Khóa luận Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam

Một trong những mục tiêu chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng thị trường chứng khoán là nhằm tạo ra một kệnh huy động vốn trung và dài hạn mới nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, trong mục tiêu đó bao gồm cả việc huy động vốn từ bên ngoài. Kinh nghiệm ở nhiều nước đang phát triển cho thấy thị trường chứng khoán đã đóng góp một vai trò lớn trong việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, góp một phần quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam vừa mới được thành lập, quy mô còn nhỏ bé, cơ chế vận hành và việc công bố thông tin còn nhiều bất cập, mức độ quan tâm và hiểu biết của người đầu tư nước ngoài cũng như trong nước còn nhiều hạn chế. Thực trạng đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong hơn 3 năm qua cho thấy nguồn vốn và số lượng người đầu tư nước ngoài chưa nhiều, chưa có có tác động thực sự tới sự phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy cần phải có các giải pháp thu hút được nhiều hơn nữa nguồn vốn này. Cùng với các biện pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng là một việc làm quan trọng, nó có ý nghĩa lớn trong chiến lược tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: "Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam". Do kiến thức tích luỹ được còn hạn chế, khoá luận không tránh khỏi nhiều sai sót, rất mong sẽ nhận được ý kiến và đánh giá của các thầy cô. Em cũng xin chân thành cảm ơn Cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận này. Nội dung của khoá luận gồm ba chương: Chương I: Lý luận về vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Chương II: Thực trạng đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam Chương III: Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I.Lý luận chung về vốn nước ngoài 1.Khái niệm về vốn nước ngoài 2.Phân loại vốn nước ngoài 2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn 2.2 Phân loại vốn theo hình thức di chuyển II. Lý luận về nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán (FPI) 1. Khái niệm 2. Đặc điểm 3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán 3.1. Vai trò chung của nguồn vốn nước ngoài 3.2.Vai trò riêng nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán III. Kinh nghiệm thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán một số nước 1. Kinh nghiệm của Indonesia 2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 3. Kinh nghiệm một số nước khác CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. Tổng quan tình hình nền kinh tế Việt Nam 1.Tình hình kinh tế vĩ mô 1.1. Các thành tựu 1.2.Một số tồn tại 2.Tình hình cải cách cơ cấu nền kinh tế 2.1. Tình hình cải cách doanh nghiệp nhà nước- cổ phần hoá 2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính II. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Sự ra đời của Thị trường chứng khoán Việt Nam 2. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam 3. Hoạt động giao dịch chứng khoán: 3.1. Từ 7/2000 đến 7/2001 3.2.Từ 7/2001 đến 3/2002 3.3. Từ tháng 3/2002 đến nay 4. Đánh giá hoạt động của TTCK Việt Nam 4.1.Những ưu điểm 4.2. Những hạn chế III. Thực trạng đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam 1.Hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam hiện nay 1.1.Các loại công ty được phép đầu tư 1.2. Vốn điều lệ và vốn cổ phần 1.3. Cổ phần 1.4. Đầu tư nước ngoài 1.5. Bán cổ phần cho nhà Đầu tư nước ngoài 2. Qui mô nguồn vốn ĐTNN qua TTCK (FPI) trong tổng nguồn vốn vào Việt Nam 3. Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài 4. Tình hình giao dịch của người nước ngoài trên TTCK 5. Đánh giá chung tình hình đầu tư nước ngoài qua Thị trường Chứng khoán Việt Nam CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 2. Định hướng phát triển thị trường Việt Nam 3. Một số giải pháp thực hiện II. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK 1. Những điều kiện thuận lợi 1.1 Điều kiện chính trị ổn định 1.2. Tình hình kinh tế phát triển 1.3. Cải cách cơ cấu được chú trọng 1.4. Chính sách đối với người đầu tư nước ngoài đã rõ ràng. 2. Khó khăn 2.1.Về mặt vĩ mô 2.2. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé về quy mô 2.3. Thiếu thông tin 2.4. Chính sách của Việt Nam chưa nhất quán và chưa thông thoáng 2.5 Chi phí đầu tư cao III. Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam 1. Mục tiêu và nguyên tắc 2. Một số giải pháp 2.1. Cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài 2.2. Phát triển thị trường về quy mô, tăng số công ty niêm yết 2.3. Cải thiện việc cung cấp thông tin và quyền tiếp cận thông tin 2.4 . Mở rộng lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài 2.5. Thực hiện công bằng trong việc mua lại cổ phần 2.6. Tăng lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán 2.7. Thực hiện ưu đãi về thuế 2.8. Cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường cạnh tranh để giảm chi phí giao dịch cho người nước ngoài KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc81 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h vực chứng khoán. 5. Đánh giá chung tình hình đầu tư nước ngoài qua Thị trường Chứng khoán Việt Nam Thực trạng đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong hơn 3 năm qua cho thấy một thực trạng là nguồn vốn và số lượng người đầu tư nước ngoài chưa nhiều, chưa có có tác động thực sự tới sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy không có số liệu chính xác, nhưng theo ước tính thì tổng số vốn FPI ròng thu hút được qua thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới chưa đầy 110 tỷ đồng, một con số nhỏ bé. Trong danh mục thống kê của chính phủ cũng chưa có nguồn vốn FPI này, các tài liệu thống kê chính thức nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng không hề thấy đề cập đến, nói đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là ai cũng nghĩ tới đó là đầu tư trực tiếp FDI. Điều này cũng là hợp lý đối với một thị trường chứng khoán vừa mới được thành lập, quy mô còn nhỏ bé, khó khăn trong việc thu hút người đầu tư nói chung và trong đó người đầu tư nước ngoài cũng phải là ngoại lệ. Thị trường chứng khoán Việt Nam lại là một thị trường mới đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn nên về cơ sở pháp lý cũng như cơ chế vận hành, công bố thông tin còn nhiều bất cập, nên mức độ quan tâm và hiểu biết của người đầu tư nước ngoài cũng như trong nước còn nhiều hạn chế. Cho đến nay, đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa được thống kê và tính đến trong cơ cấu nguồn