tài chính, uy tín cũng như điểm mạnh, điểm yếu của họ. Đây là một khâu rất quan trọng, hạn chế các rủi ro trong kinh doanh như làm ăn với các công ty ma, những trung gian môi giới đang trong giai đoạn phá sản.
Khi tiến hành đàm phán, Cán bộ công ty phải nắm vững nghệ thuật đàm phán, vận dụng một cách linh hoạt ba yếu tố của đàm phán là bối cảnh, thời gian và quyền lực của đàm phán sao cho có lợi nhất.
- Bối cảnh đàm phán là môi trường và điều kiện mà các chủ đầu tư tiến hành đàm phán. Về nguyên tắc Công ty phải che dấu đước bối cảnh của mình và thăm dò thái độ của đối phương để có thể luôn đứng vào đàm phán với tư cách là người chủ động.
- Quyền lực của đàm phán là sức mạnh và sự am hiểu của chủ thể tham gia đàm phán. Muốn nắm được quyền lực này Công ty phải am hiểu về nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật cũng như về pháp luật. Khi ký kết hợp đồng Công ty cần chú ý nhiều điều khoản giá cả, bởi vì nếu không cẩn thận sẽ dễ bị thua thiệt. Hợp đồng cần quy định rõ, chặt chẽ tránh rắc rối về sau. Hiện nay các điều khoản về bất khả kháng, khiếu nại, trọng tài chưa được Công ty quan tâm đúng mức. Mặc dù cho đến nay Công ty chưa gặp phải rắc rối gì, nhưng trong tương lai không ai dám chắc Công ty không gặp phải những vụ tranh chấp những trường hợp bất khả kháng theo chiều hướng bất lợi cho Công ty. Như vậy để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, Công ty cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề này.
Khi tiến hành làm thủ tục Hải quan để tiếp nhận hàng hoá, Công ty cần chú ý tới điểm sau đây:
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách thủ tục Hải quan nhưng thực tế cách thức làm việc của các cán bộ Hải quan còn nhiều bất cập. Vì thế để tránh phiền hà rắc rối, Công ty cần chuẩn bị kỹ lưỡng các loại chứng từ, giấy tờ cần thiết để xuất trình với Hải quan như: hợp đồng ngoại, hợp đồng uỷ thác, giấy chứng nhận xuất xứ, giấy chứng nhận chất lượng, trọng lượng… Hiện nay khi làm thủ tục Hải quan chủ hàng phải tự kê khai, tự áp giá, áp thuế suất và tự tính số tiền phải nộp thuế. Hải quan chỉ kiểm tra số hàng thực tế của chủ hàng và các kết quả tính toán trên. Vì vậy cán bộ làm thủ tục của Công ty phải tính toán hết sức cẩn thận và chính xác để tránh những rẵc rối, phiền toái làm chậm thời gian giao hàng ảnh hưởng đến tiến độ của công trình. Là một công ty chuyên kinh doanh về hàng nhâp khẩu nên công việc của cán bộ là thường xuyên tiếp xúc với Hải quan nên để làm thủ tục thuận lợi và nhanh chóng Công ty cần tăng cường quan hệ đối với cán bộ Hải quan. Giải quyết dứt điểm tình trạng tranh cãi kéo dài trong nhiều năm giữa Công ty và Hải quan về vụ nợ thuế nhập khẩu ô tô.
3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng
Thị trường có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh doanh nhập nhập thiết bị toàn bộ của Technoimport cả về chất lượng, số lượng, và giá cả hàng nhập khẩu cũng như hoạt động tiêu thụ mặt hàng này. Nghiên cứu thị trường là hoạt động đầu tiên của quá trình kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng trong đó có thiết bị toàn bộ. Do đó một trong những công việc trọng điểm là nghiên cứu thị trường, không chỉ thị trường trong nước mà còn cả thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài đôi khi còn quan trọng hơn vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ khoa học công nghệ, giá cả lắp đặt, vận hành và bảo hành. Việc làm này giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin thực tế để đưa ra quyết định đúng đắn cho việc lập kế hoạch marketing, tiếp cận thị trường để lựa chọn mặt hàng nhập khẩu tốt, thị trường xuất khẩu có uy tín, phù hợp và có khả năng đáp ứng nhu cầu của mình một cách tối đa nhất và qua đó tránh tình trạng chúng ta đã nhập khẩu các máy móc thiết bị quá cũ và lạc hậu không những không giúp Việt Nam trong việc phát triển trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ trong nước mà còn biến nước ta trở thành bãi rác với các máy móc thiết bị lạc hậu. Thế nhưng việc làm này tại Technoimport lại chưa được chú trọng. Technoimport chưa có một hệ thống nghiên cứu thị trường riêng biệt mà nhân viên các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu vừa tiến hành kinh doanh vừa phải tìm kiếm bạn hàng cũng như nhu cầu thị trường. Vì thế, hoạt động nghiên cứu thị trường không đầy đủ, thiếu tính chuyên nghiệp và không thống nhất theo một quy trình nhất định. Chính vì vậy, để hoạt động nghiên cứu thị trường trở nên có hệ thống, công ty cần thiết lập một bộ phận chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường; hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tạo điều kiện mở rộng cơ hội kinh doanh cho Công ty.
