Khóa luận Một số ý kiến về thẻ ngân hàng và quản lý ruỉ ro trong kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Vịêt Nam

Triển khai nghiệp vụ kinh doanh thẻ ngân hàng là một bước đi đúng đắn của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bước đi đó nằm trông định hướng chiến lược của Sở giao dịch ngân hàng nông nghệp và phát triển nông thôn Việt Nam, nó cũng phù hợp với chủ trương hiện đại hoá công nghệ ngân hàng của chính phủ và là cơ sở thuận lợi để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, góp phần xây dựng một môi trường tiêu dùng văn minh hiện đại. Tạo điều kiện cho ngân hàng Việt Nam hội nhập vào cộng đồng tài chính và ngân hàng quốc tế.Tuy nhiên để có thành công và phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh doanh này các ngân hàng cần phải quan tâm tới công tác quản lý rủi ro, sử dụng những biện pháp có hiệu quả nháy nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số ý kiến về thẻ ngân hàng và quản lý ruỉ ro trong kinh doanh thẻ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Vịêt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo mật thẻ là mới mẻ đối với khách hàng. Nhiều người dân không thu được những kiến thức này một cách chính thức mà qua những nguồn tin không chính xác , chưa hiểu biết về loại công cụ thanh toán mới này, thậm chí còn hoang mang không dám sử dụng. Đối tượng sử dụng thẻ chưa được các ngân hàng nghiên cứu đầy đủ để tổ chức các hoạt động xúc tiến thị trường một cách khoa học. Thực tế cho thấy rằng thẻ do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát hành không bị hạn chế bởi khả năng sử dụng thẻ ở nước ngoài. Trái lại, việc sử dụng thẻ trong nước lại bị hạn chế chính vì tâm lý ưa chuộng tiền mặt của các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ trong nước. Tâm lý này làm việc mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp khó khăn nên số lượng đơn vị chấp nhận thẻ còn ít, loại hình giao dịch chưa phong phú, chỉ phân bố tập trung tại các thành phố lớn. 2.3.2.3 Về bản thân ngân hàng Như trên đã đề cập, các ngân hàng vẫn còn lúng túng trong định hướng phát triển thẻ thanh toán. Nhận thức về tầm quan trọng của việc phát triển phương tiện thanh toán này không nhất quán ngay ở những nhà lãnh đạo các ngân hàng thương mại Việt Nam. Để có những bước chuyển mình mạnh mẽ, phải có sự hỗ trợ và định hướng của các cấp lãnh đạo quốc gia, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc phát triển thanh toán thẻ đòi hỏi phải đầu tư trang thiết bị kỹ thuật cao và công nghệ hiện đại với chi phí cao cùng với một đội ngũ cán bộ có đủ khả năng quản lý và vận hành hệ thống theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, việc quản trị hệ thống, vận hành máy móc, quản lý mạng trực tuyến, xử lý giao dịch, nối mạng viễn thông, in ấn thẻ... đều rất mới mẻ đối với các bộ quản lý và tác nghiệp. Để triển khai nghiệp vụ thẻ, ngân hàng không chỉ phải đầu tư phần mềm đáp ứng tiêu chuẩn hệ thống quản lý thẻ mà còn phaỉ đầu tư cả phần cứng cho hệ thống xử lý thẻ. Công nghệ tin học phát triển từng giờ đòi hỏi việc lựa chọn hệ thống quản lý và xử lý thẻ phải hết sức sáng suốt, xuất phát từ lợi ích cho bản thân ngân hàng, dễ dàng giao diện với hệ thống quản trị ngân hàng đang dùng và không lạc hậu ít nhất trong vòng 10 năm. Cả phần mềm và phần cứng sử dụng cho nghiệp vụ thẻ đều mang tính chất chuyên nghiệp cao, chưa có những đơn vị bảo dưỡng tại Việt Nam đòi hỏi các ngân hàng phải có thiết bị dự phòng dẫn tới làm tăng chi phí đầu tư cho nghiệp vụ này cũng gây tâm lý ngại đầu tư phát triển sử dụng và thanh toán thẻ. Thẻ là một sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới đòi hỏi phải có những hoạt động hỗ trợ tuyên truyền, giới thiệu và quảng cáo cho dân chúng Sở giao dịch ngân hàng nông nghiêp và phát triển nong thôn Việt Nam chưa mạnh dạn với việc bỏ chi phí tiếp thị sản phẩm mới, chưa tổ chức những đợt tuyên truyền mạnh mẽ để tạo điều kiện cho khái niệm về thẻ quen thuộc hơn với quảng đại quần chúng. Những tiện ích của thẻ chưa được phổ biến đến các tầng lớp dân cư trong xã hội. Ngày cả những tầng lớp trí thức - những chủ thẻ tiềm năng, nhận thức về thẻ cũng chưa rõ ràng. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải đương đầu với những áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ phía các ngân hàng nước ngoài. Trong khi bản thân các ngân hàng trong nước còn thiếu kinh nghiệm chuyên môn, sản phẩm dịch vụ thẻ chưa đa dạng, đang phải từng bước vừa xây dựng quy trình làm việc, nghiên cứu áp dụng nghiệp vụ mới, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và học hỏi thì các ngân hàng nước ngoài, với ưu thế về tài chính, hệ thống máy móc chuẩn, có kiến thức và kinh nghiệm trong công nghệ thẻ sẵn sàng đầu tư mạnh để chiếm lĩnh thị trường. Thêm vào đó, một số doanh nghiệp Việt Nam có khuynh hướng tin cậy các ngân hàng nước ngoài nên đã gây thêm áp lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại trong nước. Tuy vậy, cạnh tranh lại làm Sở giao dịch tin tưởng hơn vào con đường đầu tư của mình, cố gắng hơn để đứng vững và bảo vệ vị thế của mình. 2.3.2.4 Các nguyên nhân khác Ngoài các nguyên nhân cơ bản trên làm hạn chế việc mở rộng sử dụng và thanh toán thẻ, còn một vài nguyên nhân khác có thể kể tới như: Việc mua sắm, lắp đặt, sửa chữa thiết bị phục vụ cho nghiệp vụ thẻ cũng không được miễn thuế hay tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng mà phải thực hiện như thông thường không tạo điều kiện khuyến khích các ngân hàng đi đầu triển khai nghiệp vụ thẻ. Hệ thống viễn thông tại Việt Nam hoạt động không ổn định cũng là một trở ngại cho vận hành hệ thống quản lý thẻ. Các trục trặc về mặt kỹ thuật đường truyền thông đôi khi gây ra tâm lý chưa tin tưởng vào việc sử dụng thẻ giao dịch mua sắm và thanh toán thuận tiện. Bên cạnh đó, phí điện thoại trong nước quá cao làm hạn chế việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ ở các tỉnh xa. Việc phối hợp giữa các ngân hàng cũng như giữa các ngân hàng và các cơ quan chức năng có liên quan cũng chưa được quan tâm làm hạn chế việc trao đổi và phối hợp xử lý thông tin, nhất là thông tin liên quan đến giả mạo và rủi ro trong sử dụng và thanh toán thẻ. CHƯƠNG III: Một số giảI pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động và tăng cường quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ tại sở giao dịch nhno &ptnt Việt Nam 3.1. Định hướng phát triển nghiệp vụ kinh doanh thẻ ngân hàng của Sở giao dịch nHno & PTNT việt năm đến năm 2005. