- Đối với các ngành quản lý kinh tế vĩ mô
+ Khi ban hành hay sửa đổi một quy định pháp lý, Nhà nước phải đảm bảo quyền lợi cho các nhà XNK, tránh tình trạng Nhà nước chỉ quan tâm tới ngày ban hành và thực hiện quy định mà không quan tâm tới những vấn đề nảy sinh từ việc thực hiện quy định đó. Nên chăng khi ban hành luật và quy định liên quan đến XNK, Nhà nước nên có văn bản hướng dẫn giải quyết các hợp đồng XNK đã ký kết trước ngày đó nhưng chưa được thực hiện. Đây cũng chính là biện pháp góp phần hạn chế rủi ro trong công tác thanh toán tín dụng chứng từ tại ngân hàng.
+ Nhà nước phải có các văn bản pháp lý chỉ đạo các ngành hữu quan thống nhất thực hiện các văn bản đã được ban hành về nghiệp vụ ngân hàng, tránh sự mâu thuẫn trong việc hướng dẫn thực hiện các văn bản của các liên quan, nhằm tạo ra sự nhất quán cho việc ban hành cũng như áp dụng và thi hành. Các quy chế không nên đối nghịch với thông lệ và tập quán quốc tế, nhưng cũng phải phù hợp với các bộ luật của Việt Nam và phải tính đến đặc thù về kinh tế xã hội và cả tập quán môi trường đầu tư của nước ta.
+ Cải cách biểu thuế xuất nhập khẩu, để đảm bảo cho việc thuế là một công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để Việt Nam sớm gia nhập APTA và WTO.
+ Phát triển hoạt động nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để cải thiện tiến tới thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, cần phải có biện pháp để hướng hoạt động nhập khẩu đi đúng hướng chỉ cho phép nhập khẩu những mặt hàng cần thiết, không cho phép nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được nhiều với chất lượng tốt.
69 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về kế toán thanh toán hàng xuất nhập khẩu sử dụng phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Đống Đa - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n quốc tế, phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu. Ngân hàng đã tham gia vào hầu hết các nghiệp vụ thanh toán quốc tế như : tín dụng chứng từ, chuyển tiền, nhờ thu, kiều hối... và trong nghiệp vụ nào ngân hàng cũng thu được những kết quả đáng khích lệ. Do khả năng có hạn nên trong phạm vi khoá luận này em xin chỉ đề cập đến nghiệp vụ kế toán thanh toán hàng xuất nhập khẩu sử dụng hình thức thư tín dụng.
Quy trình hạch toán thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức nào là do hai bên mua bán thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương, không do ý muốn chủ quan của ngân hàng. Trong thanh toán hiện nay, người nhập khẩu Việt Nam thường được yêu cầu thanh toán bằng L/C vì người xuất khẩu chưa thực sự tin tưởng khả năng thanh toán của ta. Do chúng ta nhập khẩu là chủ yếu, nên phương thức thanh toán bằng L/C hiện nay đang chiếm một tỷ trọng cao trong các phương thức thanh toán hàng nhập khẩu qua ngân hàng và NHCT Đống Đa cũng không nằm ngoài quy luật này.
Tình hình thanh toán hàng nhập khẩu tại ngân hàng
Đơn vị : USD
Chỉ tiêu
Thời gian
Phát hành
Thanh toán
Số L/C
Giá trị
Số L/C
Giá trị
1989
260
21.560.000
340
19.700.000
1999
410
19.500.000
397
17.258.000
2000
320
25.200.000
310
23.200.000
Trên thực tế hiện nay, không thể phủ nhận một điều là L/C vẫn đóng một vị chí quan trọng trong thanh toán quốc tế vì nó đảm bảo an toàn cho cả bên mua và bên bán.
Trong nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng phục vụ nhập khẩu, NHCT Đống Đa đóng vai trò là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu Việt Nam; với quan hệ đại lý rộng khắp trên thế giới thực hiện việc thanh toán giá trị hàng nhập từ nước ngoài. Do tính quan trọng của nghiệp vụ thanh toán quy định, nên NHCT Đống Đa khi thực hiện nghiệp vụ phải chấp hành đầy đủ các bước quy trình đề ra nhằm đảm bảo an toàn cho chính ngân hàng mình đồng thời giữ được uy tín với khách hàng và ngân hàng nước ngoài.
Mở thư tín dụng :
Đối với L/C thanh toán hàng nhập khẩu, phòng kinh doanh đối ngoại tiếp nhận và xem xét hồ sơ ở các nội dung :
Kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ về mặt số lượng và nội dung các văn bản:
• Hợp đồng ngoại thương gốc.
• Đơn mở L/C phù hợp với yêu cầu và quy định tại chi nhánh, nội dung L/C không chứa đựng rủi ro cho chi nhánh.
• Cam kết thanh toán, hợp đồng tín dụng (trường hợp vay vốn), công văn phê duyệt cho mở L/C trả chậm của NHCT Việt Nam (trường hợp mở L/C trả chậm).
• Hợp đồng mua bán ngoại tệ ( nếu có ).
• Giấy phép của Bộ thương mại ( nếu mặt hàng nhập khẩu thuộc danh mục quản lí quy định tại quyết định điều hành XNK hàng năm của Thủ tướng Chính phủ ).
• Hợp đồng uỷ thác ( nếu có ).
Ngoài ra, khách hàng phải xuất trình quyết định thành lập, đăng kí kinh doanh và đăng kí mã số xuất nhập khẩu khi mở L/C lần đầu.
Bộ hồ sơ trên phải đảm bảo tính chân thực, tính pháp lý. Việc thanh toán phải phù hợp với chế độ quản lý ngoại hối và chính sách quản lý xuất nhập khẩu hiện hành của Nhà nước.
Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hợp đồng nhập khẩu đảm bảo tính thực thi của hợp đồng, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng nhập khẩu và ngân hàng. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu nằm trong danh mục cấm nhập khẩu của Nhà nước quy định thì trả lại hồ sơ cho khách hàng.
Kiểm tra đơn mở L/C của khách hàng về tính chất pháp lí của đơn, tính phù hợp về nội dung giữa đơn và hợp đồng, tư vấn cho khách hàng sửa đổi hợp đồng hoặc đơn mở L/C nếu cần thiết.
Có cơ sở đảm bảo thanh toán L/C phù hợp với quy định hiện hành của NHCT Việt Nam ( mức ký quỹ, vốn vay, cam kết thanh toán, hạn mức cho vay và bảo lãnh chưa thực hiện...).
Việc xem xét hồ sơ nói trên được thực hiện trong vòng 01 ngày làm việc kể từ khi nhận hồ sơ của khách hàng. Nếu hồ sơ đã đủ điều kiện, trong trường hợp L/C ký quỹ dưới 100%, cán bộ thanh toán L/C ký vào cam kết thanh toán.
Mức ký quỹ là khoản đảm bảo cho ngân hàng phần nào tránh được rủi ro trong thanh toán. Mức ký quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào uy tín của khách hàng, loại hàng nhập khẩu biến động nhiều hay ít về giá cả và mức ký quỹ còn phụ thuộc vào sự cạnh tranh với các ngân hàng khác trên địa bàn.
Ngân hàng Công thương Đống Đa áp dụng mức ký quỹ rất linh động :
Khách hàng loại 1 : 5 - 10% giá trị L/C.
Khách hàng loại 2 : 10 - 20% giá trị L/C.
Khách hàng loại 3 : 20 - 40% giá trị L/C.
( Đối với khách hàng chưa tin cậy mức ký quỹ còn có thể cao hơn thậm chí 100% giá trị L/C ).
Sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ đã được phê duyệt , đảm bảo khách hàng đã ký quỹ đủ số tiền theo quy định và đã mua bảo hiểm ( nếu cần ). Cán bộ thanh toán L/C tiến hành mở L/C, ghi số L/C đã mở, trị giá và ngày phát hành L/C trên hợp đồng gốc, đồng thời ký tên trên hợp đồng. Hợp đồng gốc có thể trả lại khách hàng nếu khách hàng yêu cầu. Khi đó ngân hàng phải có bản sao, có dấu treo của đơn vị để lưu. Sau đó phụ trách phòng kiểm soát lại toàn bộ hồ sơ theo đúng quy định của NHCT Việt Nam và chuyển L/C ra nước ngoài ( nếu được giám đốc uỷ quyền ) hoặc chuyển L/C ra nước ngoài sau khi hồ sơ đã được giám đốc ký duyệt. Riêng trường hợp L/C trị giá từ 500.000 USD trở lên phải thêm một bước ký hiệu mật của giám đốc chi nhánh hoặc được giám đốc uỷ quyền.
Việc thu tiền ký quỹ mở L/C và nhập cam kết thanh toán L/C bàn giao lại cho kế toán thực hiện vì nó liên quan đến sổ sách và hệ thống tài khoản.
Ví dụ : Công ty xuất nhập khẩu vật tư đường biển nhập khẩu hàng hoá từ Singapore với trị giá L/C là 368.961,73 USD với tỷ lệ ký quỹ là 16.675,00 USD.
Trong trường hợp công ty có ngoại tệ:
Nợ : TK 710A.00345 16.675,00 USD
Có : TK 850A.00345 16.675,00 USD
Nếu công ty không có ngoại tệ thì công ty phải mua ngoại tệ tại ngân hàng bằng nguồn vốn VND của mình theo tỷ giá hiện hành là 14.566VND/USD để ký quỹ( 16.675,00 x 14.566):
Nợ : TK 710A.00345 242.888.050 VND
Có : TK 4912.01001 242.888.050 VND
Nguồn ngoại tệ được ngân hàng trích ra để công ty ký quỹ là:
Nợ : TK 4911.01001 16.675,00 USD.
Có : TK 850A.00345 16.675,00 USD.
Đồng thời kế toán thu phí giao dịch ngoại tệ là 0,05%.
( 16.675,00 x 0,05 % x 14.566)
Nợ : TK 710A.00345 121.444 VND
Có : TK 4631.01001 11.040 VND
Có : TK 7299.01002 110.404 VND
Nhưng dù ký quỹ bằng ngoại tệ hay nội tệ nhất thiết đơn vị phải sử dụng nguồn vốn tự có của mình, không được sử dụng vốn vay để ký quỹ và số tiền trên tài khoản ký quỹ được hưởng lãi là 0,05%/năm bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ.
Căn cứ vào hợp đồng bảo lãnh, giấy cam kết thanh toán, hợp đồng tín dụng, kế toán xử lý hạch toán nhập bảng số tiền cam kết thanh toán bằng vốn (phần chêch lệch giữa trị giá L/C và ký quỹ).
Nhập ngoại bảng TK 9216.01 352.268,73 USD.
Khi nhận được đơn xin tu chỉnh của khách, ngân hàng phải xem xét kiểm tra các tu chỉnh có gì cho ngân hàng và khách hàng không để có biện pháp nhắc nhở kịp thời cho khách hàng.
Đối với các tu chỉnh tăng giá trị bất lợi của L/C, ngân hàng phải xem xét khả năng thanh toán của khách hàng cho số tiền tăng lên như khi mở L/C, nếu chấp nhận tu chỉnh thì yêu cầu khách hàng ký quỹ cho phần giá trị tăng thêm và tiến hành các bước tiếp theo như trình tự khi mở L/C. Kế toán hạch toán cho phần ký quỹ tăng thêm.
Theo ví dụ trên thì công ty đã sửa đổi tăng thêm 30 USD :
Nợ TK 710A.00345 30 USD
Có TK 850A.00345 30 USD
Thanh toán L/C :
Khi L/C đã gửi đi ngân hàng nước ngoài, thanh toán viên phải gửi một bản sao L/C cho người nhập khẩu đồng thời tiến hành lập hồ sơ đưa vào sổ sách và máy vi tính để tiện theo dõi.
Nhận được bộ chứng từ đòi tiền từ ngân hàng nước ngoài, phòng kinh doanh đối ngoại có trách nhiệm :
Sau khi nhận được bộ chứng từ, thanh toán viên phải ghi sổ theo dõi giao nhận chứng từ. Kiểm tra số lượng của từng loại chứng từ theo quy định của L/C, sự phù hợp của chứng từ với các điều kiện của L/C. Kiểm tra sự nhất quán, sự phù hợp của chứng từ với UCP 500 của ICC. Lập phiếu kiểm tra chứng từ, thông báo cho khách hàng trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận chứng từ . Trường hợp chứng từ có sai sót thì tiến hành thông báo cho ngân hàng gửi chứng từ thông qua NHCT Việt Nam trên mạng SWIFT; đồng thời liên hệ với khách hàng nhập khẩu chờ chấp nhận thanh toán. Nếu khách hàng chấp nhận thanh toán bộ chứng từ có sai sót và thống nhất với phiếu kiểm tra. Phòng kinh doanh đối ngoại thông báo ngày thanh toán cho phòng kinh doanh biết bằng văn bản ( Phiếu kiểm tra chứng từ - trong đó ghi rõ số hợp đồng ngoại liên quan tới L/C nhập khẩu).
Ngân hàng chỉ phát hành thư bảo lãnh hoặc ký hậu vận đơn để khách hàng nhận hàng khi khách hàng có đủ tiền - kể cả tài khoản ký quỹ chuyển vào tài khoản tiền gửi đảm bảo các khoản thanh toán.
Kế toán hạch toán :
Thanh toán và thu phí từ người từ người hưởng
Nợ TK 850A.00345 16.675,00 USD
Nợ TK 4911.01001 352.286,73 USD
Có TK 5690.01001 368.961,73 USD
Do công ty sửa đổi tăng thêm 30 USD nên ngân hàng thu phí sửa đổi tăng.
Nợ TK 5690.01001 368.961,73 USD
Có TK 5191.51108 368.931,73 USD
Có TK 4631.01001 2,73 USD
Có TK 7121.01002 27,27 USD
Căn cứ vào giá trị đã thanh toán, xuất tài khoản ngoại bảng cam kết thanh toán, vay vốn, bảo lãnh liên quan phần giá trị tương ứng L/C đã thanh toán ( phần chênh lệch giữa trị giá L/C và ký quỹ )
Đồng thời Xuất ngoại bảng TK 9216.01 352.286,73 USD
Quy trình hạch toán thanh toán thư tín dụng xuất khẩu.
ýthức được tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đến sự phát triển kinh tế nên ngân hàng luôn chú trọng tổ chức khâu thanh toán nhanh, thuận tiện và an toàn bằng việc mở rộng các nghiệp vụ thanh toán hiện đại và đem lại hiệu quả cao.
Tình hình thanh toán hàng xuất khẩu tại ngân hàng.
( Đơn vị: USD )
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Lượng
35
22
22
Giá trị
3.200.000
308.000
350.000
Đây là một loại hình mới đối với ngân hàng. Nhưng cán bộ đã có nhiều cố gắng, góp phần tạo thêm nguồn ngoại tệ cho chi nhánh.
