Yếu tố con người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và giảm được chi phí sản xuất một cách hợp lý. Bởi lẽ con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Sản phẩm do con người tạo ra, vì thế chất lượng của sản phẩm như thế nào là do con người quyết định, cũng như chất lượng của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, nếu muốn nâng cao được chất lượng sản phẩm để tăng được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì việc đầu tiên cần làm là phải chú trọng đầu tư vào con người.
Các doanh nghiệp cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật tại cơ sở. Do hiện tại lực lượng cán bộ kỹ thuật còn thiếu, trình độ còn yếu kém, tay nghề chưa cao, trong sản xuất chưa kiên quyết uốn nắn theo quy trình, chưa phát hiện được kịp thời các khuyết tật và sự cố xảy ra. Công nhân tay nghề cao còn ít, làm việc chưa tuân thủ kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn chất lượng, chạy theo sản lượng là chính chứ chưa đặt chất lượng là mục tiêu hàng đầu trong sản xuất.
Từ những hạn chế về mặt lao động như trên, các doanh nghiệp cần đưa ra biện pháp đào tạo hợp lý như: (-) Kỹ sư ở được các tỉnh cử đi đào tạo tại các trường Đại học phải có hợp đồng sau khi tốt nghiệp trở về địa phương công tác (như đã thực hiện với ngành Đường), (-) Mở các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý ngắn hạn cho các lãnh đạo của các nhà máy (do các trường cán bộ quản lý của Bộ chịu trách nhiệm), (-) Công nhân kỹ thuật do các trường công nhân kỹ thuật của Bộ đào tạo, (-) Mở các lớp huấn luyện kỹ thuật cho người sản xuất tôm và chế biến chè theo chương trình khuyến ngư và khuyến công. Ngoài ra cần thường xuyên tổ chức thi thợ bậc giỏi, thi nâng bậc, ca sản xuất có chất lượng, nâng cao trình độ kỹ thuật, tay nghề thợ bậc cao trong lĩnh vực sản xuất, chế biến tôm nhằm ổn định và nâng cao kỹ thuật sử dụng thiết bị và kỹ thuật chế biến tại cơ sở. Ngoài ra, việc tạo cơ hội cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp được tiếp xúc nhiều hơn nữa với những kiến thức mới trong quản lý thị trường để họ có thể kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với kinh nghiệm quản lý nhằm giải quyết tốt công việc.
122 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm Việt Nam xuất khẩu trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một môi trường thuận lợi song vẫn an toàn cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng, chế biến tôm xuất khẩu.
Chính sách tín dụng, trợ cấp
Cơ chế thưởng xuất khẩu đối với những doanh nghiệp có doanh thu cao, có thành tích tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu tôm là rất cần thiết và hữu ích. Nó sẽ khuyến khích cho những nhà xuất khẩu mặt hàng tôm phấn đấu tăng trưởng cao hơn nữa. Nhìn chung, những thị trường tiêu thụ tôm chính của Việt Nam hiện nay hầu hết là các thị trường truyền thống và đang có xu hướng bão hoà (ví dụ như thị trường Nhật Bản). Vì vậy, nếu các doanh nghiệp tìm được những thị trường mới, Nhà nước cần đưa ra mức thưởng hợp lý dựa trên doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp đó. Đồng thời Nhà nước cũng nên có những mức thưởng khác nhau đối với những doanh nghiệp xuất khẩu có doanh thu cao trong năm.
Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu vì đây là một trong những yếu tố quyết định thành công của hoạt động xuất khẩu. Nhu cầu tài trợ xuất khẩu bao gồm: 1) tài trợ trước khi giao hàng (cấp vốn để đảm bảo đầu vào cho sản xuất và chế biến xuất khẩu) - nhu cầu vốn này rất quan trọng do đặc điểm hàng thuỷ sản là mang tính chất thời vụ cao và nhiều loại nguyên liệu, máy móc, thiết bị phục vụ chế biến xuất khẩu lại phải nhập khẩu; 2) tài trợ trong khi giao hàng: tôm đã được chế biến và cần phải lưu kho chờ ký được hợp đồng bán hàng. Muốn thắng lợi trong chào hàng và giành được quyền ký kết hợp đồng thì doanh nghiệp phải chào hàng với những điều kiện hấp dẫn về giá cả, thanh toán do đó phát sinh nhu cầu về tín dụng; 3) tài trợ sau khi giao hàng: nhà xuất khẩu chào bán chịu với thời hạn thanh toán từ 3, 6, 9 tháng hay lâu hơn vì vậy nhà xuất khẩu cần phải vay vốn để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, Việt Nam cần phải thiết lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu tôm bởi vì: thứ nhất, đặc thù của ngành thủy sản nói chung và mặt hàng tôm nói riêng là phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, giá biến động thất thường nên quỹ này được thiết lập sẽ ổn định giá; thứ hai, quỹ hỗ trợ xuất khẩu trợ giúp đổi mới trang thiết bị khi cần thiết để nâng cao năng lực chế biến, chất lượng sản phẩm, hỗ trợ thâm nhập thị trường.