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII có nêu rõ “ Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại ... .Tổng sản phấm trong nước tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1990. Trong cơ cấu kinh tế tuy nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm trong nước và trong lao động xã hội. ” Với định hướng như vậy, Đảng ta đã đề ra các chương trình phát triển để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Các nhà kinh tế đã nhận định: đến năm 2010, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 2000 và sẽ đạt khoảng 700 USD / năm. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 6 - 8%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 4,5 - 5%, công nghiệp 14 - 15%, dịch vụ 12 - 13%, xuất khẩu khoảng 28%. Tỷ lệ đầu tư / GDP khoảng 25%. Năm 2010, nông nghiệp chiếm khoảng 14 - 15%, công nghiệp và xây dựng 34 - 35%, dịch vụ 49 - 50% GDP. Trong những năm tới, với môi trường kinh tế và xã hội phát triển như vậy, sẽ có nhiều nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ thẻ thanh toán, phạm vi sử dụng và thanh toán thẻ sẽ ngày càng được mở rộng. Trước hết là công nghệ tin học đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đây là một cơ sở có tính then chốt tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ ngân hàng của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Nhận thức cũng như kiến thức của xã hội về công nghệ cũng sẽ được thay đổi theo hướng tích cực hơn. Với dự báo như trên thu nhập của dân cư sẽ tăng từ 300 USD/năm lên 700 USD/năm trong những năm tới. Tuy vẫn là một nước có thu nhập bình quân thấp, khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư vẫn còn xa nhưng chắc chắn sẽ có một bộ phận dân cư có thu nhập khá. Thêm vào đó, ngoài việc kiến thức xã hội về công nghệ được phát triển một cách tự nhiên cùng với quá trình hôị nhập và bước tiến của khoa học, ở Việt Nam sẽ có những thay đổi đáng kể về mặt nhân khẩu học theo hướng thuận lợi cho việc ứng dụng sản phẩm mang tính định hướng công nghệ như dịch vụ thẻ thanh toán. Hiện nay dân cư các đô thị Việt Nam chiếm khoảng 25-30% dân số cả nước trong đó đã có một tỷ lệ cao những người đang học tập và công tác ở độ tuổi dưới 45 có những kiến thức cơ bản về tin học và có khả năng tiếp nhận dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Như vậy sau 5-7 năm nữa, đối tượng có khả năng tiếp nhận sản phẩm mới sẽ được mở rộng ra lứa tuổi dưới 50-52 tuổi và sẽ chiếm tỷ trọng lớn những người trong độ tuổi lao động ở thành thị. Cùng với thu nhập tăng, quỹ chi tiêu thường ngày của người dân cũng tăng tạo điều kiện cho họ dễ dàng chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân hàng và phương tiện thanh toán mới. Môi trường thương mại cũng sẽ thay đổi tích cực hơn với sự ra đời của các trung tâm thương mại, dịch vụ, các siêu thị, các cửa hàng tự chọn sẽ làm thay đổi tập quán người tiêu dùng, tạo điều kiện để ứng dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Một nhân tố nữa không thể bỏ qua là môi trường pháp lý sẽ ngày càng được hoàn thiện hơn tạo nền tảng cho việc ứng dụng các dịch vụ ngân hàng mới. Chính phủ chắc chắn sẽ có những biện pháp nghiêm minh hơn về pháp luật, công khai thu nhập cho mọi người dân góp phần không lãng phí tiền nhàn rỗi trong dân cư. Ngân hàng Nhà nước sẽ có những chủ trương mang tính nguyên tắc mở đường cho các ngân hàng thương mại mạnh dạn đầu tư, phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nhằm tăng tính cạnh tranh và khả năng hội nhập của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Các quy chế liên quan đến tín dụng, thanh toán, quản lý ngoại hối, kế toán còn nhiều vấn đề trở ngại cho việc phát hành và thanh toán thẻ chắc chắn sẽ được bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện. Với những điều kiện thuận lợi về mọi mặt, trong những năm tới đây, dịch vụ thẻ thanh toán sẽ có những bước biến chuyển tích cực. Công nghệ thẻ thanh toán sẽ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Thẻ do Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phát hành sẽ được phù hợp hơn với nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư. Hạn mức tín dụng và thanh toán thẻ sẽ hạ thấp hơn hiện nay để mở rộng cho chi tiêu nội địa. Thẻ ngân hàng sẽ không chỉ được sử dụng rút tiền mặt tự động, thanh toán hàng hoá dịch vụ, tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng khác mà còn có thể sử dụng để gọi điện thoại, sử dụng như chứng minh thư nhân dân... Thẻ liên kết giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp như bưu điện, xăng dầu, hàng không ... sẽ được phát hành. Với nhu cầu sử dụng thẻ phát triển, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ cũng sẽ mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thẻ sẽ được chấp nhận để trả tiền dịch vụ điện, nước, xăng dầu, gaz, thanh toán cước phí điện thoại, thanh toán học phí, ... Dịch vụ thương mại điện tử cũng sẽ phát triển và thẻ là phương tiện thanh toán thuận lợi nhất trong loại hình giao dịch này. Số lượng cơ sở chấp nhận thẻ không dừng ở con số nghìn mà sẽ đạt tới hàng trăm nghìn. Lượng giao dịch thanh toán thẻ được xử lý tự động đảm bảo an toàn và phòng ngừa rủi ro cho hoạt động thẻ sẽ đạt tới khoảng 90%. 3.2 Các giải pháp phát triển thẻ ngân hàng Thẻ ngân hàng là một phương tiện thanh toán sử dụng chủ yếu cho chi tiêu và mua sắm cá nhân thay thế cho tiền mặt. Nếu như các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể phổ biến việc sử dụng thẻ cho khoảng 5 - 10% dân số cả nước nhằm vào các đối tượng đang sinh sống và làm việc ở các thành phố, thị xã và tạo điều kiện cho việc sử dụng thẻ ở hầu hết các điểm cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho chi tiêu cá nhân thì doanh số sử dụng thẻ trong nước sẽ lên tới con số hàng nghìn tỷ đồng/năm - lớn gấp hàng trăm lần so với doanh số sử dụng thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành hiện nay. Tiềm năng của việc phát triển thẻ thanh toán Việt Nam là rất lớn. Vấn đề đặt ra là các ngành chức năng sẽ trợ giúp và các ngân hàng thương mại sẽ triển khai các biện pháp nào để khai thác được tiềm năng đó trong những năm tới. Hệ thống ngân hàng tại một số nước Châu á như Trung quốc, Singapore, Đài loan, Malayxia ... đã đạt được những thành công đáng kể trong hoạt động thẻ chỉ trong một thời gian ngắn nhờ sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp có liên quan và sự hỗ trợ đặc biệt từ Chính phủ. Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tế, tôi xin đưa ra một số ý kiến cũng như đề xuất để thúc đẩy việc sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng tại sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phát triển hơn nữa: 3.2.1. Giải pháp về tổ chức: 3.2.1.1 Chiến lược thị trường: Ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc mở rộng và phát triển dịch vụ thẻ thanh toán. Nghiệp vụ thẻ là công nghệ mới và hiện đại, có triển vọng rất to lớn trong tương lai. Vấn đề đặt ra là dịch vụ này đòi hỏi lượng đầu tư ban đầu tương đối lớn và có tính chất lâu dài nên không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện và thế mạnh để tham gia ngay. Vì vậy, ngân hàng cần căn cứ vào lợi thế và khả năng của mình trên thị trường để xác định chiến lược một cách chính xác và ổn định. Trên cơ sở đó xác định hướng đầu tư và mức đầu tư cho hợp lý. Ngân hàng đã triển khai dịch vụ thẻ ngân hàng cần có những định hướng chiến lược phát triển thẻ, kế hoạch khai thác thị trường, tác động thay đổi tập quán không dùng tiền mặt của dân chúng, mở rộng phạm vị sử dụng và thanh toán thẻ bằng nhiều giải pháp. Việt Nam là một nước đông dân nên có thị trường tiềm năng phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Đại bộ phận dân cư trong nước chưa được hưởng các dịch vụ ngân hàng. Một bộ phận dân cư thành thị được hưởng dịch vụ ngân hàng nhưng rất hạn chế, chỉ đơn giản ở nghiệp vụ gửi tiền tiết kiệm. Chính vì vậy, việc phát triển dịch vụ ngân hàng hướng vào khu vực tư nhân, trong đó có dịch vụ thẻ, là một chiến lược thị trường mà Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam rất nên thực hiện. Trong thời gian tới, nên chú trọng hơn nữa vào phát triển dịch vụ cho khối doanh nghiệp tư nhân, cán bộ công nhân viên doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, dân thành thị. Sau đó sẽ dần mở rộng dịch vụ ngân hàng cho dân nông thôn. 3.2.1.2 Mở rộng mạng lưới giao dịch để thu hút khách hàng Thị trường Việt Nam phát triển đòi hỏi Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu thị trường cũng như để hoà nhập vào cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế. Hoạt động của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thônViệt Nam phải mở rộng và phát triển hơn nữa để thu hút khách hàng. Cần tìm đến với khách hàng bằng cách mở rộng mạng lưới giao dịch, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng thông qua việc lập chi nhánh mới tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tại các thành phố lớn, mạng lưới còn lan rộng thông qua các phòng giao dịch đặt tại các khu vực dân cư phát triển. Bên cạnh đó, để từng bước giúp người dân làm quen với dịch vụ ngân hàng bán lẻ và thẻ ngân hàng thì trước hết nên đầu tư triển khai dịch vụ máy ATM (Authomatic Teller Machine), đưa dịch vụ ngân hàng phục vụ 24/24 giờ. Với điều kiện các ngân hàng thương mại chỉ phục vụ khách hàng trong khoảng 8-10 giờ trong một ngày, thói quen dùng tiền mặt không phải mỗi lúc có thể bỏ ngay được thì việc phát triển dịch vụ ATM là một bước chuyển cần phải thực hiện. Dịch vụ này sẽ tạo điều kiện nhanh chóng phát triển hệ thống tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, tạo thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng, thu hút vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư. Có thể khả quan nhận xét rằng, nếu dịch vụ này được thực hiện tốt, ngay trong thời gian đầu, lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này sẽ không dưới 20% dân số thành thị đang ở độ tuổi lao động và chiếm khoảng 2% dân số cả nước thì số thẻ được sử dụng sẽ là 1.500.000 thẻ với doanh số hoạt động hàng trăm tỷ/tháng - một con số đáng kể. 3.2.1.3 Đầu tư nhân lực: Con người luôn là lực lượng quan trọng quyết định thành bại của các công cuộc kinh doanh nhất là trong thời kỳ cạnh tranh như hiện nay. Thẻ là lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ mới nên Sở giao dịch ngân hàng nông nghiêp và phát triển nông thôn càng phải chú ý đầu tư hơn. Chúng ta chưa có các chuyên gia hàng đầu trong hoạt động thẻ, tài liệu nghiệp vụ hoàn toàn bằng tiếng Anh, chi phí cho các khoá học còn cao... là một khó khăn lớn hạn chế phát triển thẻ ngân hàng. Cán bộ quản lý điều hành và cán bộ tác nghiệp ngoài đòi hỏi phải có một trình độ ngoại ngữ tương đối, còn phải có một trình độ tổng hợp kiến thức nhất định. Để có được những chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực thẻ ngân hàng,Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phải mạnh dạn đầu tư cho nguồn nhân lực cả về lượng và về chất. Cán bộ quản lý điều hành thẻ ngoài những cố gắng nỗ lực của bản thân, phải được tham gia các khoá học dài hạn, bài bản và có thời gian thực tập thực hành để có kiến thức chuyên sâu và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong kinh doanh thẻ. 3.2.2. Giải pháp về kỹ thuật: 3.2.2.1.Đầu tư công nghệ. Tầm quan trọng của công nghệ trong hoạt động thanh toán thẻ quốc tế là một điều đã được khẳng định, đặc biệt là trong quản lý rủi ro cho khách hàng cũng như bản thân ngân hàng. Do vậy một trong những định hướng lớn cần phải thực hiện là tăng cường đầu tư vào công nghệ cho nghiệp vụ thanh toán thẻ về phần cứng, phần mềm cũng như nhân lực. Có thể nói trình độ công nghệ là một yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ và thành bại trong cuộc cạnh tranh giữa bối cảnh ngày càng nhiều ngân hàng thương mại được phép tham gia vào thị trường thẻ tại Việt Nam. Về mặt công nghệ, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do được sự giúp đỡ của ngân hàng mẹ, với những nguồn lực tài chính và công nghệ dồi dào, đang có nhiều lợi thế so với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy vậy, trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển nhanh, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đi sau có thể lựa chọn ngay cho mình những giải pháp công nghệ hiện đại nhất, hiệu quả nhất phù hợp với ngân hàng mình. 3.2.2.2. Kết nối hệ thống giao dịch tự động ATM Hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đầu tư tích cực vào việc mở rộng hệ thống ATM của mình và phát hành thẻ ATM nội địa. Tuy vậy, do hệ thống quản lý và xử lý dữ liệu ATM từng ngân hàng được xây dựng riêng lẻ, tuân theo các tiêu chuẩn khác nhau nên thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành chỉ có thể sử dụng được tại hệ thống ATM của ngân hàng đó. Ngay cả việc lựa chọn mã số ngân hàng phát hành thẻ (BIN – Bank Identification Number) cũng không có nơi nào được giao thẩm quyền chính thức để cấp phép. Các ngân hàng phát hành thẻ tự lựa chọn theo