Trước hết, các doanh nghiệp cần phải có nhận thức rõ ràng về vai trò hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của chính doanh nghiệp trong tương lai bởi đó là xu hướng tất yếu. Trên cơ sở nhận thức ấy, các doanh nghiệp, cả tư nhân lẫn nhà nước, cần phải xác định rõ con đường cần phải tiến đến. Trong xu thế hiện nay, tư tưởng dựa dẫm vào sự hỗ trợ từ phía Nhà nước không thể tiếp tục tồn tại nữa. Mỗi một doanh nghiệp cần phải chuẩn bị đủ tiềm lực để sẵn sàng đón nhận và chấp nhận cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài mạnh hơn về nhiều mặt. Để làm được điều đó, doanh nghiệp cần tiến hành đổi mới hoạt động của mình một cách toàn diện. Cụ thể:
Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với công nghệ mới. Vấn đề con người bao giờ cũng có tầm quan trọng hàng đầu bởi đổi mới có thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức và trình độ của con người. Trong những bước đầu tiên cải tổ lại doanh nghiệp, có thể nhập khẩu, bổ sung thêm nhân lực có khả năng tiếp cận thị trường bên ngoài. Từ đó nâng cao trình độ lao động nói chung trong doanh nghiệp do có thể học hỏi những kinh nghiệm của nước ngoài.
Thứ hai, mục tiêu phát triển của doanh nghiệp không thể tách rời khả năng cạnh tranh của các sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Do đó điều tất yếu là doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ thích ứng với nhu cầu thị trường bên ngoài. Trong đó điểm quan trọng cần đặc biệt chú ý là chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần triển khai mạnh mẽ các bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm như ISO 9000, TQM, tiến tới đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật về chất lượng sản phẩm của đối tác nước ngoài như GMP (quy phạm thực hành sản xuất tốt), SSCP (quy phạm làm vệ sinh chuẩn) và HACCP (xác định các mối nguy hiểm về an toàn vệ sinh và thực hiện kiểm soát tại mối nguy đáng kể). Có như vậy mới hy vọng sản phẩm của chúng ta có khả năng cạnh tranh thực tế trên thị trường quốc tê, mà nhờ tự do hoá thương mại đã mở rộng ra rất nhiều.
Thứ ba, các doanh nghiệp cần tiến hành đổi mới tổ chức kinh doanh, khuyến khích thành lập các công ty hợp tác quốc tế, chuyên lo tìm kiếm thị trường, đối tác, công nghệ mới, nguồn vốn và cung cấp các thông tin này cho các công ty khác. Như vậy sẽ tạo nên một mạng lưới thông tin chặt chẽ và có thể tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty, đồng thời tăng khả năng phát triển có hiệu quả.
Thứ tư, việc thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với Nhà nước cũng là một nội dung hết sức quan trọng. Nó doanh nghiệp nắm bắt được những chủ trương, đường lối hội nhập cụ thể của Nhà nước trong từng thời kỳ, những điều chỉnh trong chính sách thương mại, đầu tư, tài chính, thuế xuất nhập khẩu phục vụ mục tiêu hội nhập để kịp thời thích ứng. Đồng thời, các doanh nghiệp cần mạnh dạn trao đổi ý kiến đề xuất, nguyện vọng lên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền một khi gặp khó khăn, cản trở trong sản xuất do các điều chỉnh trên mang lại.
Cuối cùng, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động theo hướng xuyên quốc gia. Muốn tham gia hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp nước ta không chỉ hoạt động ở trong nước, mà phải mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Điều đó có nghĩa là trong tương lai Việt Nam phải có những công ty xuyên quốc gia của mình. Những công ty này có thể hình thành theo các hướng sau:
- Doanh nghiệp mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước khác để tìm hiểu thị trường, đối tác, các nguồn vốn, công nghệ và mọi thông tin thị trường cần thiết Trên cơ sở đó xác định hướng kinh doanh trong nước phục vụ cho thị trường nước ngoài;
- Những doanh nghiệp nào không có khả năng trực tiếp tiếp cận với thị trường bên ngoài, phải liên kết với các công ty xuyên quốc gia để gắn và hướng hoạt động của mình cho phù hợp.
- Chúng ta cũng có thể thu hút các công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta. Đồng thời có chính sách gắn chặt lợi ích các công ty này với các công ty Việt Nam, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước.
Tóm lại, vấn đề cơ bản nhất đối với doanh nghiệp là tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả hiệu quả kinh tế, khả năng tiếp cận thị trường và thực tiễn hoạt động kinh doanh quốc tế trong các lĩnh vực quy trình công nghệ, chính sách đào tạo, nghiên cứu mở rộng thị trường. Ngoài ra, việc lựa chọn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cũng có vai trò rất quan trọng. Chiến lược đó phải có tầm nhìn dài, đón đầu được xu hướng thay đổi của nhu cầu thị trường khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó thực hiện việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Cần đầu tư thoả đáng và có hiệu quả cho công tác nghiên cứu và triển khai. Đồng thời, doanh nghiệp cần phải xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng và dịch vụ, làm công cụ hữu hiệu nhằm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc đạt được chứng chỉ ISO là giấy thông hành cần thiết để các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập tham gia vào thị trường thế giới và khu vực. Muốn vậy doanh nghiệp cần tạo dựng và duy trì được nề nếp quản lý kĩ thuật, huấn luyện và nâng cao kỹ năng, tác phong, kỷ cương công nghiệp cho lực lượng công nhân và kĩ thuật viên.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về tự do hoá thương mại ở các nước đang phát triển và thực tiễn tiến hành quá trình này tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và sâu hơn, bao gồm cả hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Tiến trình Việt Nam tham gia ASEAN/AFTA, APEC, WTO có thể hình dung như những vòng tròn đồng tâm thúc đẩy lẫn nhau, tạo thêm cơ sở để Việt Nam mở rộng hơn nữa quan hệ với các nước và các khu vực khác, nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, nhất là trong đàm phán đa phương.
Bên cạnh đó, APEC là một thị trường rộng lớn với hai tỷ người tiêu dùng, chiếm 44% dân số thế giới, trong đó có những thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,...thực sự là những thị trường đầy tiềm năng cho việc tiêu thụ hàng hoá. Nhiều thành viên APEC là nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho Việt Nam về FDI, ODA đồng thời là những nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng. Tham gia APEC, Việt Nam sẽ có điều kiện tốt hơn cho việc mở rộng quan hệ với các nền kinh tế thành viên, từ đó có điều kiện phát triển kinh tế trong nước.
Tham gia APEC có nghĩa là tham gia vào các cơ chế, các chương trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong khu vực. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật lệ và thực tiễn hoạt động kinh tế của nước ta, làm cho chúng trở nên năng động, phù hợp với luật pháp quốc tế và các quy định của các tổ chức kinh tế, thương mại đa phương. Nói khác đi, đó là tác nhân bên ngoài thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước trước hết về mặt cải cách kinh tế và hành chính, tạo cho chúng ta có đủ nội lực tham gia vào cạnh tranh quốc tế.
Là thành viên ASEAN, AFTA, PECC (Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương), Việt Nam tham gia APEC sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, từng bước hội nhập vào khu vực và thế giới, tăng cường vị thế chính trị của ta ở khu vực cũng như trên trường quốc tế, nhất là trong đàm phán đa phương.
