LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đang là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và của các Ngân hàng nói riêng.
Năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Những khó khăn này được cụ thể hóa qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở các quốc gia có nên kinh tế phảt triển. Như một hệ quả khó tránh khỏi, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu những thiệt thòi nhất định, Viêt Nam không nằm ngòai số đó. Những biến động xấu này được tiên đoán sẽ còn tiếp diễn ít nhất đến cuối năm 2009, đầu năm 2010
Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn sẽ hiểu biết sâu hơn về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại kết hợp với thực tế tại đơn vị thực tập từ đó thấy được sự gắn kết cũng như điểm khác biệt giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ tạo thuận lợi cho em trong công việc sau này.
Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng. Vì vậy, đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” được lựa chọn làm khóa luận tốt nghiệp.
Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà HN
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đánh giá, nhận xét từ phía ngân hàng và cô giáo đề em có thể hoàn thành tốt chuyên đề của mình.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 5
Chương 1:Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 7
1.1. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại 7
1.1.1. Khái niệm và vai trò Ngân hàng Thương mại 7
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại 7
1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại 8
1.1.2. Khái quát hoạt động của Ngân hàng Thương mại: 12
1.1.2.1. Nguồn vốn và nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM: 12
1.1.2.2.Nghiệp vụ tài sản Có 14
1.1.2.3.Hoạt động trung gian, cung cấp dịch vụ tài chính 18
1.2. Tín dụng trung và dài hạn của NHTM 19
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn 19
1.2.1.1. Khái niệm: 19
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn 20
1.2.1.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn 21
1.2.2. Nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 24
1.2.2.1. Đặc điểm: 24
1.2.2.2. Quy trình: 24
1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM 26
1.3.1. Khái niệm 26
1.3.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 27
1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sư tồn tại và phát triển của các Ngân hàng Thương mại 27
1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cần thiết để phát triển kinh tế 28
1.3.3. Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 28
1.3.3.1. Xét trên quan điểm ngân hàng 28
1.4.3.2. Xét trên quan điểm khách hàng 30
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 31
1.3.4.1. Nhóm nhân tố chủ quan 31
1.3.4.2. Các nhân tố từ phía khách hàng: 34
1.3.4.3. Nhóm nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước: 35
1.3.4.4. Các nhân tố khác: 35
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) 37
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 37
2.1.1. Thành lập và hoạt động: 38
2.1.2. Cơ cấu tổ chức: 40
2.1.3. Tình hình hoạt động của Habubank giai đoạn 2006 – 2008 40
2.1.3. Tình hình hoạt động của Habubank giai đoạn 2006 – 2008 41
2.1.3.1. Về huy động vốn 41
2.1.3.2. Về hoạt động cho vay: 42
2.1.3.3. Công tác dịch vụ ngân hàng: 44
2.1.3.4. Công tác kế toán ngân quỹ: 45
2.1.3.5. Kết quả kinh doanh: 45
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội: 47
2.2.1. Quy mô và cơ cấu tín dụng trung và dài hạn: 47
2.2.1.1. Quy mô tín dụng trung và dài hạn: 47
2.2.1.2. Cơ cấu tín dụng trung và dài hạn: 48
2.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 51
2.2.2.1. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu Dư nợ tín dụng trung và dài hạn: 51
2.2.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu nợ quá hạn: 53
2.2.2.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu Lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay trung và dài hạn: 55
2.3. Đánh giá về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 56
2.3.1. Kết quả đạt được 56
2.3.2. Hạn chế 58
2.3.3. Nguyên nhân: 60
2.3.3.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: 60
3.3.3. 2.Về công tác kiểm tra kiểm soát 61
Phần 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 67
3.1. Định hướng chủ yếu cho hoạt động của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian tới. 67
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 68
3.2.1. Đổi mới công tác thẩm định dự án đầu tư: 68
3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát 69
3.2.3. Cải tiến, đa dạng hóa cơ cấu, loại hình cho vay trung và dài hạn: 70
3.2.4. Chú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng 71
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng 71
3.2.6. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng 72
3.2.7. Nhóm giải pháp về cơ cấu tổ chức và nhân sự 72
3.2.8. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng 73
3.3. Kiến nghị: 74
3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước: 74
3.3.2. Đối với Chính phủ và các cơ quan liên quan: 76
KÊT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i&thông tin liên lạc
18,07
3,73
-14,34
-79,3
9,6
5,87
157,4
Các ngành khác
459,1
679,2
220,1
47,94
586,8
-92,4
-13,6
(Nguồn: báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Ta có thể thấy được sự thay đổi trong tỷ trọng cơ cấu tín dụng theo ngành kinh tế. Hầu hết các khoản vay chủ yếu thuộc lĩnh vực thương mại và dịch vụ mặc dù trong năm vừa qua tốc độ tăng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong lĩnh vực này không nhiều.
Tỷ trọng cơ cấu tín dụng của Ngân hàng dành cho lĩnh vực sản xuất và chế biến tăng đều đặn qua các năm. Nguyên nhân là do xu hướng phát triển trong những năm gần đây đối với nền kinh tế. Năm 2006 tỷ trọng của lĩnh vực này là 5%, năm 2007 là 9% và sang năm 2008 tăng lên là 10%.
Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ phải kể đến ngành vận tải và thông tin liên lạc với tốc độ tăng là 157,4%. Điều này hoàn toàn phù hợp với tốc độ phát triển nhanh chóng của lĩnh vực này trong xã hội ngày nay. Như vậy có thể thấy định hướng phát triển tín dụng của Ngân hàng luôn gắn liền với những diễn biến của môi trường kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trong ngành xây dựng lại có sự giảm sút liên tục qua các năm: năm 2006 là 6,17%, năm 2007 là 5,75% và đến năm 2008 là 5%. Lý do ở đây là trong năm vừa qua, do điều kiện nền kinh tế khó khăn, cùng với sự leo thang của giá cả nguyên vật liệu trong lĩnh vực xây dựng mà hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này bị đình trệ. Chính vì vậy, Habubank đã thực hiện chính sách cắt giảm tín dụng đối với những doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng để giảm thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
2.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn:
2.2.2.1. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu Dư nợ tín dụng trung và dài hạn:
Bảng 7: Tình hình dư nợ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số tiền
Kết cấu
Số tiền
Kết cấu
So sánh 06-07(%)
Số tiền
Kết cấu
So sánh 07-08(%)
Tổng dư nợ
5.983
100
9.419
100
57,43
9.510
100
0,97
-Dư nợ ngắn hạn
4.211
70,39
6.028
64
43,15
6.286
66,1
4,28
-Dư nợ trung và dài hạn
1.772
29,61
3.391
36
91,36
3.224
33,9
-4,92
(Nguồn: Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Qua bảng số liệu trên, ta thấy tổng dư nợ của Ngân hàng tính đến ngày 31/12/2008 đạt 9.510 tỷ đồng, chỉ tăng 0,97% so với năm 2007, trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm 66,1%, dư nợ trung và dài hạn chiếm 33,9%. Như vậy, mặc dù vẫn tiếp tục duy trì cơ cấu tín dụng theo hướng đã xác định đầu năm 2007 nhưng tốc độ tăng trưởng dư nợ trung và dài hạn có phần giảm sút so với năm 2007. Ta có thể thấy rõ hơn điều này qua biểu đồ sau:
Biểu đồ tỷ trọng dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008
Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 6.286 tỷ đồng, tăng 4,28% so với năm 2007, trong khi đó dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2007 tăng đến 43,15% so với năm 2006. Nguyên nhân của tình hình này chính là do ảnh hưởng tiêu cực của những biến động kinh tế trong năm vừa qua. Xu hướng đi xuống của nền kinh tế,tình hình lạm phát và các biện pháp điều chỉnh lãi suất của NHNN trong việc kiềm chế lạm phát đã tác động mạnh đến toàn hệ thống Ngân hàng. Do lãi suất bị đẩy lên quá cao nên hoạt động cho vay diễn ra ảm đạm, xuất hiện động thái tích trữ, tiết kiệm trong dân chúng trong năm vừa qua.
