Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, tôi nhận thấy công tác huy động vốn là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trong thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn để đáp ứng được vốn trong hoạt động kinh doanh. Từ chỗ nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh chỉ phụ thuộc vào Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đến nay Chi nhánh đã chủ động được nguồn vốn trong kinh doanh của mình.
Tuy nhiên để công tác huy động vốn của Chi nhánh đạt kết quả cao hơn nữa, tạo nguồn vốn trong kinh doanh, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá thủ đô Hà Nội, Chi nhánh cần nhanh chóng khắc phục những tồn tại, phát huy những mặt mạnh, áp dụng những nghiệp vụ mới.
Hoàn thành bản khoá luận này, người viết mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình đối với việc nâng cao chất lượng công tác huy động vốn đối với sự phát triển của NHTM nói chung và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên bản khoá luận không tránh khỏi còn những hạn chế nhất định, tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp, tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này, để bản khoá luận hoàn chỉnh hơn, có điều kiện phần nào đó có thể áp dụng cho thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.
76 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7
101.984
159.789
169.576
2. Tiền gửi ko kỳ hạn
119.494
112.704
195.905
197.237
260.711
378.643
Cơ cấu
1. Tiền gửi có kỳ hạn
20.20 %
51.00%
36.90%
34.10%
38.00%
30.93%
2. Tiền gửi ko kỳ hạn
79.80%
49.00%
63.10%
65.90%
62.00%
69.07%
So sánh giữa các kỳ
a. Số tuyệt đối
80.226
80.525
-11.351
121.279
127.669
- Tiền gửi có kỳ hạn
87.016
-2.676
-12.683
57.805
9.787
- Tiền gửi ko kỳ hạn
-6.790
83.201
1.332
63.474
117.932
Qua bảng 4 cho thấy trong nguồn tiền gửi của các TCKT, tiền gửi không kỳ hạn chiếm một tỷ trọng lớn và tăng đều qua các năm. Về phía Ngân hàng, đây là một nguồn tài nguyên rẻ nhất (lãi suất huy động 0,45% đến 0,5%/tháng) nhưng có biến động rất lớn. Ngân hàng có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này khi nó luôn được bổ sung, điều hoà hoặc theo một tỷ lệ phù hợp.
Nguồn tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Chi nhánh cần phải có biện pháp để thu hút loại tiền gửi có kỳ hạn vì đây là một nguồn khá ổn định để sử dụng cho vay trung và dài hạn.
Hầu như tiền gửi của các TCKT đều là các doanh nghiệp của quốc doanh.
Đầu năm1995, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã mở tài khoản tiền gửi cá nhân để thu hút tiền gửi của dân chúng, giúp người dân tiếp cận và làm quen dần với tập quán thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó phần lớn khách hàng là cán bộ công nhân viên trong ngành Ngân hàng (204 tài khoản) và rất ít khách hàng ngoài ngành. Nhưng đến năm 1997 có 427 tài khoản cá nhân đã được mở và hoạt động và đến năm 1999 con số này đã là 627 tài khoản với số dư bình quân 2,7 tỷ đồng. Đó cũng là sự thành công của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội trong hoạt động kinh doanh và dịch vụ của mình ngày càng được khách hàng tín nhiệm. Nhưng nói chung tốc độ phát triển của loại hình này vẫn còn chậm.
Mặc dù Ngân hàng áp dụng lãi suất khá cao (0,45%) cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn (0,3%). Đây cũng là tình hình chung của việc mở và hoạt động của tài khoản cá nhân tại Việt Nam mà ta đang từng bước vận động. Không phải dân ta thiếu tiền mà nguyên nhân chủ yếu là họ chưa quen, chưa thấy được những thuận lợi của việc thanh toán bằng chuyển khoản.
2.1.2. Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu:
Nguồn tiền gửi này thường chiếm một tỷ trọng lớn, khá ổn định trong tổng nguồn và là nguồn phát sinh chi phí chủ yếu của một Ngân hàng thương mại.Sự biến động của nguồn vốn này phụ thuộc chặt chẽ vào cơ cấu, thu nhập dân cư, tỷ lệ lạm phát, tình hình lãi suất (lãi suất tiền gửi tiết kiệm và các nguồn khác như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc ... ) các yếu tố tâm lý, xã hội ...
Chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, nguồn tiền gửi tiết kiệm được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đặc biệt quan tâm. Nếu như trong suốt năm 1994 nguồn huy động tiết kiệm của Ngân hàng chỉ có hình thức tiết kiệm xây dựng nhà ở (bao gồm VNĐ và USD) thì bước sang năm 1995, Ngân hàng đã chú trọng áp dụng phong phú các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm với các kỳ hạn khác nhau.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn giữ ở mức không đáng kể do có lãi suất thấp nên người dân ít gửi, hơn nữa nếu có nhu cầu dùng tiền thường xuyên thì mở tài khoản cá nhân sẽ ưu việt hơn mà mức lãi lại cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (0,45%/ tháng so với 0,3%/tháng) hoặc có thể gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng khi cần rút trước hạn vẫn được hưởng lãi tiết kiệm không kỳ hạn.
Xét về mặt giá trị và tỷ trọng, tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng cũng như trong tổng nguồn huy động từ dân cư.
Năm 1995, số dư tiền gửi tiết kiệm là 107.767 triệu đồng chiếm 79,34% trong tổng nguồn huy động từ dân cư thì đến năm 1996 đạt 206.842 triệu đồng chiếm 80,44%. Sang năm 1997, số dư tiền gửi tiết kiệm giảm xuống còn 190.018 triệu đồng là do trong năm Chi nhánh đã phát hành nhiều loại kỳ phiếu với lãi suất hấp dẫn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm nên phần lớn tiền gửi tiết kiệm của dân cư được chuyển sang mua kỳ phiếu. Năm 1999 số dư tiền gửi tiết kiệm là 789.863% triệu đồng chiếm tỷ trọng 37,03% bởi vì trong năm Chi nhánh còn phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với mức lãi suất cao hơn lãi suất huy động tiết kiệm. Trong cơ cấu tiền gửi tiết kiệm phần lớn là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng chủ yếu vẫn là loại có kỳ hạn 3 tháng hoặc 6 tháng, còn loại 1 năm và 13 tháng chiếm tỷ trọng nhỏ.
Trong cơ cấu loại tiền gửi tiết kiệm, thì tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ (USD) là hình thức mới mẻ, năm 1995 mới có.