vốn nước ngoài, và thực tế là nó chưa có được một tác động thực sự nào lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Nguyên nhân cơ bản là tổng giá trị của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay cũng chỉ mới chiếm chưa được tới 2% GDP của Việt Nam, và thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không có tác động lớn tới nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, thì nguồn vốn FPI sẽ dần trở thành một nguồn vốn quan trọng trong trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Sự xuất hiện của nguồn vốn này là một điều rất đáng kích lệ, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Trong tương lai cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán vào Việt Nam sẽ tăng lên và chiếm một tỷ trọng nhất định trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần tăng cường nguồn vốn đầu tư nước ngoài để bổ sung cho các nguồn khác đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Thực tế cho thấy, cho đến nay, ở tất cả các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển đều có Thị trường chứng khoán hoạt động, đó là vì vai trò quan trọng của TTCK trong nền kinh tế và hệ thống tài chính của các quốc gia. Mặc dù TTCK Việt Nam quy mô còn nhỏ bé, chưa tác động nhiều đến nền kinh tế quốc dân và chưa thể hiện được hết vai trò của nó nhưng Thị trường chứng khoán Việt Nam có tiềm năng phát triển. Chúng ta đã có một hệ thống các công ty cổ phần, có nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá, quá trình Cổ phần hoá và phát triển Thị trường chứng khoán có thể thúc đẩy lẫn nhau và vốn trong dân tích tụ nhiều cũng là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam. Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của TTCK đối với nền kinh tế, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã tập trung xây dựng “Chiến lược và lộ trình phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010”. Ngày 5/8/2003, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010”. Chiến lược ra đời với mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 1. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Theo Chiến lược phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam của chính phủ, quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam là: - Phát triển thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới. - Xây dựng thị trường chứng khoán thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn, hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. - Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển; đảm bảo quyền lợi, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. - Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong phạm vi quốc gia, gắn việc phát triển thị trường chứng khoán với việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm. 2. Định hướng phát triển thị trường Việt Nam Theo “Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010” được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xây dựng và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm: Thứ nhất, mở rộng quy mô của thị trường chứng khoán tập trung, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đến năm 2005 đạt mức 2-3% GDP và đến năm 2010 đạt mức 10-15% GDP. - Tập trung phát triển thị trường trái phiếu, trước hết là trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. - Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty niêm yết. Thứ hai, xây dựng và phát triển các Trung tâm giao dịch Chứng khoán, Sở giao dịch Chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hoá. - Xây dựng Trung tâm giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch Chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin trên thị trường tự động hoá hoàn toàn. - Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường Giao dịch Chứng khoán phi tập trung (OTC). - Thành lập Trung tâm Lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký và thanh toán cho các hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch Chứng khoán và Trung tâm giao dịch Chứng khoán; mở rộng phạm vi lưu ký các loại chứng khoán chưa niêm yết. Thứ ba, phát triển các định chế tài chính trung gian cho thị trường chứng khoán Việt Nam. - Tăng qui mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình : Công ty chứng khoán đa nghiệp vụ và Công ty chứng khoán chuyên doanh nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hoá hoạt động nghiệp vụ. - Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng khoán thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, các khu vực đông dân cư trong cả nước. - Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đầu tư. Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. - Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ tư, phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân - Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư… tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường. - Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. 3. Một số giải pháp thực hiện Để thực hiện được các mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán đã đề ra, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã nghiên cứu và đưa ra được một số giải pháp sau: - Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán. Ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thị trường chứng khoán theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường. Xây dựng Luật chứng khoán trình Quốc hội thông qua vào năm 2005. - Tăng cung chứng khoán cho thị trường cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. + Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ; đa dạng hoá các kỳ hạn trái phiếu Chính phủ để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường chứng khoán. + Gắn tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. + Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. + Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành các công ty cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường tập trung. + Khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung. + Phát triển các loại chứng khoán khác như : quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán. + Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông lệ tốt nhất về quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo quy định của pháp luật. Tăng cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết, trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin và các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư. - Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán. + Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế đối với nhà đầu tư. + Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán. + Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp vốn, mua cổ phần hoặc thành lập Công ty chứng khoán liên doanh với các pháp nhân trong nước; cho phép các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam. - Nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm giao dịch Chứng khoán, Sở giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán. + Đưa hệ thống giao dịch tự động hiện đại tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh vào vận hành. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán với các công ty chứng khoán thành viên. Xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán. + Đảm bảo có hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ. + Tự động hoá hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa các thành viên lưu ký và Trung tâm giao dịch Chứng khoán để cung cấp chính xác, kịp thời những thông tin về người sở hữu chứng khoán. - Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán + Áp dụng biện pháp cưỡng chế thực thi quy định về quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ đầu tư và chế độ công bố thông tin theo luật định. + Tăng số lượng và nâng cao chất lượng nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán; các công ty chứng khoán phải thực thi quy tắc đạo đức nghề nghiệp. + Mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ Lưu ký chứng khoán trong phạm vi cả nước; chú trọng cấp giấy phép hoạt động Lưu ký chứng khoán cho các ngân hàng thương mại đủ điều kiện. + Nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của tổ chức phát hành, niêm yết và kinh doanh chứng khoán. - Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán + Tăng cường năng lực quản lý nhà nước bảo đảm sự quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, công cụ kinh tế tài chính- tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác. + Phối hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước va các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thị trường chứng khoán. + Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán; phát triển kỹ năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ năng điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng giá cả. + Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành chứng khoán trong việc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trên các phương diện: xây dựng khuân khổ pháp lý, đào tạo nhân lực, giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các thành viên tham gia thị trường và phát triển thị trường chứng khoán. - Tăng cường hợp tác quốc tế Hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường; xây dựng khuôn khổ pháp luật cho thị trường chứng khoán; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản lý; từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán thế giới theo lộ trình đã cam kết. - Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền + Xây dựng và phát triển Trung tâm Nghiên cứu và Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và thị trường chứng khoán thành đơn vị có đủ điểu kiện và khả năng nghiên cứu về thị trường chứng khoán; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thị trường chứng khoán, hợp tác với các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo cơ bản và nâng cao kiến thức về thị trường vốn. + Đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường chứng khoán cho công chúng. - Kinh phí và cơ sở vật chất kỹ thuật cho thị trường chứng khoán: Nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật và chi phí hoạt động cho các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký. Đồng thời khuyến khích huy động các nguồn lực trong nước, nguồn tài trợ của nước ngoài, nguồn của các tổ chức cá nhân tham gia thị trường để phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA TTCK 1. Những điều kiện thuận lợi Có thể nói Việt Nam là một thị trường khá hấp dẫn đối với người nước ngoài do có những điều kiện thuận lợi cả về mặt kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách. Những điều kiện thuận lợi đó có thể nêu cụ thể như sau: 1.1 Điều kiện chính trị ổn định Trong một thời gian dài, Việt Nam được xem là một quốc gia có tình hình chính trị nội bộ rất ổn định, hứa hẹn tính nhất quán trong chính sách phát triển quốc giá nói chung cũng như trong chính sách đối với đầu tư nước ngoài nói riêng. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội qua cuộc khủng hoảng Châu Á được đánh giá cao. Đặc biệt trong thời gian gần đây, tình hình ở nhiều nước bị chao đảo do nạn khủng bố và nội chiến thì Việt Nam được giới đầu tư đánh giá là một điểm đến an toàn. Lượng doanh nhân vào Việt Nam tìm cơ hội làm ăn và khách du lịch trong thời gian gần đây tăng mạnh. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi ở tầm vĩ mô mà Việt Nam cần phải khai thác một cách triệt để để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư qua thị trường chứng khoán. 1.2. Tình hình kinh tế phát triển Như đã phân tích ở phần trước, mặc dù còn nhiều thách thức trong việc phát triển bền vững, nhưng tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam nhìn chung là thuận lợi. Mức tăng trưởng bình quân GDP hơn một thập kỷ qua là khá cao trong khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp. Việt Nam đã rất nỗ lực hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á và nhanh chóng phục hồi với mức tăng GDP trong các các năm 2000, 2001 và 2002 là 6,7%, 6,8% và 7%, và ước tính năm 2003 là 7,2%. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư đều có xu hướng tăng đáng kể, bội chi ngân sách được kiểm soát ở mức dưới 5%. Với những điều kiện mới được tạo ra sau khi ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp… các thành phần kinh tế đều có những bước phát triển mới. Điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi hứa hẹn mức lợi nhuận cao và ổn định cho các khoản đầu tư phát triển, tạo ra một lực “kéo” hấp dẫn đối với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là nguồn FDI và FPI. 1.3. Cải cách cơ cấu được chú trọng Trong những năm gần đây cải cách cơ cấu được Chính phủ đặc biệt chú trọng với sự giúp đỡ của các chuyên gia kinh tế từ các tổ chức quốc tế như IMF, WB, ADB và Chính phủ nhiều nước. Đây là một phần trong chiến lược phát triển kinh doanh quốc gia, đồng thời chuẩn bị cho việc hội nhập với quốc tế và khu vực. Trong công cuộc cải cách cơ cấu có 2 lĩnh vực đang được chú trọng và có tác động trực tiếp đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là: - Cải cách hệ thống ngân hàng- tài chính với mục tiêu chủ yếu là tập trung huy động mọi nguồn lực và sử dụng hiệu quả vào các dự án phát triển. Tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại được đặc biệt chú trọng nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng thương mại có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả, từng bước mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngang tầm với khu vực. Một hệ thống ngân hàng-tài chính lành mạnh sẽ giúp cho việc chu chuyển vốn qua biên giới được dễ dàng, an toàn và hiệu quả, có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu về đầu tư của người nước ngoài vào Việt Nam. - Thúc đẩy khu vực tư nhân là một chính sách nhất quán được Chính phủ rất quan tâm. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và đã thực sự trở thành một động lực đáng kể góp phần tăng trưởng GDP. Số doanh nghiệp tư nhân thành lập mới tăng vọt sau khi Luật doanh nghiệp được ban hành. Chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tuy có chậm lại trong mấy năm gần đây nhưng hứa hẹn sẽ có những bước đột phá mới. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân chính là điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư dưới nhiều hình thức, trong đó có cả hình thức đầu tư qua thị trường chứng khoán. 1.4. Chính sách đối với người đầu tư nước ngoài đã rõ ràng. Có thể còn nhiều vấn đề phải bàn về mức độ mở cửa và ưu tiên cho đầu tư của nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng các điều kiện liên quan cho đến thời điểm này đều đã được quy định rõ ràng. Các qui định này bao gồm: - Ngành nghề người nước ngoài được tham gia góp vốn gồm: ngành dệt may, sản xuất giày dép, chế biến da, sản xuất chế biến nông lâm thuỷ sản, ngành sản xuất hàng tiêu dùng khác, ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, ngành vận tải đường bộ, đường thuỷ nội địa, vận tải hàng hoá bằng Container, ngành sản xuất đồ dùng học tập, ngành sản xuất đồ chơi trẻ em, ngành thương mại dịch vụ khách sạn, ngành sản xuất cơ khí, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thuộc các ngành hàng quy định trên. - Mức tối đa người nước ngoài được nắm giữ cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành (từ 20% nay vừa mới nâng lên 30%). - Quy định qui trình thủ tục đầu tư và quản lý ngoại hối. Với các quy định hiện hành, việc đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam được mô tả như sau: người nước ngoài muốn đầu tư vào TTCK Việt Nam phải mở một tài khoản giao dịch tại một thành viên lưu ký nước ngoài (một ngân hàng thương mại nước ngoài được công nhân là thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán). Thành viên lưu ký nước ngoài liên hệ với Trung tâm giao dịch chứng khoán để xin mã số giao dịch, đồng thời là người đại diện cho người đầu tư đặt lệnh giao dịch thông qua công ty chứng khoán. Số ngoại tệ do người đầu tư chuyển vào để đầu tư chứng khoán được thành viên lưu ký mua lại. Khi người đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về nước, thành viên lưu ký bán lại ngoại tệ cho người đầu tư và thực hiện chuyển tiền về nước sau khi người đầu tư thực hiện xong các nghĩa vụ về thuế, phí theo quy định. - Các loại thuế, phí người nước ngoài có nghĩa vụ phải nộp khi đầu tư và rút vốn. Hiện nay, thuế lợi nhuận do đầu tư chứng khoán của cá nhân đầu tư nước ngoài đang được miễn như đối với cá nhân đầu tư trong nước, còn phí chuyển lợi nhuận và vốn về nước đang được áp dụng ở mức 5% như đối với các giao dịch ngoại hối thông thường khác. Có thể nói rằng quy định như trên là rõ ràng, người nước ngoài hiểu rõ được “luật chơi”, nhưng còn nhiều hạn chế và bất cập trong quá trình thực hiện mà chúng ta phải phân tích ở phần tiếp theo. 2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, việc thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam còn có nhiều khó khăn và hạn chế cần phải được khắc phục từng bước. Có thể phân chia những khó khăn và hạn chế này theo các nhóm vấn đề. 2.1.Về mặt vĩ mô Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, người đầu tư nước ngoài nói chung vẫn lo ngại về tình hình cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính rườm ra và nạn tham nhũng lan tràn ở Việt Nam. Nhiều người cho rằng, những hạn chế nêu trên ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư nói chung. Đặc biệt nạn tham nhũng cộng với việc ban quản lý doanh nghiệp không công bố thông tin đầy đủ và kịp thời cho cổ đông đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của công chúng đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại việc Ban lãnh đạo công ty có thể sử dụng đồng vốn đầu tư của họ và lợi nhuận của công ty vào những mục đích không bình thường. 2.2. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé về quy mô Cho đến nay thị trường mới có 22 công ty niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là gần 1,1 nghìn tỷ đồng tính theo mệnh giá, trong đó cổ phiếu do nhà nước nắm giữ chiếm gần 1/3. Trong tương lai gần, số công ty niêm yết sẽ tăng do tốc độ cổ phần hoá được đẩy mạnh và có thêm thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng quy mô của thị trường chưa thể tăng nhanh và mạnh trong tương lai gần và chưa thực sự có ảnh hưởng tới nền kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách của Chính phủ cũng chưa thể mở cửa hoàn toàn cho người đầu tư nước ngoài do điều kiện và trình độ quản lý vĩ mô chưa theo kịp. Vì những lý do trên “khoảng sân” dành cho đầu tư nước ngoài chưa thật lớn và còn thiếu sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư lớn, nhất là các quỹ đầu tư có quy mô toàn cầu. 2.3. Thiếu thông tin Mặc dù mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, nhưng việc tìm kiếm thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam của người nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn và bất cập vì một số lý do sau: - Thiếu thông tin bằng tiếng nước ngoài. Các công ty niêm yết và chưa niêm yết thông thường chỉ chuẩn bị tài liệu bằng tiếng Anh để phục vụ cho việc giới thiệu, quảng cáo, chào hàng, chưa nhằm mục đích thu hút cổ đông nước ngoài. Các bản cáo bạch, báo cáo định kỳ và đột xuất gửi Trung tâm Giao dịch chứng khoán và Uỷ ban Chứng khoán nhà nước chưa được dịch sang tiếng Anh phục vụ công chúng đầu tư nước ngoài. Bản thân Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch Chứng khoán cũng chưa tổ chức cung cấp các thông tin nêu trên qua trang Web. Hệ thống dịch vụ thông tin chuyên nghiệp chưa phát triển. Trong bối cảnh đó, người nước ngoài muốn có thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam hoặc tìm hiểu về một công ty để đầu tư phải đến Việt Nam trực tiếp tìm hiểu hoặc mua thông tin qua một số công ty đầu tư đang có hoạt động tại Việt Nam. Chi phí tìm kiếm thông tin cao làm ảnh hưởng đến mức độ quan tâm của người đầu tư nước ngoài, nhất là nhà đầu tư cá thể. - Hệ thống và chế độ kế toán Việt Nam còn có nhiều điểm khác với hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tê (IAS) và thường không được giải thích cặn kẽ trong các báo cáo tài chính của các công ty, do đó còn khó hiểu đối với người nước ngoài, nhất là những người chưa có hiểu biết nhiều về hệ thống kế toán Việt Nam. - Lòng tin của công chúng đầu tư nước ngoài về nguồn số liệu do công ty hoặc cơ quan quản lý Việt Nam cung cấp cũng cần được xem xét. Trên thực tế, nhiều số liệu về kinh tế vĩ mô của Việt Nam do Chính phủ và các tổ chức quốc tế đưa ra rất khác nhau, nhất là các số liệu liên quan đến mức tăng trưởng GDP, đầu tư trực tiếp của nước ngoài, xuất nhập khẩu… Các hành vi trốn thuế, lậu thuế, tham nhũng ở các công ty của Việt Nam cũng tương đối nghiêm trọng. Vì vậy, nhiều người nước ngoài tỏ ra không tin tưởng vào các thông tin thị trường do công ty Việt Nam cung cấp và từ bỏ ý định đầu tư vào Việt Nam, hoặc có tâm lý chỉ đầu tư theo các nhà đầu tư có tổ chức có kinh nghiệm và bộ máy nghiên cứu về tình hình thị trường Việt Nam. 2.4. Chính sách của Việt Nam chưa nhất quán và chưa thông thoáng Sự thiếu nhất quán và thiếu thông thoáng trong chính sách của Việt Nam liên quan đến đầu tư của người nước ngoài trên TTCK Việt Nam thể hiện ở chỗ: - Thứ nhất, theo Luật đầu tư nước ngoài thì bên người đầu tư nước ngoài có thể sở hữu đến 100% vốn, nhưng cổ phần của các bên không được tự do mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán, trong khi cổ phần của người nước ngoài ở các doanh nghiệp niêm yết được mua bán tự do nhưng bị khống chế bởi tỷ lệ nắm giữ thấp. Điều đó có nghĩa là một người đầu tư trực tiếp khi muốn rút bớt vốn đầu tư để trở thành một nhà đầu tư danh mục chứng khoán (đầu tư FPI) sẽ khó thực hiện, vì họ phải tìm người đầu tư nước ngoài thay thế và chuyển nhượng cổ phần trên cơ sở có sự thoả thuận của đối tác và cơ quan quản lý Việt Nam. Ngược lại, một nhà đầu tư danh mục chứng khoán muốn trở thành người đầu tư trực tiếp để tham gia quản lý doanh nghiệp cũng khó khăn do bị khống chế bởi tỷ lệ nắm giữ, và do chưa có chế định rõ ràng liên quan. Trong trường hợp của Việt Nam, xử lý được vấn đề này đòi hỏi phải có thời gian vì liên quan đến việc chỉnh sửa luật và các cơ chế giám sát, quản lý liên quan, nhưng là vấn đề cần được xem xét để giải quyết khi điều kiện cho phép. - Thứ hai, các quy định về mua cổ phần khi cổ phần hoá doanh nghiệp còn nhiều điểm chưa thống nhất với các quy định về mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Cách quy định không thống nhất đã dẫn tới tình trạng hiểu nhầm hoặc diễn giải một cách khác nhau, đồng thời gây lên một số khó khăn, nhất là khi một doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài lớn tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. 2.5 Chi phí đầu tư cao Trong khi quy mô thị trường còn nhỏ hẹp và cơ hội giành cho người đầu tư nước ngoài chưa nhiều thì chi phí đầu tư cao sẽ tác động hạn chế đầu tư của người nước ngoài. Hiện nay chi phí đầu tư của người nước ngoài vào thị trường còn cao so với thông lệ quốc tế vì một số lý do sau: - Việt Nam chưa triển khai giao dịch từ xa qua mạng điện tử cho người nước ngoài. - Chi phí tiếp cận và phân tích thông tin cao. - Giao dịch qua thành viên lưu ký nước ngoài phải chịu mức phí cao. Cho đến nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp phép cho 3 thành viên lưu ký nước ngoài, tuy nhiên tính độc quyền cùng với chính sách sàng lọc lựa chọn khách hàng trong hoạt động phục vu đầu tư nước ngoài vào TTCK đã dấn đến thành viên lưu ký thu các loại phí cao. Tóm lại, bên cạnh những thuận lợi, việc thu hút và quản lý vồn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Nguyên nhân của những khó khăn hạn chế còn nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là do thị trường mới hoạt động, còn nhỏ bé do đó còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, chồng chéo và bất cập trong chính sách lẫn tổ chức vận hành. Việc khắc phục những hạn chế để tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư vào cũng như kiểm soát tốt dòng vốn đòi hỏi phải có nhiều thời gian và bước đi thích hợp. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA TTCK VIỆT NAM 1. Mục tiêu và nguyên tắc Từ những bài học kinh nghiệm ở các nước trong khu vực và điều kiện thực tế của Việt Nam có thể thấy rằng việc thu hút nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một yêu cầu khách quan và phải được thực hiện theo một số nguyên tắc nhất định: - Việc thu hút và quản lý vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán phải luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, nhằm góp phần tăng cường nguồn vốn đầu tư để bổ sung cho các nguồn khác đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội. Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, nguồn FPI phải trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam và có sự gắn kết chặt chẽ với nguồn đầu tư FDI. - Nguồn FPI phải được hướng vào một số ngành nghề ưu tiên theo định hướng của Chính phủ. Ngoài những ngành nghề hiện nay người nước ngoài được phép mua cổ phiếu như dịch vụ, công nghiệp nhẹ… đầu tư FPI còn được mở rộng sang những ngành nghề mới mang tính đột phá, sử dụng công nghệ khoa học ký thuật mới. - Chính sách thu hút, quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán phải từng bước hướng tới thông lệ quốc tế, đảm bảo tính hiệu quả và tạo tiền đề để hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Thu hút cũng phải đi đôi với quản lý vốn. Bài học khủng hoảng của các nước trong khu vực cho thấy việc quản lý để đảm bảo được quy mô nguồn vốn vào và cơ cấu nguồn vốn ra là hết sức quan trọng và nếu không có chính sách thích hợp thì đến một lúc nào đó việc chu chuyển vốn thông qua biên giới sẽ trở thành nguyên nhân gây khủng hoảng tài chính. Nguồn vốn vào phải phục vụ cho các mục đích phát triển và giảm thiểu các tác động tiêu cực tới việc huy động nguồn vốn trong nước, tắc động đến tỷ giá và phải đảm bảo có cơ cấu hợp lý trong tương qua với các nguồn vốn nước ngoài khác như vay thương mại và FDI. Đồng thời bên cạnh việc thu hút phải đặc biệt chú trọng đến các biện pháp đối phó với khả năng chuyển vốn ra nhanh và đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi tình hình