Tuy nhiên, con đường Việt Nam thực sự tham gia vào APEC cũng đầy những khó khăn cần phải vượt qua. Trước hết đó là khoảng cách khá xa về trình độ phát triển so với các nước trong khu vực và về cơ bản, nước ta vẫn là một nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới và vẫn đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường. Chính đặc điểm này đang làm nảy sinh một loạt khó khăn to lớn mà chúng ta phải vượt qua để hội nhập thành công và hiệu quả.
Hầu hết các nền kinh tế thành viên APEC đều vận hành theo cơ chế thị trường từ nhiều thập kỷ. Trong khi đó, ta mới chuyển sang kinh tế thị trường trong thời gian ngắn, cơ chế thị trường còn sơ khai, thị trường chưa phát triển, hệ thống chính sách kinh tế chưa đồng bộ, môi trường luật pháp chưa hoàn thiện. Nhìn chung, chúng ta đang còn nhiều bất cập hoặc khác biệt so với các thành viên APEC về cơ chế, chính sách, hệ thống luật pháp cũng như thực tiễn hoạt động kinh tế.
Sức cạnh tranh của thị trường Việt Nam còn yếu trong khi đó tham gia APEC cũng có nghĩa là tham gia vào một khuôn khổ hợp tác và cạnh tranh quyết liệt. Để đạt tới mục tiêu tự do hoá thương mại, dịch vụ đầu tư của APEC, các thành viên đã cam kết mở cửa thị trường nội địa của mình thông qua các biện pháp hạ thấp dần dần đi tới bãi bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Việc này sẽ gây ra những khó khăn, phức tạp đối với một số ngành kinh tế nước ta do sức cạnh tranh kém, đồng thời giảm khả năng thu ngân sách nhà nước qua thuế nhập khẩu.
Mặt khác, luồng FDI và công nghệ chuyển giao vào Việt Nam cũng là một yếu tố gây ra tình trạng nhập siêu ở nước ta dù nó cũng có những lợi ích tích cực. Và nhiều khi công nghệ nhập khẩu còn lạc hậu, cũ kĩ, thậm chí còn tồi tệ hơn công nghệ hiện có của Việt Nam, do vậy làm tăng chi phí sản xuất, gây ô nhiễm môi trường và giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Do đó, nếu không có biện pháp quản lý kinh tế, trước mắt là đổi mới cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta có nguy cơ rơi vào nợ chồng chất hoặc trở thành thị trường “xuất khẩu ô nhiễm môi trường” của các nền kinh tế phát triển.
Cuối cùng, đội ngũ cán bộ của Việt Nam còn yếu cả về kiến thức, kinh nghiệm và ngoại ngữ trong các hoạt động hợp tác quốc tế này. Tham gia vào ASEAN, Việt Nam đã và còn đang phải cố gắng lớn để đào tạo đội ngũ cán bộ nhằm đủ sức làm tròn vai trò, nghĩa vụ và quyền lợi của các nước thành viên. Khi tham gia APEC thì điều không tránh khỏi là chúng ta phải dàn trải lực lượng nếu như không có sự nỗ lực lớn hơn để tập hợp và đào tạo cán bộ.
Con đường đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
Các hiệp định của WTO đưa ra một loạt các quy tắc điều chỉnh thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ, các biện pháp liên quan đến thương mại, và các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Những quy tắc thương mại này áp dụng cho tất cả các thành viên của WTO. Việt Nam sẽ phải tuân thủ hoàn toàn các quy tắc thương mại này và phải chuẩn bị giải quyết các vấn đề liên quan như phân biệt đối xử, thuế quan cao, cấm nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu, sự thiếu minh bạch trong chế độ ngoại thương, thương mại nhà nước, yêu cầu về đầu tư và vi phạm trong quyền sở hữu trí tuệ. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, một số yêu cầu của WTO phải được đáp ứng và Việt Nam cũng phải thể hiện những yêu cầu này trong chính sách và quy định của mình nhằm khẳng định rằng Việt Nam sẽ áp dụng toàn bộ các hiệp định của WTO.
Để trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đang từng bước cải cách hơn nữa lĩnh vực thương mại của mình để phù hợp với các quy tắc thương mại của thế giới và tạo sự ổn định trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Những lĩnh vực cần ưu tiên cải cách trong thời gian tới:
Tự do hoá chế độ nhập khẩu.
Xây dựng một hệ thống thuế quan đơn giản.
Củng cố và lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng.
Mở cửa khu vực dịch vụ cho các nhà kinh doanh nước ngoài.
Xây dựng cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Hoàn thiện khung pháp lý.
Thiết lập hệ thống thị trường.
Một trong các yêu cầu quan trọng để trở thành thành viên của WTO là cơ chế ngoại thương cần phải bảo đảm tính minh bạch. Để đạt được mục tiêu này, WTO yêu cầu các thành viên của mình cung cấp các thông tin cần thiết về chính sách và thực tiễn hoạt động thương mại như quy chế định giá hải quan, các thủ tục hành chính hải quan, các tiêu chuẩn về nhãn hiệu xuất xứ hàng hoá. Mỗi thành viên WTO đều phải cung cấp kịp thời cho WTO về bất cứ một sự thay đổi nào trong luật và chính sách thương mại hiện hành của nước mình. Để nâng cao tính minh bạch trong chế độ ngoại thương của các nước thành viên, WTO đã thành lập một cơ chế đánh giá chính sách thương mại và theo cơ chế này thì mỗi thành viên WTO phải nộp báo cáo thường kỳ về chính sách và thực tiễn hoạt động thương mại của mình để WTO xem xét. Yêu cầu này có thể là một khó khăn cho sự gia nhập WTO của Việt Nam.
Thâm nhập thị trường và các hàng rào gây trở ngại cho hoạt động thương mại sẽ là vấn đề khác mà Việt Nam phải quan tâm đến trong các cuộc đàm phán gia nhập. Vấn đề thâm nhập thị trường liên quan đến lịch trình thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp cũng như các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ.
Các cam kết về thâm nhập thị trường sẽ yêu cầu Việt Nam giảm mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO. Những nhượng bộ về thuế quan thể hiện mức thuế quan cao nhất đánh vào một nhóm hàng cụ thể nào đó. Sau khi nhượng bộ về thuế quan được đàm phán bởi nhóm làm việc, được WTO thông qua, và đưa vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam, thì Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết này.
Việt Nam đồng thời sẽ phải xem xét vấn đề liên quan đến hàng rào phi thuế quan như hạn chế về số lượng, yêu cầu về giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu và việc sử dụng những tiêu chuẩn kỹ thuật và giấy chứng nhận. Việt Nam cũng phải thúc đẩy thâm nhập thị trường trong lĩnh vực dịch vụ.