Thị trường nhập khẩu của Công ty mà chủ yếu là nhập khẩu thiết bị toàn bộ rất đa dạng về ngôn ngữ, tập toán thương mại, quy phạm pháp luật... Bên cạnh đó, yếu tố kỹ thuật của các thiết bị này lại rất phức tạp. Vì thế, yêu cầu đặt ra với đội ngũ cán bộ của bộ phận marketing là ngoài nghiệp vụ xuất nhập khẩu tốt còn phải đáp ứng được các yêu cầu về ngoại ngữ, kỹ thuật, có kiến thức và phương pháp tư duy tốt để phân tích đánh giá, tổng hợp và đưa ra dự báo về thị trường một cách chính xác.
Về công tác nghiên cứu thị trường quốc tế:
- Nắm vững pháp luật, tập quán thương mại quốc tế cũng như tình hình kinh tế chính trị của nước đó, tìm ra ưu điểm của thiết bị toàn bộ sản xuất tại đây cũng như tập quán xuất nhập khẩu của các nước này. Đồng thời nghiên cứu xuất xứ, mâu thuẫn chính trị với các nước khác.
- Nghiên cứu mặt hàng có thể nhập khẩu về mặt giá cả, mẫu mã, chất lượng , chính sách xuất nhập khẩu về mặt hàng đó, các lệnh phong toả, trợ giá của chính phủ đối với mặt hàng này.
- Hình thành mạng lưới kinh doanh, văn phòng đại diện , thông tin liên lạc của công ty ở các thị trường nhập khẩu trọng điểm.
- Nghiên cứu cước phí vận tải, bảo hiểm sao cho lựa chọn được điều kiện có lợi nhất.
Về công tác nghiên cứu thị trường trong nước:
- Nghiên cứu nhu cầu nhập khẩu mặt hàng của nền kinh tế cũng như ảnh hưởng của việc nhập khẩu thiết bị đối với nền kinh tế.
- Nghiên cứu chính sách trợ giúp nhập khẩu, thuế nhập khẩu, thủ tục giám định, kiểm định của các cơ quan chức năng có liên quan.
- Sản phẩm đầu ra của thiết bị toàn bộ, phản ứng của thị trường trước sản phẩm này, tính ưu việt của các sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại khác tiêu thụ trong nước.
- Nghiên cứu tình hình giá cả, quy luật cung cầu, chính sách của nhà nước.
- Chính sách buôn bán, thuế suất và chính sách đãi ngộ của nhà nước đối với tổ chức sử dụng thiết bị toàn bộ.
- Tình hình chi phí kinh doanh để xây dựng cho mình phương thức và mặt hàng nhập khẩu tối ưu.
Từ việc xác định thị trường và nhu cầu thị trường, công ty phải xác định mặt hàng cần nhập, số lượng, chất lượng và thị trường nhập khẩu. Để lựa chon một cách tối ưu ta phải chú ý tới chính sách Marketing, chính sách giá cả, sản phẩm…Đối với mặt hàng thiết bị toàn bộ cần xác định chắc chắn thị trường tiêu thụ và thường chỉ nhập theo đơn đặt hàng vì chúng là những hàng hoá có giá trị lớn. Trong hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ càng chi tiết càng tốt phải xem xét kỹ hàng hóa đó trước ký kết hợp đồng về chất lượng giá cả.
4. Tạo nguồn vốn và quản lý nguồn vốn
- Tìm mọi biện pháp tạo nguồn vốn, kinh doanh có hiệu quả như: thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, từ các hoạt động kinh doanh, vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách quản lý một cách hợp lý, để quản lý hợp lý cần:
+ Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tín dụng ngoại tệ của Nhà nước.
+ Khi bỏ vốn ra kinh doanh phải tính đến khả năng lỗ, lãi thời gian thu hồi vốn và các rủi ro có thể xảy ra để có các biện pháp phòng ngừa, xây dựng phương án kinh doanh một cách hợp lý.
- Thường xuyên đánh giá hiệu quả một cách hợp lý và nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn.
- Xây dựng một kết cấu tài sản một cách hợp lý:
+ Tỷ trọng tài sản cố định phải nhỏ hơn tỷ trọng của tài sản lưu động.
+ Tỷ trọng tài sản cố định được sử dụng trong kinh doanh phải chiếm tỷ trọng lớn. Ngược lại tỷ trọng của tài sản cố định chờ thanh lý, giá trị tài sản ngoài kinh doanh phải chiếm tỷ trọng nhỏ.
- Sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn lưu động bằng cách: tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lựa chọn mặt hàng kinh doanh và phương thức thanh toán phù hợp, hiệu quả và an toàn.
- Thiết lập mạng lưới bán hàng trong nước một cách hiệu quả.
- Khi nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần chú ý tới việc giám định, kiểm tra chất lượng, các thông số kỹ thuật và nhiều thông tin khác về mặt hàng nhập khẩu. Giảm tối đa chi phí không cần thiết để tiết kiệm vốn.
5. Giảm chi phí kinh doanh nhập khẩu của Công ty
Chi phí kinh doanh nhập khẩu là tất cả các khoản chi phí tính từ khi mua hàng cho đến khi bán hàng và bảo hành cho khách hàng trong một thời gian nhất định. Chi phí này bao gồm giá vốn hàng bán, chi phí lưu thông, chi phí bán hàng, chi phí quản lý,...Việc giảm chi phí nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty nhưng không phải khi nào việc giảm chi phí xuống mức thấp nhất cũng mang lại kết quả có lợi mà phải trên cơ sở đảm bảo một số yếu tố sau đây:
- Giảm chi phí trong điều kiện doanh thu phải đảm bảo tăng trưởng để có được lợi nhuận tốt hơn.
- Giảm chi phí nhưng phải đảm bảo được chất lượng hàng hoá và chất lượng phục vụ của doanh nghiệp.