trong nước gặp khó khăn, các nhà lập chính sách chủ động trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, giảm tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn và chủ động trong việc giám sát các dòng vốn một cách có hiệu quả. 2. Một số giải pháp Trên cơ sở điều kiện thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng như rút kinh nghiệm từ các bài học của các nước trong khu vực, một số giải pháp sau đây có thể được xem xét áp dụng. 2.1. Cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài Đây là giải pháp mang tầm vĩ mô nằm trong chiến lược chung về phát triển kinh tế và có tác dụng không những chỉ đối với nhà đầu tư FPI mà còn đối với việc thu hút các nguồn vốn khác như FDI và vay thương mại. Giải pháp này vừa mang tính cấp bánh vừa mang tính lâu dài với một số nội dung chính là: - Ổn định và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách duy trì tăng trưởng kinh tế, cam kết với chính sách mở cửa và cải cách cơ cấu, đồng thời cải tiến các thủ tục hành chính, chống tham nhũng. Các biện pháp, chính sách này đã làm cho người đầu tư nước ngoài tin tưởng hơn vào khả năng sinh lời và an toàn khi đầu tư vào Việt Nam. - Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và các quy định về đầu tư nước ngoài nói riêng. Đây là giải pháp vừa phục vụ mục đích phát triển thị trường về lâu dài, nhưng đồng thời có tác dụng làm tăng lòng tin tưởng của công chúng đầu tư nước ngoài. Bên cạnh việc sửa đổi việc sửa đổi Nghị định 48/1998/NĐ-CP đang tiến hành, Việt Nam cần có những động thái bắt tay vào xây dựng Luật chứng khoán như thành lập Ban soạn thảo, chuẩn bị tài liệu, kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế trong việc xây dựng Luật chứng khoán… 2.2. Phát triển thị trường về quy mô, tăng số công ty niêm yết Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các Công ty niêm yết hấp dẫn hơn nhiều nhờ có độ an toàn và minh trong quản trị công ty cao hơn hẳn đối với các công ty chưa niêm yết. Độ an toàn lại càng quan trọng hơn trong một môi trường kinh doanh còn non trẻ như ở Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài đã quen với những TTCK có quy chế chặt chẽ thường muốn đầu tư vào những công ty Việt Nam được niêm yết hơn là những công ty chưa niêm yết trên TTCK. Lý do là ở những công ty này giám đốc có trách nhiệm lớn hơn, chế độ báo cáo tài chính và kiểm toán chặt chẽ hơn nhiều. Muốn mở rộng cơ cấu có sức hấp dẫn này cần có những ưu đãi thực sự để các công ty muốn được niêm yết, hoặc phải mở rộng các quy định về trách nhiệm để áp dụng cho các công ty chưa niêm yết. Hiện nay, nhiều công ty chưa niêm yết không muốn niêm yết vì không phải chịu các quy định chặt chẽ về quản trị doanh nghiệp và chế độ báo cáo áp dụng cho các Công ty niêm yết, hoạt động của họ dễ dàng hơn rất nhiều. Sự khác biệt giữa các quy định áp dụng cho 2 loại công ty này là một yếu tố đáng kể. Thêm vào đó, các công ty còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí nữa trước khi có thể phát hành cổ phiếu ra công chúng trên TTCK. Có thể kể ra một số tiêu chí như có số vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỉ VND (tương đương 660.000 USD); kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất; các thành viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc có kinh nghiệm; có kế hoạch khả thi để sử dụng tiền thu từ việc phát hành cổ phiếu; ít nhất 20% vốn cổ phần bán ra cho hơn 100 nhà đầu tư bên ngoài; các cổ đông sáng lập giữ tối thiểu 20% vốn cổ phần trong ít nhất 3 năm kể từ ngày chấm dứt phát hành; và phải có bên bảo lãnh phát hành khi mệnh giá cổ phiếu phát hành vượt quá 10 tỉ VND . (Điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về Chứng khoán và thị trường chứng khoán). Một số tiêu chí trên đây đã trở thành trở ngại làm các công ty không muốn niêm yết. Một giải pháp để thu hút thêm đầu tư là cải thiện và mở rộng phạm vi TTCK bằng cách thu hút và tạo điều kiện để các công ty chưa niêm yết niêm yết trên thị trường. Ví dụ như một số công ty có thể có vốn cổ phần khá lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng được mức vốn điều lệ cần có để đăng ký, nếu thay đổi tiêu chí này để tính đến vốn cổ phần của công ty thì sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết. Thay đổi quy định về tiêu chí niêm yết có thể khuyến khích nhiều công ty xin niêm yết, qua đó làm tăng thêm sự quan tâm của các nhà đầu tư vào thị trường. Nói tóm lại,như đã phân tích ở các phần trước, quy mô của thị trường càng lớn thì “sân chơi” dành cho các nhà đầu tư càng rộng, người đầu tư càng nhiều thì thị trường càng trở nên hấp dẫn. Nói cách khác nếu các điều kiện chính sách không thay đổi thì quy mô đầu tư vào thị trường chứng khoán tỷ lệ thuận với quy mô của thị trường.Việc mở rộng quy mô của thị trường có thể được thực hiện thông qua các chiến dịch khuyến khích các công ty có đủ điều kiện ra niêm yết và thực hiện có chọn lọc chương trình niêm yết bắt buộc, thực hiện thí điểm và nhân rộng việc cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để niêm yết, mở rộng thị trường giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời có cơ chế khuyến khích người đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phần của các công ty chưa niêm yết và doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Thực hiện được giải pháp này thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phát triển theo đúng định hướng, đồng thời đầu tư của nước ngoài cũng sẽ tăng mạnh. 2.3. Cải thiện việc cung cấp thông tin và quyền tiếp cận thông tin Đây là giải pháp cơ bản, vừa cấp bách vừa mang ý nghĩa lâu dài và sâu rộng để thu hút sự chú ý của người đầu tư nước ngoài và khuyến khích họ đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Giải pháp này có thể thực hiện thông qua một số nội dung cụ thể: - Khuyến khích các công ty niêm yết cung cấp thông tin tiếng Anh cho người nước ngoài, nhất là các tài liệu gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán như bản cáo bạch, báo cáo định kỳ và đột xuất và hoạt động tiếp xúc của Ban lãnh đạo công ty và nhân viên công bố thông tin. Các báo cáo tài chính của công ty cần được diễn giải rõ ràng, có sự so sánh với các tiêu chuẩn kế toán quốc tế để người nước ngoài có thể hiểu được một cách dễ dàng. - Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch chứng khoán cần xây dựng và phát triển trang Web điện tử có thể cung cấp thông tin chính thức về tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam và tình hình tài chính và hoạt động của các công ty niêm yết. Trang Web phải bao gồm các loại thông tin như đã nêu ở trên, đồng thời có sự hướng dẫn về quy trình thủ tục và các điều kiện đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Trang Web này sẽ giảm thiểu được chi phí tiếp cận thông tin thị trường Việt Nam của những người nước ngoài quan tâm nhưng chưa có điều kiện tìm hiểu thực tế, từ đó thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư nước ngoài. - Cải thiện quyền tiếp cận thông tin của cổ đông. Hiện nay hành lang pháp lý về đầu tư vào công ty cổ phần còn thiếu những nghĩa vụ buộc các công ty phải cung cấp các thông tin quan trọng của cổ đông, luật không cho phép các cổ đông được quyền tiếp cận biên bản họp cổ đông và họp ban giám đốc cũng như các thông tin tài chính cơ bản của công ty. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ vẫn giữ mối hoài nghi về thị trường nếu họ không được tiếp cận các hồ sơ của các công ty. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy tin cậy hơn vào thị trường Việt Nam nếu tất cả các Công ty cổ phần Việt Nam có chế độ báo cáo hoàn chỉnh hơn. - Tăng cường tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam để tạo ra diễn đàn trao đổi lý luận và kinh nghiệm thực tế, chia sẻ thông tin. Việc thực hiện các nội dung trên sẽ làm cho thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam đến với đông đảo công chúng đầu tư nước ngoài, thu hút được sự quan tâm nhiều hơn và tăng được lòng tin vào chất lượng thông tin. Đây là một trong những yếu tố cơ bản quyết định dòng vốn của nước ngoài vào đầu tư vào thị trường chứng khoán. 2.4 . Mở rộng lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài Hiện nay các công ty Việt Nam chỉ có thể pháp hành cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài nếu họ đang hoạt động tại một trong 35 lĩnh vực ( điều 4, Quyết định 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 của Thủ tướng chính phủ). Mặc dù thông thường nước nào cũng đặt ra hạn chế về số lượng đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực nhạy cảm, nhưng cách quy định 35 lĩnh vực này không khuyên khích được các nhà đầu tư nước ngoài. Một cách khác để quy định các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư là : Chính phủ cho phép đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực trừ những lĩnh vực mà Chính phủ cho là ngoại lệ. Điều này sẽ giúp Chính phủ vừa bảo hộ được một số lĩnh vực cụ thể vừa khuyến khích đầu tư nước ngoài ở mức tối đa. Đây sẽ là một sự khuyến khích mà các nhà đầu tư nước ngoài nghĩ đến bên cạnh việc lựa chọn loại hình đầu tư họ muốn thực hiện tại Việt Nam. 2.5. Thực hiện công bằng trong việc mua lại cổ phần Theo Luật doanh nghiệp, các công ty Việt Nam có quyền mua lại tối đa 30% số cổ phiếu thông thường và mua lại một phần hoặc toàn bộ các loại cổ phiếu khác (điều 35). Một điều đáng lưu ý là trong 22 công ty niêm yết cho đến nay chỉ có 5 công ty phát hành cổ phiếu mới ra thị trường trong khi nhiều công ty khác đã mua lại cổ phiếu của chính mình đề giữ làm cổ phiếu quỹ với ý định để mai sau bán lại hoặc huỷ bỏ. Tuy nhiên, Công ty niêm yết lại có toàn quyền lựa chọn mua lại cổ phần của bất kỳ cổ đông nào, không hề có quy định nào yêu cầu công ty phải đề nghị mua lại cổ phẩn của cổ đông theo tỷ lệ phần trăm nắm giữ cổ phần của họ. Điều này là không công bằng, vì nó có thể làm thay đổi tỷ lệ và khối lượng nắm giữ cổ phần của các cổ đông theo hướng có lợi cho một số người. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ rất dè dặt khi đầu tư vào một hệ thống cho phép đối xử bất bình đẳng đối với cổ đông. Sự bình đằng trong nắm giữ cổ phần có thể dễ dàng đạt được bằng quy định của pháp luật rằng công ty phải mua lại cổ phiếu của mọi cổ đông theo tỷ lệ tương ứng. Sửa đổi này sẽ khích lệ nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ tỷ lệ nắm giữa cổ phần của họ được đảm bảo tốt hơn. 2.6. Tăng lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán Việc mới chỉ có một số ít công ty sử dụng TTCK làm cơ chế huy động vốn đã hạn chế một cách nghiêm trọng đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. Cho đến nay chỉ có 5 công ty phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ mới mức huy động rất nhỏ là 155,4 tỷ đồng. Hai lý do dẫn tới tình trạng này là: Thứ nhất, do việc phát hành cổ phiếu ra công chúng của các Công ty cổ phần chưa niêm yết chưa được điều chỉnh nên dễ huy động vốn hơn khi đã niêm yết vì không bị rằng buộc bởi các tiêu chuẩn tối thiểu hoặc các yêu cầu cung cấp thông tin. Thứ hai, đã có nhiều thông tin cho thấy có hiện tượng tiêu cực xảy ra, một vài vị giám đốc của các công t(1) Thuật ngữ “chợ xám” (grey market) đề cập tới hành vi “che giấu” quy mô và giá trị thực tế của công ty bằng việc không nhận các hoá đơn mua nguyên vật liệu và cũng không phát hành hoá đơn cho khách hàng, thường với mục đích trốn thuế phải nộp cho các giao dịch đó. y giao dịch trên “chợ xám”(1) và là ứng cử viên sắp được niêm yết đã nhận tiền hoa hồng khi họ đồng ý để công ty phát hành các cổ phiếu mới cho một nhà đầu tư mới, vì họ khó có thể tiếp tục làm ăn kiểu này sau khi công ty được niêm yết, nên chừng nào công ty còn chưa được niêm yết thì vẫn còn động cơ để cố gắng huy động vốn. Nếu Việt Nam muốn khuyến khích đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán cần phải giải quyết các vấn đề trên bằng cách giảm bớt quyền lợi khi giao dịch với tư cách là một công ty chưa niêm yết (nhất là việc dễ dàng bán cổ phần mà không cần kiểm tra đối chiếu) và hoặc tăng quyền lợi khi giao dịch với tư cách là một công ty niêm yết. 2.7. Thực hiện ưu đãi về thuế Tại Việt Nam, trong khi có một vài ưu đãi hấp đẫn về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước ít được khuyến khích. Việt Nam còn áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao đối với doanh nghiệp trong nước khi so sánh với các nước khác trong khu vực Đông Á, mức thuế của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thường thấp hơn thuế của các doanh nghiệp trong nước 7%. Các mức thuế cao này khiến cho nhà đầu tư nước ngoài tính đến chuyện đầu tư tiền của họ ở các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc ở các nơi khác. Các chế độ ưu đãi về thuế cần được cân nhắc kỹ lưỡng có thể khuyến thích tốt hơn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.8. Cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường cạnh tranh để giảm chi phí giao dịch cho người nước ngoài Hiện nay người nước ngoài vẫn còn đang phải chịu chi phí giao dịch cao, một phần do tình trạng độc quyền phục vụ của thành viên lưu ký nước ngoài. Việc giảm chi phí giao dịch để khuyến khích đầu tư nước ngoài có thể thực hiện