Nhận, thông báo và những sửa đổi liên quan đến L/C:
Thư tín dụng xuất khẩu do ngân hàng nước ngoài mở để thanh toán hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Người nhập khẩu nước ngoài và người xuất khẩu Việt Nam quan hệ mua bán với nhau bằng hợp đồng thương mại.Vì vậy khi nhận được L/C từ ngân hàng nước ngoài, phòng kinh doanh đối ngoại được phép nhận, thông báo L/C xuất khẩu và sửa đổi liên quan cho khách hàng khi nhận L/C từ NHCT Việt Nam, hoặc từ ngân hàng khác hệ thống nhưng phải đảm bảo tính xác thực thông qua việc kiểm tra ký hiệu mật hoặc chữ ký mẫu đã được đăng ký. Nếu không thể xác thực được thì thông báo cho khách hàng với lưu ý là L/C chưa được xác thực. Việc xác thực L/C thực hiện theo đúng quy định của NHCT Việt Nam. Khi đó chi nhánh phải thu phí thông báo trước khi giao L/C, phí thông báo thư tín dụng là 15 USD hoặc khách hàng sửa đổi L/C thì phí sửa đổi L/C là 10 USD cho khách hàng.
Ví dụ : Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí xuất khẩu xuất khẩu tùng hương sang Thái Lan với trị giá hàng là 16.972,80 USD.
Ngân hàng tiến hành thu phí thông báo trước khi giao L/C là 15 USD với tỷ giá là 14.566 VND/USD ( 15 x 14.566 ).
Nợ : TK 710A.00248 218.490 VND
Có : TK 7121.01002 198.628 VND
Có : TK 4631.01001 19.862 VND
Tiếp nhận, kiểm tra, gửi chứng từ đi đòi tiền.
Ngay khi nhận bộ chứng từ do khách hàng xuất trình cùng bản gốc L/C ( Trên bản gốc phải có dấu, chữ ký và ngày ký của người có thẩm quyền của ngân hàng thông báo), các bản gốc của các sửa đổi có liên quan và bản gốc thông báo L/C, thông báo sửa L/C. Kiểm tra đảm bảo L/C còn hiệu lực thanh toán, việc giao nhận chứng từ với khách hàng phải có biên bản giao nhận.
Trong phạm vi 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận chứng từ, cán bộ L/C tiến hành kiểm tra chứng từ và lập phiếu kiểm tra theo những nội dung:
+ Xác thực L/C gốc và các bản sửa đổi gốc có liên quan.
+ Kiểm tra số lượng, loại chứng từ đối chiếu với bản kê chứng từ của khách hàng và quy định trong L/C.
+ Kiểm tra các nội dung trên từng loại chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện quy định trong L/C.
+ Kiểm tra sự thống nhất giữa các chứng từ.
+ Kiểm tra sự phù hợp của chứng từ với UCP 500 của ICC.
Trường hợp chứng từ không có sai sót thì lập bảng kê chứng từ kèm chỉ thị hoàn tiền “ covering letter ”.Nếu L/C đã đòi tiền bằng điện trên “ covering letter ” phải ghi rõ: “ we have claimed by telex/swift on your reimbusement bank/yourself on...”. Ngân hàng tiến hành hoàn thiện chứng từ như ký hậu hối phiếu, lập chỉ thị đòi tiền. Lập điện đòi tiền nếu L/C cho phép đòi tiền bằng điện.
Khi gửi bộ chứng từ đi nước ngoài để đòi tiền theo đúng địa chỉ ghi trên L/C, phải nhập các thông tin cần thiết vào hồ sơ bộ chứng từ L/C xuất khẩu trong chương trình máy tính. Trường hợp chứng từ gửi đi đòi tiền, sau 15 ngày mà không có hồi âm thì cán bộ L/C lập điện tra soát gửi ngân hàng nhận chứng từ để đòi tiền cả gốc và lãi chậm trả, sau đó nếu không có trả lời thì liên tiếp 5 ngày 1 lần lập điện tra soát cho đến khi nhận được điện trả lời của ngân hàng nước ngoài, hạch toán :
Nhập ngoại bảng TK 9123.01001 16.972,80 USD
Thanh toán L/C.
Khi nhận được báo có MT 910 kèm sao kê tài khoản của hội sở chính hoặc MT 202 của ngân hàng nước ngoài báo có cho L/C xuất khẩu, kế toán hạch toán và thu phí thanh toán L/C tối thiểu là 10 USD, tối đa là 120 USD. Trong trường hợp này, phí thanh toán của công ty là 20 USD.
Nợ : TK 5191.51108 16.972,80 USD
Có : TK710A.000248 16.952,80 USD
Có : TK 7121.01001 18,20 USD
Có : TK 4631.01001 1,80 USD
Đồng thời ghi xuất ngoại bảng 9123.01001 16.972,80 USD
Trong thanh toán hàng xuất khẩu ngoài nghiệp vụ thanh toán thông thường như trên, hiện nay ngân hàng cũng đang đưa vào sử dụng các nghiệp vụ thanh toán mới như : vay vốn thế chấp bằng bộ chứng từ, chiết khấu bộ chứng từ...nhằm giúp khách hàng thu được tiền bán hàng một cách nhanh chóng phục vụ cho quá trình luân chuyển hàng hoá mới.
Theo yêu cầu của người xuất khẩu, tuỳ theo bộ chứng từ mà ngân hàng có thể thực hiện nghiệp vụ cho vay vốn thế chấp bộ chứng từ hoặc chiết khấu bộ chứng từ.
Trường hợp vay vốn thế chấp bằng bộ chứng từ L/C xuất khẩu, ngoài nội dung kiểm tra trên trong 05 ngày làm việc ngân hàng tiến hành kiểm tra, đảm bảo bộ chứng từ hoàn hảo, đầy đủ và phù hợp với các điều khoản, điều kiện quy định trong L/C. Cụ thể như sau :
+ Kiểm tra L/C còn giá trị hiệu lực, còn giá trị chưa thanh toán - nếu giao hàng từng phần.
+ Các quy định trong L/C phải hợp lý rõ ràng cụ thể, nội dung các điều khoản không mâu thuẫn với nhau và không có điều khoản trái với thông lệ quốc tế.
+ Ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng hoàn tiền chỉ dẫn trong L/C là ngân hàng có uy tín, có vị trí nhất định trong giao dịch quốc tế.
Đặc biệt kiểm tra trước các chứng từ không phải do người thụ hưởng lập như: Chứng từ vận chuyển, Bảo hiểm, các loại giấy chứng nhận sau đó là kiểm tra chứng từ được lập bởi người hưởng như Hối phiếu, Hoá đơn thương mại...
+ Nếu chứng từ có sai sót có thể sửa chữa được, đề nghị khách hàng thay thế hoặc sửa chữa, xin đề nghị sửa L/C hoặc xin chấp nhận thanh toán từ ngân hàng phát hành. Nếu những nội dung kiểm tra đã được đảm bảo, bộ chứng từ đã hoàn hảo hoặc đã có chấp nhận từ ngân hàng phát hành. Phòng kinh doanh đối ngoại ký vào hồ sơ vay vốn, chuyển Phòng kinh doanh giải quyết cho khách hàng vay vốn theo chế độ hiện hành của NHCT Việt Nam nhưng không vượt quá 80% tổng trị giá mỗi lần thanh toán.
Trường hợp khách hàng xin chiết khấu bộ chứng từ thanh toán L/C trả ngay. Phòng kinh doanh đối ngoại xem xét kiểm tra như nội dung cho vay ứng trước thế chấp bộ chứng từ với điều kiện phải là L/C trả ngay. Các quy định trong L/C phải hợplý, rõ ràng và cụ thể, không mang rủi ro cho ngân hàng chiết khấu. Theo quy định, NHCT VN chỉ cho khách hàng chiết khấu có truy đòi tức là bảo lưu quyền truy đòi của ngân hàng trong trường hợp bộ chứng từ gửi đi nhưng không thu được tiền từ phía nước ngoài. Phòng kinh doanh đối ngoại trình duyệt vào hồ sơ xin chiết khấu trong khoảng từ 90% đến 98% tổng trị giá mỗi lần thanh toán tuỳ thuộc cách đòi tiền, thời gian dự kiến để được thanh toán, các chi phí liên quan, mối quan hệ với ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng đòi tiền.