Nhóm giải pháp về phía ngành thủy sản đối với mặt hàng tôm
Nhóm giải pháp tạo nguồn nguyên liệu
Nguyên liệu là một trong những vấn đề quan trọng đối với việc phát triển xuất khẩu tôm. Trong thời gian gần đây tình trạng thiếu nguyên liệu xảy ra khá phổ biến đối với hầu hết các xí nghiệp chế biến tôm xuất khẩu. Mặt khác, sự phát triển đi trước của năng lực sản xuất chế biến (được đánh giá là dư thừa) so với khả năng cung cấp nguyên liệu có thể dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đẩy giá nguyên liệu lên cao, hạ thấp phẩm chất sản phẩm xuống. Như vậy, đầu tư phát triển năng lực sản xuất của khu vực tạo nguyên liệu cân đối với sự phát triển năng lực chế biến và tăng cường quản lý thị trường nguyên liệu là yếu tố quan trọng hàng đầu để gia tăng kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu mặt hàng tôm.
Các giải pháp tạo nguyên liệu cần tập trung vào các vấn đề sau:
Trong khai thác tôm
Khai thác thủy hải sản nói chung là một lĩnh vực khó và chậm được đổi mới. Tàu thuyền, ngư cụ, công nghệ, lao động của nước ta vẫn còn lạc hậu và có nhiều bất cập khi đi vào CNH-HĐH. Trong điều kiện một nước còn nghèo, kinh tế chậm phát triển, dân trí ven biển và hải đảo còn thấp như Việt Nam thì chú trọng phát triển kinh tế biển là rất cần thiết. Muốn làm được điều này, trong những năm tới, tất cả các tỉnh, thành phố ven biển và ngành thủy sản cần tiến hành đánh giá lại một cách đầy đủ và toàn diện thực trạng khai thác tôm biển; sự biến động, chuyển đổi ở vùng gần bờ và kết quả cũng như những vấn đề đang được đặt ra trong việc thực hiện chủ trương khai thác các loài tôm. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, gắn với yêu cầu hội nhập, dựa vào khả năng và hiện trạng sử dụng nguồn lợi để có định hướng chiến lược và giải pháp đẩy mạnh phát triển khai thác gắn với việc tái tạo nguồn lợi tôm tự nhiên.
Một số giải pháp cụ thể đối với lĩnh vực khai thác tôm là:
Phát triển mạnh mẽ năng lực sản xuất và tổ chức khai thác tôm xa bờ
Ưu tiên tập trung các khoản tín dụng trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ ngư dân trang bị tàu thuyền và công cụ đánh bắt
Xây dựng các đội tàu khai thác làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ về dịch vụ, hậu cần đưa dân ra khai thác xa bờ
Xây dựng hệ thống các cơ sở dịch vụ hậu cần, bao gồm cầu cảng, công trình điện nước cung ứng nhiên liệu, nước đá dùng ướp lạnh tôm, xây dựng các cảng và hệ thống dịch vụ phục vụ xuất khẩu ở một số đảo, các vùng biển có nghề tôm trọng điểm
Giảm mạnh sức ép với nguồn lợi ven bờ thông qua phát triển nuôi tôm biển và áp dụng công nghệ thay thế
Thực hiện tốt công tác bảo vệ nguồn lợi tôm biển
Hiện nay, việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản nói chung và nguồn tôm biển nói riêng là vấn đề rất bức xúc. Để có thể hạn chế và loại trừ việc lạm sát các nguồn lợi thủy sản, bên cạnh các biện pháp xử lý các hành vi vi phạm để răn đe, thì điều quan trọng nhất vẫn là nâng cao ý thức của người dân. Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản cần chú trọng hơn nữa đến công tác tuyên truyền các Thông tư, Nghị định cũng như các văn bản có liên quan về vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản và nguồn lợi tôm biển. Một giải pháp tích cực khác là hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và giúp ổn định cuộc sống cho các hộ ngư dân nghèo, các hộ diện chính sách. Đây là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ được nguồn lợi thủy sản nói chung cũng như nguồn lợi tôm tự nhiên trong lâu dài. Bởi lẽ, hầu hết các hộ khai thác tôm đều là những hộ dân nghèo, trình độ còn thấp. Nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn, khoa học kỹ thuật cũng như định hướng ngành nghề phù hợp như nuôi trồng tôm theo quy hoạch, đánh bắt tôm biển hoặc tạo công ăn việc làm khác,… Bên cạnh đó, việc tái tạo, phục hồi nguồn lợi thủy sản nói chung và tôm biển nói riêng cũng rất cần thiết. Ví dụ như UBND tỉnh Quảng Nam mới đây đã kiến nghị Bộ Thủy sản bảo vệ nguồn lợi tôm hùm giống bằng lệnh cấm đánh bắt vào mùa tôm hùm sinh sản từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm[1] Theo Thời báo kinh tế Việt Nam số ngày 02/05/2003
. Theo Chương trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010, tổng vốn đầu tư cho việc thả giống ra các vùng nước tự nhiên dự tính khoảng 50 tỷ đồng. Để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần khoanh vùng bảo vệ, phục hồi nguyên trạng môi trường sống của các loài tôm, đồng thời tiến hành thả tôm giống bổ sung. Việc thả tôm giống bổ sung cần chú trọng đến chất lượng tôm giống, khu vực thả và kỹ thuật thả. Cũng trong Chương trình Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2010, dự án tái tạo nguồn lợi tôm biển dự kiến sẽ chọn 3 loài tôm thuộc họ hôm he, gồm: tôm sú, tôm bạc thẻ, tôm nương với những khu vực thả được dự tính kỹ càng. Hy vọng rằng, nguồn lợi tôm biển của Việt Nam sẽ sớm được phục hồi, góp phần khôi phục nghề khai thác tôm biển ở Việt Nam.
Trong nuôi trồng
Về quy hoạch
Nhà nước cần có những biện pháp rà soát, bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch thiết kế các vùng nuôi theo dự án. Trong khi quy hoạch cần phối hợp với các ngành Nông, Lâm, Thuỷ lợi nhằm thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả những loại hình mặt nước nuôi trồng tôm như: đất ngập mặn, ruộng nhiễm mặn, ruộng trũng cấy lúa bấp bênh, vùng đất cát miền Trung,… Từ đó tiến hành quy hoạch cụ thể, bố trí cơ sở hạ tầng cho từng vùng nuôi. Cụ thể là:
Tiếp tục hoàn chỉnh việc chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng tôm. Nhanh chóng đưa các dự án đầu tư nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm trên cát, nuôi tôm kết hợp trồng rừng, nuôi tôm với công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh thái bền vững vào các vùng trọng diểm
Tiến hành áp dụng các biện pháp quản lý vùng nuôi một cách hiệu quả, đảm bảo vệ sinh môi trường vùng nuôi, vệ sinh chất lượng sản phẩm từ vùng nuôi
Hạn chế nuôi tôm quảng canh năng suất thấp, khuyến khích nuôi tôm xen canh và luân canh để khai thác có hiệu quả hơn nữa quỹ đất nuôi tôm
Ngăn cấm việc nuôi tôm trong các vùng đệm U Minh Thượng để tránh tình trạng nhiễm mặn nguồn nước
Về giống tôm
Kinh nghiêm của nhiều quốc gia có nghề nuôi trồng tôm phát triển đều khẳng định việc đảm bảo số lượng và chất lượng con giống cho sản xuất là điều kiện quyết định sự thành bại của bất kỳ hoạt động nuôi tôm nào. Tôm giống có chất lượng cao sẽ đảm bảo khi nuôi đạt tỉ lệ sống cao, giảm rủi ro dịch bệnh, tốc độ tăng trưởng nhanh và sử dụng thức ăn một cách hiệu quả.