ý thích của mình. Có ngân hàng lựa chọn theo mã số thanh toán liên ngân hàng, có ngân hàng lựa chọn số “đẹp”... gây nên tình trạng không thống nhất và đã có hiện tượng 2 ngân hàng chọn cùng một số BIN. Cấu trúc của số thẻ cũng lâm vào tình trạng tương tự, không thống nhất độ dài cũng như cấu tạo nhóm. Nếu để tình trạng đầu tư tự phát tiếp tục kéo dài, sẽ gây lãng phí không cần thiết cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và bất tiện cho người sử dụng. Hơn nữa, sẽ khó thực hiện những thay đổi do việc thay đổi chuẩn dữ liệu của các ngân hàng không phải là chuyện đơn giản và phải có đầu tư. Để phát triển hệ thống giao dịch tự động ATM nhằm tăng tính thuận tiện cho khách hàng, tiết kiệm chi phí đầu tư cho bản thân các ngân hàng thương mại, phải tiến đến xu thế chung là các ngân hàng trong nước phải thống nhất một tiêu chuẩn chung về tổng thể hệ thống ATM và tổ chức kết nối hệ thống giao dịch tự động thành một mạng lưới duy nhất để khách hàng có thể sử dụng thẻ của ngân hàng này tại máy ATM của ngân hàng khác. Chuẩn này bao gồm nhiều mặt: Mã số ngân hàng phát hành (BIN): gồm 6 số. Mã số ngân hàng phát hành nằm ở vị trí đầu tiên của số thẻ. Cấu trúc số thẻ: theo chuẩn phổ thông quốc tế gồm 16 số chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm 4 số. Kỹ thuật công nghệ: có hệ thống switching theo chuẩn quốc tế, đảm bảo việc xử lý giao dịch 24/24 giờ. Tại Việt Nam, hầu hết các ngân hàng thương mại, cả các phương tiện thông tin đại chúng đều quan tâm đến vấn đề này. Vấn đề đặt ra là cần thiết phải kết nối nhưng kết nối như thế nào, chọn giải pháp kỹ thuật gì, chọn chuẩn công nghệ nào. Thống đốc NHNNVN đã thành lập một Tiểu ban chỉ đạo việc kết nối hệ thống giao dịch tự động của các NHTMVN. Nhiều cuộc họp giữa đại diện NHNNVN và các NHTMVN đã được thực hiện để đưa vấn đề này ra bàn bạc nhưng chưa đi đến giải pháp cụ thể. Cần phải có các chuyên gia về kỹ thuật và nghiệp vụ tham gia thêm. Yêu cầu đầu tiên của việc kết nối là các ngân hàng thương mại đều phải có hệ thống switch cho ATM và đảm bảo cung cấp dịch vụ 24/24 giờ. Nhiều NHTMVN, kể cả 3 ngân hàng thương mại quốc doanh NHCTVN, NHĐT&PTVN và NHNTVN chưa trang bị hệ thống switch ATM chuẩn và đang trong quá trình hoàn thiện việc triển khai hệ thống thanh toán trực tuyến trên toàn bộ hệ thống chi nhánh của mình cùng với dự án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng với tài trợ của WB. Do vậy, việc cung cấp giao dịch 24/24 giờ là chưa có khả năng. Với thực trạng của các NHTMVN hiện nay, tôi xin đề xuất ba giải pháp có thể lựa chọn để xây dựng một hệ thống kết nối toàn bộ mạng lưới giao dịch tự động ATM của các ngân hàng nội địa như sau: Giải pháp 1 - Sử dụng khung hệ thống sẵn có của SGD NHNo & PTNT VN: theo cách này, hệ thống giao dịch tự động ATM của SGDNHNN&PTNTVN sẽ là xương sống của hệ thống ATM cả nước. Các ngân hàng khác sẽ thực hiện kết nối hệ thống ATM của mình với hệ thống ATM của SGDNHNN&PTNTVN và phải tuân theo các tiêu chuẩn kỹ thuật của hệ thống này, kết nối trực tuyến vào hệ thống thanh toán trực tuyến và hệ thống ngân hàng bán lẻ và đảm bảo cung cấp dịch vụ 24/24 giờ. Nhưng cũng có khó khăn lớn là SGDNHNN&PTNTVN phải đầu tư nâng cấp hệ thống đảm bảo xử lý giao dịch của toàn bộ hệ thống NHTMVN, phải xây dựng giao diện với các hệ thống của các NHTMVN khác. Hơn nữa, để đi đến giải pháp này, các ngân hàng thương mại khác sẽ phải cân nhắc khi tham gia do không muốn phụ thuộc quá lớn vào chuẩn và vào hệ thống của SGD NHNN&PTNTVN. Giải pháp 2 - Sử dụng một bên thứ ba trong nước làm nhà xây dựng và điều hành hệ thống: Bên thứ ba này có thể là một công ty độc lập hoặc Cục Công nghệ tin học của NHNN. Công ty này sẽ xây dựng lên một chuẩn kỹ thuật và yêu cầu các ngân hàng tuân thủ, đầu tư cho hệ thống kết nối và được hưởng phí giao dịch. Cách này có thể giải quyết các xung đột về lợi ích giữa các ngân hàng, tạo nên một hệ thống đồng bộ, thống nhất. Nhược điểm của phương án này là chi phí đầu tư lớn, thời gian triển khai dài, các ngân hàng có thể không có được sự chủ động cần thiết. Vấn đề lựa chọn công ty đủ năng lực và đạt yêu cầu của các NHTMVN không phải đơn giản trong điều kiện hiện nay. Công ty này phải có đủ năng lực tài chính, khả năng quản lý hệ thống, hiểu biết về nghiệp vụ thẻ và có phương án kinh doanh hợp lý. Nếu chọn Cục Công nghệ tin học NHNN làm nhà xây dựng và điều hành hệ thống cũng phát sinh nhiều vấn đề cần lưu tâm. Đây là cơ quan quản lý ngành phải kiêm nhiệm việc kinh doanh và phải tham gia đầu tư cũng với các NHTMVN. Ngoài việc phải đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, các chuyên gia sẽ phải đào tạo thêm để nâng cao nghiệp vụ thanh toán và nghiệp vụ thẻ cũng như hệ thống kết nối để đảm bảo sự vận hành thông suốt của hệ thống. Giải pháp 3 - Sử dụng hệ thống của Tổ chức thẻ quốc tế: các ngân hàng Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ triển khai và vận hành mạng lưới thanh toán tự động do một TCTQT cung cấp. Tổ chức này sẽ đầu tư xây dựng hệ thống, đặt ra các tiêu chuẩn về công nghệ kỹ thuật và nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên và thu phí xử lý giao dịch. Tổ chức thẻ Visa International đã có kinh nghiệm tham gia triển khai kết nối hệ thống giao dịch tự động nội địa tại một số nước trong khu vực. Thực hiện phương án này, các ngân hàng có khả năng tận dụng công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm của các tổ chức thẻ quốc tế, thời gian triển khai hệ thống ngắn. Tuy nhiên chỉ có những ngân hàng là thành viên của Visa và có hệ thống quản lý và xử lý giao dịch thẻ đạt tiêu chuẩn của Visa mới được tham gia. Lựa chọn hướng này cũng sẽ làm hệ thống NHTMVN phải phụ thuộc vào TCTQT Visa và không thể ngăn cản sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam vào hệ thống. Hệ thống này cũng sẽ không thể kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng hiện tại để thành một hệ thống thống nhất hoạt động hiệu quả và đem lại lợi ích cho toàn bộ hệ thống NHTMVN và NHNNVN có thể quản lý dễ dàng hơn. Cả ba giải pháp nêu trên đều có ưu thế và khó khăn khác nhau, cần phải xem xét và cân nhắc để tìm giải pháp thuận lợi và phù hợp với tình hình thực trạng của hệ thống NHTMVN. 