Trong đàm phán Uruguay về đàm phán thương mại đa biên, 11 ngành dịch vụ quan trọng đã được đưa ra đàm phán trong đó bao gồm: hoạt động kinh doanh, vận tải, xây dựng, tài chính, du lịch, thông tin, môi trường, giáo dục, sức khoẻ và giải trí. Hiện tại, thị trường dịch vụ của Việt Nam vẫn được bảo hộ ở mức khá cao. Các công ty dịch vụ nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở Việt Nam trong một số ngành nhất định và ở một mức độ giới hạn. Quy chế đãi ngộ quốc gia (NT) vẫn chưa được dành cho các công ty dịch vụ nước ngoài. Trong quá trình đàm phán gia nhập, Việt Nam sẽ phải đưa ra biện pháp, cho phép sự thâm nhập của thị trường dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm và bưu chính viễn thông. Việt Nam cần phải có những nghiên cứu về tác động của sự tự do hoá này đối với nền kinh tế và đưa ra quyết định ngành dịch vụ nào sẽ được mở cho phép cạnh tranh với nước ngoài và nên bảo hộ các ngành khác ở mức độ như thế nào.
Một vấn đề đang gây nhiều tranh luận đó là tình trạng thực hiện bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việt Nam đã ký các hiệp định quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ sau đây: Công ước Pari, Công ước Madrid, Công ước Stockhom. Và cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Bởi vì hiện nay quyền sở hữu trí tuệ là một phần không tách rời của WTO, các thành viên của WTO có xu hướng nhân cơ hội Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO, để gây áp lực đối với Việt Nam về việc cải cách hệ thống bảo vệ quyền sở hữu và giám sát việc thi hành Luật về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tụê sẽ là một vấn đề quan trọng đối với quá trình đàm phán gia nhập WTO.
IV. Tự do hoá thương mại – cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
Tự do hoá thương mại giúp mở rộng thị trường nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường, dung lượng thị trường đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất. Nếu thị trường nhỏ hẹp, hàng hoá sẽ khó tiêu thụ, dễ dàng rơi vào tình trạng ứ đọng, tồn kho. Điều này làm cho sản xuất không những không thể tái mở rộng mà còn phải thu hẹp qui mô. Kết quả là, tăng trưởng kinh tế giảm. Vì vậy, các quốc gia đều muốn mở rộng thị trường thông qua con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Một cường quốc kinh tế hàng đầu như Mỹ với tổng GDP gần 9000 tỷ USD vẫn cần thị trường bên ngoài (năm 1999 , kim ngạch xuất khẩu hơn 900 tỷ USD). Nước đông dân nhất thế giới như Trung Quốc vẫn xem thị trường nước ngoài là nhu cầu sống còn. Trong khi đó, nước ta là một nước có qui mô dân số tương đối lớn nhưng GDP bình quân đầu người thấp nên thị trường tiêu thụ của nước ta thực tế là nhỏ. Hơn nữa, các bất động sản, sức lao động ... chưa thực sự tham gia vào thị trường với tư cách là hàng hoá đầy đủ của nó, điều đó làm cho dung lượng thị trường đã hẹp lại càng hẹp. Vì vậy, vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ càng trở nên cần thiết.
Nếu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, hàng hoá, dịch vụ của nước ta sẽ có cơ hội tìm kiếm thị trường tiêu thụ ở các nước trong khu vực với tổng số dân trên 500 triệu người và nhiều nước khác trên thế giới thông qua các hiệp định song phương và đa phương. Bước đầu, hoạt động xuất khẩu của nước ta trong những năm qua cũng đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của nước ta đã có mặt trên thị trường của hơn 140 nước thuộc hầu hết các châu lục trên thế giới. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã dần được thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 9 năm (1991-1999) đạt 43 tỉ USD, mức tăng xuất khẩu trung bình hàng năm đạt tỷ lệ 22%, đáp ứng được 3/4 nhu cầu nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 36,6 USD năm 1991 lên 151 USD năm 1999. Đặc biệt, từ một nước còn thiếu lương thực vào những năm 80, hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (sau Thái Lan).
Mặt khác, cơ cấu thị trưòng xuất khẩu có chuyển biến cơ bản. Tới nay Việt Nam đã có Hiệp định thương mại với 57 nước( tính đến ngày 25/4/2000) và đã có thoả thuận đối xử Tối hụê quốc (MFN) với 72 nước và vùng lãnh thổ. Một trong những thành tựu to lớn trong 10 năm qua là đã chuyển đổi thị trường, đảm bảo dược yêu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá mặc dù thị trưòng truyền thống là Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ.
Bảng 3:Cơ cấu thị trưòng xuất khẩu của Việt Nam năm 1991- 1999
Thị trường
% trong tổng KNXK của Việt Nam
1991
1999
Liên Xô- Đông Âu
11,1
2
Châu á (Chủ yếu Nhật Bản và ASEAN)
77
57,7
EU
5,7
21,7
Bắc Mỹ
-
4,4
Châu Đại Dương
0,2
5,3
Châu Phi và Nam Mỹ
-
<1
Nguồn: Phác thảo phương hướng phát triển ngành thưong mại trong thập kỷ tới(2001- 2010), Bộ thương mại, 10/5/2000
Như vậy, cho đến nay, châu á vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam , một biểu hiện đáng mừng là tỷ trọng của một số thị trưòng mới đang tăng lên (EU, Bắc Mỹ và châu Đại dương), điều đó chứng tỏ tính đúng đắn và sự thành công của chính sách đa phương hoá thị trường của nước ta. Tuy nhiên, hàng hoá của nước ta có tiêu thụ được hay không trên thị trường quốc tế còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề khác như chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi, khả năng nắm bắt tín hiệu thị trường của chúng ta.
Cơ cấu nhóm, mặt hàng đã dược cải thiện nhất định nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Tỷ trọng của các nhóm, mặt hàng qua chế biến tăng dần có thể thấy rõ trong bảng sau:
Bảng 2: Tỷ trọng các nhóm hàng trong xuất khẩu của Việt Nam
Nhóm hàng
% trong tổng kim ngạch XK
1991
1999
Hàng nguyên liệu thô
92%
60%
Hàng chế biến
8%
40%
Nhóm nông, lâm, thuỷ-hải sản
53%
36,5%
Nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ CN
47%
63,5%
Nguồn: Phác thảo phương hướng phát triển ngành thưong mại trong thập kỷ tới(2001- 2010), Bộ thương mại, 10/5/2000
Mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đã có 16 nhóm mặt hàng hoàn toàn mới và khoảng 20 nhóm, mặt hàng lần đầu tiên thâm nhập một số thị trường. Năm 1991 mới có 4 nhóm , mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ hải sản, gạo, dệt may ( đạt kim ngạch 100 triệu USD trở lên), đến năm 1999 đã có thêm 8 mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới là cà phê, cao su , nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Chất lượng hàng xuất khẩu đã dược nâng lên đáng kể: một số hàng đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đồng thời tác động tích cực đến chất lưọng sản phẩm trong nước. Hiện nay gạo, dầu thô, thuỷ hải sản của Việt Nam đã dược thừa nhận đạt hoặc xấp xỉ đạt chất lượng quốc tế.
Để có được những thành tựu đó phải kể đến tác động của tự do hoá thương mại tới các lĩnh vực kinh tế.
Thứ nhất, tự do hoá thương mại giúp chúng ta tăng vốn đầu tư sản xuất do khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tích luỹ trong nước tăng lên. Khả năng mở rộng thị trường quyết định khả năng thu hút vốn đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, người ta chỉ đầu tư mở rộng khi có thị trường tiêu thụ các sản phẩm do việc đầu tư mở rộng mang lại. Vì vậy, khi hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tiêu thụ của nước ta được mở rộng sẽ là một trong các yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, mở rộng thị trường sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá, dịch vụ nước ta xuất khẩu được nhiều hơn.