- Giảm chi phí nhưng doanh nghiệp phải đảm bảo được các nghĩa vụ của mình với Nhà nước.
Trên thực tế, chi phí nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Technoimport còn khá cao nên lợi nhuận mà hoạt động này đem lại là chưa tương xứng so với tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu của công ty mà nó nắm giữ (chiếm 50%). Việc giảm được chi phí kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi Công ty phải cắt giảm tất cả các khoản mục cấu thành chi phí nhập khẩu trên cơ sở căn cứ vào tỷ trọng các khoản mục cấu thành chi phí để có biện pháp tác động phù hợp.
Đầu tiên, để giảm được chi phí về giá vốn hàng bán thì công ty phải làm tốt ngay từ khâu nghiên cứu thị trường để có thể đưa ra những thông tin chính xác nhất về các mặt hàng thiết bị toàn bộ để đưa ra được mức giá hợp lý nhất trong quá trình đàm phán. Trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng, công ty nên dành lấy quyền vận tải và quyền mua bảo hiểm, tức là nhập khẩu theo giá FOB, xuất khẩu theo giá CIF.
- Giá FOB áp dụng cho hàng hóa xuất, nhập khẩu là giá trị thị trường tại biên giới hải quan của “nền kinh tế” từ đó hàng hóa được xuất đi. Giá FOB là giá sử dụng do các nhà nhập khẩu phải trả nếu họ chịu tránh nhiệm chuyên trở hàng nhập khẩu sau khi hàng hóa đã xếp vào phương tiện vận chuyển tại cửa khẩu của nước xuất khẩu. Giá FOB bao gồm cả các khoản sau đây: phí vận tải chuyên chở hàng hóa tới biên giới hải quan của nước xuất khẩu, phí bốc xếp hàng hóa lên phương tiện vận tải ở biên giới và tất cả các loại thuế trừ đi trợ cấp đánh vào sản phẩm tại nước xuất khẩu. Nói cách khác, hàng hóa xuất khẩu đánh giá theo giá FOB là giá sử dụng.
- Giá CIF là giá của hàng hóa nhập khẩu tính tại biên giới hải quan của nước nhập khẩu trước khi đóng bất kỳ loại thuế nhập khẩu hay thuế khác đánh vào hàng nhập khẩu. Giá CIF của hàng nhập khẩu không bao gồm phí vận tải và phí thương nghiệp để chuyên chở hàng nhập khẩu trong phạm vi của nước nhập khẩu. Hàng nhập khẩu tính theo giá CIF bằng hàng nhập khẩu tính theo giá FOB cộng với phí vận tải và phí bảo hiểm giữa biên giới hải quan của nước xuất khẩu và biên giới hải quan của nước nhập khẩu.
Do thói quen và điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam mà chúng ta thường xuất khẩu theo giá FOB và nhập khẩu theo giá CIF trong khi cước phí của mặt hàng thiết bị toàn bộ lại chiếm tới gần 8% giá trị hàng hoá mà giá thuê tàu biển ở Việt Nam lại rẻ hơn rất nhiều (gần 20%) so với các nước khác trên thể giới.
- Thay vì các doanh nghiệp nhập khẩu theo điều kiện CIF như hiện nay, chúng ta nên yêu cầu khách nước ngoài chào hàng theo điều kiện FOB. Khi nhập khẩu theo giá FOB sẽ đem lại lợi ích:
+ Lợi ích cho quốc gia: Nếu tất cả các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu theo điều kiện FOB, kim ngạch nhập khẩu trong năm 2007 của cả nước chỉ là 48,55 tỷ USD, thay vì 52,20 tỷ USD nhập khẩu theo điều kiện CIF (theo tính toán của Bộ Thương mại). Số ngoại tệ nhập khẩu giảm 3,65 tỷ USD, do chúng ta tiết kiệm được tiền bảo hiểm và cước tàu phải trả cho nước ngoài.
+ Lợi ích đối với doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu: Các DN trả tiền ký quỹ để mở L/C ít hơn nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF. Nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF, khi khách nước ngoài giao hàng, sau 3 ngày họ đã điện đòi tiền. Nếu nhập khẩu theo điều kiện FOB, khi hàng cập cảng, doanh nghiệp nhập khẩu mới phải trả tiền cước tàu, doanh nghiệp không bị tồn vốn, hoặc không phải trả lãi vay ngân hàng cho khoản tiền cước tàu, giảm được giá thành hàng nhập khẩu. Và với các cán bộ nghiệp vụ, họ sẽ nhận được một khoản “hoa hồng”. (Theo thông lệ của các công ty bảo hiểm và hãng tàu, họ luôn luôn trích một tỷ lệ gọi là “tiền hoa hồng – commission” cho những người giao dịch trực tiếp với họ. Số tiền này không hề ảnh hưởng đến tiền hàng của doanh nghiệp).
- Khi giao hàng theo CIF có lợi ích:
+ Lợi ích đối với quốc gia: Nếu trong năm 2007, giả sử tất cả các doanh nghiệp trong toàn quốc đều xuất khẩu theo điều kiện CIF, chúng ta sẽ xuất khẩu được 50,86 tỷ USD, thay vì chỉ xuất khẩu được 47,54 tỷ USD theo điều kiện FOB, như kế hoạch của Bộ Thương mại. Phần ngoại tệ tăng thêm 3,32 tỷ USD cho quốc gia là do thu được tiền bảo hiểm và cước tàu.