Bảng 5: cơ cấu loại tiền gửi tiết kiệm
Đơn vị : triệu đồng, ngoại tệ quy đổi
Thời gian
31-12-94
31-12-95
31-12-96
31-12-97
31-12-98
31-12-99
Khoản mục
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Tổng nguồn
14.281
107.767
206.842
190.018
480.420
789.863
VNĐ
14.281
100
106.027
98.4
194.662
94.1
141.782
74.6
340.138
70.8
587.942
73.6
USD
1.740
1.6
12.180
5.9
48.236
25.4
140.282
29.2
210.921
26.4
Biến động vốn huy động so với kỳ trước (%)
VNĐ
742.4
183.6
72.8
239.9
172.85
USD
100
396
290.82
150.35
Qua bảng 5 cho ta thấy tuy số lượng tiền gửi bằng ngoại tệ có tăng năm sau lớn hơn năm trước, đặc biệt là năm 1999. Đó là do có sự ảnh hưởng về tỷ giá của đồng đô la Mỹ so với nội tệ. Nhưng nó vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ so với tiết kiệm bằng đồng Việt Nam, nó đánh giá phần nào sự thành công của đất nước ta trong việc quản lý ngoại hối khi nền kinh tế trong khu vực đang có khủng hoảng. Tuy nhiên, đứng về phía Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cũng cần chú trọng mở rộng loại này, tạo điều kiện để hoà đồng mức lãi suất cho các doanh nghiệp vay vốn và cũng là tiền đề để tự cân đối nguồn ngoại tệ, cho vay các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, mở rộng chính sách khách hàng. Trong số dư tiền gửi tiết kiệm bao gồm cả số dư tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở. Nhưng nó chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ không đáng kể do Chi nhánh chỉ phát hành loại này trong một thời gian ngắn (năm 1994), sau đó số dư của nó giảm dần do quy chế vay trả của loại hình này cứng nhắc, không phù hợp.
2.1.3. Kỳ phiếu Ngân hàng.
Huy động bằng kỳ phiếu là hình thức huy động vốn linh hoạt nhằm giải quyết những nhu cầu tức thời. Ngân hàng căn cứ vào tình hình và nhu cầu vốn tại từng thời điểm và quyết định đưa ra hình thức huy động này. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển phát hành kỳ phiếu có mục đích bằng VNĐ, bằng ngoại tệ (USD) và kỳ phiếu đảm bảo theo giá trị vàng với nhiều thời hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng,12 tháng, 13 tháng có các phương thức trả lãi khác nhau như trả lãi trước (Nếu muốn tăng sức hấp dẫn của kỳ phiếu) và trả lãi sau cùng với gốc. Do lãi suất của kỳ phiếu luôn luôn cao hơn hẳn so với lãi suất của tiền gửi tiết kiệm cho nên sử dụng hình thức này tạo điều kiện cho Chi nhánh có được nguồn vốn tương đối ổn định và phù hợp nhu cầu vốn trong từng giai đoạn, phù hợp với chiến lược sử dụng vốn của Chi nhánh đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Vì vậy nguồn huy động kỳ phiếu thường biến động bất thường do Chi nhánh phát hành kỳ phiếu theo từng đợt và có những kỳ hạn khác nhau.
Năm 1994, Ngân hàng phát hành hai đợt kỳ phiếu vào tháng 2 và tháng 5 mà cũng chỉ 2 loại bảo đảm bằng vàng và USD, số dư đến 31/12/1994 chỉ còn 1.106 triệu đồng.
Ngày 6/3/1995 Ngân hàng phát hành hai loại kỳ phiếu: loại kỳ phiếu USD và kỳ phiếu mới bằng VNĐ, kết quả thu được 12.615 triệu. Trong đó kỳ phiếu VNĐ là 10.858 triệu đồng chiếm 86,07%.
Trong tháng 8 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng đã phát hành 2 loại kỳ phiếu USD và loại VNĐ nâng số dư đến ngày 31/12/1995 là 27.890 triệu đồng. Trong đó bằng VNĐ là 22.620 triệu đồng chiếm 81% và bằng USD là 5.270 triệu đồng (quy đổi VNĐ) chiếm 19%.
Do kỳ phiếu đảm bảo bằng vàng không phát hành nữa nên số dư không đáng kể. Tại thời điểm 31/12/1994 số dư kỳ phiếu chỉ mới có 1.106 triệu đồng, đến 31/12/1995 đã tăng lên 27.870 triệu đồng, năm 1996, 1997, 1998, 1999 vẫn tiếp tục tăng vì Ngân hàng liên tiếp phát hành các đợt kỳ phiếu gối tiếp nhau với kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn nên hết kỳ hạn người gửi lại tiếp tục chuyển đổi số sang kỳ hạn mới. Năm 1998, tăng 112,1% so với năm 1997 và tăng 519,8% so với năm 1996, nhưng san năm 1999 lại giảm.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội huy động kỳ phiếu bằng VNĐ đã thu được kết quả rất khả quan, điều này được giải thích như sau:
- Ngân hàng đã áp dụng nhiều loại kỳ hạn, trong đó có những kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng giúp cho người dân bớt lo ngại về sự tác động của lạm phát.
- Lãi suất cao.
- Bản tệ là nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng, trong khi lượng ngoại tệ (USD) lại khá khan hiếm. Hơn nữa lãi suất kỳ phiếu VNĐ cao hơn lãi suất kỳ phiếu USD.
2.1.4. Trái phiếu Ngân hàng:
Từ 06/10/1994 đến 20/10/1994 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phát hành trái phiếu của Ngân hàng đầu tư trên phạm vi toàn quốc. Tổng mệnh giá là 100 tỷ VNĐ và 5 triệu USD. Trái phiếu phát hành đợt này nhằm mục đích huy động vốn để cho vay đầu tư các nhà máy xi măng địa phương, các nhà máy gạch và một số dự án đầu tư khác. Trái phiếu được phát hành bằng VNĐ và USD.
Trái phiếu được phát hành VNĐ có 3 loại thời hạn 1 năm, 3 năm và 5 năm, bằng USD với thời hạn 1 năm và có 2 loại trái phiếu:
+ Có ghi tên người mua.
+ Không ghi tên người mua.
Loại không ghi tên người mua được chuyển nhượng, mua bán tự do trong cả nước.
Loại có ghi tên người mua: khi người mua có yêu cẩu thay đổi quyền sở hữu thì được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển xác nhận cho chuyển nhượng dễ dàng.
Người mua được quyền lựa chọn và mua nhiều loại trái phiếu: Cả bằng USD và VNĐ, nhiều loại mệnh giá khác nhau với số lượng không hạn chế.
Lãi suất : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển ưu tiên trả lãi trước một năm ngay sau khi bán trái phiếu với lãi suất 21% một năm cho cả 3 loại bằng VNĐ, có thời hạn 1 năm, 3 năm và 5 năm. Do trả lãi trước một năm nên người mua trái phiếu tính ra thực chất được hưởng cả năm là 26,6% một năm.
Tiền lãi từ năm thứ 2 trở đi của loại thời hạn 3 và 5 năm được trả lãi từng năm theo lãi suất điều chỉnh từng năm căn cứ vào mặt bằng lãi suất chung trên thị trường. Điều này chưa hấp dẫn người mua vì lãi suất năm đầu cho cả mấy loại trái phiếu kỳ hạn dài khác nhau lại cùng 1 lãi suất. Mặt khác, lãi suất những năm sau lại còn chưa biết, do vậy người ta thường chỉ mua loại kỳ hạn 1 năm mà thôi.
Lãi suất trái phiếu USD là 6% một năm được trả cùng một lần với gốc trái phiếu tại ngày thanh toán gốc trái phiếu.