Tình hình tín dụng trung và dài hạn cũng không mấy khả quan. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 3.224 tỷ đồng, giảm 4,92% so với năm 2007. Mặc dù Ngân hàng vẫn tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm các dự án có hiệu quả nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn. Thị trường bất động sản ảm đạm, người dân ít có nhu cầu mua bán giao dịch nhà đất hơn. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong bối cảnh nền kinh tế đi xuống hiện nay, họ cũng gặp phải rất nhiều khó khăn về tài chính. Ngân hàng vì đảm bảo an toàn nên cũng khó để cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn của mình. Mặt khác, năm 2008 diễn ra việc thu nợ các dự án cho vay trước đây đã đến hạn trả nợ nên dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2008 giảm so với năm 2007.
2.2.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu nợ quá hạn:
Hoạt động cho vay và thu nợ là hai công việc hết sức quan trọng. Một sự kết hợp giữa công tác cho vay và công tác thu nợ sẽ là nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của mỗi Ngân hàng. Do tính chất quan trọng của công tác thu nợ như vậy nên Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội luôn chú trọng tới công tác thu nợ, đặc biệt là các khoản nợ có giá trị lớn.
Trước hết chúng ta tìm hiểu tình hình thu nợ của Ngân hàng thu nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian qua:
Bảng 8: Tình hình thu nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
So sánh 06-07
Năm 2008
So sánh 06-07
Số tuyệt đối
Số tương đối(%)
Số tuyệt đối
Số tương đối(%)
Doanh số thu nợ
5.743
8.900
3.110
54,97
9.034
181
2,04
- Ngắn hạn
4.107
5.843
1.736
42,27
5.928
85
1,45
- Trung và dài hạn
1.683
3.057
1.374
83,9
3.106
49
1,6
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Năm 2007, doanh số thu nợ trung và dài hạn đạt 3.057 tỷ đồng, tăng 83,9% so với năm 2006, trong khi đó doanh số thu nợ năm 2008 chỉ tăng 49 tỷ đồng (tương đương 1,6%) so với năm 2007. Tuy nhiên nhìn vào doanh số cho vay năm 2008 có thế thấy điều này là hoàn toàn phù hợp. Doanh số thu nợ giảm sút vẫn chưa thể kết luận được chất lượng tín dụng là không tốt. Để đánh giá chính xác hơn cần tìm hiểu thêm về dư nợ quá hạn trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian vừa qua.
Bảng 9: Tình hình nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Dư nợ trung và dài hạn(tỷ đồng)
1.772
3.391
3.224
-Nợ quá hạn(tỷ đồng)
12,5
40,69
32,24
-Tỷ lệ nợ quá hạn(%)
0,7%
1,2%
1%
-Tỷ lệ nợ xấu(%)
1,95%
2,6%
2,1%
(Nguồn: Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Từ bảng số liệu ta thấy tổng nợ quá hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong những năm qua là tương đối thấp so với các Ngân hàng thương mại khác. Tuy tổng nợ quá hạn hàng năm có tăng về số tuyệt đối nhưng đây là do kết quả của việc tăng lên của các khoản vay chứ không phải do sự tăng lên của các khoản vay yếu kém.
Ta có thể xem xét 2 chỉ tiêu là tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ quá hạn: tỷ lệ này là quan trọng trong việc quyết định cấp tín dụng của Ngân hàng, việc thu nợ đúng kế hoạch sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động theo đúng kế hoạch kinh doanh của mình.
Từ bảng số liệu ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là tương đối thấp, biến động không đều và có xu hướng gia tăng trong 2 năm 2007 và 2008. Điều này được giải thích bởi trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh chính vì vậy mà các khoản hoàn trả của những người đi vay bị chậm lại.
Tỷ lệ nợ xấu: Nợ xấu là khoản nợ mà tất cả các Ngân hàng đều gặp phải, đó là khoản tiền ngân hàng có thể mất không, không thu hồi được. Các khoản nợ xấu sẽ tác động làm giảm thu nhập hay lãi ròng của ngân hàng, chính vì vậy, mục tiêu của các ngân hàng là để khoản nợ này càng nhỏ càng tốt. Đó là vấn đề khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực của đội ngũ lãnh đạo, nhân viên ngân hàng.
Từ số liệu đã trình bày ở bảng trên, ta có thể thấy được dấu hiệu đáng mừng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp. Năm 2007 tỷ lệ nợ xấu là 2,6% nhưng sang năm 2008 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 2,1%
2.2.2.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu Lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay trung và dài hạn:
Bảng 10: Lợi nhuận thu từ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
So sánh 06-07
Năm 2008
So sánh 07-08
Tuyệt đối
Tương đối(%)
Tuyệt đối
Tương đối(%)
Tổng lợi nhuận từ cho vay (tỷ đồng)
230
463
233
101,3%
550
87
18,8%
Lợi nhuận từ cho vay trung dài hạn(tỷ đồng)
57,5
148,2
90,7
157,74%
147,95
-0,25
-0,0017%
Lợi nhuận từ cho vay TDH/Dư nợ TDH(%)
3,24
4,37
1,13
34,87%
4,58
0,21
4,8%
Lợi nhuận từ cho vay TDH/Tổng lãi cho vay(%)
25
32,1
7,1
28,4%
26,9
-5,2
16,2%
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội năm 2008)
Từ bảng số liệu ta thấy lợi nhuận từ cho vay nói chung và lợi nhuận từ cho vay trung và dài hạn nói riêng của Ngân hàng tăng trưởng tốt trong các năm gần đây, đặc biệt là năm 2007. Năm 2006 tổng thu lãi cho vay trung và dài hạn chỉ đạt 57,5 tỷ đồng thì sang đến năm 2007, con số này đã là 148,2 tỷ đồng, tức là tăng 157,74% so với năm 2006.