Ngoài ra, lợi ích đối với doanh nghiệp cũng thể hiện rõ:
+ Đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp: Nếu xuất khẩu theo điều kiện CIF, sẽ thu được trị giá ngoại tệ cao hơn, so với việc xuất khẩu theo điều kiện FOB. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thiếu vốn, có thể dùng thư tín dụng (L/C) thế chấp tại ngân hàng, sẽ vay được số tiền cao hơn. Doanh nghiệp rất chủ động trong việc giao hàng, không phải lệ thuộc vào việc điều tàu (hoặc container) do người xuất khẩu chỉ định. Đôi khi vì lệ thuộc vào khách nước ngoài, tàu đến chậm làm hư hỏng hàng hoá đã tập kết tại cảng hoặc trong kho, nhất là hàng nông sản.
+ Đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bảo hiểm và tàu (hoặc container): Các doanh nghiệp này của Việt Nam rất thiếu việc làm, nếu các nhà xuất khẩu liên hệ mua bảo hiểm hàng hoá và thuê tàu (container) trong nước, chắc chắn sẽ làm tăng doanh số cho các doanh nghiệp này, giải quyết thêm việc làm cho cộng đồng của chúng ta, hơn là để các công ty nước ngoài thu được phí bảo hiểm và cước tàu. Việc dành lấy quyền thuê tàu và mua bảo hiểm vừa giúp cho Công ty có được sự chủ động trong việc chuyên chở hàng hoá, vừa tiết kiệm được một lượng chi phí đáng kể trong việc nộp thuế nhập khẩu và thuế VAT do thuế nhập khẩu được tính dựa vào giá CIF.
+ Đối với các cán bộ nghiệp vụ trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thay vì phí bảo hiểm và cước tàu nước ngoài được hưởng, nếu cán bộ nghiệp vụ trình giám đốc phương án xuất khẩu theo điều kiện CIF, thì họ rất cũng xứng đáng được nhận khoản hoa hồng trên.
Như vậy việc xuất khẩu theo điều kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB, đã hài hòa giữa lợi ích cho quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân. Đối với quốc gia có thể làm thay đổi cán cân giữa xuất và nhập khẩu. Giả sử thực hiện theo điều kiện tuyệt đối, chúng ta sẽ xuất khẩu được 50,86 tỷ USD trị giá CIF, nhập khẩu 48,55 tỷ USD trị giá FOB, cán cân thương mại sẽ nghiêng về xuất khẩu, tăng 2,31 tỷ USD so với nhập khẩu.
Tiếp đó, để giảm được chi phí lưu thông, Công ty cần tính toán để rút ngắn quãng đường vận tải, lựa chọn phương tiện chuyên chở phù hợp, thiết lập mạng lưới kinh doanh hợp lý cũng như tận dụng tối đa công suất đội xe chở hàng của công ty trong việc chuyên chở hàng hoá trên các tuyến nội địa.
Cuối cùng, công ty cần quản lý tốt một số chi phí khác như chi phí bán hàng, chi phí quản lý...mà cụ thể là cần phải sắp xếp, tuyển chọn đúng người đúng việc, đảm bảo mang lại hiệu quả công việc cao.
Việc tính toán và đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp để cắt giảm các khoản chi phí nêu trên trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ một cách hợp lý chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả và lợi nhuận cao cho công ty.
6. Đổi mới hình thức kinh doanh
Để có thể tồn tại và phát triển trong tình hình hiện nay, Technoimport cần phải đổi mới hình thức kinh doanh. Muốn vậy trước hết công ty cần phải giúp đỡ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty thấy được yêu cầu khách quan việc phải đổi mới và những lợi ích do sự đổi mới mang lại.
Hiện nay lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty cũng là thế mạnh và nhiệm vụ của công ty là nhập khẩu thiết bị toàn bộ, trong khi đó xuất khẩu lại rất nhỏ bé. Công ty cần chú trọng hơn đến hoạt động xuất khẩu để tăng ngoại tệ xuất khẩu và mở rộng quan hệ với các thị trường khác, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu.
Mặt khác, hoạt động nhập khẩu chủ yếu của Technoimport là nhập khẩu uỷ thác, hình thức nhập khẩu này còn rất nhiều hạn chế, vì vậy công ty cần chú trọng tới hoạt động nhập khẩu tự doanh. Đây là hình thức kinh doanh mang lại lợi nhuận cao giúp công ty chủ động trong kinh doanh, nhưng nó cũng khá mạo hiểm. Để phát triển được loại hình kinh doanh này, Công ty nên tìm nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau như ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, vay vốn nội bộ, đồng thời cần tiến hành nghiên cứu kỹ nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước xem họ cần thiết bị nào, thông số, chỉ số kỹ thuật như thế nào. Sau đó Công ty sẽ tiến hành giao dịch nhập khẩu thiết bị toàn bộ với các đối tác nước ngoài rồi cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu.
Đổi mới hình thức kinh doanh còn có nghĩa là Technoimport phải năng động tìm kiếm thị trường và bạn hàng, tăng cường các hoạt động tiếp thị nhằm nâng cao uy tín của công ty. Công ty cũng nên có chính sách tăng lương và thưởng một cách thoả đáng để khuyến khích cán bộ của mình tự tìm kiếm khách hàng cho công ty. Việc bỏ ngỏ một khu vực khách hàng là doanh nghiệp tư nhân, mới chỉ dùng lại ở việc nhập khẩu nguyên vật liệu hay hàng tiêu dùng cho họ là hết sức đáng tiếc. Công ty cần tăng cường quan hệ với các doanh nghiệp này trong việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ để mở rộng hoạt động kinh doanh cho mình.