Với tổng số vốn cần huy động 100 tỷ VNĐ và dự kiến phát hành trong 2 tháng, nhưng chỉ sau 5 ngày toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã bán được 95 ty4 VNĐ. Một cuộc “mua bán” thành công đạt kỷ lục về thời gian và số lượng.
Riêng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đợt phát hành đầu tiên đã thu được 16.631 VNĐ. Nguyên nhân của sự thành công là việc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã áp dụng một mức lãi suất cao hơn hẳn so với lãi suất của các hình thức huy động vốn hiện hành. Các phương thức thanh toán lãi: Trả trước, trả lãi theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm đã trở thành một yếu tố kích thích quan trọng.
Năm 1999, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển lại tiếp tục phát hành trái phiếu VNĐ và USD cũng với các kỳ hạn 1, 3, 5 năm, số dư đến 31/12/1999 cũng tương đương 221.458 triệu đồng.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào hiệu quả kinh tế trong mối liên hệ với tỷ lệ lãi suất mà Ngân hàng đang thực hiện với các doanh nghiệp quốc doanh thì kết quả của việc phát hành trái phiếu nói trên là rất hạn chế. Chỉ tiêu về các trái phiếu dài hạn cũng chưa đạt. Mặc dù Ngân hàng đã thông báo về việc áp dụng kỳ hạn trái phiếu càng dài lãi suất càng cao, nhưng hầu hết các trái phiếu đã được bán ra đều có kỳ hạn 1 năm, thực trạng này có thể do các nguyên nhân khách quan sau:
- Nền kinh tế chưa phát triển, năng suất lao động còn thấp, thu nhập dân cư chưa cao nên tích luỹ trong nền kinh tế nói chung và trong dân cư, các doanh nghiệp nói riêng còn rất hạn hẹp. Dôi thừa vốn không nghiều và chỉ tạm thời nên khó có thể đầu tư dài hạn.
- Thị trường chứng khoán chưa phát triển, do đó nếu mua trái phiếu dài hạn người mua không thể sử dụng vốn linh hoạt được.
- Tình trạng lạm phát huy đã bị hạn chế, nền kinh tế - xã hội đã thoát khỏi khủng hoảng song chưa thật vững chắc.
2.2. Các nguồn đi vay:
2.2.1. Vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
Bảng 6 : cơ cấu sử dụng nguồn vốn vay
Đơn vị : triệu đồng, ngoại tệ quy đổi
Thời gian
Chỉ tiêu
31-12-94
31-12-95
31-12-96
31-12-97
31-12-98
31-12-99
Số tiền
(%)
Số tiền
(%)
Số tiền
(%)
Số tiền
(%)
Số tiền
(%)
Số tiền
(%)
Nguồn vốn vay NHĐT&PTVN
419.395
100
420.306
87.34
488.050
100
461.893
84.15
550.520
85.28
427.007
82.55
Nguồn vốn vay các TCTC& TCTD khác
7
60.907
12.66
7
87.003
15.85
95.000
14.72
84.069
16.45
Tổng cộng
419.402
100
481.213
100
488.057
100
548.896
100
645.520
100
511.076
100
Qua số liệu ở bảng trên ta thấy nguồn vốn vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 1999 vẫn chiếm 19,79% trong tổng nguồn vốn của Chi nhánh.
Nhưng qua hoạt động kinh doanh của Ngân hàng theo cơ chế mới, nhờ vào nguồn tự lo mà nguồn vốn vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã giảm đi đáng kể, đánh dấu những bước thành công ban đầu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Tại thời điểm 31/12/1995 tổng mức vay vốn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là 420.306 triệu đồng, chiếm 47,7% trong tổng nguồn, nhưng tại thời điểm 31/12/1999 là 427.007 triệu đồng, chiếm 19,79% (số tuyệt đối tuy lớn nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn là do nguồn vốn huy động của Chi nhánh luôn tăng trưởng ở mức độ cao).
Một mặt Ngân hàng Đầu tư và Phát triển không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức, hoạt động kinh doanh để dần hoàn thiện theo cơ chế mới, kinh doanh đa năng tổng hợp, để đạt được nguồn vốn tự huy động tối đa.
Xu hướng vận động vốn vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là giảm dần, thay vào đó có một phàn là nguồn đi vay các tổ chức tài chính, tín dụng khác. Điều này nói lên chi nhánh Hà Nội đã bước đầu có tính chủ động trong tìm kiếm nguồn từ các tổ chức tài chính tín dụng khác, không hoàn toàn trông chờ vào nguồn cho vay của Ngân hàng cấp trên nhưng chi nhánh vẫn xác định nguồn vốn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nó góp phần vào việc giải quyết những nhu cầu vốn phát sinh cần được đáp ứng kịp thời, nhất là nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn mà hiện nay chi nhánh vẫn chưa tự đáp ứng đủ.
2.2.2. Vay các tổ chức tài chính tín dụng khác:
Những năm trở về trước, Ngân hàng hoạt động theo cơ chế cũ, nguồn vốn này Ngân hàng không chú trọng và lượng vốn này không đáng kể, mà chủ yếu vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Hoạt động theo cơ chế mới, Ngân hàng đã quan hệ với các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài hệ thống để huy động vốn, nhất là các cơ quan bảo hiểm, vì nền kinh tế càng phát triển thì ngành bảo hiểm cũng phát triển và mở rộng, nên nguồn vốn nhà rỗi của các cơ quan bảo hiểm rất lớn. Đây là nguồn mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội rất quan tâm hiện nay.
Chính vì xác định được như vậy, mà tỷ trọng của các nguồn vốn vay các tổ chức tài chính, tín dụng khác tăng đáng kể. Tại thời điểm 31/12/1994, tỷ trọng của các nguồn vốn vay các tổ chức này chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng nguồn vốn, cho đến thời điểm 31/12/1999 nguồn này tăng lên 4,9% trong tổng nguồn vốn của chi nhánh và chiêma 16,45% trong số vốn vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương và các tổ chức tài chính và tín dụng khác.
Tuy nhiên, nguồn này chỉ mang tính chất nhất thời vì loại đi vay này thường chịu mức lãi suất cao nên kém hiệu quả trong kinh doanh.
III. Những thành tựu và hạn chế trong công tác huy động nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
1. Những kết quả đạt được:
Khác với các Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội còn thực hiện nhiệm vụ chính trị của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch và định hướng của Nhà nước. Phát huy thế mạnh trong lĩnh vực cho vay đầu tư xây dựng cơ bản, với quyết tâm cao, năng động tìm vốn cho đầu tư phát triển cùng với toàn ngành, chính nhánh góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung, thủ đô Hà Nội nói riêng.
Vốn vay của Chi nhánh đã góp phần đưa nhiều dự án trên địa bàn vào sản xuất, đem lại hiệu quả, tăng sản lượng, sản phẩm góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới cho thành phố, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Một số dự án tiêu biểu: Công trình cán ép hợp kim nhôm, công trình sản xuất dây dẫn của nhà máy cơ khí Trần Phú, công trình mở rộng quy mô của Công ty điện tử Giảng Võ.