Sang đến năm 2008, mặc dù tình hình kinh tế khó khăn ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tín dụng trung và dài hạn bị thu hẹp nhưng xét về tổng lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay trung và dài hạn vẫn đạt được 147,95 tỷ đồng, chỉ giảm 0,16% so với năm 2007. Nhìn vào chỉ tiêu lợi nhuận từ cho vay trung dài hạn trên tổng lợi nhuận từ cho vay ta có thể thấy hoạt động cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng vẫn được duy trì khá ổn định qua các năm, mức độ đóng góp của lợi nhuận từ cho vay trung và dài hạn trong tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của ngân hàng là khá cao. Năm 2006 tỷ lệ này là 25%, tăng lên thành 32,1% vào năm 2007 và đến năm 2008 giảm nhẹ còn 26,9%. Nguyên nhân của việc tỷ lệ này giảm vào năm 2008 là do Ngân hàng chủ trương phát triển sản phẩm dịch vụ khác đem lại thu nhập nhằm bù đắp cho khoản lợi nhuận bị cắt giảm từ cho vay trung và dài hạn trong điều kiện thị trường tài chính có nhiều biến động. Qua đây có thể thấy được sự linh hoạt trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh của Ngân hàng nhằm ứng phó với những biến động khó lường của thị trường.
2.3. Đánh giá về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
2.3.1. Kết quả đạt được
Trước tình hình kinh tế xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển nhanh qua các năm cũng như những đổi mới trong cơ chế quản lý, điều hành đất nước, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã có định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách tiền tệ của Nhà nước, nhanh chóng hòa nhập vào thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng tăng trưởng, phục vụ có hiệu quả cho đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế đất nước.
Tín dụng trung dài hạn đã thực hiện phương châm đổi mới cơ chế, lĩnh vực đầu tư nền kinh tế theo chiều sâu. Ngân hàng đã cung ứng vốn cho những doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng sản xuất nhưng lại thiếu vốn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, các đơn vị rất cần đổi mới thiết bị để tăng năng suất và và nâng cao chất lượng sản phẩm thì hình thức tín dụng trung - dài hạn là một giải pháp đúng đắn để chuyển hoạt động của của các đơn vị kinh tế.
Ngân hàng đã tích cực triển khai thay đổi cơ cấu kinh tế, nâng tỷ trọng cho vay trung - dài hạn trong tổng dư nợ, tập trung đa dạng hoá các ngành,các thành phần kinh tế, có sự khuyến khích ưu đãi với các khách hàng truyền thống, tạo màng lưới khách hàng đáng tin cậy. Tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo/ Tổng dư nợ luôn đạt từ 70-78%, đặc biệt là các khoản vay trung và dài hạn có tài sản đảm bảo đều đạt 80-90% để đảm bảo an toàn cho Ngân hàng
Thủ tục cho vay được đơn giản hóa để giảm thời gian cho khách hàng trong quá trình đến vay vốn tại Ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đúng quy chế được ban hành của các cấp có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ xét duyệt. Bên cạnh đó trong quá trình cho vay, Ngân hàng tiến hành thực hiện kiểm tra, gồm cả kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
- Kiểm tra trước khi cho vay để ngân hàng xem xét tính khả thi của dự án, từ đó quyết định cho vay hay không.
- Kiểm tra trong khi cho vay :ngân hàng thực hiện mỗi lần phát tiền vay phải có khối lượng, thiết bị hoặc chi phí công trình làm đảm bảo.
- Kiểm tra sau khi cho vay là khâu mà ngân hàng rất chú trọng : Kiểm tra các chứng từ vay vốn, đảm bảo nghiệp vụ cho vay đúng chế độ, thể lệ nhà nước ban hành. kiểm tra đơn vị sử dụng tiền có đúng mục đích hay không. tiền vay phát ra có thực sự dùng để đầu tư máy móc, thiết bị hay chi phí cho công trình có đúng mục đích xin vay hay không.
Ngoài ra, ngân hàng còn được xem xét các vấn đề thị trường, sản phẩm tiêu thụ thu nhập… của doanh nghiệp ở phạm vi cho phép. Việc kiểm tra được cán bộ tín dụng tiến hành thường xuyên, đồng thời có sự kiểm tra lẫn nhau, kiểm tra giữa các cán bộ và các phòng nghiệp vụ.
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã lựa chọn những cán bộ giỏi, có tài, có trách nhiệm với công việc, nhiệt tình công tác vào phòng kinh doanh để đầu tư những công trình trọng điểm, nhiều khó khăn, tạo điều kiện giúp đỡ chủ đầu tư, hoàn tất trong thời gian ngắn nhất đưa công trình vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Chính sách tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng đề ra phù hợp với thực tế phát triển của nước ta và đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Theo đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã đóng góp tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH
Hoạt động kinh doanh tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng, trong đó tín dụng trung và dài hạn được củng cố chấn chỉnh, đảm bảo được an toàn và giảm đi phần nào tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Các hoạt động kinh doanh khác tiếp tục được củng cố, mở rộng và mức sinh lời từ các hoạt động này được tăng lên.
Bên cạnh những kết quả đạt được của Ngân hàng trong thời gian qua, vẫn tồn tại nhiều khó khăn và các vấn đề cần khắc phục, trong đó có các vấn đề liên quan đến chất lượng tín dụng cần phải giải quyết.
2.3.2. Hạn chế
Quy mô và chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội chưa tương xứng với tiềm lực Ngân hàng, thể hiện qua các mặt sau:
Quy trình tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng chưa được phối hợp chặt chẽ:
Tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn trong thời gian qua đã có những thành công bước đầu song vẫn gặp phải một số trở ngại sau đây.
Hiện nay hầu hết các ngân hàng cạnh tranh nhau rất khốc liệt về lãi suất, khả năng thông thoáng về mặt giấy tờ thủ tục trong hoạt động xét duyệt cho vay, đơn giản hoá việc thẩm định tình hình các doanh nghiệp và các dự án xin vay vốn .. nhằm giành giật khách hàng về mình dẫn đến tình trạng rủi ro của các khoản tín dụng tăng lên
Kết quả thực thi chính sách tín dụng, chính sách khách hàng mới chỉ là bước đầu. Công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng tốt, tìm kiếm dự án hiệu quả, khai thác thị trường ở trong nước còn nhiều khó khăn, nhất là đòi hỏi của hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường. Những định hướng chính sách đề ra chưa triển khai được còn nhiều bất cập, các hình thức tín dụng còn nghèo nàn, chưa kết hợp chặt chẽ giữa tín dụng với các dịch vụ ngân hàng.
Sự thiếu thông tin trong đầu tư đặc biệt là sự gắn kết cân đối giữa quy hoạch ngành và lãnh thổ , tao ra sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu dẫn tới hiệu quả kinh tế hiệu quả đầu tư thấp. Đây là lý do khiến nhiều dự án đầu tư trung và dài không đạt hiệu quả như dự kiến, sản phẩm tiêu thu kém, giá thành còn cao gây khó khăn cho các dự án trong sản xuất kinh doanh.