Thứ hai, hội nhập kinh tế tạo cho chúng ta cơ hội tiếp nhận công nghệ mới có hiệu quả hơn. Đi theo dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta là công nghệ mới. Các công nghệ này có thể là cũ và không có hiệu quả ở Mỹ, Nhật, châu Âu nhưng lại là mới và có hiệu quả đối với Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ mới sẽ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tạo cơ sở để hàng hoá của nước ta cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thứ ba, tự do hoá thương mại để hội nhập kinh tế quốc tế giúp nước ta nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Với dân số trên 80 triệu người, nước ta có nguồn nhân lực khá dồi dào. Song, nguồn nhân lực đó hiện còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kém hiểu biết về thực tiến kinh doanh… Các nhà đầu tư nước ngoài khi đem vốn, công nghệ vào nước ta sẽ tận dụng nguồn lao động rẻ, dồi dào này. Chính vì vậy, nguồn nhân công ở nước ta sẽ có cơ hội nâng cao trình độ công nghệ thông qua việc tiếp cận, vận hành công nghệ mới, có cơ hội nâng cao trình độ ngoại ngữ, học tập tư duy kinh doanh mới, kinh nghiệm quản lý từ các chuyên gia nước ngoài. Trình độ lao động được nâng cao là một trong những nguyên nhân chính nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế giúp nước ta nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Rõ ràng là hội nhập kinh tế quốc tế một mặt sẽ đem lại khả năng mở rộng thị trường cho hàng hoá, dịch vụ nước ta nhưng mặt khác cũng buộc chúng ta phải mở cửa cho hàng hoá, dịch vụ nước khác vào thị trường trong nước. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp trong nước bắt buộc phải cạnh tranh với nhiều đồi thủ hơn, bao gồm cả đối thủ trong và ngoài nước. Do đó, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nắm bắt nhu cầu thị trường để có thể tạo ra được nhiều sản phẩm độc đáo mà ta có lợi thế, đẹp về mẫu mã, tốt về chất lượng và hợp lý về giá cả. Từ đó thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, hướng về xuất khẩu.
Những vấn đề mà Việt Nam cần giải quyết để tiến hành tự do hoá thương mại có hiệu quả.
Thứ nhất, cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế còn lạc hậu. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4-5 thế hệ. Trong khi đó, tính đến 1/7/2000, có 62,56% tổng số lao động làm việc trong ngành nông lâm ngư nghiệp. Điều này làm năng suất lao động thấp, sản phẩm đầu ra có giá thành cao, không có sức cạnh tranh.
Thứ hai, trên thị trường thế giới, hàng xuất khẩu của ta rất dễ bị tác động xấu của giá cả vì chủ yếu là sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cà phê. Các sản phẩm công nghiệp chế biến còn thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới do sản lượng tương đối ít, chất lượng thấp, giá thành cao. Thị trường xuất khẩu của ta vẫn chủ yếu là các nước trong khu vực (khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu), buôn bán với các nước châu lục khác tuy có tăng lên nhưng tỷ trọng còn thấp. Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, các cơ chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta đang trong giai đoạn hình thành, một số cơ chế đã vận hành và phát huy tác dụng, song còn phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hơn, đặc biệt là khuôn khổ pháp lý vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Thứ tư, khu vực kinh tế quốc doanh còn nhiều yếu kém. Số doanh nghiệp thua lỗ ngày càng tăng. Tính kém hiệu quả, kém khả năng cạnh tranh, kém khả năng phản ứng linh hoạt trước biến động thị trường của khu vực này cũng đang dần bộc lộ. Độc quyền của DNNN ngày càng thể hiện rõ. Trong khi đó, vấn đề cải cách hành chính Nhà nước, sắp xếp, cổ phần hoá DNNN chưa được đẩy mạnh.
Thứ năm, hiện trạng đầu tư và phân bổ các nguồn lực chưa có hiệu quả và có xu hướng tạo sức ỳ từ khu vực được lợi nhờ bảo hộ; chính sách bảo hộ ngày càng tăng do sự phát triển của quy mô kinh tế, gây thiệt hại lớn cho cả xã hội, đặc biệt lợi ích người tiêu dùng.
Thứ sáu, chính sách phát triển nguồn nhân lực có trình độ tiếp thu khoa học, công nghệ hiện đại chưa hiệu quả. Lực lượng lao động thành thị từ chiếm 22,9% tổng lực lượng lao động vào thời điểm 1/10/99 đã tăng lên 22,56% cùng kỳ năm 2000, lực lượng lao động nông thôn giảm từ 77,41% xuống 77,44%. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị chiếm tới 6,37% (với dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế) và 6,44% (với dân số trong độ tuổi hoạt động kinh tế). Ngân sách Nhà nước cấp cho giáo dục chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong ngân sách quốc gia nhưng bình quân đầu người vẫn còn thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Hàn quốc, Malaysia. Chất lượng giáo dục còn thấp, có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề đào tạo.
Có thể nói nước ta hội nhập sau nhiều nước trong khu vực và trên thế giới có nhiều lợi thế của nước đi sau nhưng cũng tồn tại không ít những khó khăn. Do đó, chúng ta phải cố gắng theo kịp tiến trình phát triển của thế giới mới tận dụng tốt được các cơ hội. Điều này là một thách thức lớn, nhất là tại thời điểm khi mà xu hướng chung đẩy nhanh tự do hoá, với quy mô rộng hơn và mức độ ngày càng sâu hơn đang ngày càng tăng lên. Bất chấp những khó khăn, thách thức kể trên, chúng ta phải quyết tâm hội nhập, vì đó là yêu cầu tất yếu của sự nghiệp phát triển đất nước trong bối cảnh TCH kinh tế.
Chương III
Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại ở Việt Nam
Các biện pháp vĩ mô:
Dưới đây là một số vấn đề Nhà nước ta cần thực hiện để đảm bảo hiệu quả và đạt được mục tiêu của quá trình tự do hoá thương mại:
Tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế:
Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, khi tham gia vào tự do hoá thương mại, không thể tránh khỏi tình trạng bị các nước phát triển chèn ép và phải chịu những điều kiện thiệt. Chính vì vậy, Việt Nam cần tập hợp cùng các nhóm nước nhỏ như ASEAN, các nước trong khu vực và các nước đang phát triển vốn bị thua thiệt bởi luật lệ tự do hoá thành lập tổ chức tầm cỡ thế giới để đàm phán trên các diễn đàn lớn đòi hỏi một trật tự công bằng với tất cả các nước đang phát triển, đòi hỏi có luật lệ phòng chống nạn đầu cơ tiền tệ và thúc đẩy thành lập một tổ chức quốc tế để đảm bảo lợi ích của các nước trong tiến trình hội nhập. Điều đó giúp cho Việt Nam và các nước nhỏ khác có thể phát triển lành mạnh, không trở thành những đối tượng lợi dụng, chèn ép của các nước lớn. Các nước nhỏ cũng cần tập hợp nhau lại tạo thành sức mạnh, có tiếng nói riêng trong các cuộc đàm phán quốc tế.