Một hướng đi mới khác đối với công ty là tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài trực tiếp tham gia đấu thầu cung cấp máy móc thiết bị với tư cách là người bán. Ở hình thức này công ty sẽ đóng vai trò là người bán, đứng ra cung cấp thiết bị theo yêu cầu của chủ đầu tư mà không phải bỏ nhiều vốn để thực hiện nhập khẩu các loại máy móc đó. Khi đó, liên doanh sẽ vừa đóng vai trò là người sản xuất vừa có chức năng một công ty thương mại. Khi phát hiện ra nhu cầu của khách hàng, Công ty sẽ tham gia đấu thầu. Với uy tín và lợi thế kinh doanh của mình, Công ty dễ dàng được bạn hàng lựa chọn. Sau đó Công ty sẽ thông báo nhu cầu này tới các đối tác liên doanh của mình để họ tiến hành sản xuất, cải tiến cho phù hợp yêu cầu của khách hàng. Công ty sẽ tiến hành thủ tục nhập khẩu,cung cấp cho chủ đầu tư và đón vai trò là người kiểm tra bảo hành, hướng dẫn kỹ thuật, vận hành máy móc. Như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí cho các chuyên gia nước ngoài sang hướng dẫn kỹ thuật.
Hơn nữa, thông tư QĐ 122 – BTM về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật thuộc diện các doanh nghiệp phải tiến hành cổ phần hóa. Sau khi cổ phần hóa, Công ty sẽ chuyển đổi cơ chế quản lý từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Do vậy, cơ chế hạch toán của Công ty sẽ thay đổi phù hợp với công ty cổ phần và luật doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa hoạt động của Công ty sẽ được tập trung, tự hạch toán quản lý thống nhất, sẽ không còn các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu nữa. Do vậy, ngay từ bây giờ Công ty nên dần dần chuyển đổi cơ chế quản lý sang việc tư nhân hoá các hoạt động kinh doanh nhập khẩu phù hợp với xu thế chung của công ty cổ phần và phù hợp với luật doanh nghiệp, luật thương mại.
III. Một số các kiến nghị với Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần thúc đẩy quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói chung
Mục tiêu của Việt Nam là sớm trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt kịp với trình độ phát triển của các nước trong khu vực. Khoa học và kỹ thuật công nghệ là nền tảng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần nhận thức và kết hợp được công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, tranh thủ đi nhanh và hiện đại hóa những khâu quyết định. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một biện pháp quan trọng giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với tri thức khoa học và kỹ thuật công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ sẽ thực sự phát huy tác dụng tích cực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa và phát triển kinh tế xã hội nếu chúng ta tháo gỡ được những vướng mắc, khắc phục được những vấn đề còn tồn tại để có thể sử dụng được tối ưu đồng vốn nhập khẩu, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO thì để có được một chỗ đứng trên trường quốc tế điều cốt lõi là cần phải có một nền kỹ thuật công nghệ cao. Do đó, việc nhanh chóng hoàn thiện công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ trở nên vô cùng cấp thiết.
1. Lập kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể nền kinh tế
Nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật là một hoạt động kinh tế, do vậy cơ sở để phát triển nền kinh tế nói chung cũng đồng thời là nền tảng để nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Vì thế, cần phải lập một kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể để tránh tình trạng nhập khẩu không có kế hoạch, nay có tiền thì nhập khẩu, mai có nước cấp viện trợ thì mua, để cuối cùng chỉ là sự nhập khẩu chắp vá, lãng phí và không hiệu quả của cả nền kinh tế như đã diễn ra ở nước ta trong nhiều thời gian qua. Công việc lập kế hoạch tổng thể cho nền kinh tế là công việc của mọi Nhà nước trên thế giới, đối với Việt Nam cho đến nay vẫn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm nhiệm. Chúng ta đã lập ra các kế hoạch phát triển tổng thể 1 năm, 2 năm, 5 năm, 10 năm, 25 năm, mà nếu thực hiện tốt sẽ có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với các kế hoạch tổng thể là khả năng thực hiện chúng rất khó, thậm chí có kế hoạch không thể thực hiện được.
Nguyên nhân của tình trạng này là do Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được các thông tin cần và đủ về tình hình thực tế. Các căn cứ để xác lập kế hoạch hoàn toàn chỉ dựa vào báo cáo của các Bộ khác. Bản thân các báo cáo này cung chỉ là sự tập hợp các báo cáo của cấp dưới, thiếu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của người lập. Chính vì thế, kế hoạch lập ra không thể thực hiện được, các cơ quan quản lý Nhà nước không biết căn cứ vào đâu để điều chỉnh kế hoạch cụ thể của mình. Là một bộ phận trong các hoạt động kinh tế, nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng vì sự thiếu khả thi của các kế hoạch kinh tế. Các dự án mua sắm máy móc thiết bị sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước và vốn vay nước ngoài đã phải chịu ảnh hưởng nặng nề do chính sách ưu đãi phải thay đổi liên tục vì tình hình khủng hoảng kinh tế và nền chính trị ở một số nước đối tác không ổn định, khiến cho việc lập dự án trở nên bị động, bản thân dự án cũng không ổn định, phải thay đổi cho phù hợp với chính sách của Nhà nước và tình hình kinh tế khu vực cũng như trên thế giới. Việc nhập khẩu thiết bị hiện nay vẫn chưa có một kế hoạch dài hạn, chỉ đơn thuần phụ thuộc vào kế hoạch phát triển của các ngành có liên quan. Chẳng hạn ngành công nghiệp hóa chất vạch ra kế hoạch tiếp tục đầu tư cho ứng dụng và khai thác hiệu quả công nghệ kỹ thuật chuyển giao của nước ngoài trong giai đoạn từ 2000 – 2015, vì vậy sẽ xây dựng một số nhà máy sản xuất phân đạm, bột nhẹ, sản phẩm hoá chất cơ bản ứng dụng công nghệ thời kỳ tới.