Hiện nay, các trại sản xuất tôm giống trên cả nước không đủ cung ứng giống cho nhu cầu tôm ngày một tăng, nhất là vào thời vụ. Vì vậy, ngành thủy sản phải xúc tiến nhanh việc triển khai quy hoạch lại hệ thống trạm trại, củng cố hoàn thiện công tác tổ chức quản lý các trại giống. Một số giải pháp hữu hiệu nhằm tổ chức quản lý tốt các trại giống tôm, nhằm đảm bảo cho nhu cầu tôm giống của cả nước có thể kể đến việc:
Xây dựng hệ thống giống quốc gia theo hướng có những trung tâm giống hiện đại, đủ năng lực nghiên cứu, ứng dụng và đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật của thế giới và khu vực vào sản xuất ở các vùng địa lý – sinh thái và quản lý các nhóm tôm giống đặc trưng cho vùng. Xây dựng các trung tâm tôm giống quốc gia thuộc các Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản là việc làm cần thiết. Các trung tâm này sẽ có nhiệm vụ nhân và cung cấp giống tôm gốc, giống thuần cũng như giống đã được nâng cao chất lượng di truyền cho các trại sản xuất tôm giống ở các địa phương. Ngoài ra, các trung tâm này còn có nhiệm vụ nhập khẩu, thuần hoá và di giống một số loại mới có năng suất, chất lượng cao, có khả năng phòng chịu bệnh tốt,… để hình thành các bộ giống nuôi phù hợp với các hệ sinh thái trong từng khu vực lãnh thổ. Đây cũng sẽ là các trung tâm đào tạo, tập huấn kỹ thuật và quản lý các trạm trại giống cho các cán bộ kỹ thuật của các tỉnh, các vùng.
Xây dựng trại giống vùng dưới sự chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật của các trung tâm quốc gia có nhiệm vụ nhân rộng các giống tôm.
Hình thành mạng lưới sản xuất giống thương mại đại trà gồm các trại sản xuất và ương nuôi tôm giống. Đây sẽ là lực lượng cung cấp tôm giống chủ yếu, vì vậy cần có sự hỗ trợ đắc lực của trung tâm giống quốc gia và các trại tôm giống vùng.
Ở các địa phương, cần tính toán sớm cân đối cung cầu, có kế hoạch điều phối, lưu thông, kiểm dịch chặt chẽ, đảm bảo tôm giống có chất lượng cao cho người nuôi tôm.
Về thức ăn công nghiệp
Ngành thủy sản cần quan tâm tới việc đầu tư nâng cấp các cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hiện có, đồng thời đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới.
Giai đoạn 2001-2005: đảm bảo thức ăn công nghiệp nuôi tôm sản xuất trong nước chiếm khoảng 60% (trong đó nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thức ăn khoảng 30%), còn 40% nhu cầu phải nhập của các nước trong khu vực.
Giai đoạn 2006-2010: đảm bảo thức ăn công nghiệp nuôi tôm sản xuất trong nước tăng lên, chiếm khoảng 80% (trong đó nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thức ăn vẫn duy trì ở mức 30%), còn 20% nhu cầu phải nhập từ các nước khác trong khu vực.
Về khoa học công nghệ trong nuôi tôm
Có thể nói, rất cần thiết phải tập trung nghiên cứu nâng cấp, hoàn thiện một cách đồng bộ quy trình sản xuất giống, công nghệ nuôi mới, công nghệ về xử lý môi trường, công nghệ sản xuất thức ăn cho tôm. Chúng ta cũng cần chú ý tuyển chọn những công nghệ phù hợp vớ điều kiện trong nước nhưng đồng thời phải nắm bắt xu thế công nghệ tương lai của thế giới nhằm tránh tình trạng lạc hậu kéo dài. Ngành thủy sản cần huấn luyện, đào tạo cho các hộ nuôi tôm về quy tắc thực hành nuôi tôm có trách nhiệm, nhằm phát triển bền vững, đồng thời xác định rõ vai trò chuyên biệt của người nuôi, nhóm nuôi và hộ nuôi tôm tại Việt Nam. Quy tắc này sẽ bao gồm:
Sử dụng diện tích mặt đất và mặt nước phù hợp cho nuôi tôm bền vững
Bảo tồn các môi trường sống nhạy cảm và chức năng của các hệ sinh thái quan trọng, điều hành các trại tôm không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sống và chức năng của các hệ sinh thái
Quản lý các nguồn tài nguyên đất và các công trình đào đắp nhằm giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái xung quanh, đồng thời xây dựng trại nuôi tôm hợp lý với chất lượng đất vì tôm là loài sống đáy
Giảm thiểu các tác động đến nguồn nước tại chỗ, không dùng nước ngầm để nuôi tôm
Tránh thả các loài ngoại lai và đột biến vào trong môi trường