Chúng ta không nên chỉ hạn chế trong việc gần gũi với các cường quốc như Mỹ, Liên minh Châu Âu, mà cần thiết phải hợp tác gần gũi với các nước trong khu vực, lôi kéo những nước lớn trong khu vực Châu á như Nhật Bản, Trung Quốc, ấn Độ hợp tác cùng ASEAN và các nước khác có cùng lợi ích. Chỉ bằng cách tăng cường sự hợp tác ở quy mô khu vực và với các nước có nền kinh tế ngang bằng, các nhóm nước mới tạo được sức mạnh mặc cả với các nước lớn trong điều kiện luật lệ quốc tế không công bằng.
Điều quan trọng nhất là, hiện nay đang là thời điểm chiến lược của Việt Nam, nước ta phải tranh thủ chuẩn bị trong những năm còn lại trước khi thực hiện tự do hoá theo điều kiện của AFTA, của APEC. Các nước phát triển trong APEC sẽ tự do hoá vào năm 2010 và các nước đang phát triển tự do hoá vào năm 2020. Việt Nam phải khẩn trương tạo ra các luật lệ để mặc cả với các cường quốc trên cơ sở buộc phải xây dựng cơ sở kinh tế có thể tự lực tự cường khi tự do hoá; tạo ra cơ chế bảo vệ lợi ích của nhân dân, không để họ bị thiệt thòi
Cải thiện chính sách thương mại:
Cải thiện chính sách thương mại có nghĩa là giảm bớt những bất cập trong chính sách thương mại liên quan đến hệ thống thuế quan, các hàng rào phi thuế quan, đồng thời tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của các chính sách. Chính sách thương mại cần và sẽ được xây dựng như là một công cụ mở cửa thị trường quốc tế. Mục tiêu chính của việc cải thiện chính sách thương mại là đưa cạnh tranh lành mạnh vào thị trường trong nước như là một nhân tố kích thích năng lực quản lý, tín nhiệm kinh doanh và chất lượng hàng hoá thông qua chấp nhận từng bước mở cửa thị trường trong nước cho cạnh tranh quốc tế và thông qua nhận thức của các doanh nghiệp. Một trong những yêu cầu xây dựng chính sách là tạo ra công cụ hỗ trợ các doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Những nội dung chủ yếu cần thực hiện trong chính sách thương mại bao gồm:
Nới lỏng các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu;
Khuyến khích việc tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu;
Cải cách trong quản lý ngoại hối.
Thứ nhất, nới lỏng các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu. Dù đã được tự do hơn trong việc tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu, nhưng các doanh nghiệp vẫn còn bị ràng buộc về những loại hàng hoá được phép xuất nhập khẩu. Phạm vi các hàng hoá có thể kinh doanh được quyết định bởi bản chất của hoạt động đươc quy định trong giấy đăng ký kinh doanh, vì thế, số lượng mặt hàng được phép xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp còn đơn điệu. Thêm vào đó, Chính phủ thường có kế hoạch xuất nhập khẩu hàng năm với những chỉ tiêu, định hướng khác nhau, khiến cho các doanh nghiệp khá lúng túng trong việc tạo dựng một thị trường ổn định. Do vậy, cần phải có những biện pháp nới lỏng hơn nữa đối với hoạt động xuất nhập khẩu theo các hướng sau:
Danh sách hàng hoá cấm xuất nhập khẩu chỉ nên bao gồm các mặt hàng có liên quan đến an ninh quốc phòng, chính trị, xã hội. Còn các mặt hàng khác có thể cho phép tự do xuất nhập khẩu.
Chính phủ nên giảm dần hạn ngạch và giấy phép xuất nhập khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu, sẽ thay thế bằng các biện pháp phi thuế quan khác, đối với hoạt động xuất khẩu, sẽ áp dụng biện pháp thuế quan hoá (đánh thuế cao đối với các sản phẩm thô, sơ chế, đánh thuế thấp đối với các sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng chế biến cao) và biện pháp khen thưởng khuyến khích xuất khẩu.
Chính phủ cũng nên xoá bỏ kế hoạch xuất khẩu hàng năm vì nó làm cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn lúng túng, bị động.
Thứ hai, đồng thời với việc nới lỏng kiểm soát đối với hoạt động xuất nhập khẩu, các biện pháp khuyến khích việc tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu cũng cần được tiến hành song song. Năm 1988, những hạn chế về quyền kinh doanh ngoại thương được nới lỏng, chế độ độc quyền kinh doanh ngoại thương bị xoá bỏ. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế về mặt pháp lý đều được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được phép bán sản phẩm cho bất kỳ một doanh nghiệp thương mại nào được cấp giấy phép, không bắt buộc phải thông qua các doanh nghiệp nhà nước được chỉ định. Tuy vậy, chúng ta vẫn cần phải tiếp tục thúc đẩy hơn nữa các biện pháp khuyến khích đối với các doanh nghiệp, để các doanh nghiệp này tích cực tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Chúng ta cần thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong hoạt động ngoại thương, cụ thể như sau:
Củng cố vai trò, vị trí của kinh tế Nhà nước, nâng cao chất lượng quản lý trên tầm vĩ mô.
Tạo thuận lợi và có hình thức thích hợp hướng dẫn, quản lý các thành phần kinh tế khác trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng xuất khẩu, đồng thời chuẩn bị điều kiện thực hiện cam kết quốc tế theo quy định của WTO về mở cửa thị trường, giành quyền kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp nước ngoài trong cả khẩu xuất nhập khẩu lẫn lưu thông phân phối trong nước.
Hình thành sự liên doanh, liên kết đan xen giữa các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài với các phương thức khác nhau, tuỳ theo khả năng và nhu cầu của từng ngành hàng.
Thứ ba, trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, Nhà nước cần tiến hành một số biện pháp cải cách như sau:
Trao quyền quyết định có bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp hay không thay vì cơ chế làm đơn xin mua ngoại tệ tại một ngân hàng ngoại hối.
- Cho phép các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được phép chuyển đổi bản tệ sang ngoại tệ theo những hình thức hợp pháp chứ không để cho các doanh nghiệp này tự cân đối nguồn ngoại tệ của chính mình.
Bãi bỏ chế độ bắt buộc phải bán số ngoại tệ vượt quá mức cần thiết dự kiến hàng tháng áp dụng đối với các doanh nghiệp có tài khoản ngoại tệ. Trong trường hợp muốn áp dụng chế độ này để giảm thâm hụt trên tài khoản vãng lai thì Nhà nước cần áp dụng tỷ giá mua bán phù hợp để tránh thiệt thòi cho các doanh nghiệp.
Riêng chính sách tỷ giá hối đoái cần phải được đặc biệt coi trọng vì nó là một bộ phận quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế. Trước mắt cần nhanh chóng đưa ra một chính sách tỷ giá hợp lý, gần sát với mức tỷ giá hối đoái cân bằng mục tiêu, tránh việc đặt giá đồng bản tệ quá cao làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Cần lưu ý rằng chỉ có việc giảm giá trị thực của đồng bản tệ mới là trong những biện pháp hữu hiệu của bất kỳ một chương trình tự do hoá thương mại nào và điều đó sẽ xảy ra khi đồng bản tệ được giảm giá với mức độ lớn hơn mức lạm phát trong thời điểm tương ứng. Một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ giúp điều chỉnh được giá trị của đồng bản tệ theo mức độ lạm phát, hoặc đảm bảo giảm giá thực để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Có thể dựa trên hai yếu tố chính là mức lạm phát và tính cân đối của cán cân thương mại để xác định tỷ giá hối đoái cân bằng mục tiêu. Trong tương lai, để hạn chế thâm hụt ở mức an toàn (bằng hoặc thấp hơn 5% GDP), việc điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu phải gắn liền với xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành mà tiến trình tự do hoá thương mại đã đề ra và phải được tiến hành thông qua việc cải cách hệ thống thuế nhập khẩu sao cho khuyến khích nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hoá tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời hạn chế nhập khẩu thành phẩm.