Trong thẩm định dự án đầu tư, chất lượng thẩm định còn chưa cao, khả năng phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp của cán bộ tín dụng còn hạn chế so với yêu cầu của công tác này. Đây là điểm bất cập cần phải được khắc phục sớm nếu không sẽ gây thiệt hại lớn cho ngân hàng.
Các khoản tín dụng còn chứa dựng nhiều rủi ro:
Tỷ lệ nợ quá hạn vẫn chưa ổn định, chưa giảm mặt khác nhiều tiềm ẩn rủi ro vẫn đe dọa hoạt động của Ngân hàng. Đây là vấn đề bức xúc đối với Ngân hàng, vì đầu tư sao cho có hiệu quả, thu hồi vốn nhanh, đủ gốc và lãi, để quay vòng vốn nhanh là mong mỏi của ngân hàng. Rủi ro tín dụng, nợ quá hạn, nợ khó đòi là những vấn đề được ngân hàng hết sức quan tâm, tìm cách giải quyết trong cả hiện tại và tương lai.
Trong hoạt động tín dụng, mặc dù Ngân hàng đã thi hành nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng nhưng trên thực tế không phải lúc nào cũng đạt được những mong muốn. Trong thực tế đã có những trường hợp các khoản cho vay không có hiệu quả dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng như nợ quá hạn, nợ khó đòi.. do nhiều nguyên nhân khách quan như môi trường kinh doanh chưa lành mạnh, môi trường kinh tế phát triển chưa bền vững, thực lực tài chính, năng lực quản lý tài chính của khách vay còn yếu kém .. do vậy dẫn đến tình trạng không muốn cho vay gây ứ đọng vốn của ngân hàng, không phát huy được vai trò của ngân hàng trong phát triển kinh tế.
Qua phần trên ta đã thấy được những kết quả đạt được và những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong vài năm gần đây. Những khó khăn thử thách đó đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung, và với hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng, đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp khắc phục nâng cao chất lượng tín dụng để ngày càng giữ vững được vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển, thực hiện CNH - HĐH đất nước
2.3.3. Nguyên nhân:
2.3.3.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
a. Những nguyên nhân từ phía ngân hàng
Một là: Về chính sách tín dụng, chính sách khách hàng
- Chưa thu hút được các khách hàng lớn vay vốn .
- Việc phân loại và đưa ra những tiêu chuẩn đối với khách hàng bị coi nhẹ nên gây lãng phí trong công tác xét duyệt cho vay.
- Khâu thẩm định khách hàng trước khi cho vay còn chưa được quan tâm đúng mức.
Hai là: Về năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũcán bộ tín dụng
Trình độ phân tích của cán bộ thẩm định chưa toàn diện. Khả năng phân tích kỹ thuật của dự án và phân tích thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án trên thị trường liên quan đến nhiều khía cạnh, đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp, dự đoán nhạy bén của cán bộ tín dụng. Đây là một yêu cầu khó thực hiện đối với cán bộ tín dụng vì phần lớn không được đào tạo chuyên sâu toàn diện lĩnh vực này.
Công tác phân tích tình hình tài chính của đơn vị vay vốn chưa được coi trọng. Phân tích tính khả thi của dự án chủ yếu dựa vào kết quả phân tích đánh giá trên phương diện kinh tế tài chính của dự án nhưng nguồn số liệu, cơ sở để phân tích chủ yếu được lấy từ các báo cáo của đơn vị vay vốn gửi tới với độ tin cậy không cao, chưa được xác nhận của cơ quan kiểm toán.
Ba là: Quy trình tín dụng
Về công tác thẩm định và xét duyệt cho vay vốn.
Chất lượng công tác thẩm định dự án chưa sâu, các báo cáo thẩm định đôi khi còn dừng lại ở việc hướng dẫn thủ tục hành chính, chưa đi sâu đánh giá về chủng loại, giá thành, thị trường, công suất máy móc thiết bị, công nghệ, các tiêu chí xây dựng giá thành sản phẩm....Đặc biệt là chưa dự đoán tốt các rủi ro có thể xẩy ra đối với khoản cho vay và dự án đầu tư. Chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng rủi ro đối với các khoản tín dụng vẫn còn cao.
Việc phân tích, đánh giá kết quả đầu tư còn làm được quá ít, chưa mang tính hệ thống, thường xuyên và kịp thời. Việc tổ chức liên kết, tổng hợp kinh nghiệm và thông tin nghiệp vụ còn chưa tốt, chính điều này đã ảnh hưởng ít nhiều tới việc thực hiện chính sách khách hàng, chính sách tín dụng của sở. Mức độ chủ động tiếp cận, xem xét , đánh giá dự án chưa cao, vai trò của công tác tư vấn đầu tư chưa đạt đúng tầm so với yêu cầu và tiềm năng hiện có.
Hiệu quả, an toàn, chất lượng tín dụng tốt chỉ có được trước hết và bắt đầu từ công tác thẩm định dự án và xét duyệt cho vay. Vì vậy trong thời gian tới, hơn lúc nào hết công tác thẩm định dự án cần phải nâng cao chất lượng hơn nữa, phải đặt đúng vị trí của nó trong xét duyệt cho vay, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ có cơ chế, quy trình công nghệ toàn diện và đồng bộ với quy trình công nghệ của các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể giải pháp mang tinh chiến lược trong định hướng phát triển cũng như trong quản trị điều hành nhằm không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án và xét duyệt cho vay.
Về công tác kiểm tra kiểm soát
Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tuy được tiến hành thường xuyên nhưng chưa phát huy được hiệu quả cao trong việc phát hiện kịp thời và xử lý những vướng mắc trong việc thực hiện quy trình tín dụng cũng như trong việc bố trí sắp xếp cán bộ sao cho đúng người đúng việc. Điều này gắn liền với sự hạn chế trình độ của cán bộ làm công tác này.
Công tác thu nợ và xử lý nợ
Công tác thu nợ và xử lý nợ quá hạn tiến triển chậm, đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Chính sách ưu đãi về lãi xuất chưa có sự linh hoạt đối với từng loại dự án.
Bốn là: Những hạn chế khác
Những hạn chế trong chiến lược Marketing: Hoạt động tuyên truyền quảng cáo về ngân hàng thông qua các phương tiện truyền thông còn hạn chế, chưa thực sự gần gũi với quần chúng nhân dân, và nói chung chưa có sự đầu tư đúng mức từ phía chi nhánh.
Ngân hàng chưa coi trọng công tác Marrketing Ngân hàng. Các thông tin về thị trường và khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Ngân hàng chưa có các biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng, đôi khi còn quá tin tưởng vào các khách hàng quen mà quên rằng nếu họ luôn được các Ngân hàng khác chào mời thì Ngân hàng có thể mất khách. Chính vì vậy Ngân hàng cần có những chính sách khuyến khích khách hàng thường xuyên.