Sử dụng hoá chất có trách nhiệm, nghĩa là hạn chế sử dụng hoá chất đến mức thấp nhất nhằm sản xuất ra những sản phẩm tôm chất lượng cao
Tăng tối đa hiệu quả sử dụng tài nguyên và hạn chế tối đa lượng chất thải để giúp người nuôi tôm tăng hiệu quả nuôi
Thực hành nuôi tôm sạch bệnh nhằm giảm bớt rủi ro dịch bệnh cho trại nuôi và cho nguồn giống tự nhiên
Phát triển nuôi tôm kết hợp với quy hoạch phát triển vùng nông thôn và quản lý vùng ven biển
Về vấn đề dịch bệnh
Trong những vụ tôm gần đây, nhiều vùng nuôi bị ô nhiễm trầm trọng do tự phát, mật độ nuôi dày, không kịp thời xử lý nguồn nước, dẫn đến việc tôm bị nhiễm bệnh rất nhiều. Trước thực trạng đó, ngành thủy sản cần có những biện pháp kịp thời và đồng bộ như sau:
Đối với những vùng nuôi đã bị ô nhiễm, có dịch bệnh, cần có sự hỗ trợ của lực lượng khuyến nông, khuyến ngư, giám sát chặt chẽ, dứt khoát đề nghị những vùng nuôi này tạm thời ngưung hoạt động để xử lý, không nên cho nuôi khi chưa có tác động tích cực.
Đối với những vùng nuôi chỉ cần có một vài trang trại có hiện tượng dịch bệnh, cần thường xuyên giám sát, tránh để lây lan sang khu vực ao hồ xung quanh, đồng thời khuyến cáo những khu vực lân cận, cảnh báo kịp thời nguy cơ tiềm ẩn.
Các địa phương và vùng nuôi được cảnh báo ô nhiễm, cần được xem xét cụ thể, có kế hoạch giúp đỡ người nuôi.
Đó là những biện pháp cần làm ngay khi xảy ra dịch bệnh. Tuy nhiên, quan trọng hơn là việc ngành thủy sản cần hỗ trợ người dân trong việc kiểm dịch con giống trước khi thả nuôi hoặc trang bị thêm thiết bị cho việc kiểm dịch. Đồng thời tiến hành tuyên truyền cho người dân cách phòng ngừa, trình báo ngay lên cấp trên khi phát hiện thấy có dấu hiệu mầm bệnh.
Trong nhập khẩu nguyên liệu tôm
Bên cạnh việc tăng cường nguồn cung cấp nguyên liệu trong nước, nhập khẩu nguyên liệu cũng là một giải pháp để ổn định sản xuất chế biến nhất là khi công suất của các xí nghiệp đông lạnh dư thừa hay vào lúc trái mùa vụ nguyên liệu trong nước. Để khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu cho chế biến tôm, Nhà nước phối hợp với ngành thủy sản cần có các chính sách sau:
Miễn lâu dài thuế nhập khẩu nguyên liệu và phụ liệu tôm
Trợ giá cho các hoạt động xuất nhập khẩu nguyên liệu tôm để đảm bảo cân đối nhu cầu dinh dưỡng cho nhân dân
Miễn thuế xuất khẩu đối với mặt hàng tôm tái xuất được sản xuất từ nguyên liệu nhập từ nước ngoài
Khuyến khích mọi hình thức hợp tác với nước ngoài trong việc đưa nguyên liệu tôm vào Việt Nam để chế biến hoặc gia công tái xuất
Nghiên cứu hình thành một số khu vực cảng thủy sản tự do, miễn thuế để thu hút các tàu cá nước ngoài vào bán nguyên liệu
Tăng cường hợp tác kinh tế – kỹ thuật với nước ngoài
Ngành thủy sản Việt Nam nói chung, ngành sản xuất và xuất khẩu tôm nói riêng cần tăng cường hợp tác kinh tế – kỹ thuật với nước ngoài trong sản xuất, chế biến tôm xuất khẩu và đẩy nhanh tiến độ hội nhập khu vực và thế giới. Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội nghề cá các nước Đông Nam Á, APEC và chuẩn bị gia nhập WTO. Hội nhập với khu vực và thế giới đã và đang mở ra nhiều khả năng phát triển lớn cho Việt Nam do việc học tập kinh nghiệm của các nước có ngành tôm phát triển, hạn chế được những tranh cấp có thể xảy ra giữa các nước trong vùng và tận dụng tốt hơn nguồn tài nguyên biển; dồng thời đảm bảo một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn. Trong nội bộ ASEAN, Thái Lan là nước xuất khẩu tôm đứng hàng đầu thế giới và là nước có ngành công nghiệp chế biến tôm vào loại hiện đại nhất thế giới; các nước khác như Indonesia, Philippines, Malaysia,… cũng là những nước chế biến tôm khá tiên tiến và đạt các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế; trong khi đó Singapore là nước tái xuất tôm lớn trên thế giới, còn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương lại là thị trường tiêu thụ tôm lớn nhất thế giới. Vì vậy, việc tham gia của Việt Nam vào AFTA, APEC,… chắc chắn sẽ mở ra những cơ hội vô cùng to lớn để Việt Nam tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi tôm,… mở ra những thị trường rộng lớn hơn cho mặt hàng tôm Việt Nam xuất khẩu.