Chuyển hồ sơ sang phòng kinh doanh xem xét giải quyết hồ sơ khách hàng ở những nội dung sau :
+ Khách hàng hoạt động có uy tín, vay trả nợ sòng phẳng.
+ Mặt hàng xuất khẩu phải là hàng hoá có chất lượng, tiêu thụ dễ dàng trên thị trường quốc tế và có giá cả ổn định.
+ Có khả năng thanh toán lại khoản tiền chiết khấu trong trường hợp bộ chứng từ gửi đi không thanh toán được.
Trong thực tế, nghiệp vụ chiết khấu chứng từ đối với hàng xuất khẩu chưa được sử dụng rộng rãi vì nó còn mang tính rủi ro cao cho ngân hàng.
Những khó khăn còn tồn tại trong công tác thanh toán quốc tế.
Bên cạnh những thành quả thu được, công tác thanh toán quốc tế còn gặp phải những khó khăn nhất định. Là một hoạt động chứa nhiều rủi ro, đồng thời do thời gian hoạt động còn ngắn , do những khó khăn chủ quan và khách quan nên hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng còn rất nhiều hạn chế. Qua thực tiễn hoạt động của ngân hàng, chúng ta thấy nổi lên một số khó khăn, tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng thanh toán của mình.
Nguyên nhân khách quan của nền kinh tế.
Hoạt động trong một nền kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh, thường xuyên được sửa chữa, bổ sung. Hơn nữa, tình hình thị trường của các nước trong khu vực và trên thế giới có nhiều biến động dẫn đến giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu thay đổi thường xuyên.
Trước hết, phải kể đến những khó khăn do sự thay đổi các quy định pháp lý có liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Việc cấm hay hạn chế xuất nhập khẩu một mặt hàng nào đó có thể gây ra rủi ro đối với việc thanh toán các L/C mở cho việc mua bán mặt hàng đó trước khi văn bản pháp lý được ban hành.
Thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu diễn ra giữa các bên ở các quốc gia khác nhau, sử dụng những đồng tiền khác nhau, nếu tỷ giá ổn định thì giá trị hợp đồng thanh toán qua ngân hàng cũng ổn định. Nếu tỷ giá biến động sẽ gây khó khăn cho công tác thanh toán và hạch toán của ngân hàng. Trên thực tế, giao dịch ngoại thương thường sử dụng nhiều đồng tiền khác nhau. Do vậy, cơ chế chuyển đổi các đồng tiền trong hợp đồng cũng như việc lựa chọn các điều kiện tiền tệ là rất khó khăn giữa các bên. Đối với ngân hàng, việc thanh toán và hạch toán các hợp đồng có nhiều loại tiền tệ như vậy cũng rất rắc rối.
nguyên nhân từ phía khách hàng.
Khách hàng được đề cập ở đây chính là các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước đã và đang thực hiện thanh toán hàng xuất nhập khẩu tại NHCT Đống Đa.
Bên cạnh những đơn vị xuất nhập khẩu hoạt động lâu năm có đội ngũ cán bộ am hiểu về nghiệp vụ ngoại thương, có kinh nghiệm trong công tác thanh toán quốc tế, thì còn không ít những đơn vị mới thành lập theo trào lưu kinh tế thị trường, còn non yếu về nghiệp vụ đã gây nên không ít những khó khăn cho công việc thực hiện thanh toán xuất nhập khẩu tại ngân hàng.
Trong thanh toán hàng nhập khẩu
Do sự yếu kém trong nghiệp vụ ngoại thương của các đơn vị dẫn đến họ đã sai sót trong việc lựa chọn đối tác và ký kết hợp đồng cùng phương thức thanh toán. Trong thời kỳ đầu mở cửa, các nhà doanh nghiệp Việt Nam khi làm ăn với các thương gia nước ngoài có kinh nghiệm tích luỹ hàng trăm năm không thể tránh được những bỡ ngỡ, hẫng hụt. Trước hết, đó là sự hiểu biết hạn chế về các thông lệ, luật pháp của các nước đối tác. Thêm vào đó là đội ngũ chuyên gia giỏi thuộc các lĩnh vực pháp luật, kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương do chưa kịp đào tạo nên còn thiếu kinh nghiệm.
Ngay từ những bước đầu trong quá trình lập hồ sơ, nộp chứng từ có liên quan để xin mở L/C cán bộ đơn vị cũng gặp nhiều lúng túng, tạo nên sai sót nên không thể đưa vào L/C những nội dung cần thiết. Thanh toán viên phải trợ giúp cho họ, làm khâu mở L/C vốn đơn giản trở nên mất nhiều thời gian cho cả phía ngân hàng và bản thân khách hàng.
Cũng do khả năng tài chính của khách hàng không đảm bảo khi có yêu cầu thanh toán L/C nên khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ hoàn hảo từ phía ngân hàng nước ngoài thì trên tài khoản của khách hàng nhập khẩu không đủ số tiền phải thanh toán. Ngân hàng phải giải quyết bằng cách trích tiền để thanh toán theo đúng hạn định của L/C, mặt khác yêu cầu đơn vị nhập khẩu phải nhận nợ bắt buộc với mức lãi suất cao. Nhưng biện pháp này cũng chưa thực sự hữu hiệu vì nếu trong trường hợp khách hàng không thanh toán được thì rủi ro ngân hàng phải lãnh chịu hoàn toàn, làm nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên. Ví dụ : Công ty MIMEXCO hiện nay vẫn tồn đọng một khoản Nợ chưa hoàn trả với trị giá 30.000 USD... Tuy số phát sinh không quá lớn song cũng phần nào ảnh hưởng đến hoạt động chung của cả ngân hàng.
Trong thanh toán hàng xuất khẩu.
Đối với các đơn vị xuất khẩu, sai sót do khâu thiết lập bộ chứng từ là một tồn tại lớn nhất. Hầu hết các bộ chứng từ gửi tới thanh toán hàng xuất đều mắc sai sót, từ những sai sót đơn giản như sai chính tả, tên, địa chỉ, số lượng, đến những sai sót lớn như thiếu loại chứng từ, chứng từ khác với L/C và không thống nhất với nhau... Mà như ta đã biết, nếu như bộ chứng từ không hoàn hảo thì việc thanh toán không thể thực hiện được, thời gian thanh toán luôn bị kéo dài do chứng từ phải sửa đi sửa lại nhiều lần.Và những sai sót dù nhỏ trong chứng từ cũng có thể làm cơ sở để người mua giảm giá hoặc từ chối thanh toán. Do đó, vô hình chung làm chậm lại tiến trình thanh toán đồng thời gây thiệt hại cho người xuất khẩu.
Khi ký hợp đồng, đơn vị xuất khẩu không chú ý đến thời hạn mở L/C. Nên trong thực tế nhiều L/C mở cho ta quá chậm dẫn đến hàng đã tập trung ở cảng thậm chí tàu chuyên chở đã cập cảng mà vẫn chưa nhận được L/C để giao hàng làm cho người xuất khẩu chịu nhiều chi phí phát sinh như: phí lưu kho bãi, phí trả cho tàu chuyên chở do vi phạm hợp đồng... Nhưng ngược lại cũng có những L/C mở cho ta quá sớm, làm cho ta bị động không thực hiện đúng được điều kiện giao hàng... Do vậy, công tác thanh toán quốc tế của ngân hàng cũng vì thế mà bị động theo, tất dẫn đến những sai sót nhầm lẫn đáng tiếc gây thiệt hại cho cả phía ngân hàng và khách hàng.
Trên đây là một số nguyên nhân gây ra từ phía khách hàng khi sử dụng phương thức L/C trong thanh toán làm cho hoạt động thanh toán xuất nhập tại NHCT Đống Đa không đạt được những hiệu quả như mong muốn. Tuy đó là những nguyên nhân khách quan song không phải là ngân hàng không thể tìm những biện pháp khắc phục chúng để nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán trong thời gian tới.