Cải cách chính sách thuế
Việc cải cách chính sách thuế trong thời gian tới phải nhằm các định hướng như sau:
Thứ nhất, điều chỉnh hợp lý cơ cấu các sắc thuế trong tổng thu ngân sách. Yêu cầu đảm bảo ngày càng tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước đòi hỏi việc đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu trong tổng thu ngân sách. Đối với nước ta, quá trình điều chỉnh đã được thực hiện trong nhiều năm và cần phải tiếp tục trong những năm tới.
Đối với thuế gián thu: trong điều kiện hội nhập quốc tế, tỷ trọng thuế gián thu sẽ có xu hướng giảm trong cơ cấu thu ngân sách - thực tế này đòi hỏi Việt Nam phải có bước chuyển tích cực cho phù hợp. Việc giảm hàng rào thuế nhập khẩu trong khuôn khổ CEPT/AFTA, các cam kết tự do hoá thương mại của WTO, APEC đòi hỏi một cách điều chỉnh toàn bộ hệ thống thuế gián thu bức xúc hơn lúc nào hết. Kinh nghiệp các nước đi trước như các nước ASEAN, các nước công nghiệp mới cho thấy, số thu thuế nhập khẩu giảm sẽ được bù đắp một phần từ việc gia tăng số thu từ thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt. Như vậy, trong toàn bộ các sắc thuế gián thu cũng có sự thay đổi nhất định, đồng thời với việc giảm số thu từ thuế nhập khẩu là sự tăng tỷ trọng của các loại thuế gián thu nội địa. Đây là hướng mà Việt Nam cần phát huy.
Đối với thuế trực thu: trong một nền kinh tế phát triển thì vai trò của thuế trực thu ngày càng được khẳng định, tuy đã tăng dần tỷ lệ trong tổng thu ngân sách như đã chỉ ra ở bảng 21, tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu ngân sách ở nước ta vẫn còn chưa phù hợp với tình hình hiện nay. Việc tăng tỷ lệ thuế trực thu là tất yếu, cũng là giải pháp cho đảm bảo nguồn thu cho ngân sách quốc gia trong điều kiện xuất hiện ngày càng nhiều hình thưc thu nhập khác nhau. Mức huy động của thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải được xác định ở mức hợp lý, không được quá cao để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn đầu tư phát triển, nhưng cũng không được quá thấp, làm giảm mức huy động thuế. Thuế thu nhập cá nhân phải được mở rộng diện thu hơn nữa, phảit tính đến các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư , buôn bán chứng khoán....khi mà thị trường chứng khoán đã bắt đầu hoạt động ở nước ta từ tháng 07/2000.
Thứ hai, cần có những điều chỉnh về phạm vi điều tiết cũng như thuế suất của các sắc thuế. Trước hết, cần phải kiểm soát được những nguồn thu phát sinh ngày càng nhiều, cho phù hợp với sự chuyển đổi và phát triển đa dạng của nền kinh tế thị trường. Mở rộng đối tượng nộp thuế sẽ đảm bảo động viên một cách kịp thời nguồn thu ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, cần phải thống nhất về mặt nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế. Hiện nay trong các sắc thuế còn quy định nhiều đối tượng khác nhau mà mỗi đối tượng có nghĩa vụ nộp thuế theo mức thuế suất khác nhau, chế độ miễn giảm khác nhau, tạo ra sự bất bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế và môi trường cạnh tranh không đồng đều giữa các đối tượng nộp thuế - mà điển hình là trường hợp đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay. Việc thống nhất nghĩa vụ nộp thuế này cũng sẽ góp phần giảm bớt số lượng thuế suất trong mỗi sắc thuế. Thực hiện cải cách này sẽ làm đơn giản hoá, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý hành thu, hạn chế thất thu, trốn lậu thuế, và cũng giảm được chi phí quản lý thu thuế.
Thứ ba, những cải cách thuế của Việt Nam trong thời gian tới phải phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới. Điều đó có nghĩa là phù hợp với các cam kết về tự do hoá đầu tư và thương mại mà Việt Nam đã và sẽ ký kết với CEPT/AFTA, APEC, Hiệp định Việt- Mỹ, WTO.... Cam kết này yêu cầu chúng ta phải xoá bỏ sự phân biệt về thuế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việc bảo hộ, hay miễn giảm để khuyến khích sản xuất trong nước phải được thực hiện một cách có chọn lọc và hiệu quả. Những khoản ưu đãi miễn giảm chỉ nên áp dụng với một số ngành mũi nhọn, phù hợp với trình độ phát triển và chính sách công nghiệp hoá trong giai đoạn này của đất nước. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng những ưu đãi, bảo hộ này chỉ có tính chất tạm thời, nó sẽ dần dần được hạn chế và loại bỏvới sự phát triển của nền kinh tế.
Các chính sách phát huy nội lực kinh tế trong nước
Trước hết, cần phải nâng cao chất lượng lao động. Về nguồn nhân lực thì lao động Việt Nam tuy rẻ nhưng chất lượng không cao. Theo chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI), Việt Nam đứng thứ 116 trong khi đó Philipin đứng thứ 99; Inđonesia : 105; Thái Lan, Singapor : 53. Chất lượng lực lượng lao động của Việt Nam thực sự đáng phải lưu ý về mặt hình thành vốn con người.
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động, số người thuộc lực lượng lao động trong toàn quốc không có kỹ thuật là 87,81%, số có chuyên môn chỉ chiếm có 12,19%. Từ 1996 đến nay tỷ lệ này hầu như không thay đổi. ở các thành phố lớn tỷ lệ này là gấp đôi, hơn 29,37% còn ở nông thôn tỷ lệ này chỉ là 9,3%, điều đáng chú ý là mức chênh lêch về lao động có kỹ thuật giữa nông thôn và thành thị có xu hướng ngày càng tăng lên. Có thể nói lao động có kỹ thuật, nhất là trong khu vực xuất khẩu, là yếu tố quan trọng cho việc nâng cao năng suất lao động, do đó là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Bên cạnh đó còn cần phải kể đến bộ máy quản lý hiệu quả các nguồn lực sản xuất và kỹ năng thâm nhập, hoạt động trên thị trường quốc tế. Việc tạo ra một thế hệ mới các nhà quản lý ở mức trình độ quốc tế là rất then chốt trong việc xây dựng nguồn nhân lực của Việt Nam trong khung cảnh của hội nhập thương mại quốc tế. Sự thiếu nguồn lực quản lý và công nhân kỹ thuật là một nhân tố chủ yếu đóng góp cho sự kém hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài lẫn tốc độ giải ngân thấp của tất cả các dự án sử dụng vốn nước ngoài ở Việt Nam.