Chi nhánh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô “Coi trọng sản xuất sản phẩm cơ khí chế tạo mà Hà Nội có thế mạnh, tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, đầu tư công nghiệp phục vụ nông nghiệp, du lịch, dịch vụ thương mại”.
Nét nổi bật trong hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội năm 1998 là vừa phát triển nghiệp vụ kinh doanh đa năng như các Ngân hàng thương mại, vừa phát triển vị thế của Ngân hàng đầu tư và Phát triển trong lĩnh vực đầu tư trung, dài hạn theo kế hoạch của Nhà nước. Bằng sự nhạy bén trong công tác tiếp thị, đổi mới phong cách giao dịch, mở rộng mạng lưới một cách hợp lý và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã thu hút được nguồn tiền gửi lớn của dcân cư, các tổ chức kinh tế... Cơ cấu tiền gửi đã có bước chuyển biến tích cực theo hướng vừa tăng vững chắc vừa có lợi cho kinh doanh. Tổng số nguồn vốn huy động 2.157.096 triệu đồng thì tiền gửi tiết kiệm dân cư chiếm 48,45%, tiền gửi tổ chức kinh doanh chiếm 25,41%. Thời gian vừa qua tuy bị biến động về tỷ giá, nhiều khách hàng rút VNĐ và gửi lại vào bằng ngoại tệ nên nguồn vốn huy động vẫn tăng. Nguồn ngoại tệ gần đây tiếp tục tăng trưởng, so với năm 1998, cuối năm 1999 đạt 157,07%. Đây cũng là một sự cố gắng của chi nhánh để tạo lập nguồn vốn ngoại tệ dồi dào để đầu tư cho các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư, nguyên liệu đáp ứng cho yêu cầu sản xuất kinh doanh. Công tác huy động vốn là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Năm qua, để huy động nguồn vốn trung và dài hạn, Chức năng đã phát hành trái phiếu 221.458 triệu đồng trong đó loại 2 năm trở lên chiếm khoảng 40%. Số huy động này chỉ trong vòng không đầy một tháng, một tốc độ rất nhanh, nó phản ánh niềm tin của nhân dân đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Nhờ thành tích huy động vốn đã được cả về mặt số lượng lẫn cơ cấu nguồn vốn ngày càng phù hợp mà tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của chi nhanh đến cuối năm 1999 đạt 1.460 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 1998 và tăng 5% so với kế hoạch.
Trong đó: - Dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 51%.
- Dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ trọng 49%.
Năm 1999, chi nhánh còn tiếp tục phát triển nghiệp vụ kinh doanh mua bán ngoại tệ để hỗ trợ vốn cho hoạt động thanh toán quốc tế và nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng. Chi nhánh đã thực hiện tốt nhiệm vụ và kế hoạch đầu tư phát triển trên địa bàn Thủ đô.
2. Những mặt còn hạn chế:
Những thành công bước đầu trong công tác huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, như nói ở trên, công tác huy động vốn là một hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn và trên bước đường kinh doanh của mình, Ngân hàng vừa làm vừa học hỏi để không ngừng bổ sung và hoàn thiện nó, vì vậy không tránh khỏi những khiếm khuyết, tồn tại. Một số hạn chế thể hiện trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, một số hạn chế là chung của toàn hệ thống với những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
2.1. Chiến lược khách hàng:
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cũng đã ý thức được chính sách khách hàng là quan trọng, có ý thức thu hút các khách hàng có tiền gửi tiềm năng nhưng chưa thực sự có những biện pháp trển khai thực hữu hiệu trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh. Vì vậy với cả khách hàng truyền thống có quan hệ lâu đời, chi nhánh vẫn chưa thu hút 100% doanh số hoạt động tiền gửi tại chi nhánh mình. Qua khảo sát thực tế nhiều khách hàng truyền thống của chi nhánh có tiền gửi tại nhiều Ngân hàng khác. Tiền gửi của khách hàng bị phân tán. Nguồn huy động rẻ nhất của Ngân hàng bị san sẻ cho các Ngân hàng bạn. Thể hiện theo “báo cáo điều tra khách hàng”, của Chi nhánh đầunăm 1998 đối với khối khách hàng truyền thống thì trong 48.462 triệu đồng hoạt động tiền gửi của họ năm 1997 (kể cả ngoại tệ quy đổi) thì Chi nhánh Hà Nội mới chỉ chiếm 57.578 triệu (chiếm 77,5%).
2.2. Chi nhánh chưa huy động đủ nguồn vốn trung, dài hạn:
Vấn đề huy động được vốn trung và dài hạn là vấn đề khó khăn đối với hệ thống Ngân hàng nước ta hiện nay. Trong thời gian qua, chi nhánh đã có gắng chú trọng đến huy động nguồn trung, dài hạn và thực tế là chưa huy động được đủ nhu cầu loại vốn này. Ngân hàng đã phát hành trái phiếu nhưng do thói quen của dân nên Ngân hàng cũng chỉ mới huy động được loại có kỳ hạn 1 năm là chủ yếu. Chi nhánh chưa xây dựng được chiến lược dài hạn về khai thác vốn còn nặng nề và giải pháp tạm thời, không ổn định, nhất là đối với nguồn trung, dài hạn. Đa số các dự án trung, dài hạn mà chi nhánh cho vay vẫn là nguồn vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển xác định được rằng mình là một Ngân hàng chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư phát triển, cần phải từng bước khắc phục và đưa ra những chiến lược thích hợp để huy động nguồn vốn trung, dài hạn trước mắt và trong tương lai. Có lẽ đây là yếu tố đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thì mới có thể khắc phục được.
2.3. Chi nhánh chưa có các nghiệp vụ chiết khấu các chứng từ có giá:
Khi khách hàng muốn rút tiền từ kỳ phiếu hay trái phiếu chưa đến ngày đáo hạn thì Ngân hàng đã xử lý:
+ Với kỳ phiếu dưới 3 tháng thì khách hàng có thể rút tiền không được hưởng lãi.
+ Với trái phiếu thì Ngân hàng đứng ra môi giới để bán, mua hộ cho những người có nhu cầu mua, bán trái phiếu chưa đáo hạn. Việc làm này tỏ ra kém hiệu quả đối với khách hàng, có khi phải chờ đợi lâu, thậm chí không bán được vì không có “cầu”, mặc dù có thể Ngân hàng rất tích cực.
Thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tức là mua lại các giấy tờ có giá với tỷ lệ lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí nhất định, Ngân hàng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng được rút tiền trước hạn dễ dàng, đáp ứng nhu cầu tiền đột xuất lại vừa tăng thu nhập.