Những tồn tại và vướng mắc từ phía Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Trong thời gian qua, ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ đặc biệt trong công tác thanh toán hàng xuất nhập khẩu sử dụng phương thức tín dụng chứng từ. Nhưng trên thực tiễn hoạt động của ngân hàng, chúng ta thấy nổi lên một số khó khăn cần giải quyết trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng thanh toán của mình.
Thiếu sót về hồ sơ.
Hồ sơ trong thanh toán đòi hỏi phải lập và quản lý chặt chẽ vì đó là những giấy tờ liên quan không chỉ đến khách hàng và Ngân hàng Việt Nam mà còn liên quan đến Ngân hàng nước ngoài. Khi xảy ra những tranh chấp trong thanh toán thì một bộ hồ sơ đầy đủ sẽ đem lại những thuận lợi đáng kể.
Trong thời gian qua tại ngân hàng, công tác hồ sơ đã được chú trọng nhưng vẫn chưa thực sự đầy đủ.
Tồn tại trong quá trình lập hồ sơ phục vụ thanh toán xuất nhập khẩu bằng thư tín dụng là hầu hết các phiếu mở L/C đều chưa có xác nhận của bộ phận kế toán về số dư tài khoản của khách hàng. Tuy trên thực tế không phát sinh thiệt hại gì lớn trong khâu thanh toán nhưng điều đó là không phù hợp với quy định chung khi lập hồ sơ mà ngân hàng quy định. Điều đó có thể tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng tranh thủ mở những L/C thiếu khả năng thanh toán làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng trong việc quản lý cũng như tổ chức thanh toán.
Đối với những khách hàng có nhu cầu vay ngoại tệ ngân hàng để thanh toán L/C hàng nhập một điểm để ngân hàng cần chú ý đến đó là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu khách hàng đưa ra tài sản thế chấp được coi là đảm bảo an toàn nhất cho ngân hàng về khoản tín dụng. Khách hàng phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản đó, nhưng trong hầu hết các hồ sơ vay tín dụng tại đây đều thiếu các bản thẩm định giá trị tài sản thế chấp của cán bộ tín dụng và một số giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp. Dẫn đến khó khăn khi giải quyết số tài sản đó nếu khách hàng không trả được nợ và ngân hàng sẽ mất nhiều thời gian để thu hồi nợ làm ảnh hưởng đến công tác thanh toán. Đây cũng là một vấn đề ngân hàng cần tháo gỡ kịp thời, nó không chỉ liên quan đến riêng hoạt động tín dụng mà còn ảnh hưởng đến công tác thanh toán quốc tế tại ngân hàng.
Thiếu sót về chấp hành quy trình nghiệp vụ
Trong kế toán thanh toán L/C nhập khẩu.
Yêu cầu hạch toán thư tín dụng là phải theo dõi chi tiết từng thư tín dụng theo từng đơn vị. Điều này đảm bảo đúng nguyên tắc thanh toán trong xuất nhập khẩu là “ món nào đi món nấy ”, không tạo sự nhầm lẫn giữa giá trị của từng L/C với nhau. Nhưng trên thực tế tại ngân hàng mới chỉ theo dõi cho riêng từng khách hàng mà chưa đi sâu vào chi tiết mỗi L/C và chỉ theo dõi trên tổng số dư của tài khoản ký quỹ của đơn vị đó.
Trong trường hợp khách hàng thanh toán L/C hoàn toàn bằng nguồn vốn tự có thì mọi giai đoạn được tiến hành bình thường đúng như theo quy định, nhưng nếu khách hàng xin vay ngân hàng để thanh toán thì sau khi thanh toán với nước ngoài ngân hàng còn phải quan tâm đến khả năng hoàn trả món nợ đó. Khâu này không chỉ liên quan đến riêng tín dụng mà ngay cả kế toán cũng phải xem xét. Theo quy định khách hàng phải có trách nhiệm đảm bảo số dư trên tài khoản tiền gửi của mình một cách hợp lý bằng cách nộp ngay tiền bán hàng vào tài khoản. Nhưng trên thực tế, do cán bộ tín dụng chưa kết hợp với kế toán theo dõi tình hình tài chính của khách hàng nên nhiều khách hàng đã tranh thủ số tiền bán hàng vào mục đích khác như: gửi ngân hàng khác hưởng lãi suất, mở một L/C khác trên danh nghĩa vốn tự có...làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng đối với ngân hàng.
Bên cạnh đó, đối với những L/C xuất khẩu thì các doanh nghiệp phần lớn là thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy ngân hàng ngoài nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu cũng rất chú trọng đến công tác tài trợ xuất khẩu. Tại đây người xuất khẩu được “ ứng trước ” tiền hàng để thu mua và gia công chế biến thành sản phẩm, xuất khẩu ra nước ngoài theo những hợp đồng đã ký kết giữa người xuất khẩu và nhập khẩu. Thông thường tiền được “ứng trước” cho người xuất khẩu khi họ có hợp đồng thương mại đã ký kết và ngân hàng nhận được thông báo L/C đã mở sẵn sàng cho việc nhập hàng. Điều này đã tạo ra nguy cơ chịu rủi ro cao cho ngân hàng. “ ứng trước ” tiền để xuất khẩu hàng khi còn chưa biết nhà xuất khẩu có thực sự xuất được hàng hay không, và phía người nhập khẩu có chắc chắn thanh toán hay không. Ngoài nghiệp vụ trên, để khuyến khích xuất khẩu ngân hàng còn sử dụng hình thức thanh toán chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu. Với nghiệp vụ này chỉ được nhận tiền hàng từ ngân hàng phục vụ mình khi có bộ chứng từ hoàn hảo hay nói cách khác khi người xuất khẩu đã hoàn thành việc xuất hàng. Nghiệp vụ này cho phép người xuất khẩu có được tiền thanh toán nhanh hơn so với thời hạn trong L/C quy định; về phía ngân hàng giảm bớt được rủi ro và phí thu được sẽ cao hơn. Nhưng nghiệp vụ chiết khấu chứng từ lại được sử dụng ít hơn vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải liên quan chặt chẽ đến thị trường hối đoái, hoạt động mua bán các chứng từ có giá giữa các ngân hàng với nhau. Nhưng ở ngân hàng hiện nay không được sử dụng phổ biến làm cho ngân hàng sẽ gặp khó khăn lớn khi cần vốn mà không bán được bộ chứng từ hàng xuất.
Những khó khăn khác trong hoạt động của ngân hàng:
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ phức tạp được tiến hành khi có sự phối hợp giữa trình độ chuyên môn, kinh ngiệm của cán bộ làm công tác thanh toán với sự hỗ trợ của hệ thống máy tính và các trang thiết bị kỹ thuật khác. Sự phát triển của công nghệ máy tính diễn ra thường xuyên, liên tục đòi hỏi đội ngũ thanh toán viên phải luôn luôn học hỏi và cập nhật những kiến thức mới. Mặc dù cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác thanh toán quốc tế tại ngân hàng đã được chú ý nhưng điều kiện làm việc vẫn còn chật hẹp trong khi số lượng khách hàng không ngừng tăng lên cũng ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng.
Mặc dù kinh doanh trong điều kiện hết hết sức khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng của tình trạng nhập siêu vì vậy không đủ lượng ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tình trạng thiếu ngoại tệ giá giao ngay tại NHCT Đống Đa hiện nay là một vấn đề hết sức nóng bỏng. Để tạo nguồn ngoại tệ, ngân hàng đã và đang chủ động trong việc mở rộng quan hệ mua bán ngoại tệ với nhiều tổ chức tín dụng và khách hàng nhưng lại vấp phải cơ chế giá. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng trong việc cân đối ngoại tệ khi thị trường ngoại tệ khan hiếm.