Về mặt kỹ thuật, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới về nuôi trồng tôm trong các lĩnh vực sau:
Sinh sản nhân tạo giống tôm hùm. Di giống nhập nội và thuần hoá các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế và xuất khẩu phù hợp với điều kiện sinh thái, môi trường của Việt Nam.
Hợp tác trong việc nghiên cứu di truyền, chọn giống, quản lý các trại tôm, công tác phòng ngừa dịch bệnh.
Kêu gọi nước ngoài đầu tư qua các quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song phương.
Thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước
Để đạt được mục tiêu xuất khẩu để ra, trong thời gian từ nay đến năm 2005, chúng ta cần khoảng 650 triệu USD vốn đầu tư cho tất cả các khâu của quá trình sản xuất và xuất khẩu. Muốn thu hút được một lượng vốn lớn như vậy, chúng ta cần thực hiện nhất quán chính sách khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào mọi khâu của ngành, ban hành các chính sách phù hợp để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào, sao cho hợp lý nhằm khuyến khích người dân tăng cường tích luỹ và từ đó tăng cường đầu tư.
Vốn có nguồn gốc nhà nước là nguồn vốn quan trọng nhất trong giai đoạn tới và dự kiến được phân bổ như sau:
Nhà nước dành một khoản vốn tưu tiên từ các nguồn khác nhau (vốn ngân sách, vốn viện trợ ODA, vốn vay dài hạn của các tổ chức quốc tế,…) để phát triển sản xuất nguyên liệu thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng, điều tra nguồn lợi, nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng công nghệ tiên tiến, trước hết là công nghệ sản xuất giống các loài có giá trị kinh tế cao, công nghệ đánh bắt xa bờ, quản lý chất lượng, quản lý thị trường, hỗ trợ công tác thông tin thị trường, đào tạo chuyên gia và cán bộ kỹ thuật.
Vốn vay thương mại trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi được dành hỗ trợ cho nhu cầu của các doanh nghiệp chế biến để đầu tư chiều sâu, phát triển công nghệ, cho dân vay để xây dựng các công trình kỹ thuật nuôi trồng, đóng mới tàu thuyền và phương tiện sản xuất.
Vốn từ các nguồn khác được huy động qua các hình thức và biện pháp sau:
Tiến hành cổ phần hoá phần lớn các doanh nghiệp chế biến thủy sản quốc doanh hiện có nhằm thu hút mạnh vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác, giữ tỷ trọng vốn nhà nước khoảng 25-30% tổng vốn kinh doanh trong khu vực chế biến xuất khẩu. Nhà nước chỉ nắm tỷ lệ cổ phần chi phối trong các doanh nghiệp có vị trí quan trọng, không khuyến khích phát triển thêm các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trừ những doanh nghiệp có công nghệ cao.
Xây dựng ngân hàng cổ phần thủy sản và hệ thống các quỹ tín dụng nghề cá để thu hút và cung cấp vốn kịp thời.