2.4. Chi nhánh từng bước gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn theo cơ cấu, tính chất thời gian, theo tính chất nội, ngoại tệ, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa thực sự như mong đợi:
Việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để Ngân hàng thực hiện huy động vốn say này. Mặt khác việc huy động vốn và sử dụng vốn phải gắn bó với nhau theo nguyên tắc nguồn vốn nào cho vay loại hình ấy thì tính cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn sẽ rất bền vững. Nguồn vốn dài cho vay dài hạn, nguồn vốn ngắn cho vay ngắn hạn, nguồn ngoại tệ cho vay ngoại tệ, nguồn VNĐ cho vay VNĐ. Nếu thực hiện được như vậy thì sẽ đạt hiệu quả ổn định nhất. Muốn vậy thì việc huy động vốn phải luôn gắn chặt với việc sử dụng vốn một cách hợp lý hơn nữa.
Chương III
Những giải pháp khơi tăng nguồn vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
I. Định hướng chất lượng phát triển chính của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các tài khoản tiền gửi :
- Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế của nước ta đến năm 2000 : “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn ninh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” (1). Thực hiện “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế nhiều thành phần” (2). Phấn đấu đến năm 2000 GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990” (3).
Xuất phát từ mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay là ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm..., thực hiện chủ trương tiếp tục đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược ổn định kinh tế đến năm 2000.
Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá X về nhiệm vụ năm 1999: Đẩy mạnh và đa dạng hoá việc huy động vốn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Tăng tỷ trọng vốn cho vay trung, dài hạn để đầu tư phát triển, ưu tiên cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. Nâng thời hạn và mức cho vay, đảm bảo lãi suất hợp lý đối với hộ nghèo. Xử lý thận trọng và linh hoạt vấn đề lãi suất và tỷ giá hối đoái, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, giữ ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Hạn chế và khắc phục có hiệu quả tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới đối với nước ta.
- Xuất phát từ định hướng phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: giữ vị thế là một trong những Ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn cho đầu tư phát triển, luôn nỗ lực cao nhất để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phục vụ nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ. Từng bước xây dựng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trở thành một Ngân hàng mạnh toàn diện để nhanh chóng hội nhập với các Ngân hàng trong khu vực và thế giới.
- Xuất phát từ định hướng chiến lược huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
+ Coi nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng.
+ Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Có biện pháp để nâng tỷ trọng vốn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, đồng thời tăng lượng vốn huy động vốn từ các tầng lớp dân cư.
+ Coi trọng huy động vốn dài hạn, trung hạn thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu trung, dài hạn (trong nước và ngoài nước).
+ Gắn chiến lược huy động vốn với sử dụng vốn.
+ Đổi mới phong cách phục vụ.
+ Tăng cường chính sách lãi suất linh hoạt đối với khách hàng.
+ áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt đối với khách hàng.
Mục tiêu năm 2000: Phấn đấu huy động vốn tăng 25% so với năm 1999, trong đó cơ cấu huy động vốn trong nước 70 - 75%. Tín dụng tăng 23%, trong đó cơ cấu tín dụng dài hạn chiếm 55% - 60% dư nợ.
Định hướng phát triển nguồn vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội trong thời gian tới:
Tiếp tục hoàn thiện các biện pháp khơi tăng nguồn vốn. Trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng.
Tích cực huy động nguồn vốn mới trong nước bằng cách :
- Tiếp tục triển khai việc mở tài khoản cá nhân. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam và trên thực tế đã mách bảo rằng: Nguồn vốn có thể khai thác được trong dân cư còn nhiều tiềm tàng và lâu dài, mãi mãi. Vì vậy phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân không những làm tăng khả năng thu nạp vốn nhàn rỗi từ trong tầng lớp dân cư, mà còn tạo điều kiện để thanh toán không dùng tiền mặt, áp dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, áp dụng các công cụ thanh toán hiện đại. tuy nhiên, việc chuyển đổi nhận thức từ thói quen lâu nay dân chúng chỉ “thích” sử dụng, chi tiêu tiền mặt, bằng việc mở tài khoản cá nhân để giao dịch, thanh toán tại các tổ chức tín dụng thông qua các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, nhất thiết phải có thời gian để dân cư tiếp cận, làm quen dần, thấy được những tiện ích mới trong thanh toán như an toàn, thuận lợi, nhanh chóng, có lợi, ... Vì vậy, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cần có những biện pháp khuyến khích mọi người dân mở tài khoản tại Ngân hàng để tập hợp được những khoản tiền nhàn rỗi của dân cư vào tài khoản. Tạo lập thói quen sử dụng dịch vụ Ngân hàng trong hoạt động giao dịch, mua bán, thanh toán, thu hút khách hàng và nâng cao uy tín của chi nhánh.
- Mở rộng mạnh lưới huy động vốn nhất là ở những quận mới thành lập.
- áp dụng linh hoạt rộng rãi mọi hình thức để huy động vốn trong dân cư. Tăng cường huy động vốn cho nền kinh tế, trước hết là đủ vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển, để phục vụ những dự án mũi nhọn của thành phố, coi trọng chương trình nhà ở của thủ đô, nâng cao một bước về chất lượng hoạt động trong điều kiện, tình hình mới, đảm bảo chắc chắn về khả năng thanh khoản. Mở rộng việc phát hành kỳ phiếu nhất là loại có kỳ hạn lớn hơn một năm để huy động vốn trung hạn.
- Tập trung khai thác nguồn tiền gửi có tính chất ổn định lâu dài.
Có chiến lược khách hàng đúng đắn: Là chiến lược thu hút nhiều khách hàng và duy trì mở rộng khách hàng truyền thống về xây lắp, khách hàng trong lĩnh vực công nghiệp, vật liệu xây dựng kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có chính sách phù hợp nhằm huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Tiếp tục mở rộng khách hàng và thực hiện cho vay khép kín cả vốn ngắn, trung và dài hạn. Xây dựng “hàng rào” xung quanh, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa khách hàng với Ngân hàng mình, đảm bảo lợi ích của cả Ngân hàng và khách hàng. Cần có những chính sách ưu đãi và khuyến khích vật chất đối với những khách hàng lớn, sắp xếp kinh doanh có hiệu quả để vừa có thị trường đầu tư vốn, vừa thu hút được khách hàng và có khả năng khai thác được những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi.
Mở thêm hoạt động dịch vụ mới: Tư vấn đầu tư, tư vấn về tài chính, tư vấn về pháp luật.....
áp dụng nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng.
II. Các giải pháp:
Để tăng cường công tác huy động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, trong đó tăng trưởng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho ĐTPT Chi nhánh cần hết sức quan tâm đến việc huy động tiền gửi vì tiền gửi là bộ phận quan trọng bậc nhất trong tài sản nợ của Ngân hàng thương mại trong tổng nguồn vốn huy động. Trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tiền gửi đó là nó chịu sự tác động bởi:
- Quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Trình độ tổ chức của Ngân hàng.
- ảnh hưởng bởi lãi suất trên thị trường.
- Đội ngũ nhân viên của Ngân hàng.
- Địa điểm đặt Ngân hàng.
- Uy tín và thời gian hoạt động của Ngân hàng.