ở Việt Nam hiện nay còn có sự mất cân đối giữa đào tạo đại học và dạy nghề. Quan niệm cổ xưa của Nho giáo làm mọi người chỉ chú ý đến sự đỗ đạt, bằng cấp mà ít chú ý đến học nghề. Số người học nghề ít, các trường dạy nghề cũng quá ít dẫn đến tình trạng thiếu công nhân có tay nghề cao. Để giải quyết tình trạng này, giáo dục đóng vai trò quan trọng hàng đầu.Vấn đề giáo dục đã được thể hiên rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII: “ Thực sự coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục. Giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.” (Trang 29 – 30 Văn kiện Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành Trung ương khoá VIII)
Để thực hiện định hướng trên và giải quyết những bất cập trước mắt về tình trạng lao động, những giải pháp sau cần được tiến hành:
Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục - đào tạo. Tăng dần tỉ trọng chi ngân sách cho giáo dục, đồng thời huy động mọi nguồn lực có thể cho giáo dục. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước giúp đỡ phát triển giáo dục - đào tạo Việt Nam . Phần tài trợ cho giáo dục - đào tạo dưới mọi hình thức sẽ được khấu trừ trước khi tính thuế thu nhập.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất các trường học. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy – học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học,tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học.
Đầu tư xây dựng các trường dạy nghề, đi đôi với nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học đã có. Định hướng cho người học bằng cách khuyến khích theo học các ngành mà đất nước đang cần. Phấn đấu đạt tỉ lệ hợp lý giữa đào tạo đại học và dạy nghề, có thể phấn đấu đạt tỉ lệ 1/ 9 trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, để phát huy năng lực sản xuất trong nước thì nâng cao công nghệ là yêu cầu tất yếu. Trình độ công nghệ có tác động trực tiếp đến chất lượng hàng hoá, và do đó là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Định hướng về phát triển khoa học – công nghệ đã được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng: “ Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vao khoa học, công nghệ. Đảng và Nhà nước ta có chính sách đầu tư khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ .Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh.”
Để nâng cao trình độ công nghệ Nhà nước cần tiến hành các biện pháp sau:
Tạo lập thị trường cho khoa học và công nghệ .
Dùng các công cụ về thuế, tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại, phù hợp với các hướng ưu tiên của Nhà nước. áp dụng chế độ thuế nhập khẩu thấp đối với các thiết bị công nghệ tiên tiến. Miễn mọi loại thuế cho các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử bằng công nghệ mới. Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng một số năm đối với các sản phẩm làm ra bằng công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam, có chính sách ưu đãi đối với việc áp dụng công nghệ do trong nước sáng tạo ra.
Khuyến khích sáng tạo các công nghệ nội địa, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước nhà. Có chế độ thưởng cho các tổ chức, cá nhân về sáng chế, phát minh, cải tiến kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới.
Hoàn thiện hệ thông pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ .
Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ .
Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế , thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến nước ta hợp tác mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật, lập các cơ sở nghiên cứu khoa học và chuyển giao những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Sử dụng hiệu quả vốn vay và viện trợ nước ngoài để đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là cán bộ trẻ đi học tập ở nước ngoài.
Khuyến khích các đối tác nước ngoài nhập khẩu các công nghệ tiên tiến, hiện đại bằng các công cụ kinh tế: thuế nhập khẩu , thuế thu nhập,…
Tăng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn:
Tăng dần tỉ lệ ngân sách chi cho khoa học và công nghệ. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp để dành một phần vốn cho nghiên cứu đổi mới, cải tiến công nghệ và đào tạo nhân lực, phần vốn này không chịu thuế.
Một biện pháp rất quan trọng là tăng cường hỗ trợ về nghiên cứu khoa học để phát huy nguồn lực trí tuệ trong nước. Trong điều kiện hiện nay, rất ít doanh nghiệp Việt Nam có đủ khả năng đầu tư cho nghiên cứu khoa học một cách có quy mô.Vì vậy hỗ trợ của Nhà nước về nghiên cứu khoa học là rất cần thiết để giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc với các thành tựu khoa học mới.
Các viện nghiên cứu trong đã có nhiều đóng góp trong việc đưa các thành tựu khoa học mới vào sản xuất, ví dụ như Viện khoa học nông nghiệp đã đưa ra một số giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng gạo tốt hơn, đóng góp một phần lớn vào thành tích kỳ diệu về nông nghiệp trong thời gian qua. Tuy nhiên có thể thấy rất nhiều nghiên cứu vẫn chưa thực sự sát với yêu cầu thực tế của sản xuất,mang nhiều tính chất kinh viện, ít mang lại hiệu qủa thực tiễn.
Trong tương lai, chắc chắn các viện nghiên cứu luôn đóng vai trò rất lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hay cụ thể hơn là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nhưng để phát huy hiệu quả cao hơn nữa, những nghiên cứu phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, trực tiếp phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, cần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ khoa học cung cấp cho các doanh nghiệp để họ có điều kiện tận dụng các thành tựu mới của khoa học.
2. Các biện pháp vi mô về hoạt động ở các doanh nghiệp trong quá trình tự do hoá thương mại hiện nay
Trước hết, các doanh nghiệp cần phải có nhận thức rõ ràng về vai trò hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của chính doanh nghiệp trong tương lai bởi đó là xu hướng tất yếu. Trên cơ sở nhận thức ấy, các doanh nghiệp, cả tư nhân lẫn nhà nước, cần phải xác định rõ con đường cần phải tiến đến. Trong xu thế hiện nay, tư tưởng dựa dẫm vào sự hỗ trợ từ phía Nhà nước không thể tiếp tục tồn tại nữa. Mỗi một doanh nghiệp cần phải chuẩn bị đủ tiềm lực để sẵn sàng đón nhận và chấp nhận cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài mạnh hơn về nhiều mặt. Để làm được điều đó, doanh nghiệp cần tiến hành đổi mới hoạt động của mình một cách toàn diện. Cụ thể:
Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với công nghệ mới. Vấn đề con người bao giờ cũng có tầm quan trọng hàng đầu bởi đổi mới có thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức và trình độ của con người. Trong những bước đầu tiên cải tổ lại doanh nghiệp, có thể nhập khẩu, bổ sung thêm nhân lực có khả năng tiếp cận thị trường bên ngoài. Từ đó nâng cao trình độ lao động nói chung trong doanh nghiệp do có thể học hỏi những kinh nghiệm của nước ngoài.
Thứ hai, mục tiêu phát triển của doanh nghiệp không thể tách rời khả năng cạnh tranh của các sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Do đó điều tất yếu là doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ thích ứng với nhu cầu thị trường bên ngoài. Trong đó điểm quan trọng cần đặc biệt chú ý là chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần triển khai mạnh mẽ các bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm như ISO 9000, TQM, tiến tới đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật về chất lượng sản phẩm của đối tác nước ngoài như GMP (quy phạm thực hành sản xuất tốt), SSCP (quy phạm làm vệ sinh chuẩn) và HACCP (xác định các mối nguy hiểm về an toàn vệ sinh và thực hiện kiểm soát tại mối nguy đáng kể). Có như vậy mới hy vọng sản phẩm của chúng ta có khả năng cạnh tranh thực tế trên thị trường quốc tê, mà nhờ tự do hoá thương mại đã mở rộng ra rất nhiều.