Về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến tôm, chủ yếu là vào nuôi trồng tôm, Nhà nước cũng cần đưa ra những giải pháp hợp lý. Để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng tôm, ngành Thủy sản cần triển khai có hiệu quả và hợp lý Chương trình hành động về hội nhập kinh tế ban hành theo Quyết định số 998/QĐ-BTS ngày 13/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản. Đồng thời tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động hội nhập để tranh thủ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, mời gọi đầu tư, giả quyết các vấn đề đảm bảo xúc tiến thương mại và bảo vệ các mặt hàng thủy sản nói chung và mặt hàng tôm xuất khẩu nói riêng trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, một hướng đi không kém phần quan trọng để thu hút đầu tư của nước ngoài, đó là sự tập trung chỉ đạo để sử dụng có hiệu quả viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực thông qua thực hiện các dự án song phương và đa phương có sử dụng vốn ODA và viện trợ phát triển; kết hợp với khai thác các nội dung Hiệp định, ghi nhớ đã ký với các nước thời gian qua, tạo môi trường ổn định,hoà bình và hợp tác nhằm xúc tiến đầu tư.
Tăng cường công tác quản lý chất lượng
Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là chất lượng. Không chỉ có EU mà các thị trường khác như Mỹ, Trung Quốc,… cũng tăng cường công tác kiểm soát chất lượng. Các Bộ , ngành hữu quan và các địa phương cần phối hợp với ngành thủy sản thực hiện các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý sử dụng thuốc kháng sinh hoá chất trong sản xuất và kinh doanh tôm, và việc cấm đưa tạp chất vào nguyên liệu tôm chế biến.
Bộ thủy sản cần thiết phải thực hiện các biện pháp sau:
Hoàn thiện cơ bản hệ thống các văn bản pháp quy và pháp chế kỹ thuật liên quan đến quản lý chất lượng trong ngành thủy sản. Cụ thể là:
+ Xây dựng và công bố chiến lược của ngành về loại trừ dư lượng kháng sinh trong sản phẩm tôm, trên cơ sở khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của nước ta
+ Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về vùng, trại sản xuất và nuôi tôm sinh thái, áp dụng quy phạm nuôi trồng tôm tốt; áp dụng quy chế kiểm tra, đánh giá, công nhận vùng, trang trại sản xuất tôm an toàn sinh thái và có chính sách khuyến khích hỗ trợ các vùng này
Hỗ trợ và hướng dẫn nghiệp vụ vệ sinh an toàn thực phẩm cho các cơ quan và cán bộ kiểm tra địa phương
Xây dựng Trung tâm giao dịch và thành lập Quỹ Bảo hiểm tôm
Xây dựng Trung tâm giao dịch
Tháng 4/2002, Trung tâm giao dịch Thủy sản Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh) đã trở thành “chợ thủy sản” đầu tiên của cả nước. Tuy nhiên, hoạt động của TTGD này còn khá êm ắng, chưa thực sự là đầu mối giao thương thủy sản. Trong tương lai, Nhà nước và ngành Thủy sản cần thiết phải xây dựng và cho đi vào hoạt động có hiệu quả những TTGD thực sự là cầu nối giữa người bán - bà con nông dân với người mua - các doanh nghiệp chế biến thủy sản. Có làm được điều này thì người nuôi thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng mới có thể yên tâm về giá cả và không còn lo không biết bán sản phẩm cho ai sau khi thu hoạch. Nhà nước cần nhìn nhận rõ vai trò và nhiệm vụ của TTGD thủy sản, trong đó đặc biệt là mặt hàng tôm; phải thấy được sự ra đời của các TTGD tôm sẽ giúp nhà chế biến tiếp cận được vùng nguyên liệu, có đầy đủ thông tin cung cấp để đánh giá sản lượng cũng như chất lượng con tôm nhằm hoạch định tốt kế hoạch sản xuất, kinh doanh; người nuôi tôm cũng được tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nuôi.
Xây dựng đội ngũ thương nhân
Khi mà việc xây dựng các chợ đầu mối thủy sản cũng như các TTGD thủy sản còn là vấn đề khó có thể thực hiện trong một sớm một chiều, thì giải pháp đơn giản hơn để có thể giúp người bán và người mua, giúp cung và cầu thủy sản gặp nhau- đó là xây dựng đội ngũ thương nhân.