- Đồng thời căn cứ vào thực tế hoạt động kinh doanh của mình Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cần thực hiện các giải pháp nhằm tìm ra các hình thức huy động vốn khác nhau sao cho chi phí huy động vốn thấp nhất và tạo ra nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng phù hợp với mục tiêu sử dụng vốn của Ngân hàng. Các giải pháp đó là:
Để tạo nguồn ổn định lâu dài, Chi nhánh cần đa dạng hoá các loại hình huy động.
+ Đa dạng hoá các hình thức huy động như tiền gửi, tiền tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm xây dựng nhà ở, .... với những kỳ hạn huy động khác nhau không kỳ hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng ... để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Để tạo nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ ĐTPT, Chi nhánh cần có thêm hình thức tiết kiệm dài hạn (>24 tháng)
+ áp dụng hình thức huy động tiết kiệm quay số mở thưởng để động viên thu hút nhiều nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư.
+ áp dụng hình thức tiền gửi một nơi rút ra nhiều nơi để tiện lợi hoá việc rút tiền của khách hàng, đảm bảo tính thanh khoản của tiền gửi tiết kiệm không thua kém so với việc khách hàng cất giữ tiền mặt, dưới dạng vàng bạc hoặc ngoại tệ.
Để khơi tăng nguồn vốn cần áp dụng chế độ khen thưởng kịp thời. Bố trí làm việc theo ca để tăng thời gian giao dịch với khách hàng phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên địa bàn để tận dụng các nguồn thu. Thực hiện kiểm tra đối chiếu chéo ở các quỹ tiét kiệm theo định kỳ và đột xuất, đảm bảo an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi dân cư và giấy tờ hồ sơ của khách hàng.
Đổi mới phong cách giao dịch. Trong mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng, sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng sẽ tạo ra hình ảnh của Ngân hàng đồng thời tạo lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng. Nếu giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích cho Ngân hàng. Đây là hình thức quảng cáo tốt nhất cho Ngân hàng với chi phí thấp nhất.
2. Chi nhánh cần có cơ cấu lãi suất hợp lý và mềm dẻo hơn:
Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn trong việc kích thích khách hàng gửi tiền. Cho nên ngoài yếu tố niềm tin vào Ngân hàng, nếu mức lãi suất huy động hợp lý sẽ thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào Ngân hàng, làm tăng khối lượng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Lãi suất chi nhánh đưa ra cần đáp ứng được 5 yếu tố:
- Bù đắp chi phí của Ngân hàng đảm bảo kinh doanh có lãi.
- Cần xem xét đến yếu tố tỷ lệ lạm phát.
- Khung lãi suất của Nhà nước.
- Lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp.
- Lãi suất thị trường mang yếu tố cạnh tranh.
3. Mở rộng mạng lưới huy động:
So với các NHTM khác đã sẵn có các mạng lưới huy động, ở khắp mọi nơi (Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp,...) thì mạng lưới huy động vốn của Chi nhánh mỏng hơn. Chi nhánh nên khảo sát các địa bàn đông dân cư để mở thêm các phòng giao dịch nhất là ở những quận mới thành lập nhằm thu hút vốn trong các tầng lớp dân cư. Do thu nhập tăng lên, nên các khoản tích luỹ sẽ biến thành tiền gửi ở Ngân hàng.
4. Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng:
Trong hệ thống Ngân hàng các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng hệ thống dịch vụ Ngân hàng, đây là công cụ cạnh tranh không có thời hạn. Đối với Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội doanh thu từ hoạt động này tuy có khiêm tốn nhưng đã khẳng định được sự đổi mới phong cách trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Để hoạt động dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng, tăng nguồn vốn huy động đồng thời làm tăng nguồn thu nhập cho Chi nhánh ngoài các dịch vụ đang áp dụng, Chi nhánh cần tiến hành thêm các dịch vụ sau:
- Dịch vụ tư vấn, tư vấn thông tin; Dịch vụ tư vấn tài chính; Tư vấn về pháp luật.
- Dịch vụ phát ngân tự động thông qua việc sử dụng thẻ từ, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch thông qua tài khoản của mình tại các máy thu phát ngân tự động của Ngân hàng (ATM). Trước mắt đáp ứng các dịch vụ này trong giờ làm việc hàng ngày và tiến tới phục vụ bất kỳ lúc nào trong ngày (24 giờ).
- Các loại hình dịch vụ triển khai theo sự phát triển của thị trường chứng khoán. Sự ra đời của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán đã thúc đâỷ sự phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian tới. Chi nhánh cần sớm có kế hoạch nghiên cứu, đào tạo cán bộ để triển khai kịp thời. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ đáp ứng nhu cầu về vốn trong đó vai trò của Ngân hàng rất quan trọng. Ngân hàng có thể tham gia các hoạt động phát hành, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian môi giới thực hiện mua bán chứng khoán, trực tiếp đầu tư vào chứng khoán, thuận tiện cho việc điều hoà giữa việc sử dụng vốn và nguồn vốn. Ngoài ra Ngân hàng có thể cho vay cầm cố bằng các chứng khoán, coi đây là đảm bảo linh hoạt. Chuẩn bị cho việc triển khai nghiệp vụ bảo quản và quản lý chứng khoán, thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, an toàn nhất.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho dịch vụ nhận bảo quản và ký gửi sẽ phát triển trong tương lai gần.
- Mở thêm loại hình dịch vụ thuê mua tài chính.
5. áp dụng nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, trái phiếu:
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng cổ điển, nhưng cho đến nay nó vẫn được coi là một trong những kỹ thuật cấp tín dụng chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
Nhà kinh doanh khi bán chịu hàng hoá của mình sẽ nhận được một thương phiếu của người mua. Thực chất đây là một giấy nhận nợ. Khi có nhu cầu về vốn mà thương phiếu chưa đến hạn thanh toán, người sở hữu có thể đem đến Ngân hàng để chiết khấu. Thực chất của việc chiết khấu thương phiếu của Ngân hàng là biến các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán thành tiền. Số tiền mà Ngân hàng cấp cho khách hàng (giá mua thương phiếu) bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng chiết khấu.
Trong điều kiện hiện nay, Kho bạc Nhà nước và nhiều Ngân hàng quốc doanh cũng phát hành tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu. Trong khi chưa có thị trường chứng khoán thì chiết khấu thương phiếu nói chung và kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng nói riêng càng trở nên quan trọng. Ngân hàng nên áp dụng nghịêp vụ chiết khấu (ít nhất là đối với các kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển ) vì có thể ví nó như là dịch vụ “hậu bán hàng” giúp cho người dân an tâm mua kỳ phiếu, trái phiếu của Ngân hàng và khi cần tiền mặt lại có thể bán được nó.
6. Hoàn thiện và phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt:
Mục đích gửi tiền của khách hàng đối với tiền gửi thanh toán là để hưởng các tiện ích thanh toán qua Ngân hàng. Muốn thu hút được nhiều hơn phải làm cho người dân thấy được sự thuận tiện trong việc thanh toán qua Ngân hàng. Mặt khác, hoàn thiện và mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho ngg. Mặt khác, hoàn thiện và mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng phục vụ khách hàng tốt hơn, nắm giữ khách hàng, tăng thêm nguồn vốn và tăng thêm các khoản thu về dịch vụ.