3.2.2.3 Thành lập trung tâm thanh toán liên ngân hàng về thẻ. Các nước phát triển đã xây dựng và thực hiện mô hình hệ thống thanh toán liên ngân hàng cho giao dịch thẻ với sự tham gia của các ngân hàng trong phạm vi một nước hoặc thậm chí một khu vực từ những năm 80. ở châu Âu, hệ thống này trở nên cực kỳ phát triển mang một thương hiệu riêng là Europay. Hệ thống Europay trước khi sát nhập vào TCTQT Mastercard International có quy mô và tầm cỡ như một TCTQT bao gồm rất nhiều ngân hàng tại tất cả các nước châu Âu. Ngay tại khu vực ASEAN nhiều nước trong khu vực đã thực hiện rất tốt và có hiệu quả mô hình kết nối hệ thống giao dịch tự động và thanh toán liên ngân hàng cho giao dịch thẻ, điển hình là Singapore và Thái lan. Việc kết nối được thực hiện thông qua một trung tâm chuyển mạch tự động. Ngoài việc xử lý giao dịch, trung tâm này còn là nơi trao đổi giao dịch và thực hiện thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Thường các nước triển khai hệ thống này do nhu cầu thanh toán giao dịch kết nối hệ thống ATM. Không chỉ dừng lại với việc xử lý giao dịch ATM, các nước còn phát triển trung tâm này thành nơi xử lý giao dịch và thực hiện thanh toán bù trừ toàn bộ giao dịch thẻ cả thẻ nội địa và thẻ quốc tế thực hiện thông qua mạng lưới CSCNT được trang bị POS của các ngân hàng. Tại Việt Nam, hệ thống thanh toán liên ngân hàng đã được đi vào hoạt động nhưng chỉ xử lý các giao dịch chuyển tiền giữa các ngân hàng với nhau. Các giao dịch thẻ nội địa do không có một trung tâm xử lý riêng cho Việt Nam nên các ngân hàng phải thanh toán và xử lý giao dịch thông qua các TCTQT. Quá trình thanh toán này buộc các ngân hàng phải chịu phí trao đổi (Interchange Fee) của các TCTQT cho các giao dịch thẻ nội địa như giao dịch thẻ quốc tế. Do mức phí trao đổi cao như vậy, các ngân hàng Việt Nam không có khả năng hạ thấp mức phí thanh toán thẻ (Discount Rate) đặc biệt cho các giao dịch do họ phát hành tại mạng lưới CSCNT tại Việt Nam. Do vậy không tạo điều kiện khuyến khích chủ thẻ Việt Nam chi tiêu bằng thẻ cũng như khuyến khích các CSCNT Việt Nam chấp nhận thẻ do các NHTMVN phát hành. Việc thành lập một trung tâm thanh toán bù trừ cho giao dịch thẻ trong nội địa Việt Nam là cần thiết. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam lớn và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có mở tài khoản tiền gửi tại SGD NHNo&PTNT Việt nam . SGD NHNo&PTViệt nam rất dễ dàng thoả thuận với từng ngân hàng về cơ chế thanh toán cũng như mức phí trao đổi để triển khai thanh toán bù trừ cho các giao dịch thẻ do SGD NHNO&PT Việt nam phát hành được sử dụng tại các CSCNT thuộc ngân hàng đó nhằm mục đích giảm phí phải trả cho các TCTQT. Tuy vậy, đây không phải là giải pháp tổng thể. Giải pháp tổng thể phải đầu tư xây dựng một hệ thống thanh toán thẻ liên ngân hàng kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng hiện tại và hệ thống xử lý giao dịch ATM và POS. Có như vậy, các ngân hàng có thể kết nối, xử lý giao dịch và thanh toán bù trừ cho nhau. Các ngân hàng sẽ có điều kiện ưu tiên áp dụng mức phí chiết khấu thanh toán thẻ tín dụng giao dịch nội địa đặc biệt thấp cho các CSCNT để khuyến khích việc sử dụng thẻ cũng như việc chấp nhận thẻ của khách hàng cả chủ thẻ vàCSCNT. 3.2.2.4. Phát hành thẻ tín dụng. Trước hết SGD NHNo & PTNT Việt Nam nên triển khai phát hành thẻ tín dụng vì đây là loại thẻ đã được các ngân hàng thương mại khác phát triển sớm hơn rất nhiều.Thẻ tín dụng giúp cho chủ thẻ có thể rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ trong phạm vi hạn mức tín dụng của mình được ngân hàng phát hành thẻ cấp.Đây là hình thức chi tiêu trước trả tiền sau rất thuận tiện cho khách hàngvà ngân hàng sau khi thẩm định và đưa ra hạn mức tín dụng cho khách hàng thì ngân hàng sẽ được hưởng một mức phí nhất định. 3.2.2.5 Phát hành thẻ ghi nợ Mặc dù thẻ tín dụng được chi tiêu trước, trả tiền sau nhưng tâm lý người Việt Nam rất thận trọng trong việc tiêu tiền, nhất là tiền của người khác. Vì vậy, việc phát hành thẻ ghi nợ tạo cho khách hàng có khả năng tiêu tiền của chính mình là một việc các ngân hàng thương mại cần lưu tâm. Việc phát hành thẻ loại này sẽ phá bỏ ngại ngần của khách hàng trong sử dụng thẻ. Ngân hàng có thể tạo thêm những thuận tiện khác cho khách hàng như: cho phép khách hàng được sử dụng quá số dư trong những trường hợp đặc biệt với một mức độ nào đó, trả lãi tiền gửi không kỳ hạn trên tài khoản thẻ ghi nợ ... 3.2.2.6 Phát hành thẻ liên kết Thêm vào đó, cần triển khai việc phát hành thẻ liên kết giữa ngân hàng và các doanh nghiệp lớn như xăng dầu, bưu điện, hàng không, ... hoặc với các trung tâm thương mại. Việc phát hành thẻ loại này mang lại lợi ích thêm cho các bên liên quan. Khách hàng sử dụng loại thẻ này sẽ có những ưu đãi đặc biệt khi thanh toán tại các doanh nghiệp liên kết. Doanh nghiệp liên kết và ngân hàng sẽ có thêm một lượng khách hàng truyền thống của bên đối tác. Ngân hàng góp phần tiếp thị khách hàng, tăng doanh số... cho bên liên kết và ngược lại, bên liên kết sẽ góp phần tiếp thị phát triển dịch vụ cho ngân hàng. 3.2.3 Giải pháp về nghiệp vụ 3.2.2.1 Quy trình nghiệp vụ. Đến tháng 10 năm 1999, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Trước đó, các ngân hàng tự động xây dựng quy trình nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ của mình, không theo một chuẩn thống nhất. Căn cứ vào Quy chế mới ban hành của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có khả năng xem xét và chỉnh sửa lại Quy trình nghiệp vụ của ngân hàng mình, tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ an toàn nhưng phải gọn nhẹ, tránh thủ tục rườm rà cho khách hàng. 3.2.3.2 Tăng cường quản lý rủi ro. Tăng cường quản lý rủi ro cho phát hành và thanh toán thẻ là mối quan tâm hàng đầu của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ của mỗi bộ phận chặt chẽ an toàn, việc đảm bảo cho hệ thống quản trị dữ liệu hoạt động ổn đinh, hiệu quả đã góp 90% cho quản lý rủi ro. Một chủ thẻ có thể sử dụng thẻ của mình để chi tiêu trên khắp thế giới tại các cơ chấp nhận thẻ (CSCNT) thích hợp. Luồng thông tin và luồng chu chuyển tiền liên quan đến việc chi tiêu này của chủ thẻ là rất lớn và luôn vận động. Do vậy đặt ra yêu cầu bức thiết về công nghệ ( hệ thống quản lý và xử lý thông tin: phần cứng phần mềm tại ngân hàng và các thiết bị đầu cuối chấp nhận thanh toán thẻ tại các cơ sở cung ứng hàng hoá dịch vụ) cũng như nhân sự quản lý đối với SGD NHNo & PTNT Việt Nam. Hệ thống quản lý này đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ đạt chất lượng cao cho khách hàng - chủ thẻ, CSCNT và việc phòng ngừa rủi ro, thiệt hại do nạn lừa đảo, giả mạo gây ra. 3.2.4 Giải pháp về chính sách khách hàng 3.2.4.1 Tổ chức tuyên truyền và giới thiệu về thẻ ngân hàng. Trước hết là đưa thẻ thanh toán tiếp cận