Trong những năm qua, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã xây dựng được chiến lược phát triển tín dụng trung và dài hạn rõ ràng: lấy đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng. Đây là chiến lược rất đúng đắn vì đối tượng khách hàng này phù hợp với năng lực và quy mô của Ngân hàng. Hơn nữa với tốc độ cổ phần hóa nhanh như hiện nay cùng với sự ra đời của các doanh nghiệp mới thì số lượng khách hàng ngoài quốc doang sẽ tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Như vậy Ngân hàng có cơ hội lựa chọn khách hàng tốt và phân tán được rủi ro.
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là Ngân hàng TMCP ra đời sớm nhất ở Việt Nam do đó Ngân hàng đã xây dựng được cho mình hình ảnh và vị trí nhất định trên thương trường. Đây là một thuận lợi không nhỏ của Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
Tuy nhiên, Ngân hàng cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc huy động tiền gửi đầu vào so với các Ngân hàng quốc doanh. Thực tế cho thấy chi phí đầu vào của Ngân hàng luôn cao hơn các Ngân hàng quốc doanh khá nhiều nên lãi suất cho vay đầu ra của Ngân hàng kém tính cạnh tranh hơn, điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong công tác Marketing các khách hàng lớn, uy tín. Điều này dẫn đến hệ quả chất lượng tín dụng của Ngân hàng bị ảnh hưởng bất lợi theo
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp để điều hành nền kinh tế, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ diễn biến thất thường, cùng với tác động xấu của khủng hoảng tài chính thế giới và hiệu ứng của tăng trưởng tín dụng nóng, tăng quy mô và mạng lưới hoạt động quá nhanh của những năm trước vẫn ảnh hưởng lớn tới hoạt động của Ngân hàng TMCP. Đến năm 2008, mặc dù một số chỉ tiêu cơ bản của Ngân hàng vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng song tốc độ đã chậm lại. Hoạt động chủ yếu là tập trung huy động vốn để cân đối nguồn và đảm bảo khả năng thanh khoản, đảm bảo an toàn của mình.
b. Những nguyên nhân từ phía khách hàng:
Hiện nay các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất cao nhưng họ rất khó đáp ứng được các tiêu chí của Ngân hàng. Một số nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được vay vốn là:
Không có các dự án khả thi: khi đi vay vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp phải có dự án khả thi được xây dựng trên cơ sở khoa học, thông tin đầy đủ, thẩm định và phân tích một cách chính xác. Nhưng trong thực tế một số doanh nghiệp không thể xây dựng dự án đầu tư trung và dài hạn. Có những doanh nghiệp có ý tưởng làm ăn lớn nhưng không lập được kế hoặch dưới bảng biểu theo yêu cầu của Ngân hàng. Cán bộ tín dụng nhiều khi phải giúp đỡ người vay, tính toán và lập phương án vay vốn trả nợ. Vì vậy nếu trình độ của các cán bộ tín dụng yếu thì chất lượng tín dụng sẽ không tốt.
Doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp hợp pháp. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn đi vay phải có tài sản thế chấp để đảm bảo vốn vay, phòng ngừa rủi ro khi dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn ngoài dự kiến, dẫn đến hoạt động kinh doanh không có hiệu quả. Hiện nay chủ yếu các doanh nghiệp thế chấp bằng tài sản cố định hoặc bất động sản nhưng việc xác định giá trị thực tế của các tài sản còn gặp nhiều khó khăn, độ chính xác thấp, các văn bản quy định có liên quan còn một số chồng chéo và mâu thuẫn.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân như:
- Trình độ năng lực quản lý của của doanh nghiệp yếu kếm, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Vốn tự có của doanh nghiệp tham gia rất ít thậm chí không có.
- Các nguồn thông tin về phía người vay thường thiếu chính xác, không đảm bảo tính thường xuyên, kịp thời, và do đó còn thiếu chính xác
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ phân tích thị trường còn hạn chế ở một số các dự án..
- Bên cạnh đó phẩm chất đạo đức của một số khách hàng xuống thấp do kinh doanh không hiệu quả nên có tâm lý trốn tránh, dây dưa nợ nần.Thậm chí có khách hàng còn âm mưu lừa đảo để chiếm đoạt vốn của chi nhánh.
c. Các nguyên nhân khác:
Môi trường kinh tế:
Xuất phát từ những khó khăn chung của nền kinh tế: 9 tháng đầu năm lạm phát và nhập siêu cao, sang tháng 10 giảm phát. Cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ diễn biến bất thường. Các doanh nghiệp hầu hết ở trong tình trạng khó khăn, làm ăn thua lỗ. Nền kinh tế có dấu hiệu suy giảm, sức cầu yếu. Sản xuất lưu thông hàng hóa có dấu hiệu trì trệ. Đây là những yếu tố bất lợi cho hoạt động Ngân hàng. Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn này ở mức cao, khoảng 7-8%/năm. Tăng trưởng kinh tế một mặt thúc đẩy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, mặt khác nhu cầu về các dịch vụ của Ngân hàng phục vụ cho doanh nghiệp, cá nhân cũng gia tăng. Ngoài ra hoạt động huy động vốn, quay vòng vốn phục vụ doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế cũng dễ dàng hơn.
Tuy nhiên việc tăng cung tiền và lạm phát cũng ảnh hưởng không tốt tới hoạt động Ngân hàng. Lạm phát tăng cao gây khó khăn cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng nói riêng. Tình trạng khan hiếm vốn xảy ra, gây sức ép gia tăng lãi suất huy động vốn, trong khi đầu ra bị hạn chế bởi các chính sách thắt chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả lợi nhuận của các Ngân hàng.
Theo lộ trình cam kết WTO, lĩnh vực Ngân hàng Việt Nam mở cửa cho phép các Ngân hàng nước ngoài lập Ngân hàng con 100% vốn. Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động hai mặt tới sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam. Một mặt nó tạo ra môi trường kinh doanh năng động, hoàn hảo hơn; mặt khác lại tạo ra một áp lực lớn tới sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng Thương mại trong nước.
Môi trường xã hội:
Theo thống kê, hiện có khoảng 7 triệu tài khoản mở tại Việt Nam trên tổng số 84 triệu dân (tức là khoảng 8% dân số) trong đó có tới 6 triệu tài khoản chỉ được mở chỉ trong 2 năm 2006 và 2007. Con số này một mặt cho thấy mức độ tiếp cận các dịch vụ Ngân hàng của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất so với các nước trong khu vực và trên thế giới; mặt khác cũng cho thấy tiềm năng của ngành Ngân hàng Việt Nam trong việc phát triển thị trường. Thêm vào đó tiềm năng thị trường của lịnh vực Ngân hàng còn được mở rộng nhờ cơ cấu dân số trẻ với mức thu nhập ngày càng được cải thiện và xu hướng sử dụng dịch vụ Ngân hàng ngày càng trở nên phổ biến.
Cơ chế chính sách:
Các văn bản chế độ của Ngân hàng Nhà nước, tài chính tư pháp còn chưa đồng bộ, chưa bám sát thực tiễn, chưa tạo điều kiện giúp Ngân hàng giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện tại cơ sở. Đặc biệt là về vấn đề xử lý tài sản gán nợ, siết nợ đang gây ách tắc vốn tại Ngân hàng.