được thông qua cải cách một số thủ tục hành chính trong quy trình đầu tư: - Quy định các thành viên lưu ký nước ngoài đã được cấp giấy phép phải tổ chức khai trương hoạt động phục vụ khách hàng, thành viên nào đã được cấp giấy phép mà không khai trương hoạt động trong một thời gian dài thì nên thu hồi giấy phép. Việc có nhiều thành viên lưu ký nước ngoài hoạt động sẽ tạo môi trường cạnh tranh và nhiều sự lựa chon hơn cho người đầu tư nước ngoài. - Cho phép người đầu tư nước ngoài được mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán trong nước để giảm bớt khâu trung gian. Đây có thể coi là một giải pháp mang tính đột phá vì người đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng mức phí phục vụ thấp của các công ty trong nước, tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự. Để thực hiện giải pháp này đòi hỏi phải sửa đổi lại các quy định hiện hành về giao dịch, thanh toán bù trừ, quản lý ngoại hối… liên quan đến đầu tư nước ngoài, và phải có cơ chế phối hợp giữa Công ty chứng khoán với Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ trong việc xử lý nguồn tiền vào và ra của người nước ngoài. Huy động vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một chủ trương trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, nhằm bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Điểm cốt yếu để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt Nam là làm sao để Thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên thực sự hấp dẫn. Ngoài các yếu tố khả năng sinh lời cao và các ưu đãi khuyến khích đầu tư của TTCK, nền tảng của một thị trường hấp dẫn là quyền lợi được đối xử công bằng, được bảo hộ thích đáng. Để đạt được các mục đích này, cùng với các biện pháp phát triển quy mô thị trường chúng ta cần phải có những đổi mới cơ bản trong hành hang pháp lý đối với các Công ty cổ phần và Thị trường chứng khoán. Nhất định Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ dần dần phát triển, sẽ thể hiện được hết vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân, trở thành một kênh dẫn các nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển trong đó bao gồm cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN Thực trạng đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong hơn 3 năm qua cho thấy nguồn vốn và số lượng người đầu tư nước ngoài chưa nhiều, chưa có có tác động thực sự tới sự phát triển kinh tế đất nước.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, thì nguồn vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán sẽ tăng lên và chiếm một tỷ trọng nhất định trong cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài bổ sung cho các nguồn khác đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội. Việc thu hút đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là cần thiết và để làm được điều đó chúng ta phải tạo ra được một thị trường chứng khoán hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Nền tảng của một thị trường hấp dẫn là quyền lợi được đối xử công bằng và được bảo hộ thích đáng, chúng ta cần phải có những đổi mới cơ bản trong hành hang pháp lý đối với các Công ty cổ phần và Thị trường chứng khoán để thực hiện được điều này. Khi các điều kiện chính sách không thay đổi thì quy mô đầu tư tỷ lệ thuận với quy mô của thị trường, việc thu hút đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán không thể tách rời việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Chúng ta cần phải vừa có các biện pháp ưu đãi khuyến khích và bảo hộ đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán, vừa phải thực hiện các biện pháp phát triển quy mô của thị trường,nâng cao chất lượng của hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Với thời gian hạn chế và kiến thức bản thân có hạn nên chắc chắn luận văn còn nhiều rất nhiều thiếu xót, các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam đưa ra có thể không đầy đủ hoặc sai lầm, nhưng tôi cũng hy vọng những giải pháp đó được tham khảo để góp phần hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo dạy trường Đại học Ngoại Thương đã giảng dạy để giúp tôi có kiến thức nghiên cứu môn học này. Tôi xin đặc biệt cảm ơn cô giáo- tiến sĩ Hoàng Ánh đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành khoá luận này. Hà Nội ngày 20 tháng 12 năm 2003 Sinh viên: Vũ Ngọc Dương Lớp A6-K38B-KTNT TÀI LIỆU THAM KHẢO I. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT Nghị quyết Đại hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VIII. Luật Doanh Nghiệp (Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999). Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Quốc hội thông qua ngày 12/11/2000) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài (có hiệu lực từ ngày 1/7/2000) và Nghị định 24 hướng dẫn thi hành Luật này. Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập UBCKNN. Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 về việc chuyển các DN Nhà nước thành công ty cổ phần. Quyết định 127 của Thủ tướng Chính phủ (11/7/1998) về việc thành lập TTCK Việt Nam. Nghị định 48/CP ngày 11/7/1998 và các Thông tư, Quy chế hướng dẫn về CK và TTCK. Quyết định 146 của Chính phủ ngày 17/7/2003 về Tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt Nam Quyết định 36 của Chính phủ ngày 11/3/2003 ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà Đầu tư nước ngoài trong các Doanh nghiệp Việt Nam II. SÁCH BÁO - TÀI LIỆU Giáo trình "Thị trường Chứng khoán" - Trường Đại học Ngoại thương của PGS.NGƯT Đinh Xuân Trình và PTS. Nguyễn Thị Quy (NXBGD). Sách "Thị trường Chứng khoán" của PGS.TS Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân (NXB Thống Kê), 1997. Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - Tài liệu Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán - UBCKNN (01/2000). Đề tài Uỷ ban chứng khoán nhà nước " Một số vấn đề về thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán" - Mã số UB.02.14 (Vụ phát triển thị trường chứng khoán). Đề tài Uỷ ban chứng khoán nhà nước " Xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán"- Mã số CK.09.99 (Phòng pháp chế Uỷ ban chứng khoán nhà nước). Sách "Thị trường chứng khoán - Phương thức hoạt động và kinh doanh" - Nhà xuất bản Thống Kê Hà nội 10/1996 Các bản báo cáo thông tin về giao dịch chứng khoán do TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh phát hành. Báo Thị trường chứng khoán – Uỷ ban chứng khoán nhà nước – các số 3,7,8,9,11 nắm 2003. Trang Web “ Trang Web “” Trang Web ""

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChungkhoan25.doc
Tài liệu liên quan