với mọi người dân, làm cho nó thực sự là một bộ phận thiết thực của đời sống bình thường. Do đó cần đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo để đông đảo dân chúng biết về lợi ích kinh tế, sự tiện lợi khi dùng thẻ. Hoạt động này được thực hiện qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng: tivi, báo chí, tờ rơi ,v.v... nhằm tác động mạnh mẽ vào nhận thức của mọi người, phá vỡ rào cản tâm lý ngần ngại của người dân trước những dịch vụ mới để họ thấy rằng chi tiêu bằng thẻ là kinh tế, an toàn và tiện lợi. Bộ phận dân cư thành thị là đối tượng chủ thẻ tiềm năng của các ngân hàng thương mại. Trong đó phải kể đến đối tượng đầu tiên là những người làm việc trong các cơ quan nước ngoài, cơ sở liên doanh đầu tư nước ngoài, các văn phòng đại diện quốc tế đặt trụ sở tại Việt Nam; những người làm việc ở một số ngành có thu nhập cao như: dầu khí, ngân hàng, bưu điện, hàng không...; chủ doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân... Đây là những người có thu nhập khá, ôn định , có nhu cầu hay có điều kiện thường xuyên đến các siêu thị, đi công tác trong nước và nước ngoài, đi du lịch, nghỉ tại khách sạn... Rõ ràng đây là đối tượng chính và đầy tiềm năng và có xu hướng tăng lên trong phát hành, sử dụng thẻ mà Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần tập trung vào khai thác Một số lượng khác chiếm tỷ lệ không lớn trong dân cư thành thị nhưng cũng khá đông đảo đó là các viên chức Nhà nước, cán bộ có chức có quyền trong các cơ quan hành chính Nhà nước có nhu cầu thường xuyên đi công tác trong và ngoài nước nhưng những chi tiêu cá nhân đó đều do cơ quan thanh toán theo chế độ quy định của Nhà nước. Đây cũng là một đối tượng để phát triển việc sử dụng thẻ giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước không phải trích tiền mặt ngoại tệ tạm ứng cho họ khi đi công tác. Sử dụng thẻ, họ sẽ không phải mất tiền ký quỹ khi ở tại khách sạn, thuận tiện hơn trong việc bảo quản thẻ thay cho tiền mặt. Một đối tượng được nhắm đến là những người nước ngoài: các nhà đầu tư, các chuyên gia cư trú và không cư trú tại Việt Nam... có nhu cầu sử dụng thẻ trong thời gian công tác cho các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là một lực lượng không đông đảo, khoảng dưới 1 triệu người nhưng có nhu cầu chi tiêu thường ngày lớn. Phát triển phát hành thẻ cho đối tượng này, Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam sẽ có nhiều khả năng tăng doanh số sử dụng thẻ, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ. Tuy nhiên, điều kiện đảm bảo phát hành thẻ cho loại đối tượng này phải hết sức thận trọng, tránh sự lợi dụng của các tổ chức tội phạm quốc tế chuyển ngân ra nước ngoài và phát hành thẻ giả mạo. Một đối tượng nữa tuy còn chiếm một tỷ lệ nhỏ bé nhưng đang ngày càng tăng, đó là lượng học sinh, sinh viên được gia đình bảo lãnh phát hành thẻ để sử dụng trong thời gian học tập và làm việc ở nước ngoài. 3.2.4.2 Mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ Thực chất thanh toán thẻ là nghiệp vụ cung cấp tín dụng tiêu dùng cá nhân, nghĩa là phải đặc biệt chú ý đến sở thích, nhu cầu của chủ thẻ. Muốn tăng nhu cầu phát hành và sử dụng thẻ, NHNN&PTNTVN phải chú trọng mở rộng các điểm cung cấp dịch vụ, hàng hoá có chấp nhận thanh toán bằng thẻ sao cho người dân có thể thoả mãn mọi nhu cầu sinh hoạt tại các CSCNT này. Hiện tại ở Việt Nam, mạng lưới CSCNT vẫn tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn, khu du lịch như Hà nội, thành phố Hồ chí minh, Vũng tàu .v.v... Nguồn khách du lịch nước ngoài sử dụng thẻ mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước nhưng bên cạnh đó cần chú ý khai thác thị trường trong nước vẫn còn tương đối bỏ ngỏ. Có thể thấy trong xã hội mỗi thành viên đều có những mối quan hệ kinh tế khác nhau cũng như phải chi tiêu cho vô số nhu cầu cần thiết như: tiền điện, tiền nước, xăng dầu, phí điện thoại .v.v. Nếu những chi phí này đều được trả bằng thẻ thông qua hợp đồng với công ty cung cấp các dịch vụ trên thì số lượng thẻ phát hành và doanh số thanh toán thẻ nhất định sẽ tăng lên rất nhiều. Ngoài ra ngân hàng có thể trợ giúp bằng cách thoả thuận với các công ty, cơ quan để chính những đơn vị này bảo lãnh phát hành thẻ thanh toán cho nhân viên của mình. Như vậy ngay cả những người có mức thu nhập trung bình cũng có thể được hưởng những tiện ích của thẻ trong cuộc sống. 3.3. Một số kiến nghị Để việc sử dụng và thanh toán thẻ mở rộng và phát triển, các ngân hàng thương mại và đặc biệt là SGD NHNo & PTNT Việt nam rất cần sự trợ giúp của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam. Do vậy để thực hiện thẻ tại SGD NHNo & PTNT Việt nam em xin nêu một số kiến nghị. 3.3.1. Kiến nghị với nhà nước. Sự quan tâm của Chính phủ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi ngành mọi cấp. Nếu Chính phủ có những chính sách và biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ về chính sách thuế, về quy định pháp luật ... các ngân hàng thương mại Việt Nam có điều kiện tích cực triển khai dịch vụ thẻ ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, giảm tiền mặt trong lưu thông, thực hiện thành công công cuộc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Kinh nghiệm ở một vài nước trong khu vực như Trung quốc, Philippin, Thái lan..., trong thời gian đầu triển khai dịch vụ thẻ ngân hàng, Chính phủ tại các nước này đã có sự hỗ trợ vô cùng mạnh mẽ trên tổng thể cả về chính sách thuế, đầu tư công nghệ, các quy định về pháp luật... thậm chí cả những biện pháp rất chi tiết như: quy định mức phí thanh toán tối thiểu áp dụng cho các CSCNT, bắt buộc các doanh nghiệp trả lương cho cán bộ nhân viên thông qua hệ thống tài khoản tại ngân hàng... Chính vì vậy, dịch vụ thẻ ngân hàng của các nước này có điều kiện phát triển với tốc độ rất nhanh. Thị trường thẻ Việt Nam là thị trường mới nên giả mạo thẻ chưa nhiều, với quy mô còn nhỏ. Hầu hết các vụ thẻ giả mạo và giao dịch giả mạo đều được các ngân hàng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp luật ngăn chặn kịp thời. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính và thị trường thẻ Việt Nam, nước ta sẽ không nằm ngoài tầm ngắm của các tập đoàn tội phạm quốc tế tấn công. Hiện nay, trong Bộ luật hình sự của ta chưa có quy định tội danh và khung hình phạt cho tội phạm làm và tiêu thụ thẻ giả cũng như lừa đảo hoặc cấu kết để thực hiện giao dịch thẻ giả mạo. Chính vì vậy, trong một số vụ cấu kết giả mạo giao dịch thẻ và tiêu thụ thẻ giả bị phát hiện vừa qua, người phạm tội chủ yếu bị quy kết vào tội tiêu thụ tiền giả, đền lại số tiền lừa đảo cho ngân hàng hoặc cho CSCNT và chấp hành hình phạt theo quy định. Cần phải có quy định tội danh và khung hình phạt nghiêm khắc trong Bộ Luật Hình sự cho loại tội phạm sử dụng thẻ giả và cấu kết lừa đảo giả mạo giao dịch thẻ để ngăn chặn và phòng ngừa. Trong khi quan hệ giữa các NHTMVN là thành viên của các TCTQT và các TCTQT được điều chỉnh bởi luật và quy định của các TCTQT thì quan hệ giữa các NHTMVN và khách hàng được điều chỉnh bởi Pháp luật Việt Nam. Mặc dù các điều luật của các TCTQT mà NHTMVN và TCTQT thoả thuận tuân thủ nói chung không mâu thuẫn với Pháp luật Việt Nam nhưng trong một vài trường hợp đặc biệt đã và sẽ xảy racó những khó khăn cho các NHTMVN trong việc phân xử tranh chấp phát sinh, gây phí tổn về tài chính. 3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước. Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược cho các NHTMVN cũng như đề ra các chính sách hỗ trợ cho các NHTMVN phát triển dịch vụ thẻ ngân hàng thông qua các giải pháp: - Phối hợp với các TCTQT và các NHTMVN trong việc hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy hoạt động dịch vụ thẻ ngân hàng, định hướng ứng dụng các thành tựu của công nghệ thẻ đã, đang và sẽ được áp dụng trên Thế giới và trong khu vực . - Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay đã có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các CSCNT và đồng tiền thanh toán thẻ với ngân hàng tuỳ theo hình thái đầu tư vốn nhưng chưa có quy định về hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng quốc tế và hạn mức sử dụng ở nước ngoài của thẻ ghi nợ quốc tế do các NHTMVN phát hành. Trong chính sách Quản lý Ngoại hối cần phải có quy định riêng về hạn mức tín dụng cho thẻ tín dụng quốc tế cũng như hạn mức sử dụng ở nước ngoài của thẻ ghi nợ quốc tế phân theo các loại đối tượng khác nhau nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài nhưng phải đảm bảo tạo điều kiện cho việc phát hành thẻ của các NHTMVN và việc sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế hoặc phiền hà do thủ tục rườm rà. - Đảm bảo tín dụng: Chính sách tín dụng phải có quy định riêng về cấp và thẩm định tín dụng thẻ tuỳ theo từng đối tượng khách hàng nhằm tạo điều kiện cho các NHTMVN tự chịu trách nhiệm về việc cấp tín dụng thẻ cho khách hàng, tăng lượng khách hàng được tín chấp, giảm khách hàng phải có điều kiện đảm bảo. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng sử dụng thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản cho vay thông thường, có thể nới rộng trong một phạm vi nhất định. Tuy vậy khả năng thanh toán và thu nhập của khách hàng phải đặc biệt lưu tâm vì tín dụng thẻ là tín dụng tuần hoàn, khách hàng phải có thu nhập thường xuyên, ổn định để đảm bảo khả năng chi trả. - Thành lập Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro cho hoạt động thẻ: Việc thúc đẩy dịch vụ thẻ, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng thẻ tín dụng có tác dụng kích cầu, tạo đà cho phát triển kinh tế. Nó cũng góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và công nghệ ứng dụng trong ngành ngân hàng. Tuy vậy, việc tín dụng tiêu dùng tăng trưởng quá nhanh trong một thị trường tài chính còn những lỗ hổng lớn về mặt đánh giá tín dụng và quản lý rủi ro sẽ là một con dao hai lưỡi. Một Tổ chức thông tin tín dụng thực chất là một thư viện lưu trữ các thông tin tín dụng cá nhân. Các thông tin này được thu thập từ các tổ chức tín dụng và một số tổ chức cơ quan nhà nước khác để lập nên những hồ sơ tín dụng cá nhân. Sau đó các hồ sơ được cung cấp cho những tổ chức tín dụng, giúp họ đánh giá nhanh chóng và chính xác các khách hàng. Bản thân các tổ chức thông tin tín dụng không đưa ra đánh giá hoặc xếp hạng khách hàng mà chỉ thuần túy cung cấp các thông tin phục vụ cho quá trình đó. Việc cho điểm, xếp hạng phải được thực hiện thông qua chương trình cho điểm tín dụng của từng tổ chức tín dụng với những tiêu chí cụ thể tùy vào điều kiện và mục đích kinh doanh của từng tổ chức. Các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn chưa có hệ thống đánh giá tín dụng đúng nghĩa. Việc cho vay cá nhân cũng như phát hành thẻ tín dụng trong đa số trường hợp phải dựa trên thế chấp, cơ sở dữ liệu thống nhất và tập trung về khách hàng cá nhân hầu như không tồn tại. Đứng trên bình diện cả nước rất đáng mừng là hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập Trung tâm thông tin tín dụng để thu thập thông tin và phòng ngừa rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Nhưng hoạt động và hiệu quả đối với các ngân hàng thương mại của Trung tâm này vẫn gặp phải hai khó khăn chính. Khó khăn thứ nhất: Xuất phát cơ sở dữ liệu khách hàng cá nhân của các ngân hàng thương mại. Do đặc thù của các ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng lớn được tổ chức theo mô hình hai cấp, trung ương và chi nhánh. Việc quản lý dữ liệu không được tiến hành tập trung, sự nối kết giữa các chi nhánh và trung ương lại không được thường xuyên, liên tục khiến cơ sở dữ liệu của khách hàng trở nên thiếu chính xác và không được cập nhật liên tục. Như vậy, chất lượng thông tin khi đưa đến Trung tâm thông tin tín dụng cũng không được bảo đảm. Khó khăn thứ hai: Cần đề cập đến là các ngân hàng thương mại chưa có một hệ thống xử lý dữ liệu để đánh giá tín dụng một cách chính xác. Như trong hoạt động thẻ tín dụng hiện nay, việc đánh giá chủ thẻ và cho ra quyết định về mức thế chấp cho thẻ nằm trong tay phụ trách các chi nhánh phát hành. Điều này làm cho việc đánh giá khách hàng thực tế là không tồn tại, đại đa số các chủ thẻ đều phải thế chấp hoặc có bảo đảm thanh toán của cơ quan. Đề án hiện đại hóa Ngân hàng thương mại Việt Nam do World Bank hỗ trợ có một mảng rất lớn liên quan đến ngân hàng bán lẻ. Cùng với việc đề án đang đi vào giai đoạn kết thúc, tin chắc rằng dựa trên thành công của đề án, hệ thống cơ sở dữ liệu khách hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn để làm cơ sở xây dựng một hệ thống thông tin tín dụng đầy đủ và hiệu quả trong toàn ngành ngân hàng. Việc thành lập một Tổ chức thông tin tín dụng với sự tham gia của tất cả các tổ chức tài chính tín dụng toàn quốc là một hướng đi đúng để giảm thiểu rủi ro tín dụng. Thông qua hệ thống, khi một khách hàng có hành vi sai trái về tín dụng, thông tin đó sẽ được toàn thể giới tài chính biết đến. Thậm chí uy tín của khách hàng đó với tổ chức khác như thuế vụ, hải quan vv… cũng sẽ bị ảnh hưởng. Có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhằm tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh để các chi nhánh ngân hàng nươc ngoài lợi dụng những điều quy định không chặt chẽ để lách luật hoặc cố tình vi phạm thông qua việc liên kết với các ngân hàng cổ phần, góp phần tạo điều kiệ cho các NHTMVN có điều kiện phát triển. 