Việc quy định về hạch toán thống kê tại các doanh nghiệp chưa thống nhất nên gây khó khăn trong công tác kiểm tra, kiểm soát chế độ kế toán doanh nghiệp của các Ngân hàng.
Phần 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
3.1. Định hướng chủ yếu cho hoạt động của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian tới.
Định hướng chiến lược chung của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong suốt những năm qua là phát triển thành Ngân hàng đa năng, tập trung phát triển hoạt động Ngân hàng bán lẻ. Đồng thời, Habubank cũng luôn hướng tới trở thành một trong ba ngân hàng được tín nhiệm nhất Việt Nam về quản lý, môi trường làm việc, sáng tạo và linh hoạt khi môi trường kinh doanh thay đổi nhằm duy trì sự hài lòng và gắn bó của khách hàng với Habubank. Trên cơ sở định hướng chiến lược đó, đối tượng mà Ngân hàng hướng tới là các cá nhân, hộ gia đình và mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để thực hiện được các mục tiêu chiến lược trên, Habubank đã xây dựng cho mình định hướng phát triển cho năm 2009 một cách rõ ràng và cụ thể.
Xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược quản trị theo thông lệ quốc tế, rút kinh nghiệm về kinh doanh và quản trị rủi ro thời kỳ cuối 2008 và đầu 2009 để giữ an toàn cho hoạt động Ngân hàng
Đa dạng hóa các nguồn thu kinh doanh, tiếp tục mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực tài chính mới có tiềm năng hiệu quả cao; tận dụng thời cơ mở rộng danh mục đầu tư vào các doanh nghiệp có tiềm năng và hiệu suất đầu tư tốt nhằm gia tăng thu nhập dài hạn ổn định cho Ngân hàng
Tăng cường đầu tư cho hạ tầng quản lý thông tin, dự kiến đầu tư nâng cấp thêm với ngân sách kiến nghị là từ 3-5 triệu USD cho hạ tầng mạng kể cả bảo mật, back up, hệ thống ATM, POS, Internet Banking, Mobile Banking và Trung tâm dịch vụ khách hàng.
Củng cố và mở rộng mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Công tác mở rộng mạng lưới vẫn phải luôn đi kèm với chất lượng quản lý và hiệu quả kinh doanh. Đầu tư nâng cấp các địa điểm giao dịch và hoàn thiện chuẩn hóa nơi giao dịch với hình ảnh thống nhất của Ngân hàng.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, tiếp tục sáng tạo các chính sách đãi ngộ phù hợp, thu hút và gìn giữ nguồn nhân lực kỹ thuật cao, tăng cường công tác đào tạo nội bộ. Chính sách đãi ngộ nhất thiết phải đủ hấp dẫn tài năng và liên kết sự trung thành của cán bộ với Ngân hàng.
Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu năm 2009:
Mức tăng trưởng tài sản tăng 35% so với năm 2008
Nâng vốn điều lệ ở mức tăng khoảng 50% so với năm 2008
Nguồn huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư tăng 10-20% so với năm 2008
Dư nợ tín dụng tăng 10-15% so với năm 2008, trong đó tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ tăng 35-40% so với năm 2008
Tỷ lệ nợ quá hạn duy trì ở mức dưới 2%
Bước sang năm 2009,nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung sẽ gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại cần phải vượt qua nhưng với những kinh nghiệm đúc kết được từ kết quả hoạt động năm 2008 và tinh thần phát huy nội lực, Habubank sẽ tiếp tục hoàn thiện và vươn lên nhằm thực hiện được mục tiêu và chiến lược đã hoạch định.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
3.2.1. Đổi mới công tác thẩm định dự án đầu tư:
Chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư quyết định chất lượng tín dụng. Tuy nhiên ở các NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội nói riêng, công tác thẩm định vẫn chưa hiệu quả. Nguyên nhân là do trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu, thông tin khách hàng cung cấp bị sai lệch, phương pháp thẩm định chưa đúng đắn…
Để có quyết định cho vay đúng, vừa đảm bảo an toàn vốn và lợi nhuận, vừa hỗ trợ cho doanh nghiệp thì việc thẩm định cho vay là rất cần thiết. Do đặc trưng tín dụng trung và dài hạn có độ rủi ro rất cao nên công tác thẩm định tín dụng càng phải được coi trọng
Để nâng cao được chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu về thẩm định tài chính dự án đầu tư một cách đầy đủ, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để phản ánh dự án đầu tư một cách hiệu quả, trung thực nhất. Về cơ bản, gồm 2 nhóm chỉ tiêu chính:
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của dự án đầu tư
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro của dự án
Các chỉ tiêu này chỉ là phương tiện để phân tích đánh giá, quan trọng là việc áp dụng triển khai trong thực tiễn thẩm định tài chính dự án vì bị giới hạn bởi nhiều điều kiện như thời gian, hoạt động tổ chức….chứ không chỉ quá chú trọng đến cơ sở lý thuyết.
Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng cần chú ý đế thông tin trong công tác thẩm định: các báo cáo tài chính, chiến lược kinh doanh, sổ sách kế toán….và các thông tin về trình độ, phẩm chất đạo đức của người quản lý doanh nghiệp.
Trong quá trình thu thập thông tinn, cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra, đối chứng độ chính xác của thông tin, loại bỏ ngay những thông tin còn nghi ngờ.
3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát
Nếu thẩm định dự án là khâu đầu tiên, quyết định việc có cho vay hay không đối với dự án đầu tư thì quá trình kiểm tra, đôn đốc thu nợ cũng là khâu rất quan trọng.
Khi một dự án trung và dài hạn được cho vay theo đúng quy định thì công việc quản lý vốn vay ở đây là theo dõi, kiểm tra số tiền mà doanh nghiệp rút ra lần trước xem có sử dụng đúng mục đích không thông qua các chứng từ, hóa đơn, hợp đồng…Nếu doanh nghiếp sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát vốn lần sau, ngược lại, phải xử lý ngay theo chế độ tín dụng.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn có trách nhiệm đôn đốc thu nợ, thu lãi đúng kỳ hạn. Lịch trả nợ gốc và lãi vay đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng phải gửi báo cáo cho doanh nghiệp có nợ quá hạn chuẩn bị nguồn trả vào trước kỳ hạn trả. Việc thu nợ, lãi đúng kỳ hạn sẽ tránh được nợ quá hạn, thể hiện sự phát triển của Ngân hàng.