Để làm tốt được nghiệp vụ L/C, các cán bộ phải có một trình độ ngoại ngữ tối thiểu để đọc và hiểu các loại điện giao dịch, các hợp đồng xuất nhập khẩu có liên quan. Đồng thời phải nắm vững nghiệp vụ L/C, thông lệ quốc tế nhất là các điều khoản INCOTERMS và UCP. Việc cán bộ thanh toán quốc tế không đáp ứng được các yêu cầu này sẽ gây ra rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ thanh toán viên phải luôn luôn học hỏi và cập nhật những kiến thức mới.
Trên đây là một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và kế toán thanh toán xuất nhập khẩu sử dụng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng tại NHCT Đống Đa hiện nay. Đế nâng cao hiệu quả hơn nữa trong hoạt động kinh doanh nhằm thu hút khách hàng đến giao dịch, NHCT Đống Đa cần có những giải pháp kịp thời khắc phục một cách triệt để những thiếu sót kể trên.
Chương III
Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Thanh toán xuất nhập khẩu là một lĩnh vực hoạt động rất phong phú đa dạng nhưng cũng rất phức tạp. Đây là một loại hoạt động không chỉ liên quan đến các đối tác trong nước mà còn liên quan chặt chẽ với các đối tác nước ngoài. Do đó, để thực hiện tốt công tác này cần phải có sự cố gắng nỗ lực của bản thân ngân hàngvà của khách hàng bên cạnh đó là những chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong những năm qua, công tác thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa không ngừng được hoàn thiện, song những tồn tại và hạn chế trong quá trình thực tế là khó tránh khỏi. Để khắc phục những tồn tại đó, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau.
Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
Như đã trình bày ở chương trước, rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ phần lớn đều có nguyên nhân từ những yếu kém trong nghiệp vụ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và chính họ lại là những người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề hơn cả từ những rủi ro đó. Bởi vậy, những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa rủi ro trong công tác tín dụng chứng từ trước hết phải xuất phát từ phía khách hàng. Hiện nay, có nhiều đơn vị tham gia hoạt động xuất nhập khẩu lại chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ khi đàm phán, ký kết hợp đồng với bạn hàng thường phải qua phiên dịch, trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại quốc tế. Nền kinh tế có nhiều đơn vị xuất nhập khẩu là đáng khuyến khích, nhưng khi chưa được trang bị kiến thức và kinh nghiệm đầy đủ mà đã vội vã tham gia xuất nhập khẩu thì sẽ không tránh khỏi nhiều rủi ro gây thiệt hại cho chính doanh nghiệp và ảnh hưởng tới lợi ích của cả nền kinh tế. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra trước mắt đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán. Cụ thể là:
Các đơn vị muốn tham gia xuất nhập khẩu phải có cán bộ chuyên trách về xuất nhập khẩu. Các cán bộ này phải được đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác và đặc biệt phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thường xuyên có các giao dịch xuất nhập khẩu với nước ngoài có thể thành lập một phòng xuất nhập khẩu chuyên tập trung nghiên cứu thị trường, tình hình tài chính của các bạn hàng, luật thương mại của các nước đối tác cũng như các thay đổi điều kiện pháp lý trong và ngoài nước...Đối với các doanh nghiệp không chuyên về xuất nhập khẩu, chưa có đội ngũ cán bộ có trình độ ngoại thương, thị trường không quen thuộc thì nên thuê các chuyên gia tư vấn hoặc uỷ thác cho đơn vị xuất nhập khẩu có uy tín, thông thạo thị trường thực hiện việc xuất nhập khẩu, tuy chi phí sẽ cao hơn nhưng đảm bảo an toàn.
Các đơn vị không ngừng đào tạo cán bộ trẻ, cử cán bộ đi học các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học, các tổ chức trong và ngoài nước thuê chuyên gia giảng dạy...nhằm giúp các bộ nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tiếp cận với các phương thức thanh toán quốc tế hiện đại.
Trong quan hệ thanh toán với ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ chữ tín, thực hiện đúng các cam kết với ngân hàng. Các doanh nghiệp phải luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ với ngân hàng, thực hiện đúng những chỉ dẫn của ngân hàng về việc thực hiện các điều khoản của L/C . Nếu có vướng mắc trong quá trình thực hiện thì phải hỏi ý kiến của thanh toán viên tránh tình trạng tự ý thực hiện sai quy định của L/C. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục chứ không nên quy trách nhiệm cho ngân hàng.
Khi lập bộ chứng từ thanh toán, các đơn vị phải chuý ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai sót như đã trình bày ở trên.
Nếu thực hiện được điều đó, hoạt động xuất nhập khẩu của các đơn vị sé có hiệu quả cao, công tác thanh toán qua ngân hàng cũnn sé nhanh chóng thuận tiện, hạn chế tối đa những rủi ro do sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ của khách hàng.
Một số kiến nghị đối với ngân hàng.
Phương thức tín dụng chứng từ chỉ ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Hầu hết các khâu của quá trình thanh toán được thực hiện giữa các ngân hàng. Bởi vậy, ngân hàng đóng vai trò trong sự an toàn của phương thức này. Trong thực tế, thiệt hại đối với khách hàng hay đối với ngân hàng cũng là thiệt hại chung của Nhà nước, của xã hội. Ngân hàng là người thực hiện thanh toán, hành động vì quyền lợi của khách hàng, có trách nhiệm nặng nề trong việc ngăn ngừa những rủi ro trong công tác thanh toán tín dụng chứng từ.
Hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu.
Trong thanh toán nhập khẩu:
Ký quỹ là một bước quan trọng cần thiết để tạo cho người nhập khẩu có khả năng mua được hàng đồng thời nó cũng còn quyết định đến khả năng thanh toán sau này của khách hàng. Về phía ngân hàng, nếu khâu này được thực hiện một cách đầy đủ và chính xác sẽ giúp ngân hàng tránh được phần nào rủi ro về thanh toán sau này. Tại ngân hàng, khâu ký quỹ được tổ chức thực hiện gần như hoàn chỉnh tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Số tiền ký quỹ vẫn chưa được theo dõi một cách chi tiết cho từng L/C mà mới chỉ được theo dõi theo tổng số dư trên tài khoản ký quỹ. Và sự theo dõi ở đây mới chỉ hạn định riêng cho kế toán thực hiện, còn cán bộ mở L/C chưa thực sự theo dõi đầy đủ, chỉ khi nào phát sinh nghiệp vụ có liên quan đến khách hàng ký quỹ mới yêu cầu kế toán cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản này. Vì vậy, có thể dẫn đến sự thiếu chính xác về nghiệp vụ đồng thời tạo nên sự phức tạp về thủ tục không riêng cho khách hàng mà còn cả bản thân ngân hàng. Trong thời gian tới ngân hàng cần có sự liên kết chặt chẽ giữa hai bộ phận, cán bộ mở L/C sau khi xác định mức ký quỹ cần báo ngay cho cán bộ kế toán thu tiền hoặc trích chuyển từ tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Trong nghiệp vụ thanh toán hàng nhập khẩu sử dụng thư tín dụng thì giai đoạn thanh toán giá trị L/C là quan trọng nhất đối với ngân hàng. Trước khi đến hạn thanh toán L/C 03 ngày, kế toán của ngân hàng cần kiểm tra lại khả năng thanh toán của khách hàng. Cụ thể là yêu cầu khách hàng phải nộp tiền hoặc lập yêu cầu chi ngoại tệ vào tài khoản ký quỹ cho đủ số tiền thanh toán L/C. Để tránh những bất lợi sau này có thể xảy ra khi tài khoản tiền gửi của khách hàng nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán khi tới hạn thanh toán L/C. Ngân hàng nên quy định tất cả giá trị thanh toán L/C đều phải hạch toán vào tài khoản ký quỹ mở L/C không để trên tài khoản tiền gửi như trước, để đảm bảo khi có yêu cầu thanh toán từ phía ngân hàng nước ngoài sẽ đáp ứng được ngay.