7. Tiếp tục triển khai chủ trương mở tài khoản cá nhân của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Thực hiện tốt chính sách khách hàng, thu hút ngày càng nhiều khách đến mở tài khoản và giao dịch với Ngân hàng, qua đó tạo được một tồn khoản để Ngân hàng sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
8. Đẩy mạnh công tác thu nợ tín dụng ĐTPT để tạo nguồn vốn cho vay mới:
Căn cứ vào các kỳ hạn trả nợ mà khách hàng cam kết trong hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng, Chi nhánh giao chỉ tiêu thu nợ từng quý cho các phòng tín dụng và các chi nhánh khu vục để đảm bảo thu nợ đầy đủ, đúng hạn. Tích cực thu nợ quá hạn, hạn chế đến mức thấp nhất phát sinh nợ quá hạn mới.
9. Tăng cường huy động vốn ngắn hạn:
Trong điều kiện việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn còn gặp khó khăn do tâm lý của người gửi cũng như giới hạn về mặt lãi suất để cả khách hàng và Ngân hàng chấp nhận được thì việc thực hiện các giải pháp tổng hợp nhằm tăng cường huy động vốn ngắn hạn không chỉ đưa lại cho ngh được thì việc thực hiện các giải pháp tổng hợp nhằm tăng cường huy động vốn ngắn hạn không chỉ đưa lại cho Ngân hàng có chi phí đầu vào thấp, mà hiện nay nó còn hỗ trợ phần nào nhu cầu về nguồn vốn trung, dài hạn theo tỷ lệ được phép sử dụng tối đa 20% do NHNN quy định.
10. Gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để Ngân hàng thực hiện mở rộng huy động vốn. Về mặt kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho Ngân hàng có khả năng trang trải cho những nguồn vốn đã huy động đảm bảo kinh doanh có lãi, tạo ra uy tín của Ngân hàng, đồng thời tạo ra cơ sở để Ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Hơn nữa việc sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng của mình tạo cho Ngân hàng ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch gửi tiền vào.
Huy động vốn và sử dụng vốn nên gắn bó với nhau theo các tỷ lệ bảo đảm an toàn về khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn, tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với số dư tiền gửi theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và thực tế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và sự phù hợp về thời hạn của nguồn vốn được huy động với việc sử dụng các nguồn vốn đó để cho vay.
Các giải pháp hỗ trợ:
Ngoài các giải pháp về nghiệp vụ Chi nhánh cần phải thực hiện đồng thời các giải pháp hỗ trợ:
a. Công tác cán bộ:
Con người là yếu tố quan trọng quyết định đến mọi sự thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Chi nhánh cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng nhiệm vụ chung của toàn ngành, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, phấn đấu trong thời gian tới đội ngũ cán bộ vừa có “tâm”,vừa có “tầm”. Cần chú trọng đào tạo và đào tạo lại cán bộ thông qua các lớp đào tạo, khảo sát các Ngân hàng bạn, tổ chức hội thảo theo chuyên đề, để nắm bắt được xu hướng phát triển của Ngân hàng trong thời gian tới. Xây dựng chiến lược nguồn lực cán bộ vừa có phẩm chất vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, vừa có năng lực chuyên môn và bố trí phù hợp theo năng lực và yêu cầu của công việc.
b. Tiếp tục đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ Ngân hàng:
Để từng bước tiến tới hiện đại hoá hoạt động Ngân hàng, đáp ứng mọi yêu cầu hiện tại cũng như trong tương lai. Chi nhánh phải áp dụng các công nghệ ngh, đáp ứng mọi yêu cầu hiện tại cũng như trong tương lai. Chi nhánh phải áp dụng các công nghệ Ngân hàng mới và đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật của Chi nhánh. Tiến hành trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại và nâng cấp các chương trình cài đặt, xác lập hệ thống thông tin nội bộ, hoàn chỉnh đồng bộ để phục vụ kinh doanh, đảm bảo thanh toán nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, thuận lợi và cung cấp thông tin kịp thời chính xác giúp cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động của Ngân hàng một cách tốt nhất. Với việc áp dụng công nghệ cao Chi nhánh sẽ ứng dụng tự động hoá để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hiệu quả và rẻ nhất có thể được.
c. Công tác Marketting:
- Xác định thị trường hiện tại và tương lai cho các dịch vụ.
- Lựa chọn thị trường để phục vụ và xác định nhu cầu của khách hàng trong thị trường đó.
- Đặt ra các mục tiêu ngắn và dài hạn cho sự phát triển của các dịch vụ hiện nay và các dịch vụ mới.
- Quản lý các dịch vụ cũng như thuyết phục khách hàng sử dụng chúng để đạt lợi nhuận và kiểm soát kết quả hoạt động của Ngân hàng khi thực hiện các dịch vụ đó.
- Để thực hiện thành công Marketting trong Ngân hàng, tất cả nhân viên cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia vào hoạt động này.
Tuy nhiên cũng cần có một bộ phận chuyên trách phân tích, tổng hợp để hoạt động mạnh Marketing của ngh, tất cả nhân viên cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia vào hoạt động này.
Tuy nhiên cũng cần có một bộ phận chuyên trách phân tích, tổng hợp để hoạt động mạnh Marketing của Ngân hàng đạt hiệu quả cao. Nghiệp vụ này phải được tiến hành đến từng khách hàng. Ngân hàng thực hiện nghiên cứu chu kỳ khách hàng về nhu cầu nguồn vốn cũng như những dịch vụ khác của Ngân hàng, đặc biệt trong điều kiện khách hàng truyền thống của Ngân hàng sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ, từ đó Chi nhánh có chiến lược huy động vốn và cung cấp dịch vụ cho khách hàng phù hợp nhất, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ và kinh doanh của mình.
Tiếp tục nghiên cứu chu kỳ sống của các sản phẩm do Ngân hàng cung cấp giúp cho công tác kế hoạch hoá sản phẩm, nghiên cứu sản phẩm mới thích hợp với từng giai đoạn để khai thác tốt nhất thị trường với hiệu quả cao nhất của sản phẩm đưa ra cung ứng. Bằng các nguồn thông tin khác nhau các cán bộ có thể nắm được lý lịch khách hàng mà mình muốn đặt quan hệ, sau đó trực tiếp gặp gỡ đơn vị, giới thiệu cho họ hiểu biết về các nghiệp vụ, các hình thức huy động vốn của Chi nhánh và nắm bắt được các nhu cầu về tiền gửi, dịch vụ Ngân hàng để Chi nhánh có biện pháp đáp ứng kịp thời. Ngoài ra tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc bằng các tờ rơi để tuyên truyền, gây sự chú ý và tăng uy tín của Chi nhánh. Có chiến lược khôi phục lại các khách hàng đã mất hoặc khách hàng tốt còn chưa thực sự gắn bó với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.
