Khóa luận Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở Giao Dịch – Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam

Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một nội dung trọng tâm quyết định tính khả thi của dự án và đánh giá khả năng trả nợ của dự án đối với ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính là điều kiện tiên quyết để cải thiện chất lượng tín dụng. Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu, lý luận kết hợp với những quan sát thực tế trong thời gian thực tập tại SGD – ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam, khoá luận đã thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất là đánh giá tổng quan về hệ thống ngân hàng Hàng Hải và tình hình hoạt động của Sở giao dịch, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng công tác thẩm định tài chính tại đây. Thứ hai là đưa ra những giải pháp và kiến nghị của bản thân đối với các bên có liên quan nhằm xây dựng môi trường cho việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Mặc dù đề tài không mới xong các dự án luôn nằm trong các mối quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp; trình độ, phương pháp thẩm định ngày càng được phát triển; cùng với đó là việc tiếp cận, xử lí các nội dung trong thẩm định tài chính chưa được nhất quán hơn nữa yêu cầu của công tác thẩm định tài chính ngày càng chặt chẽ, khoa học và đòi hỏi độ tin cậy cao vì vậy nâng cao chất lượng thẩm định tài chính này đang càng trở nên cần thiết; chất lượng của công tác thẩm định tài chính có mối quan hệ thiết thực tới chất lượng tín dụng các ngân hàng, chất lượng dự án đầu tư của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng lên chất lượng đầu tư nói chung.

doc93 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở Giao Dịch – Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nội dung, khoản mục trong các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, quan tâm đến cơ cấu tổng vốn đầu tư, thời điểm rót vốn để đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả cho cả hai bên. Việc quyết định lựa chọn tỷ suất chiết khấu được dựa trên các phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và việc lựa chọn cơ cấu vốn. Không những thế, phương pháp tính, công cụ phân tích cũng ngày được nâng cao như kỹ thuật phân tích độ nhạy theo nhiều đặc biệt là việc chọn yếu tố biến động, mức độ biến động ngày càng sát với thực tế của dự án. Thẩm định trước khi cho vay được tiến hành nhiều nội dung của doanh nghiệp và của dự án để đánh giá chính xác nhất tính khả thi của dự án. Ngoài ra việc theo dõi, kiểm soát trong thời gian cho vay và sau khi cho vay cũng đã được quan tâm hơn thông qua việc kiểm tra quá trình thực hiện dự án, kiểm tra tình hình hoạt động của doanh nghiệp theo định kỳ, điều này đã góp phần làm giảm khả năng phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu. 1.3. Năng lực đội ngũ cán bộ Cán bộ tín dụng là nhân tố quyết định chất lượng của công tác thẩm định, vì vậy nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cán bộ tín dụng là vấn đề luôn được phía SGD quan tâm. Đội ngũ cán bộ ở đây trẻ, có chuyên môn, trình độ từ đại học trở lên, có kiến thức tốt về kinh tế, kỹ thuật, hiểu biết thị trường. Bên cạnh đó, các cán bộ tín dụng còn được thường xuyên trau dồi kiến thức thông qua các khóa học ngắn hạn do ngân hàng MSB phối hợp tổ chức về quy trình, nội dung thẩm đinh, quản lý rủi ro tín dụng, các quy chế, văn bản tín dụng mới... để nâng cao năng lực phân tích, đánh giá dự án. 1.4. Công nghệ ứng dụng phân tích tài chính và hệ thống thông tin có liên quan Ngân hàng TMCP Hàng Hải cũng như SGD luôn chú trọng tới nâng cao chất lượng trang thiết bị nhằm đáp ứng tốt nhất cho hoạt động của SGD. Hiện nay, ngân hàng đã trang bị các máy tính hiện đại, đảm bảo mỗi người đều có một máy có kết nối internet, cài đặt các chương trình phần mềm tính toán phục vụ cho công tác thẩm định, tìm kiếm thông tin, liên lạc, lưu trữ hồ sơ được dễ dàng hơn từ đó xây dựng kho dữ liệu chung để làm cơ sở so sánh, đánh giá các dự án. Ngân hàng cũng đã xây dựng hệ thống đánh giá xếp loại doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí tài chính và phi tài chính thông qua phần mềm tự động, các chỉ tiêu đánh giá được xây dựng khá chi tiết như việc chấm điểm theo phân chia nguồn vốn, lao động, doanh thu thuần, ý thức thực hiện trách nhiệm đối với nhà nước; chấm điểm theo quy mô, theo kết quả phân tích các chỉ tiêu tài chính. Ngoài ra, Phòng Khách hàng Doanh nghiệp còn được trang bị cơ sở hạ tầng khá đầy đủ, đảm bảo môi trường làm việc hiệu quả cho mọi người. Công tác tìm kiếm thông tin ngày càng được chú trọng, nguồn thông tin từ đó thu thập được ngày càng phong phú để giúp cho việc đánh giá dự án và tài chính dự án chính xác hơn. Trước đây thông tin chủ yếu do phía khách hàng cung cấp dựa trên các báo cáo hoạt động kinh doanh, kết hợp với kiểm tra thực tế vì vậy độ tin cậy không cao, thiếu chính xác. Còn hiện nay, nguồn thông tin đã được hỗ trợ nhiều từ các tài liệu phân tích trong nước, ngoài nước, thông tin thị trường, các văn bản luật và nhất là việc sử dụng thông tin qua Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia CIC của Ngân Hàng Nhà Nước là một kênh thông tin đáng tin cậy, cập nhật và đầy đủ về tình hình hoạt động, diễn biến dư nợ của khách hàng 1.5. Công tác tổ chức thực hiện thẩm định Công tác điều hành, quản lý quy trình thẩm định khá hiệu quả, với việc xây dựng tương đối hoàn chỉnh nội dung, quy trình này được quán triệt thực hiện nghiêm túc tới mọi dự án. Công tác thẩm định được tiến hành dựa trên nguyên tắc phân câng, sắp xếp, quy định quyền hạn và trách nhiệm của các cá nhân và các bộ phận. Bên cạnh đó, công tác tái thẩm định, quản lý rủi ro cũng được nâng cao, nhất là đối với các dự án có vốn lớn. Hàng năm, theo định kỳ các dự án đều được tiến hành tái thẩm định để đánh giá dự án theo những thông tin mới cập nhật, có ảnh hưởng trực tiếp tới dự án và khả năng thu hồi khoản vay của ngân hàng. 2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng công tác thẩm định tài chính dự án tại SGD vẫn không phải tránh khỏi những thiếu sót dẫn đến hiệu quả hoạt động tín dụng còn chưa cao như việc nhiều dự án phải bổ sung vốn đầu tư, dãn tiến độ... Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và cả chủ quan. 2.1. Hạn chế trong phương pháp thẩm định tài chính dự án Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì phương pháp thẩm định tài chính dự án vẫn còn một số hạn chế trong việc đánh giá rủi ro dự án, trong các dự án mới chỉ sử dụng phương pháp triệt tiêu rủi ro và phương pháp phân tích độ nhạy để phân tích rủi ro trong khi bản thân phương pháp vẫn còn nhiều hạn chế vì việc đánh giá các yếu tố, mức độ tác động hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định của cán bộ tín dụng, mang tính chủ quan nhiều. Bên cạnh đó, mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các biến cố xảy ra không gắn liền với tần suất xất hiện, chưa xem xét dự án ở các tình huống có thể xảy ra dựa trên cơ sở dự tính xác suất xảy ra. Ngoài ra, phương pháp thẩm định cũng chưa quan tâm nhiều tới việc đánh giá trong trường hợp có lạm phát, trượt giá, nếu có chỉ đơn thuẩn giả định sự biến động một chiều hơn nữa cũng chưa có sự điều chỉnh lãi suất chiết khấu theo tỉ lệ lạm phát hoặc trượt giá. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chủ yếu mới chỉ dựa trên chỉ tiêu NPV, IRR, PP, đây mới chỉ là các chỉ tiêu cơ bản nhất, nó cũng đã phản ánh đầy đủ hiệu quả của dự án tuy nhiên nếu bổ sung thêm một số chỉ tiêu khác thì sẽ đánh giá được dự án toàn diện hơn trên cả lí thuyết và thực tế. 2.2. Hạn chế trong quá trình phân tích nội dung thẩm định tài chính dự án Quy trình, nội dung, hệ thống chỉ tiêu phân tích đã được nghiên cứu và cải thiện nhiều nhưng đôi khi việc thực hiện, tiến hành theo quy trình, hệ thống chỉ tiêu lại không được thực hiện đầy đủ, mang tính thủ tục, nhiều khi chấp nhận một cách thụ động con số, chỉ tiêu do dự án đưa ra mà không có sự kiểm tra, phân tích tỉ mỉ. Các nội dung tính toán đều có liên quan đến việc ước tính doanh thu, chi phí và từ đó làm cơ sở để tiến hành phân tích hiệu quả tài chính dự án, tuy nhiên các khoản mục để ước tính doanh thu, chi phí lại chưa được thống nhất. Ví dụ như việc thẩm định vốn lưu động ròng của dự án. Vốn lưu động ròng đây là một phần vốn trung hạn thường bị chủ dự án bỏ qua và nhiều khi trong quá trình thẩm định cũng không xét tới, hơn nữa nếu có xem xét thì lại chưa đúng phương. Tài sản lưu động ròng là chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Nhầm lẫn ở đây chính là việc chấp nhận tài trợ toàn bộ vốn lưu động thay vì vốn lưu động ròng, nguyên nhân bởi khoản nợ ngắn hạn như phải trả người bán, lương phải trả hay thuế phải trả là khoản tăng lên trong quá trình sản xuất mà cụ thể ở đây là trong giai đoạn đầu đi vào sản xuất, sự tăng lên của nguồn vốn này đã tự động tài trợ cho một phần tăng lên của tài sản lưu động. Tuy nhiên các dự án tại đây nhiều khi lại không đề cập đến vốn lưu động hoặc nếu có thì lại chưa có sự lưu tâm thích hợp tới vốn lưu động ròng, như vậy sẽ làm tăng nhu cầu vốn đầu tư, sai lệch kết quả các chỉ tiêu tài chính. Ngoài ra, trong một số dự án (20% số dự án) chưa đề cập tới vốn dự phòng, đây là một thành phần rất quan trọng của tổng vốn đầu tư dành cho những khoản chi phí phát sinh không dự kiến trước được. Hơn nữa việc tính toán trong nhiều dự án không có cơ sở để so sánh giá cả, chi phí, đặc biệt ít khi xét tới sự biến động đầu ra và đầu vào của dự nên dòng tiền giữa các năm được thiết lập như nhau và hầu hết các dự án đều có lãi ngay trong năm đầu tiên và công suất dự án cũng đạt mức cao ngay từ những năm đầu hoạt động. Thứ hai, đó là việc tính toán chi phí cơ hội vào trong chi phí của dự án, điều này hầu như ở mọi dự án đều bỏ qua, tuy chi phí cơ hội không phải là một khoản thực chi nhưng việc tồn tại của nó thể hiện được chi phí chủ đầu tư đã hi sinh để thực hiện dự án đã chọn, việc đưa chi phí cơ hội trong tính toán chi phí sẽ đảm bảo cho lợi ích nhỏ nhất của dự án sinh ra cũng bù đắp được kỳ vọng đầu tư cho chủ đầu tư nếu thực hiện dự án khác. Tuy nhiên thực tế giá trị này thường rất khó ước lượng hoặc nếu có ước lượng thì cũng không đảm đảo sự chính xác. Thứ ba là việc xác định lãi suất chiết khấu của dự án, trong các dự án chưa thực sự quan tâm đến chi phí vốn của chủ đầu tư mà đều chấp nhận lãi suất chiết khấu là lãi suất do ngân hàng dự tính, thực chất lãi suất chiết khấu phải được ước tính bằng số trung bình của chi phí sử dụng vốn của các bên. Thứ tư đó là việc ít quan tâm thẩm định lại khía cạnh kỹ thuật của dự án mà thường chấp nhận các thông số đưa ra, ít có sự định giá lại; trong khi đó khía cạnh kỹ thuật sẽ quyết định công suất hoạt động, chi phí máy móc thiết bị, chi phí tiêu hao nguyên vật liệu, thời gian khấu hao, chi phí vận hành... đây chính là các yếu tố cấu thành trực tiếp lên việc tính toán, cân đối dòng tiền dự án. Trong khi đó đối với hầu hết các dự án mới chỉ thụ động chấp nhận các thông số kỹ thuật mà chủ đầu tư đưa ra chứ ít khi thẩm định lại như thẩm định về công suất, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhất là giá cả đối với những máy móc, thiết bị nhập khẩu, thẩm định chuyển giao công nghệ và khả năng làm chủ công nghệ. Ngoài những thiếu sót trên còn phải kể tới sự thiếu sót trong việc thiết lập hệ thống các chỉ tiêu định mức tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cho từng ngành, hiện nay để đánh giá các chỉ tiêu này mới chỉ dừng lại ở việc ước lệ, chung chung đánh giá so sánh dựa trên kinh nghiệm là chủ yếu. Tuy đã xây dựng phần mềm đánh giá xếp hạng doanh nghiệp nhưng nguồn số liệu thông tin để chấm điểm lại là một vấn đề cần xem xét. 2.3. Hạn chế về đội ngũ cán bộ tín dụng và công tác tổ chức thực hiện Mặc dù rất chú trọng tới khâu tuyển chọn, đào tại cán bộ tín dụng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Yêu cầu đặt ra của công tác thẩm định dự án đối với một cán bộ tín dụng không chỉ dừng lại ở việc biết tính toán các hiệu quả tài chính dự án mà đòi hỏi có một kiến thức tổng hợp về tất cả các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính của dự án, bên cạnh đó phải biết phân tích, dự báo rủi ro, nắm bắt được những thay đổi của thị trường. Để có thể đáp ứng được toàn bộ các yêu cầu trên thực tế là rất khó khăn vì vậy cần phải có sự tổ chức, phối hợp tốt giữa các cán bộ tín dụng. Tuy nhiên hiện nay việc phân công quản lý dự án theo ngành, lĩnh vực cho cán bộ tín dụng còn chưa rõ ràng, nhất là khi đội ngũ cán bộ ở đây đa số rất trẻ, tuy có kiến thức chuyên môn nhưng kinh nghiệm lại chưa đúc rút được nhiều thì hạn chế này càng cần phải được quan tâm giải quyết. 