Khi một dự án vay mà đã đến hạn trả nhưng doanh nghiệp chưa có tiền để trả nợ thì việc xem xét để gia hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được ủy nhiệm và các chế đột ín dụng quy định, không tùy tiện gia hạn. Nếu trong các dự án cho vay có nợ quá hạn thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ nần dây dưa và để có biện pháp thích hợp để giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
3.2.3. Cải tiến, đa dạng hóa cơ cấu, loại hình cho vay trung và dài hạn:
Muốn phát triển và thu hút được khách hàng, Ngân hàng phải có nhiều loại sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của nhiều loại khách hàng khác nhau. Vì vậy trong thời gian tới chiến lược sản phẩm của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội cần hướng tới những nội dung sau:
Luôn cải tiến, đổi mới các hình thức cho vay, đầu tư cho phù hợp với quá trình biến đổi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người vay cũng như nền kinh tế, để thu hút khách hàng
Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình, cá nhân trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn, đảm bảo an toàn vốn tín dụng bằng cách khoán triệt để cho cán bộ tín dụng về số lượng khách hàng và số dư nợ
Đổi mới quan điểm chính sách và cơ cấu cho vay phù hợp với nền kinh tế. Chuyển đổi cơ cấu đầu tư cho vay phù hợp với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xã hội. Để thực hiện điều này, trong thời gian tới, Ngân hàng cần cho vay theo hướng tăng tỷ trọng các ngành sản xuất mũi nhọn chủ lực của nền kinh tế.
Đa dạng hóa loại tiền cho vay: Hiện nay để đáp ứng nhu cầu sản xuất và kinh doanh của nền kinh tế mở, các doanh nghiệp có nhu cầu vay ngoại tệ rất lớn để nhập máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất. Vì vậy họ rất cần vay bằng ngoại tệ để thanh toán với đối tác. Do vậy Ngân hàng cần đáp ứng nhu cầu này để doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi.
3.2.4. Chú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng
Với tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao qua các năm và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong năm tới, đòi hỏi toàn bộ Ngân hàng cần coi trọng tăng cường quản trị rủi ro, như là một trong các nhiệm vụ trọng tâm. Cụ thể cần quan tâm đến một số giải pháp như sau:
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá, trong đó có các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Tiếp tục chương trình quy chế hoá, quy trình hoá các hoạt động tín dụng (hoàn thành cẩm nang tín dụng, cẩm nang quản lý rủi ro...).
Tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức, uỷ ban nghiệp vụ trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội nhằm kiểm soát tốt rủi ro.
Bộ phận thuộc phòng thông tin công nợ cần phải thu nhập các thông tin về các công ty, doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản và các cá nhân lãnh đạo các công ty bị phá sản.
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Để đảm bảo cho hệ thống thông tin của các chi nhánh trong toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội hoạt động có hiệu quả, từ đó giúp cho quá trình thẩm định và phân tích khách hàng được sàng lọc thì cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Thực hiện chế độ kiểm soát bắt buộc đối với các chủ đầu tư.
Tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu tín dụng chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các chi nhánh Ngần hàng TMCP Nhà Hà Nội
Kết nối với các hệ thống thông tin khác của NHNN, Bộ thương mại, Bộ công nghiệp...thu thập thông tin tín dụng toàn ngành Ngân hàng và thông tin kinh tế khác.
Xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực tuyến cho toàn bộ hệ thống.
3.2.6. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng
Hoàn thiện và đổi mới công nghệ tức là Ngân hàng cần thiết lập hệ thống quản lý và cung cấp thông tin mạng nội bộ (Intranet) sử dụng chung. Đưa công nghệ vào để cải thiện, cải tạo phương thức quản lý trong toàn chi nhánh hệ thống Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. Tạo ra được cách suy nghĩ, cách làm việc và quản lý khoa học dựa trên hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ có sự hỗ trợ tối đa của máy móc, áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định phục vụ cho cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc điều hành và quản lý hoạt động ngân hàng.
3.2.7. Nhóm giải pháp về cơ cấu tổ chức và nhân sự
Về cơ cấu tổ chức
Trong những năm qua, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã có những bước tiến vững chắc trong việc củng cố bộ máy tổ chức Ngân hàng. Trong những năm tới, kết hợp với đề án tái cơ cấu Ngân hàng, Ngân hàng tiếp tục sắp xếp lại tổ chức, tránh chồng chéo trong công việc. Để đơn giản hóa thủ tục và không lãng phí thời gian trong quá trình xin vay cho khách hàng thì đây cũng là một giải pháp tốt.
Về nhân sự
Người làm tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính cũng như tiềm năng phát triển của khách hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng phải có vốn hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực chuyên môn ma khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất kinh doanh vì nó liên quan trực tiếp đến từng món vay. Điều này rất khó đạt được nếu một cán bộ tín dụng phụ trách nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, cần có sự chuyên môn hóa trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng cần cử các cán bộ tín dụng phụ trách từng mảng tín dụng khác nhau theo trình độ, thế mạnh của mình. Bên cạnh đó, ngân hàng cần mở những lớp huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ, thị trường, công nghệ để không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ.
3.2.8. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng
Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có hơn 60 Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ do đó có sự cạnh tranh gay gắt và phân chia khách hàng. Chính vì vậy, mỗi Ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng riêng hợp lý. Trong đó xác định rõ đối tượng nào cần ưu tiên, đối tượng nào cần khuyến khích phát triển.
Đối với những khách hàng truyền thống, Ngân hàng cần duy trì mối quan hệ tín dụng ổn định, lâu dài bằng cách tiếp tục cung ứng các sản phẩm tín dụng cho các doanh nghiệp này.
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước nhưng không thuộc khối xây lắp, Ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp này từ đó mở rộng được thị phần của mình. Khối các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hứa hẹn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng chưa khai thác hết. Tỷ trọng cho vay của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất ít, trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp này càng cao
Đối với những khách hàng mới, Ngân hàng cũng cần có những chính sách riêng như: thường xuyên chủ động tìm kiếm khách hàng làm sao để khách hàng biết đến Ngân hàng và quyết định sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình. Muốn vậy, Ngân hàng phải có các biện pháp đẩy mạnh hơn nữa hoạt động Marketing. Trong nền kinh tế hiện nay, khi mà sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt thì hoạt động Marketing trở nên rất quan trọng. Để đạt được mục tiêu thu hút được thêm nhiều khách hàng thì trong thời gian tới Ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược Marketing phù hợp hơn nữa, cụ thể là:
Tăng cường tuyên truyền quảng bá các sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp một cách rộng rãi, làm cho khách hàng biết đến hoạt động, cơ chế chính sách tín dụng của Ngân hàng để đẩy mạnh tín dụng một cách bền vững.
Chủ động tìm kiếm khách hàng: Bộ phận Marketing của Ngân hàng không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá mà nhiệm vụ quan trọng hơn là tìm hiểu khách hàng, lựa chọn khách hàng mục tiêu. Từ đó Ngân hàng đưa ra các giải pháp và chiến lược cụ thể nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân hàng.
Tăng cường khả năng cạnh tranh bằng cách tạo ra sự khác biệt về sản phẩm. Muốn làm được điều này, Ngân hàng phải luôn luôn đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm dịch vụ để tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, nâng cao được năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Thường xuyên xây dựng và giới thiệu những chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với khách hàng, quan tâm đến nhu cầu của khách hàng để từ đó đề ra các biện pháp cụ thể, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó góp phần củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng ngày càng bền vững.