Thứ ba, các doanh nghiệp cần tiến hành đổi mới tổ chức kinh doanh, khuyến khích thành lập các công ty hợp tác quốc tế, chuyên lo tìm kiếm thị trường, đối tác, công nghệ mới, nguồn vốn…và cung cấp các thông tin này cho các công ty khác. Như vậy sẽ tạo nên một mạng lưới thông tin chặt chẽ và có thể tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty, đồng thời tăng khả năng phát triển có hiệu quả.
Thứ tư, việc thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với Nhà nước cũng là một nội dung hết sức quan trọng. Nó doanh nghiệp nắm bắt được những chủ trương, đường lối hội nhập cụ thể của Nhà nước trong từng thời kỳ, những điều chỉnh trong chính sách thương mại, đầu tư, tài chính, thuế xuất nhập khẩu…phục vụ mục tiêu hội nhập để kịp thời thích ứng. Đồng thời, các doanh nghiệp cần mạnh dạn trao đổi ý kiến đề xuất, nguyện vọng lên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền một khi gặp khó khăn, cản trở trong sản xuất do các điều chỉnh trên mang lại.
Cuối cùng, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động theo hướng xuyên quốc gia. Muốn tham gia hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp nước ta không chỉ hoạt động ở trong nước, mà phải mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Điều đó có nghĩa là trong tương lai Việt Nam phải có những công ty xuyên quốc gia của mình. Những công ty này có thể hình thành theo các hướng sau:
- Doanh nghiệp mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước khác để tìm hiểu thị trường, đối tác, các nguồn vốn, công nghệ và mọi thông tin thị trường cần thiết…Trên cơ sở đó xác định hướng kinh doanh trong nước phục vụ cho thị trường nước ngoài;
- Những doanh nghiệp nào không có khả năng trực tiếp tiếp cận với thị trường bên ngoài, phải liên kết với các công ty xuyên quốc gia để gắn và hướng hoạt động của mình cho phù hợp.
- Chúng ta cũng có thể thu hút các công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta. Đồng thời có chính sách gắn chặt lợi ích các công ty này với các công ty Việt Nam, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế chung của cả nước.
Tóm lại, vấn đề cơ bản nhất đối với doanh nghiệp là tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả hiệu quả kinh tế, khả năng tiếp cận thị trường và thực tiễn hoạt động kinh doanh quốc tế trong các lĩnh vực quy trình công nghệ, chính sách đào tạo, nghiên cứu mở rộng thị trường. Ngoài ra, việc lựa chọn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cũng có vai trò rất quan trọng. Chiến lược đó phải có tầm nhìn dài, đón đầu được xu hướng thay đổi của nhu cầu thị trường khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó thực hiện việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Cần đầu tư thoả đáng và có hiệu quả cho công tác nghiên cứu và triển khai. Đồng thời, doanh nghiệp cần phải xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng và dịch vụ, làm công cụ hữu hiệu nhằm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc đạt được chứng chỉ ISO là giấy thông hành cần thiết để các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập tham gia vào thị trường thế giới và khu vực. Muốn vậy doanh nghiệp cần tạo dựng và duy trì được nề nếp quản lý kĩ thuật, huấn luyện và nâng cao kỹ năng, tác phong, kỷ cương công nghiệp cho lực lượng công nhân và kĩ thuật viên.
Một số kiến nghị và đề xuất
Thứ nhất, khu vực nông nghiệp và nông thôn của chúng ta luôn đóng vai trò to lớn trong việc tạo dựng bộ mặt kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trình độ phát triển sản xuất ở khu vực này lại chưa cao. Do đó biện pháp trước hết là Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư, đặc biệt với các dự án đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn để phát triển công nghiệp chế biến, sản xuất hàng hoá xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, áp dụng công nghệ mới. Ngoài ra, chúng ta cũng cần xây dựng một danh mục cụ thể các ngành nghề, lĩnh vực công nghiệp cần được ưu tiên khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ hai, , Nhà nước cần quy hoạch và hình thành hệ thống trường đào tạo phục vụ cho từng ngành nghề, đào tạo cả kỹ năng quản lý doanh nghiệp, quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng, marketing... nhằm đáp ứng cho nền công nghiệp hiện đại và tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Thứ ba, các thủ tục phiền hà cho các Doanh nghiệp đi tìm kiếm thị trường, đàm phán thương mại, tham dự hội trợ thương mại ở nước ngoài cần tích cực giảm thiểu. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu ngoài việc khen thưởng các doanh nghiệp có thành tích xuất khẩu cần hướng vào khuyến khích doanh nghiệp mở thị trường mới, hỗ trợ tham gia các hội trợ, chuẩn bị các tài liệu.
Thứ tư, không nên tự do hoá lãi suất nóng vội trong thời điểm hiện nay, cần duy trì lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn cần xử lý sao cho có quan hệ hữu cơ, tránh tồn tại độc lập. Mặt khác, chúng ta cần tạo điều kiện cho thị trường ngoại hối phát triển để sớm xoá bỏ lãi suất cơ bản cho vay ngoại tệ mà chỉ thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam.
Thứ năm, về hoàn thiện công cụ thị trường mở của chính sách tiền tệ, cần cải tiến việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc để sớm cho ra đời thị trường thứ cấp tín phiếu Kho bạc./.
Kết luận
Tự do hoá thương mại là một xu thế tất yếu mà tất cả các quốc gia trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù là phát triển hay đang phát triển đều không thể không tham gia. Tuy nhiên, lợi ích thu được từ quá trình này không giống nhau đối với các nước có trình độ phát triển khác nhau. Đặc biệt đối với Việt Nam là một nước đang phát triển với những đặc điểm riêng, chúng ta cần cân nhắc rất nhiều vấn đề khi tham gia vào xu thế chung này.
Là một nước đang phát triển, Việt Nam đang đứng trước những thời cơ cũng như thách thức lớn mà quá trình tự do hoá kinh tế có thể mang lại. Tuy nhiên, cần phải khẳng định đây là một đòi hỏi khách quan của việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ mới. Để thực hiện thành công quá trình này, Việt Nam rất cần một chiến lược tổng thể về hội nhập có hiệu quả, thiết thực cho từng lĩnh vực, từng giai đoạn phát triển kinh tế, phù hợp với các cam kết, các định chế kinh tế quốc tế mình tham gia. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giải quyết hàng loạt các vấn đề quan trọng khác như mối quan hệ giữa mở cửa với định hướng XHCN, an ninh quốc phòng, ổn định xã hội, điều chỉnh và bổ sung hệ thống luật pháp và các thiết chế kinh tế- chính trị - xã hội, xây dựng bộ máy và đào tạo nhân lực phục vụ công tác hội nhập, thông tin tuyên truyền về hội nhập... nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế hoà nhập với thế giới và khu vực trong khi vẫn đảm bảo hài hoà các lọi ích xã hội.
Đây thực sự là một đề tài có tính bao quát rộng và phức tạp cần có sự quan tâm của rất nhiều ngành nghề, các cơ quan chức năng và chính phủ cũng như mỗi doanh nghiệp. Với kiến thức có hạn, thời gian không nhiều, và tài liệu cũng chưa thật đầy đủ, khoá luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót và sơ suất. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các bạn và những người quan tâm đến vấn đề này.