2.3. Hạn chế về chất lượng công nghệ ứng dụng và công tác thu thập thông tin. Việc áp dụng các phần mềm tính toán trong phân tích hiệu quả tài chính là công cụ quan trọng để nâng cao độ chính xác, rút ngắn thời gian thẩm định, hiện nay mới chỉ áp dụng chủ yếu là phần mềm Excel để thiết lập các bảng tính, trong khi đó phần mềm áp dụng cho công tác đánh giá rủi ro lại đang còn hạn chế, chưa có một phần mềm đặc dụng để đánh giá rủi ro trong các dự án như phần mềm Risk Master, phân tích tình huống, phương pháp mô phỏng Monte Carlo.... Mối quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, khối lượng thông tin liên quan tới dự án cũng ngày càng tăng lên, để đánh giá tính khả thi của mỗi một dự án, công tác thu thập thông tin càng trở nên quan trọng. Thông tin càng đầy đủ, nguồn thông tin càng đáng tin cậy thì việc phân tích tài chính dự án sẽ thuận tiện hơn và được phản ánh chính xác trong dòng tiền của dự án cũng như tăng độ tin cậy của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, nguồn thông tin do dự án cung cấp từ hồ sơ xin vay vốn, từ luận chứng kinh tế - kỹ thuật và nhất là các bản báo cáo tài chính không phải lúc nào cũng phản ánh chính xác tình trạng thị trường, tình hình hoạt động của doanh nghiệp bởi bản thân công tác thu thập thông tin của các doanh nghiệp đang còn rất hạn chế, mang tính chất ước lượng, thủ tục; các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính thì thường không có sự so sánh với mức trung bình của ngành, hơn nữa còn phải nói đến tác động của chính sách kế toán có thể điều chỉnh linh hoạt để che giấu tình hình thực tế, có thể ví dụ như việc áp dụng các phương thức khấu hao và phương pháp xác định tồn kho khác nhau sẽ dẫn đến chi phí khác nhau. Doanh nghiệp có thể chọn khấu hao nhanh để tiết kiệm chi phí khấu hao hay kéo dài thời gian khấu hao hoặc hạ thấp tỷ lệ khấu hao; phương pháp xác định tồn kho khác nhau như FIFO (nhập trước xuất trước) hay LIFO (nhập sau xuất trước) sẽ xác định mức giá sản phẩm khác nhau. Không những thế các thông tin này luôn luôn biến đổi, nhất là thông tin về doanh thu, chi phí; khi phân tích tín dụng các cán bộ tín dụng thường căn cứ trên những số liệu cũ, nếu không xử lý các thông tin, không thu thập thêm các thông tin từ thị trường và thiếu khả năng phân tích báo cáo tài chính và dự báo rủi ro thì kết quả thẩm định sẽ thiếu khách quan, không đáng tin cậy. 2.4. Hạn chế về thời gian, thủ tục thẩm định Theo quy định của MSB, thời hạn tối đa để thẩm định là 20 ngày phải trả lời khách hàng đồng ý hoặc từ chối cho vay, tuy nhiên trong thực tế thời gian này kéo dài hơn nhiều, điều này sẽ làm mất đi cơ hội đầu tư của doanh nghiệp trong thời gian đợi kết quả phê duyệt của ngân hàng. Ngoài vấn đề thời gian thì những thủ tục, giấy tờ liên quan đến việc thẩm định còn đang khá phức tạp. Các báo cáo thẩm định nhiều khi mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn thủ tục hành chính mà chưa có sự đánh giá, phân tích sâu về khía cạnh thị trường, kỹ thuật, công nghệ nhất là việc đánh giá rủi ro khoản vay còn đang khá sơ sài. Những hạn chế trong công tác thẩm định đã cho thấy nguyên nghân xuất phát từ phía công tác tổ chức thẩm định tại ngân hàng, tuy nhiên những hạn chế đó còn là hậu quả của các yếu tố xuất phát từ phía hoạt động chỉ đạo của các ban ngành chức năng và từ phía các doanh nghiệp. 2.5. Nguyên nhân 2.5.1. Nguyên nhân khách quan Hiện nay cơ chế quản lý nhà nước đối với tổng thể phát triển nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực xong vẫn còn một số vấn đề cần được xem xét lại. Thứ nhất là sự yếu kém trong công tác quy hoạch. Công tác quy hoạch được coi như là người chỉ đường cho định hướng phát triển của nền kinh tế, cho từng vùng, địa phương, cho từng ngành và từ đó xây dựng nên các định mức, tiêu chuẩn để tiến hành xây dựng dự án, tuy nhiên những định hướng đó vẫn chưa mang tính cụ thể, chủ trương của nhiều cơ quan ban ngành lại vẫn thường xuyên tồn tại nhiều mâu thuẫn dẫn đến tình trạng đầu tư chồng chéo, đầu tư theo phong trào mà không quan tâm tới tính khả thi của ngành, địa phương ví dụ như việc yếu kém trong công tác quy hoạch cảng thêm vào đó các địa phương lại đua nhau xây dựng nên dẫn đến tình trạng các cảng mới thì không sử dụng hết công suất mà các cảng lớn cũ như cảng Sài Gòn lại luôn trong tình trạng tắc nghẽn. Bên cạnh đó, tầm nhìn quy hoạch phát triển kinh tế đáng lẽ phải mang tính chất lâu dài thì lại không ổn định, các quy hoạch chồng chép nhau khiến cho nhiều dự án phải dừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng ví dụ như dự án phát triển Hải Phòng trở thành trung tâm thuỷ sản vùng duyên hải Bắc Bộ, nhưng khi một số dự án đã đổ vốn vào dự án thì phải dừng lại vì thay đổi trong quy hoạch sử dụng đất. Hơn nữa, các dựa án thường có tuổi thọ dài, rủi ro từ các nhân tố khách quan là rất khó dự như chỉ tiêu vĩ mô, biến động từ các yếu tố bên ngoài như tình hình kinh tế vĩ mô, điều kiện môi trường, thời tiết, văn hoá xã hội. Các chỉ tiêu vĩ mô như tình hình phát triển kinh tế đất nước và thế giới, các chỉ tiêu lạm phát hay sự biến động tỷ giá đều có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu, chi phí đầu vào của dự án; sự thay đổi các nhân tố này thay đổi nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng cà chủ dự án. Nếu những yếu tố này không ổn định thì theo thời gian tính khả thi của dự án có thể sẽ thay đổi theo, làm đảo lộn mọi con số tính toán. Thứ hai là việc các ban ngành chưa quan tâm tới việc xây dựng một hệ thống thông tin thị trường, giá cả, thông tin về các chỉ số phát triển của từng ngành, thông tin rủi ro trong hệ thống ngân hàng nên vẫn chưa có cơ sở so sánh, đánh giá cho công tác thẩm định, dẫn đến tình trạng nhiều dự án treo vì không nắm bắt được thông tin thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn thiếu những hướng dẫn cụ thể về kỹ thuật thuật thẩm định, mà mới chỉ có một số văn bản hướng dẫn hành chính. Thứ ba là việc chưa xây dựng hành lang quản lý thống nhất giữa các doanh nghiệp đã tạo ra kẽ hở để các doanh nghiệp không thực hiện đúng theo quy định, như quy định kiểm toán bắt buộc đang còn khá hạn chế đối với những doanh nghiệp nhà nước mà đây lại là đối tượng chủ yếu của ngân hàng. Hơn nữa, các thông tin hoạt động tài chính ngầm của các công ty lại rất khó nắm bắt mặc dù nhà nước luôn có các chính sách minh bạch hoá các thông tin doanh nghiệp nhưng thực tế vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Chính vì vậy đã làm cho ngân hàng rất lúng túng trong việc xử lý các thông tin doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc thay đổi thường xuyên các quy định của nhà nước cũng làm các ngân hàng tỏ ra rụt rè với nhiều dự án đang nằm trong diện thay đổi. 2.5.2. Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp Hạn chế của các doanh nghiệp hiện nay đó là chưa chú trọng tới công tác lập dự án. Nguồn khai thác thông tin thị trường nghèo nàn, các thông tin mới chỉ tổng hợp từ các phương tiện truyền thông báo chí, chưa có một kho số liệu thị trường, số liệu ngành để tham khảo. Thông số kỹ thuật đưa ra cụ thể nhưng vẫn chưa hoàn toàn đảm bảo độ tin cậy cao. Các nội dung trong phân tích tài chính còn nhiều thiếu sót như dự tính tổng vốn đầu tư, dự tính khả năng tài trợ dự án bằng vốn chủ sở hữu nhiều khi còn quá thấp, nhất là việc các phân tích hiệu quả tài chính vẫn đang còn khá sơ sài, chưa nhận thức đúng về các khái niệm giá trị thời gian của tiền, lãi suất chiết khấu, dòng tiền phù hợp, đôi khi còn nhầm lẫn giữa dòng tiền dự án với lợi nhuận kế toán. Khả năng tiêu thụ của dự án được ước lượng bình quân theo số liệu tự thống kê mà không xét đến nguồn lực để đạt được khả năng đó. Một số các doanh nghiệp thường cố tình làm sai lệch giá trị doanh nghiệp bởi vì theo quy định của ngân hàng khi doanh nghiệp muốn vay vốn đầu từ thì phải có ít nhất 20% vốn đối ứng nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được. Ngoài năng lực về vốn đối ứng, không ít doanh nghiệp còn cố tình đưa ra những bản báo cáo tài chính không phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp mà chỉ nhằm tạo dựng lòng tin ở phía ngân hàng như việc khai khống giá trị vật tư hàng hoá, tài sản, sử dụng tài sản để thế chấp vay nhiều nơi hoặc vay nơi này trả nơi khác mà không công khai... Tất cả những mặt tiêu cực này nếu phía ngân hàng không có sự xử lý thông tin thường xuyên thì sẽ gây mất an toàn đối với việc thu hồi nợ. Qua quá trình tìm hiểu, phân tích trên cho thấy hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD tuy đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể nhưng vẫn không tránh khỏi những vướng mắc cần giải quyết, những hạn chế đó bắt nguồn từ cả phía ngân hàng lẫn phía doanh nghiệp và nguyên nhân khách quan mang tính vĩ mô. Ngân hàng cần nhìn nhận các hạn chế đó một cách khách quan để tìm giải pháp khắc phục, cùng với đó là tiếp tục phát huy những thế mạnh hiện có để nâng cao năng lực cạnh tranh CHƯƠNG II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SỞ GIAO DỊCH - NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI TRONG THỜI GIAN TỚI I. Định hướng của Sở giao dịch trong thời gian tới Trong thời gian qua, tuy vừa củng cố tổ chức và đồng thời phát triển mạnh kinh doanh, Maritime Bank vẫn là một trong các NHTMCP có chất lượng hoạt động hàng đầu của Việt Nam. Khối lượng khách hàng lớn và truyền thống vẫn luôn được duy trì, chất lượng dịch vụ vẫn luôn được đảm bảo. Là một chi nhánh hàng đầu của MSB, SGD phải luôn luôn giữ vững nhiệm vụ trung tâm đầu mối cho hoạt động của ngân hàng, dựa trên chiến lược, định hướng phát triển của MSB để từ đó đưa ra kế hoạch phát triển của SGD. Định hướng mục tiêu hoạt động Nhiệm vụ trước mắt của SGD đó là tiếp tục bám sát các chỉ tiêu chỉ đạo của Chính Phủ và NHNN, cũng như của ngân hàng MSB, tích cực thực thi chính sách tiền tệ hỗ trợ vốn và dịch vụ tiết kiệm chi phí tối đa nhằm chia sẽ khó khăn với khách hàng sản xuất kinh doanh thông qua các chính sách lãi suất, phí, ưu tiên khách hàng xuất khẩu, sản xuất chế biến nông thủy sản, doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần đòn bẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục tăng trưởng với các chỉ tiêu cơ bản trong 5 năm tới: + Tổng dư nợ hàng năm tăng: 40 - 50% + Nguồn vốn huy động tăng hàng năm : 40 -50% + Nợ quá hạn dưới 5% Định hướng công tác huy động tiền gửi Trong thời gian tới tiếp tục duy trì và phát huy những biện pháp huy động vốn hữu hiệu hiện tại, củng cố uy tín và đưa ra những hình thức phong phú, hấp dẫn để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, xã hội; quảng bá sâu rộng hình ảnh tới mọi tầng lớp nhân dân; tốc độ tăng trưởng trong 5 năm tới đạt trên 50% mỗi năm. Định hướng hoạt động cho vay Trong công tác cho vay cần tiếp tục mở rộng các mối quan hệ để thu hút và tìm kiếm các dự án khả thi nhằm đẩy mạnh Công tác cho vay, phục vụ tốt hơn sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Tiếp tục tìm kiếm, mở rộng những khách hàng mới triển vọng, không phân biệt loại hình sở hữu, quy mô kinh doanh, đồng thời giữ mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống. Đưa ra những hình thức cho vay dân cư và tổ chức phong phú, tiện ích, phục vụ nhu cầu của đời sống. Phát triển các sản phẩm mới có sự hỗ trợ của các chương trình khuyến mãi có trọng điểm đồng thời tích cực quảng bá các sản phẩm tới các tầng lớp dân cư Tiến hành huy động vốn, tăng trưởng nguồn vốn theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn. Chủ động tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về vốn, cơ cấu lại kỳ hạn và lãi suất, tận dụng cơ hội thị trường để giảm chi phí huy động vốn, đảm bảo và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Đổi mới cải tiến chất lượng dịch vụ thủ tục giao dịch và phong cách phục vụ nâng cao tinh thần tác phong trách nhiệm của các bộ phận giao dịch chuyên nghiệp và tạo ấn tượng với khách hàng. Tiếp cận khai thác mở rộng thị trường tín dụng nhằm vào các khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định phát triển sản xuất ổn định. 2. Định hướng công tác thẩm định và thẩm định tài chính dự án - Hoàn thiện và bổ sung đầy đủ mọi nội dung dựa trên việc phân tích, đánh giá khách quan, chính xác, đảm bảo độ an toàn cao trong công tác thẩm định. Số lượng và chất lượng dự án phải đồng thời được chú trọng nâng cao. - Thẩm định tài chính phù hợp với các chủ trương chính sách của nhà nước, các Bộ các ngành liên quan. Tuân thủ các quy định về thẩm định của ngân hàng Hàng Hải đồng thời phát huy lợi thế của SGD. - Xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Thường xuyên tổ chức điều hành, kiểm tra, hướng dẫn công tác thẩm định tài chính tại chi nhánh ngân hàng Định hướng công tác thẩm định tài chính - Củng cố nhận thức đúng đắn về vai trò và nội dung của thẩm định tài chính trong công tác thẩm định cũng như trong hoạt động tín dụng và uy tín của ngân hàng. - Cần tiếp tục hoàn thiện nội dung và phương pháp, tổ chức thẩm định ngày càng khoa học, kinh tế; bên cạnh đó tiếp tục tăng cường công tác quản lí sau cho vay để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án, đảm bảo an toàn nguồn vốn và khả năng thu hồi nợ, mục tiêu tỉ lệ nợ xấu không quá 5% tổng dư nợ, hạn chế tối đa nợ quá hạn loại 3. Đứng trước những kết quả đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại và dựa trên cơ sở định hướng phát triển cho giai đoạn tiếp theo tôi xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cho công tác thẩm định tài chính dự án sau đây: II. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch. 1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin dữ liệu tín dụng hỗ trợ thẩm định tài chính dự án Hệ thống thông tin hỗ trợ cho ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án đang rất còn hạn chế, manh mún, đặc biệt là đối với công tác thẩm định tài chính dự án như việc thiếu số liệu đánh giá ngành, lĩnh vực, số liệu thị trường về giá cả và sự biến động của giá cả cũng như nhu cầu tiêu dùng. Thông tin không những ảnh hưởng đến hiệu quả thẩm định tài chính mà còn là công cụ cạnh tranh hữu hiệu với các ngân hàng khác, nguồn thu thập thông tin thể hiện trình độ khai thác, mối quan hệ với các tổ chức có liên quan. Nếu lượng thông tin không đầy đủ sẽ không đủ dẫn chứng thuyết phục để phản ánh đầy đủ mọi khía cạnh của dự án, đồng thời các kết luận sẽ không có độ chính xác cao. Ngân hàng là một tổ chức tài chính có mối quan hệ rộng lớn với các tổ chức kinh tế trong xã hội, vì vậy cần thiết phải liên tục mở rộng hơn nữa các mối quan hệ này, nhất là đối với các hiệp hội ngành nghề để từ đó có được những thông tin cập nhật về xu hướng giá cả, thị trường, kỹ thuật, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay. Tuy nhiên, bản thân ngân hàng cũng cần phải tự hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ của mình, thiết lập hệ thống thu thập thông tin định kỳ trong toàn hệ thống. Nguồn lực cho cơ sở này chính là thông tin từ các chi nhánh của MSB trên toàn quốc, các chi nhánh sẽ thu thập thông tin về tình hình trên địa bàn sau đó sẽ được tổng hợp tại trụ sở để từ đó có được hệ thống thông tin về các ngành, lĩnh vực, địa phương phong phú như thông tin về tình hình kinh tế xã hội nói chung, các chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước về tình hình đầu tư trong và ngoài nước, thông tin quy hoạch, chế độ tài chính với từng doanh nghiệp, chế độ khấu hao, chế độ ưu đãi cùng với các thông tư, văn bản pháp luật có liên quan, thông tin giá cả, sự biến động của thị trường. Để thực hiện được mục tiêu này, ngân hàng lại cần phải xây dựng hệ thống trang thiết bị đồng bộ và hơn hết là đội ngũ nhân viên có chuyên môn. Những nguồn thông tin có thể tự khai thác như trên mới chỉ là điều kiện bổ sung trong hệ thống thông tin thẩm định, nguồn thông tin chính là thông tin từ phía doanh nghiệp. Như đã phân tích, nguồn thông tin doanh nghiệp cung cấp thường có độ tin cậy không cao, chính vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn thông tin quan trọng này cần phải yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ chặt chẽ các quy định về số liệu đồng thời nâng cao công tác thẩm định số liệu. Ngân hàng cần yêu cầu doanh nghiệp trình đầy đủ các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của công ty bởi đây là những nguồn tin quan trọng, cập nhật nhất. Đối với những doanh nghiệp hoạt động lâu năm cần yêu cầu các báo cáo phải yêu cầu cung cấp số liệu ít nhất là 3 năm vì số liệu trong 2 năm sẽ không thể nói lên được xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn đối với các doanh nghiệp mới hoạt động cần phải tăng cường công tác hỗ trợ cũng như công tác quản lí sau cho vay hơn nữa. Đồng thời quy định báo cáo phải có chứng nhận của tổ chức kiểm toán có uy tín kiểm tra tính xác thực của nguồn số liệu, quy định này rất cần thiết vì công tác kiểm toán hiện nay tại các doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, không phải doanh nghiệp nào cũng trung thực đối với các số liệu nộp cho ngân hàng, nếu không thì chính các cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm trong việc kiểm định thông tin, có thể phối hợp với bộ phận kiểm toán bên ngoài hoặc lập nên ban kiểm toán riêng, chi phí do phía doanh nghiệp chịu hoàn toàn. Bên cạnh các báo cáo tài chính thì báo cáo thường niên và các báo cáo nội bộ, báo cáo tài chính tổng hợp sẽ là công cụ đắc lực để ngân hàng kiểm tra sự thay đổi trong tình hình tài chính, nhân sự, quản lý của doanh nghiệp, nhất là đối với những công ty đang có vấn đề tài chính, chưa thể cân đối được thì sẽ có sự chậm trễ trong việc cung cấp các tài liệu trên. Nguồn thông tin không kém phần quan trọng để thẩm định lại tư cách doanh nghiệp đó chính là thông tin từ phía các ngân hàng khác, sự hợp tác cung cấp thông tin giữa các ngân hàng là rất cần thiết, ngoài ra ngân hàng có thể khai thác thông tin tổng hợp cơ quan Thuế, từ CIC – trung tâm dữ liệu tín dụng Quốc gia. Qua nguồn thông tin này ngân hàng có thể kiểm tra quan hệ của doanh nghiệp với các ngân hàng, xem xét thiện chí hợp tác trả nợ, xem xét uy tín, vị trí của doanh nghiệp. Cuối cùng, ngân hàng nên tiến hành thường xuyên hơn các hoạt động thực tế, khảo sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp tại nơi sản xuất kinh doanh để có cái nhìn sâu sắc nhất về doanh nghiệp. 2. Tăng cường các phương pháp thẩm định tài chính hiện đại Trên cơ sở số liệu thông tin đã thu thập được thì việc lựa chọn phương thức tiến hành, lựa chọn chỉ tiêu đánh giá, cách thức xử lí thông tin một cách khoa học tiên tiến, phù hợp với từng dự án cụ thể sẽ giúp cho việc thẩm định tài chính nhanh chóng, chính xác, tin cậy hơn. Từ những kết quả cũng như hạn chế đã chỉ ra cho thấy phương pháp thẩm định phải mang đầy đủ mọi nội dung đề cập đến tất cả các vấn đề tài chính có liên quan khi đứng trên góc độ ngân hàng. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện phương pháp hiện tại như trong quá trình đánh giá chi tiết dự án hay trong việc phân tích so sánh, đối chiếu, dự báo các chỉ tiêu cần đảm bảo được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ mọi nội dung, phân tích rủi ro, đánh giá độ nhạy trên nhiều chỉ tiêu cùng với đó phân tích kỹ lưỡng trên từng khía cạnh dựa trên những số liệu đã qua xử lí. Bên cạnh đó cần bổ sung thêm các phương pháp đánh giá rủi ro như phân tích tình huống, phân tích xác suất để phân tích khách quan hơn những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án. Đây là những phương pháp đòi hỏi nhiều thông tin hơn nhưng kết quả lại rất đáng tin cậy. Qua phép mô phỏng cũng sẽ tự động tính toán và phân phối xác suất cho các tình huống có thể xảy ra để từ đó làm căn cứ để tính toán các chỉ tiêu kỳ vọng. 3. Tăng cường thẩm định thông tin khách hàng liên quan đến thẩm định tài chính dự án Gần đây công tác phân tích các chỉ tiêu định tính đã có sự quan tâm thích đáng nhưng việc thực hiện nhiều khi vẫn chưa đạt yêu cầu như việc tìm hiểu thông tin doanh nghiệp, định hướng, chiến lược phát triển mục tiêu doanh nghiệp, trình độ, năng lực, chuyên môn của bộ máy quản lý vì chúng có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thực hiện và vận hành dự án, tức là ảnh hưởng đến dòng tiền dự án. Thứ nhất là chú trọng hơn nữa công tác kiểm tra định hướng phát triển của doanh nghiệp, các cán bộ tín dụng phải xác định được vị trị hiện tại của doanh nghiệp trên thị trường trong phạm vi ngành, lãnh thổ, qua đó tìm hiểu nội dung, sự phù hợp, các điểm mạnh, yếu trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp về sản phẩm, sản xuất, nhân sự, tài chính.... Các kế hoạch này cần đạt được sự phù hợp với nhiệm vụ của công ty cũng như với môi trường kinh doanh, lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Bên cạnh đó cần đánh giá môi trường hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá mức độ cạnh tranh,thị phần, đánh giá mức hoạt động của ngành. Nội dung thứ hai đó là thẩm định ban quản lý doanh nghiệp vì thực chất hoạt động cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng chính là mối quan hệ giữa ngân hàng và bộ máy quản lý, chính họ mới là người trực tiếp đưa ra kế hoạch và sử dụng nguồn vốn vay. Ngoài việc thẩm tra năng lực pháp lí, tư cách của người đứng đầu, các cán bộ tín dụng cũng cần phải nắm bắt được các thông tin về tư cách, danh tiếng, trình độ chuyên môn, khả năng quản lý, tầm nhìn của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là phải quan tâm tới cơ cấu bộ máy và đội ngũ cán bộ kế cận được đào tạo để kế nhiệm bởi dự án thường kéo dài trong nhiều năm và khả năng thay đổi nhân sự trong bộ máy quản lý là hoàn toàn có thê xảy ra. Để khai thác được nguồn thông tin này phụ thuộc rất nhiều và khả năng thu thập, nắm bắt, đánh giá của cán bộ tín dụng. 4. Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính Hiện nay việc phân tích các chỉ tiêu định lượng hiệu quả tài chính dự án đã được thực hiện khá đầy đủ và bài bản tuy nhiên những hạn chế trong việc xác định tổng vốn đầu tư, dòng tiền, lãi suất chiết khấu, phân tích và đánh giá rủi ro. Thứ nhất, trong cơ cấu tổng vốn đầu tư có rất nhiểu khoản mục, không chỉ thẩm định sự đầy đủ mà quan trọng hơn hết là nguồn gốc và sự chính xác của chúng. Tính chính xác tổng vốn đầu tư cán bộ thẩm định phải căn cứ vào các định mức kinh tế kỹ thuật của ngành, xem xét các dự án tương tự đã thực hiện trong thời gian gần nhất. Hiện nay thường hay thiếu sót khoản vốn lưu động ròng và nguồn vốn dự phòng phục vụ cho nhu cầu sản xuất của dự án. Việc dự tính thiếu vốn đầu tư làm phát sinh vốn trong quá trình thực hiện và từ đó kéo dài thời gian dự án, ảnh hưởng đến cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Vì vậy, khi tiến hành thẩm tra, ngân hàng cần chú ý tính toán cả nguồn vốn lưu động ròng, đây là khoản chênh lệch giữa vốn lưu động (nguyên vật liệu, hàng tồn kho...) và nợ ngắn hạn. Thực tế cho thấy có những doanh nghiệp do không đủ hoặc không đưa vốn tự có tham gia vào dự án nên đã cố tình tăng các đơn giá và các khoản mục chi phí để tăng vốn đầu tư, nếu ngân hàng không xem xét kỹ thì vô tình đã tài trợ vựơt quá mức yêu cầu, có thể làm mất an toàn nguồn vốn. Sự an toàn của các nguồn tài trợ cũng không kém phần quan trọng, phải xem xét kỹ lưỡng cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế của nguồn vốn thông qua việc yêu cầu minh bạch tình hình tài chính của mỗi ngân hàng, đề ra trách nhiệm cụ thể nếu gây ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án. Thứ hai là vấn đề xác định dòng tiền, cần phải xác định rõ phương pháp tính dòng tiền dựa trên góc độ ngân hàng, xác định rõ từng khoản mục trong dòng tiền ra và dòng tiền vào. Dòng tiền ra bao gồm vốn đầu tư, vốn lưu động, trả nợ vay, hoàn trả vốn, giảm các khoản chi trả... Dòng tiền vào bao gồm lợi nhuận sau thuế, vốn vay, khấu hao, thu thanh lý, phần chưa khấu hao, thu vốn lưu động vào năm cuối đời dự án. Khi tính chi phí của dự án vay vốn chi nhánh ngân hàng cần xem xét tất cả các chi phí có tể phát sinh đối với dự án như: chi phí tiền thuê đất, tiền giải phóng mặt bằng, chi phí trả lãi vay... để từ đó có biện pháp dự báo vôn dự phòng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần quan tâm tới cơ cấu của chi phí đầu tư để dự án áp dụng tỷ lệ khấu hao phù hợp, đối với phần chi phí trước vận hành cần tách ra để tính thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp vào chi phí xây lắp. Mặt khác cán bộ thẩm định cũng phải xem xét công nghệ áp dụng trong dự án, dự án có sử dụng công nghệ có sử dụng công nghệ phù hợp với trình độ vận hành hay với quá trình sản xuất sản phẩm hay không, từ đó đánh giá chất lượng cũng như thị trường tiêu thụ và khả năng có lãi của dự án. Ngoài những vấn đề cơ bản thường được nhắc đến như trên, khi tính toán dòng tiền cần có sự cân nhắc khi tính đến tác động của lạm phát, trượt giá vì yếu tố này có thể tác động đến cả đầu vào và đầu ra của dự án. Như vậy tùy vào từng điều kiện thị trường mà phải xác định được mức độ tác động này lên từng yếu tố, chúng có thể tự triệt tiêu nhau nếu có tác động như nhau hoặc nếu khác thì chúng ta phải có những tính toán tăng giảm doanh thu, chi phí phù hợp với đánh giá đó. Khi dự án chịu tác động của lạm phát, trượt giá thì cần thiết phải xác định lại lãi suất chiết khấu thực của dự án cho phù hợp với dòng tiền thực. Một vấn đề còn tồn tại hiện nay trong tính chi phí của các dự án đó là việc thường bỏ qua chi phí cơ hội của dự án, điều này sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác của lãi suất chiết khấu, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, vì vậy ngân hàng cần kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước để có phương pháp tính toán phù hợp, đảm bảo đánh giá đúng chi phí cơ hội. Thứ ba là vấn đề lãi suất chiết khấu, thay vì việc chấp nhận lãi suất cho vay chính là lãi suất chiết khấu, ngân hàng cần có sự điều chỉnh phù hợp dựa trên căn cứ về cơ cấu vốn để tính chi phí sử dụng vốn bình quân gia quyền, nhất là khi dự án vay vốn đồng thời ở nhiều ngân hàng, mỗi nơi lại đánh giá lãi suất chiết khấu khác nhau. Thứ tư là hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngoài việc đảm bảo sự chính xác trong khâu tính toán và xây dựng dòng tiền thì cần đưa thêm 1 số chỉ tiêu để đánh giá như chỉ tiêu điểm hoà vốn, chỉ tiêu B/C, chỉ tiêu ROE của dự án.... để đảm bảo cho dự án được xem xét một cách toàn diện, sâu sắc. Hệ thống các chỉ tiêu phải được tính toán dựa trên nguyên tắc đảm bảo giá trị thời gian của tiền. 5. Nâng cao năng lực cán bộ tín dụng và chất lượng công tác tổ chức thẩm định Để xây dựng một đội ngũ cán bộ chất lượng trước hết cần yêu cầu tất cả mọi thành viên tôn trọng và tuân thủ mọi quy định của ngân hàng đề ra về vấn đề nâng cao năng lực,chuyên môn, về thái độ làm việc và về đạo đức nghề nghiệp. Ngân hàng cần tăng cường tuyển dụng và đào tạo lớp cán bộ trẻ năng động, nhạy bén, có trình độ kiến thức đồng thời phải quan tâm tới việc xây dựng các quy tắc, chuẩn mực về trình độ cán bộ để làm tiêu chuận lựa chọn và có kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo và đào tạo lại cán bộ thẩm định tín dụng để kịp thời nắm bắt được những thay đổi trong quy trình, phương pháp thẩm định và cần tạo điều kiện để cho họ nâng cao trình độ, kiến thức và kinh nghiệm làm việc. Đội ngũ cán bộ không chỉ biết phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án mà trước những yêu cầu mới đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức sâu sắc về cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng và cả khả năng phân tích tài chính; khuyến khích cán bộ tín dụng tham gia nghiên cứu khoa học, đề xuất sáng kiến trong lĩnh vực thẩm định, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn giữa các lớp cán bộ với nhau. Kinh nghiệm cần được tích luỹ trong hoạt động thực tiễn khi tiếp xúc với khách hàng, khảo sát hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường, kỹ thuật của dự án. Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng là vấn đề không kém phần quan trọng, nếu cán bộ tín dụng có những hành vi trái với đạo đức nghề nghiệp sẽ gây ảnh hưởng tới uy tín và chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên vấn đề này không phải dễ phát hiện vì vậy ngoài việc phải có các biện pháp quản lý, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên kết quả và chất lượng công việc của mỗi cán bộ tín dụng thì các cấp quản lý cần phải đề ra các biện pháp kỷ luật, khen thưởng thích đáng và tạo ra môi trường làm việc thân thiện, khuyến khích mọi người nêu cao tinh thần trách nhiệm, có tính kỷ luật và tâm huyết với nghề. Kết quả thẩm định là công việc của cá nhân nhưng nó ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân hàng vì vậy yêu cầu cán bộ thẩm định phải có kỷ luật cao, tận tuỵ với công việc, chủ động và sáng tạo trong quá trình thẩm định. Bên cạnh đó để nâng cao thế mạnh của mỗi người cần phân công công việc theo năng lực và kinh nghiệm, thực hiện phân quyền đề nghị cấp tín dụng và chịu trách nhiệm quản lý thông tin dự án cho đến khi hoàn thành mọi thủ tục có liên quan, tuy nhiên sự phân quyền này vẫn cần có sự liên kết giữa các thành viên nhằm đảm bảo kết quả thẩm định và thời gian thẩm định. Việc tổ chức điều hành công tác thẩm định phải đảm bảo khoa học, chặt chẽ nhưng vẫn phát huy được năng lực, sáng tại của cá nhân và tập thể. 6. Tăng cường đầu tư trang thiết bị kỹ thuật Trang thiết bị là phương tiện quan trọng trợ giúp cho các cán bộ tín dụng áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại để tiến hành phân tích dự án một cách chính xác, nhanh chóng và khoa học hơn. Các trang thiết bị này cần phải đáp ứng được nhu cầu truy cập, xử lý thông tin lớn, chính xác trong thời gian ngắn vì vậy việc trang bị, nâng cao các thiết bị kỹ thuật tiên tiến là điều cần thiết. Hiện nay, ngân hàng đã trang bị cho mỗi cán bộ tín dụng một máy tính có đầy đủ tất cả các hỗ trợ cần thiết, tuy nhiên do sự tiến bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển của kỹ thuật phân tích dự án ngày càng phát triển, thêm vào đó là nhu cầu quản lý, lưu trữ và tìm kiếm thông tin của ngân hàng càng tăng nên để phục vụ cho lợi ích lâu dài ngân hàng cần có kế hoạch, lộ trình, phương pháp lựa chọn đầu tư công nghệ thích hợp. 7. Nâng cao vai trò tư vấn của ngân hàng đối với doanh nghiệp Hiện nay công tác lập dự án ở các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang còn rất hạn chế. Đa số các doanh nghiệp khi đi vay vốn lần đầu đều rất bỡ ngỡ đối với công tác lập dự án vì họ không có chuyên môn về dự án, lập dự án cũng như việc tiếp cận, khai thác các nguồn thông tin đánh giá cũng rất hạn chế. Chính điều này làm cho việc thẩm định tốn rất nhiều thời gian, chi phí. Do đó, việc phát huy khả năng tư vấn của ngân hàng là điều cần thiết, có lợi cho cả hai bên. Để làm được điều này cán bộ tín dụng cần phải tinh thông nghiệp vụ ngân hàng, có sự am hiểu về thông tin của lĩnh vực đầu tư, biết cách tổng hợp và sử dụng thông tin khai thác được, nắm rõ các khái niệm liên quan đến dự án, quy trình, sự cần thiết của đầu tư theo dự án và phải nắm rõ quy trình lập dự án. Nếu công tác tư vấn được thực hiện tốt sẽ giúp ngân hàng có thêm thông tin xác thực để làm căn cứ thẩm định dự án và quyết định cho vay. III. Những kiến nghị đối với các cấp hữu quan nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án. Để thực hiện được các giải pháp trên ngoài nỗ lực của ngân hàng còn cần có sự phối hợp, trợ giúp lớn từ phía các cơ qua nhà nước, các bộ ban ngành và ngân hàng Nhà nước để tạo dựng môi trường kinh tế, pháp lý thuận lợi hơn cho công tác thẩm định tài chính được nâng cao. Dưới đây là một số kiến nghị của bản thân để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án. 1. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Trước hết nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định, khoa học để tạo tiền đề ổn định cho hoạt động đầu tư, ban hành các quy chế về đầu tư, sản xuất kinh doanh, tài chính kế toán, nâng cao kiến thức về đầu tư và đầu tư theo dự án... để vừa làm cơ sở cho doanh nghiệp hoạt động, vừa làm cơ sở cho đánh giá của ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, chỉnh sửa và hoàn thiện các chính sách cụ thể về thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh, tránh tình trạng khi bên vay bị vô hiệu hoá nghĩa vụ sơ cấp thanh toán khoản vay thì nghĩa vụ trong bảo lãnh cũng mất hiệu lực, như vậy sẽ gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động ngân hàng, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Thứ hai là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự phát triển của đất nước để tránh gây ra những biến động vượt ra xa khỏi sự dự tính của phía ngân hàng, tránh gây ra sự đổ vỡ, đình trệ của các dự án. Bên cạnh đó, nhà nước cần đưa ra các quy chế tập trung vào xây dựng hệ thống thông tin minh bạch về thông doanh nghiệp, tiến hành thành lập tổ chức chuyên gia đánh giá, phân loại và xếp hạng doanh nghiệp. Điều này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí và giảm thiểu tiêu cực, rủi ro đối với các ngân hàng, từ đó sẽ có những quyết định cho vay chính xác, hiệu quả hơn đồng thời cũng là biện pháp kích thích các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn. Thứ ba, nhà nước cần phối hợp với bộ Tài chính để ban hành các quy định về hạch toán tài chính kế toán đối với các thành phần kinh tế đảm bảo tính chuẩn mực, đồng bộ của công tác kế toán, minh bạch các báo cáo tài chính bên cạnh đó cần có yêu cầu bắt buộc phải có kiểm toán các số liệu đó. Cùng với đó nhà nước cũng cần ban hành các chế tài xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Ngoài ra, nhà nước cần lưu tâm đến việc xây dựng một trung tâm hỗ trợ định giá máy móc, công nghệ để giải quyết những khó khăn về chuyên môn kỹ thuật không chỉ cho các cán bộ tín dụng mà còn có lợi cho các doanh nghiệp. 2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần có những định hướng mang tính vĩ mô trong từng thời kỳ để định hướng cho các hoạt động của các ngân hàng vào việc ưu tiên tín dụng cho phát triển ngành, thành phần, khu vực trọng điểm, phục vụ phát triển kinh tế theo định hướng của nhà nước. Bên cạnh đó, cần thiết phải ban hành một cẩm nang tham khảo chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng về thẩm định dự án nhất là thẩm định tài chính, có như vậy mới đảm bảo được tính đồng bộ, chuẩn mực và nâng cao chất lượng thẩm định. Cần phải đưa ra các chế tài xử phạt thích đáng đối với những thành viên vi phạm cơ chế, thể lệ, quy định tín dụng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Tổ chức phổ biến rộng khắp các văn bản mới cho tất cả các ngân hàng thành viên và yêu cầu các ngân hàng thành viên có trách nhiệm phổ biến trong hệ thống mình. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra tình hình tín dụng, kiểm soát nội bộ trong hệ thống ngân hàng. Hơn nữa tập trung hoàn thiện trung tâm dữ liệu tín dụng Quốc gia CIC, yêu cầu tất cả các ngân hàng thành viên phải tham gia và minh bạch tình hình tín dụng của các doanh nghiệp đồng thời đề ra các quy chế trao đổi, thu thập thông tin giữa các thành viên. Tăng cường sự hợp tác giữa CIC và các cơ quản quản lý kinh tế như các bộ, tổng cục thống kê hay các hiệp hội ngành... để nắm bắt thông tin thị trường. Ngoài ra, cũng cần tăng cường sự liên kết với các tổ chức tài chính trên thế giới để có thể thu thập và xử lý thông tin biến động trên thị trường quốc tế, thông tin về các doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu đầu tư tại Việt Nam. Kiến nghị đối với ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam Ngân hàng cần nhanh chóng xây dựng mạng lưới thông tin nội bộ, tăng cường đầu tư thêm trang thiết bị trên toàn hệ thống để phục vụ cho công tác thu thập, xử lí và triển khai thông tin. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định dự án và thẩm định tài chính dự án. Trước hết cần tăng số lượng cũng như chất lượng công tác thẩm định, bổ sung, hoàn thiện các nội dung còn thiếu của thẩm định tài chính cũng như nghiên cứu ứng dụng các phương pháp mới. Ngân hàng nên có kiến nghị với ngân hàng Nhà nước để thành lập một công ty chuyên đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp, việc làm này sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả trong công tác thẩm định, nâng cao tính chuyên môn hóa trong hoạt động tài chính. Tăng cường tự kiểm toán hoặc phối hợp kiểm toán để kiểm tra, đánh giá nguồn gốc, độ tin cậy của cơ sở số liệu khách hàng trên tinh thần hợp tác, hỗ trợ và hợp tác với nhau. Không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ khách hàng. KẾT LUẬN Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một nội dung trọng tâm quyết định tính khả thi của dự án và đánh giá khả năng trả nợ của dự án đối với ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính là điều kiện tiên quyết để cải thiện chất lượng tín dụng. Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu, lý luận kết hợp với những quan sát thực tế trong thời gian thực tập tại SGD – ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam, khoá luận đã thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất là đánh giá tổng quan về hệ thống ngân hàng Hàng Hải và tình hình hoạt động của Sở giao dịch, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng công tác thẩm định tài chính tại đây. Thứ hai là đưa ra những giải pháp và kiến nghị của bản thân đối với các bên có liên quan nhằm xây dựng môi trường cho việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Mặc dù đề tài không mới xong các dự án luôn nằm trong các mối quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp; trình độ, phương pháp thẩm định ngày càng được phát triển; cùng với đó là việc tiếp cận, xử lí các nội dung trong thẩm định tài chính chưa được nhất quán hơn nữa yêu cầu của công tác thẩm định tài chính ngày càng chặt chẽ, khoa học và đòi hỏi độ tin cậy cao vì vậy nâng cao chất lượng thẩm định tài chính này đang càng trở nên cần thiết; chất lượng của công tác thẩm định tài chính có mối quan hệ thiết thực tới chất lượng tín dụng các ngân hàng, chất lượng dự án đầu tư của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng lên chất lượng đầu tư nói chung. Do kiến thức, trình độ lý luận và sự hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong nhận được ý kiến đóng góp của những người quan tâm. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO GS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS. TS Từ Quan Phương (2007), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. GS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (2007), Giáo trình Lập dự án Đầu tư, NXB. Nguyễn Thị Mùi (2007), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại, Nxb Học viện Tài chính. TS. Nguyễn Minh Kiều (2007), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, Nxb Tài chính. Ths. Đinh Thế Hiển (2006), Lập – thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư, Nxb Thống kê. PGS.TS. Lưu Thị Hương (2004), Giáo trình Thẩm định tài chính dự án, Nxb Tài chính. Báo cáo thường niên Ngân hàng TMCP Hàng Hải 2007. Bản cáo bạch Ngân hàng TMCP Hàng Hải 2007, 2008. Website ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam Quy chế cho vay của Ngân hàng TMCP Hàng hải. Bản thống kê hợp đồng tín dụng của SGD. Khoá luận tốt nghiệp các khoá trước. QUYẾT ĐỊNH số 1627/2001/QĐ-NHNN. Nghị định 178/1999/NĐ – CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định 85/2002/NĐ – CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 178. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ GIẤY NHẬN XÉT THỰC TẬP DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Danh mục bảng biểu Bảng 1.1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH 6 Bảng 1.2: TỶ TRỌNG TIỀN GỬI CỦA KHÁCH HÀNG 8 Bảng 1.4: SỐ LƯỢNG DƯ NỢ TÍN DỤNG 2006-2008 9 Bảng 1.5: DƯ NỢ TÍN DỤNG THEO KHÁCH HÀNG TẠI SGD 10 Bảng 1.6: DƯ NỢ TÍN DỤNG PHÂN THEO KỲ HẠN 11 Bảng 1.7: TÓM TẮT TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2002 – 2005 35 Bảng 1.8: SẢN LƯỢNG VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM 37 Bảng 1.9: THÔNG SỐ KỸ THUẬT 38 Bảng 1.10: THÔNG SỐ DỰ ÁN 39 Bảng 1.11: DOANH THU PHƯƠNG ÁN 1 43 Bảng 1.12: CHI PHÍ NHIÊN LIỆU PHƯƠNG ÁN 1 43 Bảng 1.13: GIÁ TRỊ KHẤU HAO 45 Bảng 1.14: TỔNG CHI PHÍ PHƯƠNG ÁN 1 46 Bảng 1.15: LỢI NHUẬN PHƯƠNG ÁN 1 47 Bảng 1.16: DÒNG TIỀN PHƯƠNG ÁN 1 48 Bảng 1.17: DOANH THU PHƯƠNG ÁN 2 50 Bảng 1.18: CHI PHÍ NHIÊN LIỆU PHƯƠNG ÁN 2 51 Bảng 1.19: TỔNG CHI PHÍ PHƯƠNG ÁN 2 53 Bảng 1.20: LỢI NHUẬN PHƯƠNG ÁN 2 54 Bảng 1.21: DÒNG TIỀN PHƯƠNG ÁN 2 55 Bảng 1.22: KẾ HOẠCH TRẢ NỢ 57 Bảng 1.23: PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY THEO CHI PHÍ VÀ LÃI SUẤT P/A 1 59 Bảng 1.25: PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY THEO DOANH THU VÀ CHI PHÍ NHIÊN LIỆU P/A 1 60 Bảng1. 26: PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY THEO DOANH THU VÀ CHI PHÍ NHIÊN LIỆU P/A 2 60 Bảng 1.27: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI SGD GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 64 Biểu đồ 1.1: HUY ĐỘNG VỐN TẠI SGD PHÂN THEO KHÁCH HÀNG 7 Biểu đồ 1.2: MỨC DƯ NỢ TÍN DỤNG TẠI SGD 10 Danh mục sơ đồ Sơ đồ 1.1: CƠ CẤU TỔ CHỨC NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI 5 Sơ đồ 1.2: QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH 15 Sơ đồ 1.3: QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH HỒ SƠ DỰ ÁN 16

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21298.doc
Tài liệu liên quan