3.3. Kiến nghị:
Để có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn, góp phần mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường thì không chỉ dựa vào sự nỗ lực của Ngân hàng mà phải cần có sự giúp đỡ từ phía Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan liên quan.
3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước:
Về cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng:
Nhìn chúng hệ thống văn bản pháp quy của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng đã có nhiều điểm mới thuận lợi hơn cho các Ngân hàng Thương mại, tháo gỡ phần nào những khó khăn vướng mắc cho các Ngân hàng Thương mại trong quá trình làm thủ tục thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản, cho vay và xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ. Nhờ đó mà hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại hiệu quả hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí. Tuy nhiên một số quy định trong các băn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay và quy chế cho vay vẫn chưa sát với tình hình thực tế và chưa phù hợp với các văn bản pháp luật mới ban hành. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng trên cơ sở đảm bảo tính đồng bộ và tính pháp lý để tạo điều kiện cho công tác tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại được an toàn và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, các văn bản liên quan đến cơ chế tín dụng còn quá nhiều,ngoài cơ chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước còn có nhiều công văn, quyết định, thông tư, chỉ thị của các cấp ngành có liên quan chỉ đạo cho từng ngành nghề. Mỗi ngành nghề được thêm bớt một số điều kiện nên khi thực hiện cho vay phải tham chiếu nhiều loại văn bản. Do đó cần thiết phải có biện pháp cơ cấu lại hệ thống văn bản pháp luật nhằm đáp ứng hoạt động tín dụng được thực hiện một cách khoa học, nhanh chóng, an toàn
Tăng cường công tác thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng. Xây dựng hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo thực hiện hoạt động kiểm soát hệ thống Ngân hàng có hiệu quả và độ an toàn cao nhất. Tạo điều kiện nâng cao trình độ quản trị kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại, đảm bảo cho toàn ngành hoạt động tốt và theo đúng pháp luật. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên tiến hành kiểm tra và giám sát các Ngân hàng để đảm bảo thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tín dụng nhằm nâng cao tính ổn định và phát triển trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng.
Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các NHTM là thiếu thông tin cần thiết, chính xác từ phía khách hàng, từ thị trường và dự án. Vì vậy, muốn hoạt động của các NHTM đạt hiệu quả cao thì NHNN cần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng tại NHNN và Phòng thông tin tín dụng tại chi nhánh NHNN để có thể cung cấp những thông số chính xác nhất, mới nhất về các doanh nghiệp, các biến động trên thị trường, các thông tin có liên quan đến dự án…
Có các hình thức chỉ đạo, hỗ trợ giúp các đơn vị hiện đại hóa trên cơ sở đổi mới công nghệ Ngân hàng, tạo tiền đề cho các Ngân hàng Thương mại phát triển mạnh trong hoạt động. Từng bước đa dạng hóa hoạt động Ngân hàng, hội nhập với cộng đồng tài chính và tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng Thương mại trong hoạt động tín dụng và thanh toán quốc tế.
Thực thi chính sách ổn định kinh tế vĩ mô trong đó có việc kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính – tiền tệ có hiệu quả. Thực thi chính sách lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu, phù hợp với việc phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Để hạn chế cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội Ngân hàng cũng như nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết lãi suất thị trường thông qua lãi suất định hướng của mình.
3.3.2. Đối với Chính phủ và các cơ quan liên quan:
Các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư cần tăng cường trách nhiệm đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Tránh tình trạng dự án được duyệt thiếu căn cứ khoa học và tính thực tiễn, không phát huy được hiệu quả gây khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng.
Chính phủ cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp, qua đó đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo tài chính
Bộ tài chính cần hướng dẫn thực hiện tốt việc hạch toán kế toán của doanh nghiệp theo pháp lệnh hạch toán và thống kê nhằm đảm bảo tính chính xác, khoa học, và kịp thời của các báo cáo tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định của cán bộ Ngân hàng.
Các cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu cần đảm bảo tính ổn định trong chính sách xuất nhập khẩu, đảm bảo cân đối cán cân xuất nhập khẩu, tạo điều kiện cho ngân hàng yên tâm kinh doanh trong lĩnh vực này.
Các cơ quan thống kê cần đẩy mạnh công tác thống kê doanh nghiệp, đảm bảo tính chính xác, kịp thời khi cung cấp thông tin cho các ngân hàng.
Bên cạnh đó cần làm tốt hai công tác sau:
Một là: Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển: Bởi lẽ hiện nay, số doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH chiếm tỷ trọng lớn trong tống số các doanh nghiệp ở Việt Nam và tiềm năng của họ cũng rất lớn .Tuy nhiên trong việc vay vốn ngân hàng, về phía các cơ quan chức năng và ngân hàng nói chung vẫn ưu tiên hơn đối với các doanh nghiệp Nhà nước.Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả thẩm định các dự án.
Hai là: Hoàn thiện môi trường pháp lý: Các cơ quan có thẩm quyền chứng nhận quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp nên hoàn thiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho đồng bộ, thống nhất, chỉ cấp một bản duy nhất để tránh tình trạng khách hàng sử dụng vay vốn ở nhiều nơi.
Tuy nhiên đối với việc mua sắm các phương tiện vận tải thì rất khó cho khách hàng sử dụng những phương tiện này. Do đó để đảm bảo an toàn về phía ngân hàng nhưng vẫn bảo đảm lợi ích hai bên nên chăng Nhà nước cần có quy định riêng về việc sử dụng các bản sao thứ nhất trong việc kiểm tra giấy tờ sở hữu của Bộ giao thông, và các ban ngành liên quan đến những loại hình phương tiện này.
KÊT LUẬN
Tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại và cũng là một vấn đề được đề quan tâm rất nhiều trong những năm gần đây. Tuy vậy, trong việc thực hiện loại hình tín dụng này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Để có thể giải quyết triệt để những vấn đề của hoạt động tín dụng là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều thời gian và trí tuệ, đặc biệt là cần có sự đồng bộ trong các chính sách kinh tế và pháp luật cũng như sự đồng bộ trong phát triển kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp
Nhận thức được vấn đề này, dưới sự nhìn nhận của một sinh viên thực tập, bài viết này mong muốn đề cập đến hoạt động tín đối với các dự án dụng trung và dài hạn để từ đó đưa ra một số kiến nghị với mong muốn có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các dự án trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay cùng với những kinh nghiệm và lỗ lực của toàn bộ tập thể Cán bộ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà nội, chúng ta tin chắc rằng trong một tương lai không xa, Ngân hàng sẽ đạt được mục tiêu nâng chất lượng tín dụng đối với các dự án trung dài hạn của mình như mong muốn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS Phan Thị Thu Hà , Giáo trình Ngân hàng Thương mại , tr.10-37
TS Tô Ngọc Hưng, Giáo trình Nghiệp vụ Kinh doanh Ngân hàng
Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội các năm 2006, 2007,2008.
Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Website:
Quy định về nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Quy chế về tín dụng trung và dài hạn của Thống đốc NHNN Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 1.DOC