Cần có một chính sách xuất nhập khẩu hợp lý thời kỳ tới, chẳng hạn như: Chính sách xuất nhập khẩu cẩn trung thành với phương châm “Phát triển xuất khẩu là điều kiện tiên quyết để mở rộng nhập khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, là tiền đề của sự tăng trưởng”. Chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa thiết bị và kỹ thuật công nghệ, bảo đảm vật tư, hàng hóa thiết yếu mà nền kinh tế chưa đáp ứng được, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, chính sách khoa học công nghệ cần được chú trọng và phát triển, phải tranh thủ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu so với công nghệ trong nước đang sử dụng và dễ gây ô nhiễm môi trường, ưu tiên hiện đại hóa thiết bị công nghệ đối với các ngành công nghiệp then chốt, mũi nhọn; đặc biệt quan trọng là phải có chính sách thông thoáng, biện pháp mạnh dạn để tranh thủ kỹ thuật công nghệ, phải yêu cầu nhà cung cấp nước ngoài chuyển giao đủ bí quyết công nghệ, cần có chính sách “đi tắt, đón đầu”, “ săn bắt kỹ thuật và các tài nguyên kinh doanh”. Chúng ta cần phải cố gắng tiếp thu kỹ thuật công nghệ mới từ nước ngoài, đồng thời phấn đấu để có thể tự mình điều hành được nhà máy trong tương lai, giúp cho Việt Nam vừa tranh thủ được công nghệ và vốn của nước ngoài, vừa không ngãi phải lo sẽ bị nước ngoài chi phối về kinh tế.
Do vậy, yêu cầu cấp bách được đặt ra hiện nay là phải xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh tế tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và kế hoạch hợp lý đối với nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật công nghệ nói riêng. Đặc biệt là các kế hoạch nên có sự mềm dẻo cần thiết để các cơ quan thực hiện có thể tự quyết định đối với một số vấn đề cho phù hợp với tình hình thực tế mà không ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch chung.
2. Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
Chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp của đất nước cho dù đã được chuẩn bị kỹ càng nhưng để thực hiện đạt hiệu quả cần có sự phối hợp của tất cả các bộ phận của nền kinh tế, ở Việt Nam, khả năng phối kết hợp hoạt động giữa các Bộ, ngành, các cấp và địa phương vẫn còn yếu. Nhà nước có quy định trách nhiệm cho từng cơ quan, ban ngành, nhưng lại thiếu rạch ròi về trách nhiệm cụ thể của mỗi Bộ, ngành trong quá trình thực hiện những hạng mục có sự tham gia của nhiều chủ thê, khiến dẫn đến tình trạng trách nhiệm chồng chéo lên nhau, hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một hoạt động chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan Nhà nước trên mỗi khâu thực hiện. Mặc dù có nhiều cơ quan quản lý như vậy, nhưng chỉ có một cơ quan chịu trách nhiệm thực sự duy nhất là chủ đầu tư hoặc Ban quản lý dự án. Do sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước này, trong nhiều trường hợp phát sinh mâu thuẫn trong cách xử lý của nhiều cơ quan quản lý đối với cùng một hạng mục dự án nên dẫn đến trường hợp chủ đầu tư mất nhiều thời gian, phải bỏ ra thêm nhiều chi phí không cần thiết. Chủ đầu tư có phần nào giống như một đốc công, gần như không có quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng liên quan tới dự án mà luôn phải chờ ý kiến của các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Nhà nước nên tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho chủ đầu tư, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ nên giao cho vai trò giám sát, kiểm tra việc điều hành dự án của chủ đầu tư.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, phân định quyền hạn trách nhiệm đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, tuy nhiên việc thực hiện còn chậm. Để tăng tốc độ giải quyết công việc, tăng sự liện kết giữa các cơ quan, Nhà nước đã áp dụng tin học vào quản lý.
3. Hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật
Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực này tỏ ra còn nhiều thiếu sót và còn nhiều vấn đề chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện nay với thông lệ quốc tế khi nước ta đã ra nhập WTO, khiến cho nhiều doanh nghiệp đối tác nước ngoài và bản thân các doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ gặp phải nhiều vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Các nhà làm luật của Việt Nam cần cân nhắc kỹ lưỡng để chuyển đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tất nhiên, không nên chuyển đổi theo hướng áp dụng nguyên mẫu mà là chuyển đổi dần dần, xây dựng hành lang pháp lý thống nhất không chỉ phù hợp pháp luật quốc tế mà còn phù hợp với những đặc thù riêng của nền kinh tế xã hội nước ta.