3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Ngân hàng nông nghiệp và phát tiển nông thôn Việt Nam cần phải có chiến lược về con người cho nghiệp vụ kinh doanh thẻ. Đặc biệt là chiến lược đào tạo, cử những cán bộ có trình độ và tâm huyết đi học ở nước ngoài với những khoá học dài hạn có bài bản tránh tình trạng đi học một vài ngày theo kiểu đi tham quan là chính và sau khi được đào tạo về lý thuyết cán bộ cần phải được thực tập tại các ngân hàng có hệ thống thanh toán thẻ tiên tiến, hiện đại có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh này.Khi các cán bộ này về ngân hàng làm việc sẽ trở thành hạt nhân trong cơ cấu tổ chức và họ cần phaỉ có trách nhiệm truyền đạt lại những gì đã được nghiên cứu, học tập cũng như kinh nghiệm thu được trong quá trình học tạp ở ngân hàng bạn cho những đồng nghiệp đang công tác tại trung tâm thẻ. Đầu tư theo chiều sâu như vậy, ngân hàng vừa tiết kiệm được chi phí vừa mang lại hiệu quả cao. Đối với việc đầu tư công nghệ, kỹ thuật mới đặc biệt là các chương trìnhquản lý hệ thống ngan hàng cần phải thẩm định, nghiên cứu kỹ càng, có thể đi tham khảo thực tập và xem xét trên thực tế mà các ngân hàng bạn đang sử dụng hệ thống chương trình đó để có thể đánh giá được một cách chính xác về chất lượng cũng như hiệu quả mà nó mang lại để có quyết định đầu tư đúng đắn. Ngân hàng nông nghiệp cần sớm xin phép nhân nàng nhà nước để trích lập quỹ dự phòng rủi ro riêng cho nghiệp vụ kinh doanh thẻ, trên cơ sở lấy nguồn từ nguồn kinh phí nghiệp vụ hàng năm. Thành lập tiểu ban mà các thành viên là cán bộ của trung tâm thẻ nghiên cứu để xây dung đề án tách trung thẻ thành trung tâm hoạt động độc lập trong tương lai gần. Giao nhiệm vụ cho bộ phận nghiệp vụ xây dung quy trình nghiệp vụ kinh doanh thẻ. Kết luận Triển khai nghiệp vụ kinh doanh thẻ ngân hàng là một bước đi đúng đắn của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bước đi đó nằm trông định hướng chiến lược của Sở giao dịch ngân hàng nông nghệp và phát triển nông thôn Việt Nam, nó cũng phù hợp với chủ trương hiện đại hoá công nghệ ngân hàng của chính phủ và là cơ sở thuận lợi để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, góp phần xây dựng một môi trường tiêu dùng văn minh hiện đại. Tạo điều kiện cho ngân hàng Việt Nam hội nhập vào cộng đồng tài chính và ngân hàng quốc tế.Tuy nhiên để có thành công và phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh doanh này các ngân hàng cần phải quan tâm tới công tác quản lý rủi ro, sử dụng những biện pháp có hiệu quả nháy nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể. Với tinh thần trên, khóa luận dã tập chung làm rõ lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở xem xét những vấn đề mang tính lý luân cơ bản đó, khoá luận đã rút ra được những kết quả đạt được và những tồn tại cần được xem xét và giải quyết tại Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Từ những tồn tại, hạn chế về phát hành thanh toán, quản lý rủi ro tại SGD NHNo & PTNT Việt nam. Khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động và quản lý tốt hơn về rủi ro trong kinh doanh thẻ ngân hàng tại SGD NHNo & PTNT Việt nam. Thực tế việc đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để tìm ra nguyên nhân và những giải pháp để mở rộng phạm vi sử dụng và thanh toán thẻ là việc làm hết sức cần thiết đối với thị trường thẻ Việt Nam. Để hoàn thành khoá luận này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, các thầy cô giáo khoa Tài chính-Ngân hàng Trường Đại học DLĐĐ, đặc biệt là sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Thầy giáo Vũ Thiện Thập, cùng các cán bộ Phòng Kế toán- Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian thực tập có hạn, vấn đề nghiên cứu mới và phức tạp, vì vậy Khoá luận không tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện, đóng góp một phần nhỏ bé xây dựng sự nghiệp phát triển thẻ tại thị trường Việt Nam. Lời cam đoan Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế tại đơn vị. Sinh viên Nguyễn Thị Diệu Hương Danh mục tài Liệu tham Khảo Tạp chí Khoa học Ngân hàng năm 1999, 2000, 2001 Tạp chí Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 1999, 2000, 2001 Quy chế về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ban hành theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quy chế về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ban hành theo Quyết định của Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Báo cáo thường niên của Hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam năm 1997, 1998, 1999, 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam. Giáo trình Kế toán ngân hàng-Học viện ngân hàng năm 2003. Danh mục các bảng biểu Bảng 1 : kết qủa quản lý tài sản nội ngoại tệ của SGD 32 Bảng 2 : Kết qủa điều hành vốn 32 Bảng 3 : Kết quả cho vay vốn của sở giao dịch……………………34 Bảng 4 : Kết quả kinh doanh ngoại tệ của SGD…………………...36 Bảng 5: Kết quả hoạt động tài chính của SGD 36 Bảng 6: Doanh số TTKDTM tại SGD qua 3 năm 2001 - 2003. 38 Bảng 7: Xu hướng biến động của TTKDTM tại SGD 39 Bảng 8: Số mónTTKDTM tại SGD. 40 Bảng 9: Báo cáo số lượng và doanh số sử dụng thẻ ATM do SGD NHNo & PTNT Việt Nam đã phát hành. 42 Bảng 10: Báo cáo doanh số thanh toán và phát hành. 43 Danh mục các chữ viết tắt SGD NHNo & PTNT: Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHTW : Ngân hàng trung ương NHNNVN : Ngân hàng nhà nước Việt Nam NHTMVN : Ngân hàng thương mại Việt Nam CSTT : Chính sách tiền tệ ATM : Thẻ rút tiền tự động TTD : Thư tín dụng UNC : Uỷ nhiệm chi UNT : Uỷ nhiệm thu TTKDTM : Thanh toán không dùng tiền mặt CSCNT : Cơ sở chấp nhận thẻ TCTQT : Tổ chức thẻ quốc tế Lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn nhà giáo ưu tú Vũ Thiện Thập đã trực tiếp hướng dẫn em và các thầy giáo khoa tài chính ngân hàng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận. Em xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo và các cô chú, anh chị phòng kế toán, tín dụng SGD NHNo &PTNT Việt nam, trong đợt thực tập vừa qua đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Sinh viên Nguyễn Thị Diệu Hương Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33817.doc
Tài liệu liên quan