Biện pháp này đem lại lợi ích cho cả phía ngân hàng lẫn khách hàng. Về phía ngân hàng, luôn có điều kiện chủ động thanh toán L/C theo đúng quy định đồng thời ngân hàng còn có thể thực hiện nghiệp vụ tín dụng một cách hiệu quả. Về phía khách hàng, do được thanh toán L/C ngay sẽ nhanh chóng nhận được bộ chứng từ kịp thời nhận hàng.
Trong thanh toán xuất khẩu:
Với vai trò là trung gian thanh toán phục vụ người xuất khẩu Việt Nam, ngân hàng có chức năng tiếp nhận, kiểm tra chứng từ, đòi tiền và có trách nhiệm đảm bảo an toàn trong thanh toán cho khách hàng. Để nâng cao hiệu quả công tác thanh toán xuất khẩu, ngân hàng cần làm tốt công tác thanh toán sau:
Thời gian mở : L/C phải mở trong một thời gian nhất định trước khi chuyên chở hàng hoá. Ngân hàng cần tư vấn cho các đơn vị xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình L/C đảm bảo nhất, tốt nhất là mở L/C không huỷ ngang, miễn truy đòi, nếu được xác nhận thì càng tốt. Để đảm bảo thanh toán ngân hàng và người xuất khẩu cần nghiên cứu và đưa vào hợp đồng thời gian mở L/C cho hợp lý, nếu cần thiết đưa vào hợp đồng những điều khoản phạt chậm trả L/C .
Tính chất của L/C : Xác định rõ loại L/C huỷ ngang hay không huỷ ngang ngay từ khi tiến hành kiểm tra L/C .Vì nó liên quan đến các nghiệp vụ chiết khấu, cho vay thế chấp bộ chứng từ của ngân hàng. Cụ thể, với bộ chứng từ xuất khẩu đầy đủ, chính xác cùng với L/C không huỷ ngang thì giá trị chiết khấu hoặc thế chấp có thể được xét với mức cao hơn so với những L/C được mở theo cách khác.
Thời hạn của L/C : Tất cả các L/C đều phải quy định ngày cuối cùng có hiệu lực cho việc xuất trình để thanh toán. Thời hạn phải đủ để ta có thể thực hiện việc tiếp nhận chứng từ xuất trình của người xuất khẩu. Ngoài ra, thời hạn của L/C còn phụ thuộc vào điều kiện đòi tiền của ngân hàng. Ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng đòi tiền bằng điện vì hiệu quả kinh tế của việc đòi tiền bằng điện là khoảng thời gian mà khách hàng thu tiền nhanh hơn.
Kim ngạch L/C : Mỗi L/C được định mức bằng một số tiền nhất định gọi là kim ngạch L/C. Kim ngạch L/C phù hợp với giá trị thực tế của hàng hoá mua bán, phí chuyên trở và các phí khác được chuyển trả L/C. Thông thường kim ngạch L/C bằng giá trị đơn vị hàng hoá X số lượng hay trọng lượng hàng hoá. Nhưng để cho việc thanh toán L/C được thực hiện tốt, nhất là đối với những mặt hàng rời, ngân hàng nên có một tỷ lệ xê dịch nhất định là 5% - 10% giá trị của L/C.
Ngân hàng nên triển khai rộng rãi nghiệp vụ chiết khấu chứng từ đối với bộ chứng từ hoàn hảo. Vì tính ưu việt của nghiệp vụ chiết khấu chứng từ trong thanh toán L/C là nó giúp cho nhà xuất khẩu nhanh chóng nhận được tiền hàng, khi họ lập một bộ chứng từ phù hợp với L/C thì họ có vốn cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Mặt khác, chiết khấu chứng từ còn nâng cao trách nhiệm của ngân hàng trong khâu tiếp nhận và kiểm tra chứng từ. Nếu thực hiện tốt nghiệp vụ này ngân hàng sẽ có lợi ở những mặt sau : Nâng cao uy tín về khả năng thanh toán của ngân hàng, khuyến khích các nhà xuất khẩu Việt Nam thiết lập bộ chứng từ hoàn hảo, thu về dịch vụ ngân hàng tăng lên...
Thưc hiện chính sách khách hàng.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, trước sức ép của một hệ thống ngân hàng đa dạng và phức tạp, không thể tồn tại tư tưởng “ khách hàng tìm đến ngân hàng” mà ngược lại, ngân hàng phải chủ động tìm kiếm, thiết lập quan hệ chặt chẽ với khách hàng. Để thực hiện được điều đó, ngân hàng cần có những chính sách khách hàng trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể thực hiện theo hướng sau:
Phải xây dựng chiến lược khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, không phân biệt thành phần kinh tế nhưng có áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, phải đáp ứng đến mức cao nhất các yêu cầu của khách hàng.
Thực hiện chính sách khách hàng khép kín: Ngân hàng đảm bảo phục vụ cho khách hàng tất cả các khâu, cung ứng cho khách các dịch vụ khép kín. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, ngân hàng không chỉ làm trung gian thanh toán mà có thể cho vay sản xuất và thu gom hàng xuất. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, ngân hàng có thể xem xét cho vay thanh toán. Khi đó, lợi ích của ngân hàng và khách hàng gắn bó với nhau, vấn đề an toàn trong thanh toán sẽ liên quan đến trực tiếp an toàn của ngân hàng. Chỉ khi ngân hàng coi lợi ích của khách hàng thực sự là lợi ích của mình thì ngân hàng mới trở thành người bạn đáng tin tưởng và giữ vững được mối quan hệ trung thành với ngân hàng.
Thông quan các hội nghị khách hàng, vừa thu hút khách hàng, vừa nâng cao chất lượng thanh toán. Thực tế cho thấy hiệu quả của các biện pháp này rất cao, không những tạo ấn tượng tốt về ngân hàng mà còn góp phần hạn chế những rủi ro trong quá trình thực hiện nghiệp vụ ngân hàng. Việc cố vấn cho từng đơn vị rất khó khăn, hội nghị khách hàng chính là hình thức cố vấn thích hợp nhất. Hội nghị khách hàng sẽ cung cấp cho họ những kiến thức cơ bản, hướng dẫn họ cách lập bộ chứng từ hoàn hảo và những lỗi dễ mắc sai sót trong khi lập chứng từ. Hơn nữa, hội nghị khách hàng cũng là dịp để ngân hàng và khách hàng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ, để khách hàng bày tỏ những băn khoăn khúc mắc của mình đối với nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng. ý kiến của khách hàng là tấm gương phản chiếu chất lượng dịch vụ của ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có thể rút ra những bài học, những kinh nghiệm đổi mới nâng cao chất lượng công tác thanh toán tín dụng chứng từ.
Tiếp tục đào tạo và nâng cao nghiệp vụ của cán bộ đồng thời hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong quá trình đổi mới đầy khó khăn của ngân hàng. Để quá trình thanh toán tín dụng chứng từ tại ngân hàng diễn ra nhanh chóng thuận lợi, đòi hỏi các thanh toán viên phải có khả năng xử lý nghiệp vụ một cách thuần thục, chính xác, phù hợp với các thông lệ quốc tế. Muốn vậy các thanh toán viên phải giỏi về nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ, am hiểu thông lệ thanh toán quốc tế và tập quán thương mại giữa các nước. Thanh toán viên không chỉ có trình độ về công tác thanh toán mà phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực ngoại thương và thị trường mà mình phụ trách. Có như vậy họ mới làm tốt công tác cố vấn của mình. Ngân hàng tiếp tục tạo điều kiện cho các cán bộ trau dồi kiến thức và kinh nghiệm, tiêu chuẩn hoá đội ngũ thanh toán viên bằng các biện pháp như: tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn và dài hạn, cử cán bộ đi học các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường Đại học hoặc các tổ chức trong và ngoài nước đào tạo, mời chuyên gia giảng dạy và làm tư vấn trong lĩnh vực ngoại thương...