Thực hiện chính sách khách hàng để duy trì được khối khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng mới. Thực hiện phân loại khách hàng để có các hình thức ưu đãi thích hợp về lãi suất, về phí dịch vụ và các ưu đãi khác ... Thực hiện cho vay khép kín. Có như vậy Chi nhánh vừa có thị trường để đầu tư vốn, vừa có khả năng khai thác nguồn vốn.
Cụ thể:
* Đưa ra dự báo kinh tế và cơ cấu khách hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội .
Xu hướng phát triển kinh tế.
Xu hướng thay đổi kết cấu, số lượng và chất lượng khách hàng.
Xu thế cạnh tranh.
* Mục tiêu: Đưa ra các chính sách phù hợp với từng loại khách hàng trên cơ sở phân loại khách hàng theo các tiêu thức khác nhau như:
- Phân loại theo tính chất nghiệp vụ: khách gửi, khách vay, khách sử dụng các dịch vụ Ngân hàng.
- Phân loại theo tính chất khách hàng: khách hàng truyền thống, khách thuộc đối tượng XDCB, khách có mối quan hệ tốt, vừa, kém.
Từ đó đưa ra chính sách lãi suất, phí dịch vụ theo từng đối tượng, tiêu chuẩn được áp dụng. Về chính sách đối với khách hàng truyền thống và khách hàng lớn trong XDCB: Tập trung hoạt động khép kín về một mối tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, kiến nghị với cấp trên xử lý các nhu cầu đặc biệt của doanh nghiệp trong trường hợp vượt quá quyền phán quyết của Chi nhánh. Đối với khách hàng mới, thực hiện thu hút có chọn lọc, tư vấn, liên doanh và đầu tư cho những doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh, có định hướng liên doanh tốt.
Phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đến hệ thống tiền tệ của Việt Nam cũng như ảnh hưởng của đồng EURO đến kinh tế đối ngoại của Việt Nam nhằm tổ chức thanh toán, quản lý, huy động, dự trữ ngoại tệ và cung cấp các dịch vụ phù hợp, kịp thời đáp ứng các yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong giai đoạn tới.
III. Kiến nghị:
1. Đối với Ngân hàng Nhà nước
+ Ngân hàng Nhà nước là nơi ban hành chính sách tiền tệ quốc gia cần có một chính sách tiền tệ ổn định để người dân có thể yên tâm gửi tiền vào Ngân hàng mà không bị mất giá. Hơn nữa với chính sách tiền tệ ổn định các NHTM dễ dàng hơn trong điều hành kinh doanh của mình.
Hiện nay lãi suất huy động và lãi suất cho vay của NHNN thay đổi liên tục khiến cho các NHTM gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Cụ thể do lãi suất biến động thường xuyên, làm cho các NHTM nhiều khi gặp phải tình trạng huy động vốn với lãi suất cao nhưng cho vay lại với lãi suất thấp, do vừa huy động xong thì trần lãi suất cho vay của NHNN lại xuống.
+ NHNN cần có các chính sách chế độ hợp lý đối với các NHTM. Thực sự trong giai đoạn hiện tại các NHTM cạnh tranh nhau rất khốc liệt. Để có thể tồn tại và phát triển được các NHTM phải cố gắng không ngừng trong các chiến lược kinh doanh của mình. NHNN là nơi ban hành các văn bản chế độ , là cơ quan quản lý các NHTM, cần có các chính sách khen thưởng hoặc nới lỏng các chế độ quản lý đối với các NHTM , giúp các NHTM thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
+ NHNN cần tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM áp dụng khoa học công nghệ Ngân hàng, có chính sách đào tạo nhân viên có năng lực, cử cán bộ nghiệp vụ đi thăm quan các Ngân hàng bạn trong khu vực và trên thế giới... , để các NHTM có thể tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng mà các nước trên thế giới đang làm và đặc biệt là tham gia vào thị trường chứng khoán - một loại hình kinh doanh mới mà NHNN đang triển khai.
2. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam :
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là cơ quan quản lý trực tiếp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội để giúp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội thuận lợi hơn trong kế hoạch kinh doanh của mình, xứng đáng là Ngân hàng thủ đô , tôi xin có các kiến nghị sau:
+ Trên cơ sở quán triệt nội lực tối đa của Chi nhánh đề nghị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam bố trí các dự án lớn cho Chi nhánh để Chi nhánh có điều kiện mở rộng tín dụng và dịch vụ. Ngoài ra còn giúp Chi nhánh tiếp xúc với các tổng công ty lớn nhằm khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi của họ, đồng thời đa dạng hoá được các loại hình dịch vụ của mình.
+ Sớm có văn bản hướng dẫn, xử lý cho vay đối với các doanh nghiệp đang được cổ phần hoá.
+ Có chế độ thưởng phạt hợp lý đối với bộ phận làm công tác huy động vốn trong các thời kỳ huy động kỳ phiếu, trái phiêú.
+ Sớm ban hành văn bản chiết khấu các chứng từ có giá.
3. Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội:
+ Cần thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ công nhân viên chức. Mỗi cán bộ cần phải có suy nghĩ đổi mới trong phong cách phục vụ khách hàng làm cho khách hàng cảm thấy hài lòng thực hiện tiêu chí “Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi”, “Gửi tiền thuận lợi, rút tiền dễ dàng”.
+ Xúc tiến thành lập tổ tiếp thị tại các Chi nhánh khu vực nhằm đưa ra được các hình thức huy động vốn phù hợp với từng vùng dân cư.
+ Nhanh chóng áp dụng các loại hình dịch vụ gắn liền với công tác huy động như: huy động vốn tại chỗ, huy động và chuyển trả bằng chuyển khoản, tư vấn cho khách hàng tình hình biến động về kinh tế, chính trị trong và ngoài nước...
Kết luận
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, tôi nhận thấy công tác huy động vốn là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trong thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn để đáp ứng được vốn trong hoạt động kinh doanh. Từ chỗ nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh chỉ phụ thuộc vào Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đến nay Chi nhánh đã chủ động được nguồn vốn trong kinh doanh của mình.
Tuy nhiên để công tác huy động vốn của Chi nhánh đạt kết quả cao hơn nữa, tạo nguồn vốn trong kinh doanh, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá thủ đô Hà Nội, Chi nhánh cần nhanh chóng khắc phục những tồn tại, phát huy những mặt mạnh, áp dụng những nghiệp vụ mới.
Hoàn thành bản khoá luận này, người viết mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình đối với việc nâng cao chất lượng công tác huy động vốn đối với sự phát triển của NHTM nói chung và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên bản khoá luận không tránh khỏi còn những hạn chế nhất định, tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp, tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này, để bản khoá luận hoàn chỉnh hơn, có điều kiện phần nào đó có thể áp dụng cho thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII.
Luật các tổ chức tín dụng.
Các văn bản quy định liên quan đến huy động vốn.
Ngân hàng Thương mại.
Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính.
Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Tạp chí Ngân hàng.
Tạp chí Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Thời báo Ngân hàng.
Tạp chí thông tin khoa học Ngân hàng.
Các báo cáo tổng kết của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0014.doc