Các văn bản pháp quy trước khi ban hành cần tham khảo ý kiến của các Bộ, ngành cũng như các chuyên gia đủ năng lực, các đơn vị mà phạm vi hoạt động của họ sẽ phải chịu sự điều chỉnh của những văn bản này. Chẳng hạn như tham khảo ý kiến nhận xét về tính phù hợp của văn bản so với các văn bản ra đời trước đó, tính khả thi và mức độ dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện theo những quy định đó, tính không rõ ràng của văn bản dẫn đến sự hiểu nhầm và ban hành những quy chế tuỳ tiện... Đặc biệt cần có văn bản quy định thống nhất quyền hạn của các Bộ, ngành tương ứng, tránh những vướng mắc khi có sự mâu thuẫn giữa các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền tương đương (do hiện nay thẩm quyền của các Bộ có sự chồng chéo lẫn nhâu), cùng một vấn đề những có nhiều quan điểm về cách giải quyết giữa các Bộ khiến cho người thực thi không biết phải theo ai, dẫn đến việc giảm hiệu quả sử dụng đồng vốn nhập khẩu và gây ách tắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Phát triển hệ thống ngân hàng, cải thiện hoạt động vay vốn và quản lý vốn vay nước ngoài
Nhà nước cũng cần có hướng chỉ đạo để ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại có thể đứng ra bảo lãnh cho nhà nhập khẩu vay những khoản tiền từ các hãng sản xuất nước ngoài dưới dạng trả chậm với mức lãi suất ưu đãi. Phát triển hệ thống tài chính ngân hàng đáp ứng nhu cầu của các nhà xuất nhập khẩu. Có một số ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là Eximbank, Techcombank, VIBbank… Hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với các Ngân hàng, không có hệ thống ngân hàng phát triển thì không thể thực hiện được một cách nhanh chóng và đúng các điều khoản về thanh toán trong hợp đồng. Và hệ thống ngân hàng không phát triển thì hoạt động xuất nhập khẩu không thể phát triển được. Với cách thức quản lý ngoại tệ như hiện nay của nước ta thì hoạt động xuất nhập khẩu bắt buộc phải thông qua hệ thống ngân hàng. Những năm gần đây do có chính sách phát triển mà hàng loạt các ngân hàng đã được ra đời, hoạt động tích cực và góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên ngành ngân hàng tài chính cũng đang đứng trước một nguy cơ hiện tại là thiếu nhân lực và sắp tới Chính Phủ sẽ mở cửa nhiều hơn, các ngân hàng nước ngoài sẽ vào Việt Nam nhiều hơn và đặt các ngân hàng của Việt Nam trước sự cạnh tranh khốc liệt. Đến lúc đó, người được lợi sẽ là các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Ngay từ bây giờ hệ thống ngân hàng của Việt Nam nên chuẩn bị sẵn sàng cho sự cạnh tranh sắp tới.
Hoạt động vay vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc tạo vốn cho nhập khẩu thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan có trách nhiệm chủ yếu trong việc định hướng và quản lý vốn vay nước ngoài của doanh nghiệp nhưng vẫn không tránh khỏi có nơi, có lúc chưa nắm vững thực tế, vì vậy chưa theo dõi chặt chẽ các hạn mức vay trả theo định kỳ, dẫn đến việc chính bản thân Ngân hàng chưa kế hoạch hóa được khả năng vay trả nợ cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài theo đúng và phù hợp các kỳ hạn trả nợ vay. Đây là điều mà Nhà nước cần quan tâm giải quyết để giúp cho các doanh nghiệp sử dụng đồng thời vốn vay thực sự hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước cần có biện pháp kịp thời quản lý của các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại trong lĩnh vực này, có chính sách thích hợp để tăng hiệu quả sử dụng vốn ODA và vốn tín dụng xuất khẩu, có chính sách tiền tệ gắn liền mục tiêu ổn định giá trị đồng Việt Nam, tạo điều kiện phát triển ồn định kinh tế, chú trọng hơn nữa tới cơ cấu đầu tư, tăng tỷ trọng các khoản vay trung dài hạn cho các dự án kinh tế có hiệu quả, đặc biệt các dự án sản xuất nhằm đổi mới công nghệ; tiến hành đổi mới để có thể mau chóng hội nhập cộng đồng tài chính quốc tế.
5. Tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế
Trong xu thế quốc tế, hóa toàn cầu hóa hiện nay, việc tham gia các định chế thương mại, tài chính quốc tế và việc thực hiện các cam kết hoặc đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế sẽ đem lại những lợi ích to lớn. Các tổ chức quốc tế là cầu nối giúp Việt Nam tiếp cận tốt hơn tới các nguồn vốn đầu tư lớn từ nước ngoài, đồng thời xoá bỏ đáng kể hàng rào thuế quan của các nước trên thế giới hiện đang áp dụng đối với hàng hóa của Việt Nam, đồng thời triển khai có hiệu quả luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ công nghệ kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế xã hội. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật đối với đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển biến có tính chất đột phá trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp. Cải cách mãnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân – khu vực kinh tế năng động và về lâu dài sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ bình đẳng khi tiếp cận với các nguồn lực tham gia xuất nhập khẩu.
Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam sẽ gặp nhiều thuận lợi đặc biệt trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Để bảo vệ bí quyết công nghệ trong nước, máy móc thiết bị của nhiều nước chịu mức thuế xuất khẩu rất nặng, khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) mà các nước này là thành viên hoắc ký kết hiệp định thương mại song phương với các nước này, mức thuế trên được hạ thấp hoặc xoá bỏ, rất có lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những thay đổi như vậy, mong rằng Công ty sẽ đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh.
KẾT LUẬN
Toàn Đảng, toàn dân đang ra sức thi đua lao động và học tập nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu và sớm đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Mục tiêu cơ bản trước mắt là đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu này, nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp thương mại nói chung, Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật nói riêng là vô cùng to lớn.
Trải qua gần 50 năm hình thành và phát triển, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Technoimport đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp máy móc, thiết bị toàn bộ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong kinh doanh, Công ty luôn đặt vấn đề hiệu quả lên hàng đầu nhưng trước xu hướng biến động phức tạp của thị trường thế giới đòi hỏi công ty phải không ngừng đổi mới nhằm đưa ra những cách thức kinh doanh phù hợp cho mình.