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng có vai trò quan trọng, một ngân hàng không thể thiếu được công nghệ thanh toán hiện đại. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế Đất nước đang trên con đường hội nhập với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Đổi mới công nghệ ngân hàng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhằm thu hút khách hàng. Vì vậy, ngân hàng cần gấp rút hoàn thiện chương trình mạng thanh toán quốc tế nội bộ IBS. Về nghiệp vụ L/C nhập, bổ xung ngay các mẫu điện MT 734, MT 740, MT 756, sau này có thể làm tiếp mẫu điện MT 752, là mẫu điện cũng rất cần thiết trong thanh toán L/C. Ngoài cách thống kê các L/C trả ngay, trả chậm đã phát hành, đã thanh toán, chi nhánh có thể lập chương trình để thống kê các L/C theo thị trường, ngân hàng thông báo, theo từng khách hàng, theo từng mặt hàng...Ngân hàng có thể có đường truyền riêng để đẩy nhanh tốc độ giao dịch, tránh lãng phí thời gian và nâng cao uy tín của ngân hàng đối với khách hàng trong và ngoài nước.
Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Để hỗ trợ cho lĩnh vực kinh doanh đối ngoại có những chiến lược và giải pháp hợp lý, thích hợp với từng thời kỳ, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần có những giải pháp như:
Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ giúp ngân hàng mở rộng qui mô kinh doanh, tạo sự tăng trưởng cả về lượng và chất trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đồng thời góp phần vào sự phát triển tổng thể các hoạt động của ngân hàng.
Thu hút ngoại tệ từ nguồn kiều hối gửi về trong nước, ngân hàng cần tạo sự thuận lợi cho người dân để thu hút chuyển tiền ngoại tệ qua ngân hàng. Từ đó ngân hàng có thể tiếp cận trực tiếp với khách hàng để mở rộng huy động tiết kiệm ngoại tệ vào ngân hàng hoặc bán ngoại tệ cho ngân hàng.
Để có thể chủ động trong khai thác các nguồn ngoại tệ, ngân hàng cần tăng cường hoạt động linh hoạt và hiệu quả hơn trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Mở rộng giao dịch với nhiều loại ngoại tệ khác như : FRF, JPY, DEM...
Kiến nghị đối với NHCT Việt Nam và các ngành quản lý kinh tế vĩ mô.
Đối với NHCT Việt Nam
+ Để tháo gỡ khó khăn cho chi nhánh trong thời gian tới, về hoạt động mua bán ngoại tệ làm cơ sở cho công tác thanh toán quốc tế. NHCT Việt Nam cho phép chi nhánh được phép giao dịch hối đoái có kỳ hạn với các tổ chức tín dụng, hoặc có những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các chi nhánh làm ăn có hiệu quả trong đó có NHCT Đống Đa.
+ NHCT Việt Nam thường xuyên mở các lớp ngoại ngữ, các lớp học chuyên đề thanh toán quốc tế, nghiệp vụ kiểm tra chứng từ, đặc biệt là L/C xuất khẩu để cán bộ làm công tác đối ngoại có kiến thức toàn diện hơn.
+ NHCT VN cần tổ chức các hội thảo, giải đáp những vướng mắc trong thanh toán quốc tế của các chi nhánh.
+ Hiện nay chuyển các bức điện từ chi nhánh ra nước ngoài còn chậm. Vì vậy, NHCT VN phải nhanh chóng sử dụng hết công suất của mạng SWIFT nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán quốc tế.
+ Hàng năm tổ chức hội nghị tổng kết về hoạt động kinh doanh đối ngoại, nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Đối với các ngành quản lý kinh tế vĩ mô
+ Khi ban hành hay sửa đổi một quy định pháp lý, Nhà nước phải đảm bảo quyền lợi cho các nhà XNK, tránh tình trạng Nhà nước chỉ quan tâm tới ngày ban hành và thực hiện quy định mà không quan tâm tới những vấn đề nảy sinh từ việc thực hiện quy định đó. Nên chăng khi ban hành luật và quy định liên quan đến XNK, Nhà nước nên có văn bản hướng dẫn giải quyết các hợp đồng XNK đã ký kết trước ngày đó nhưng chưa được thực hiện. Đây cũng chính là biện pháp góp phần hạn chế rủi ro trong công tác thanh toán tín dụng chứng từ tại ngân hàng.
+ Nhà nước phải có các văn bản pháp lý chỉ đạo các ngành hữu quan thống nhất thực hiện các văn bản đã được ban hành về nghiệp vụ ngân hàng, tránh sự mâu thuẫn trong việc hướng dẫn thực hiện các văn bản của các liên quan, nhằm tạo ra sự nhất quán cho việc ban hành cũng như áp dụng và thi hành. Các quy chế không nên đối nghịch với thông lệ và tập quán quốc tế, nhưng cũng phải phù hợp với các bộ luật của Việt Nam và phải tính đến đặc thù về kinh tế xã hội và cả tập quán môi trường đầu tư của nước ta.
+ Cải cách biểu thuế xuất nhập khẩu, để đảm bảo cho việc thuế là một công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để Việt Nam sớm gia nhập APTA và WTO.
+ Phát triển hoạt động nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để cải thiện tiến tới thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, cần phải có biện pháp để hướng hoạt động nhập khẩu đi đúng hướng chỉ cho phép nhập khẩu những mặt hàng cần thiết, không cho phép nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được nhiều với chất lượng tốt.
kết luận.
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế mở cửa đã mang lại những bước chuyển biến tích cực đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Có được kết quả đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian thanh toán cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra nhanh chóng, liên tục và đạt được hiệu quả cao.
Trong thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu, phương thức tín dụng chứng từ đã tỏ ra là một công cụ hết sức sắc bén, giúp cho ngân hàng có thể hỗ trợ cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu quản lý và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn của mình. Cũng như các ngân hàng khác đang hoạt động tại Việt Nam, Ngân hàng Công thương Đống Đa coi tín dụng chứng từ hàng xuất nhập khẩu như một công cụ đắc lực trong việc thực hiện nghiệp vụ ngày càng tốt hơn, đáp ứng và phục vụ nhu cầu đặt ra trong hoạt động xuất nhập khẩu và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Để có thể kinh doanh tốt, đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác NHCT Đống Đa cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện nghiệp vụ này.
Trên đây là một số vấn đề về hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu sử dụng phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Đống Đa. Tuy bài viết còn nhiều khiếm khuyết nhưng hy vọng rằng với những giải pháp về : công nghệ, khách hàng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ của cán bộ... nó sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán hàng xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Đống Đa.
Có được kết quả này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thày giáo Bùi Tín Nghị cùng các thày cô khoa kế toán và kiểm toán, các anh chị phòng kinh doanh đối ngoại NHCT Đống Đa đã tận tình dạy bảo em trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Tài liệu tham khảo.
Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương .
GS Bùi Xuân Lưu.
Trường Đại học Ngoại thương.
Sổ tay thanh toán quốc tế trong ngoại thương.
PGS. Đinh Xuân Trình.
Lý thuyết kế toán ngân hàng.
Học viện ngân hàng phân viện TP. hồ chí minh Năm 2000.
4. Thanh toán quốc tế .
Nhà xuất bản tài chính Năm 1999.
5. Báo cáo tổng kết của NHCT Đống Đa 1998, 1999, 2000.
6. Tạp chí ngân hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28245.doc