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ nhằm tìm ra những nguyên nhân, tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những vấn đề xuyên suốt trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Nhiệm vụ của đề tài này cũng không nằm ngoài những vấn đề đó. Các giải pháp nêu ra trong bài viết này với mong muốn góp phần giải quyết các vấn đề còn tồn tại để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Technoimport và mong muốn tìm hiểu thêm về hoạt động kinh tế này.
Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn các cô chú trong phòng XNK 5 của Technoimport đã chỉ bảo và trang bị cho em những kiến thức lý luận và thực tế để em có thể hoàn thành được bài viết này.
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu theo thị trường 10
Bảng 2: Cơ cấu lao động theo tính chất lao động 11
Bảng 3: Cơ cấu lao động theo giới tính 11
Bảng 4: Bảng theo dõi số lượng cán bộ tại các phòng ban năm 2006 12
Bảng 5: Tình hình tài sản có và tài sản nợ từ năm 2003 – 2007 16
Bảng 6: Tình hình xuất nhập khẩu trong 4 năm 2003 – 2007 17
Bảng 7: Cơ cấu nhập khẩu thời kỳ 1986 – 1990 22
Bảng 8: Cơ cấu thị trường thiết bị toàn bộ của Công ty 1987 - 1989 23
Bảng 9: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam 2003 – 2007 29
Bảng 10: Cơ cấu nhập khẩu máy móc thiết bị toàn bộ của Việt Nam 29
Bảng 11: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty 30
Bảng 12: Kim ngạch nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo cơ cấu hàng nhập khẩu 32
Bảng 13: Hiệu quả sử dụng chi phí, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ 33
Bảng 14: Kim nghạch nhập khẩu và nhập khẩu ủy thác 2003 - 2007 39
Bảng 15: Kim ngạch nhập khẩu ủy thác của Công ty năm 2003 – 2007 41
Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của công ty 13
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ KỸ THUẬT 3
I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 3
1. Thông tin chung về công ty 3
2. Quá trình phát triển của công ty được chia thành 2 giai đoạn 5
II. Đặc điểm chủ yếu của công ty 7
1. Đặc điểm về sản phẩm 7
2. Đặc điểm về thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ. 9
3. Đặc điểm về lao động 11
4. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty 13
4.1. Các bộ phận quản trị của Công ty 14
4.2. Các đơn vị trực thuộc 15
III. Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. 16
1. Kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây 16
2. Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu 19
3. Tư vấn đầu tư và thương mại 20
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TẠI CÔNG TY 21
I. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại 21
1. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Việt Nam cũng như của Công ty thời kỳ trước 1990 21
2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty từ sau 1990 đến nay – Giai đoạn trưởng thành và lớn mạnh của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 26
II. Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty 36
1. Nghiên cứu thị trường 37
2. Gọi chào hàng 37
3. Lựa chọn đối tác giao dịch 37
4. Lập phương án kinh doanh 38
5. Đàm phán và ký kết hợp đồng 38
6. Ký hợp đồng uỷ thác 38
7. Thực hiện hợp đồng 39
III. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty và những khó khăn tồn tại mà doanh nghiệp cần khắc phục 42
1. Yếu tố chủ quan 42
1.1. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp 42
1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện có của doanh nghiệp 44
1.3. Trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp 46
2. Yếu tố khách quan 49
2.1. Môi trường chính trị pháp luật 49
2.2. Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước 50
2.3. Những vướng mắc về thuế 51
2.4. Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu 52
2.5. Các yếu tố khác 54
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ 57
I. Phương hướng nhiệm vụ của Công ty trong thời gian tới 57
II. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 58
1. Nâng cao trình độ và tăng cường phát triển nguồn nhân lực của Công ty… 58
2. Hoàn thiện hơn nữa các nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ 62
3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng 63
4. Tạo nguồn vốn và quản lý nguồn vốn 66
5. Giảm chi phí kinh doanh nhập khẩu của Công ty 67
6. Đổi mới hình thức kinh doanh 71
III. Một số các kiến nghị với Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần thúc đẩy quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói chung 73
1. Lập kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể nền kinh tế 74
2. Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước 76
3. Hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 77
4. Phát triển hệ thống ngân hàng, cải thiện hoạt động vay vốn và quản lý vốn vay nước ngoài 78
5. Tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế 79
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS Nguyễn Thành Độ, TS. Nguyễn Ngọc Huyền (2004), Giáo trình “Quản trị kinh doanh”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
2. PGS.TS Trần Chí Thành (2002), Giáo trình “Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu”, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
3. Nguyễn Tấn Bình (2007), Giáo trình “Quản trị tài chính ngắn hạn”, Nhà xuất bản Thống kê, TP.Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Tấn Bình (2005), Giáo trình “Phân tích hoạt động kinh doanh”, Nhà xuất bản Thống kê, TP. Hồ Chí Minh.
5. GS.TS. Hoàng Văn Châu, Th.s. Tô Bình Minh (2005), “ Các điều kiện thương mại quốc tế (INCOTERMS 2000) giải thích và hướng dẫn sử dụng”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
6. Website: www.technoimport.com.vn Trang web của Technoimport
7. Website: www.moi.gov.vn Trang web Bộ Công Thương
8. Website: www.mof.gov.vn Trang web Bộ Tài chính
9. Website: www.gso.gov.vn Trang web Tổng Cục Thông kê
10. Website: www.customs.gov.vn Trang web Tổng Cục Hải quan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10638.doc