Hiện nay, cách suy nghĩ và thái độ đối xử của nhiều người đối với tầng lớp thương nhân chuyên mua bán thủy sản (thường được gọi là thương lái) đã thay đổi, với cái nhìn tích cực hơn về vai trò của họ trong phân phối và tiêu thụ hàng thủy sản. Thương nhân mua bán nông thủy sản ở nông thôn hiện nay là kênh tiêu thụ hơn 95% sản phẩm cho người nông dân song nhiều năm qua Nhà nước vẫn chưa xem trọng vai trò của thương lái; trong khi trên thực tế, họ đóng vai trò khá lớn cho sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam. Để tồn tại, tư thương phải cạnh tranh với nhau rất khốc liệt trong điều kiện tôm ít, nhà máy và đại lý mọc lên ngày càng nhiều. Muốn mua được tôm, họ phải tính toán đến từng đồng xu để hạ giá thành, nâng cao giá mua. Nhiều lúc vì giữ các mối thu gom, họ chỉ cần hoà vốn, thậm chí chấp nhận lỗ khi giá mua của các nhà máy tụt xuống đột ngột. Do vai trò quan trọng của đội ngũ thương nhân, Nhà nước cần có sự nhìn nhận đúng mực và khách quan những đóng góp của họ trong giao lưu hàng hoá ở thị trường trong nước. Bên cạnh đó cũng cần thiết phải có các chính sách phát triển đội ngũ thương nhân trong nước; cần có sự hỗ trợ đội ngũ này phát triển bằng cơ chế, chính sách thuế, chủ trương xây dựng các chợ đầu mối để tập trung thương nhân buôn bán thủy sản. Bởi lẽ, muốn tạo đòn bẩy cho thị trường trong nước, thị trường nông thôn phát triển mạnh; muốn sản phẩm thủy sản, nhất là sản phẩm tôm nuôi trồng ra được tiêu thụ nhanh chóng, làm tiền đề cho xuất khẩu thì phải bắt đầu từ đội ngũ thương nhân - người quyết định kênh lưu thông hàng hoá ở nông thôn.
Thành lập các Quỹ Bảo hiểm cho tôm
Chúng ta nên thành lập các quỹ bảo hiểm cho ngư dân phòng khi mất mát do dịch bệnh, thời tiết. Quỹ này sẽ lấy từ một phần doanh thu của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cùng các ngư dân đóng góp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên khuyến khích phát triển hình thức bảo hiểm nuôi trồng của các công ty bảo hiểm. Mới đây, từ tháng 2/2003, công ty bảo hiểm Grouppasa đã bắt đầu bán bảo hiểm tôm sú trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 9 trong năm, giá trị mỗi hợp đồng bảo hiểm cho người nuôi tôm căn cứ vào diện tích nuôi tôm và hình thức nuôi (công nghiệp, bán công nghiệp hay quảng canh cải tiến).
Xây dựng thương hiệu cho mặt hàng tôm Việt Nam
Việc xây dựng một biểu tượng tốt đẹp về hàng hoá trong con mắt khách hàng là một vấn đề khó khăn và đòi hỏi có thời gian dài. Hoạt động marketing có tác dụng tạo hình ảnh của sản phẩm tôm Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới, làm nhiều đối tác biết đến những mặt hàng của mình. Một khi hàng hoá đã có biểu tượng riêng, đã xây dựng được uy tín trong lòng khách hàng, để cho mỗi khi ra quyết định mua hàng, khách hàng luôn nghĩ ngay đến những sản phẩm của mình thì việc xuất khẩu sản phẩm tôm hay những sản phẩm khác mang nhãn hiệu tôm Việt Nam sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Hiện nay sản phẩm tôm của Việt Nam đã được xuất khẩu sang 50 nước trên thế giới. Nhiều mặt hàng tôm nổi tiếng như tôm hùm, tôm càng xanh, tôm he chân trắng, tôm sú,…được khách hàng, kể cả người tiêu dùng khó tính như người Mỹ, Pháp, Đức, Đài Loan,… ưa thích. Đây là những thuận lợi cho ngành thủy sản trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu cho mặt hàng tôm xuất khẩu.
Từ những đánh giá ở trên, ta thấy, trước hết, để có được một thương hiệu cho mặt hàng tôm Việt Nam trên thị trường quốc tế, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về quảng cáo. Song hành với việc quảng bá thương hiệu, ngành sản xuất tôm cũng cần phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và mục tiêu là phải hoà giá quốc tế ở mức bình quân, tăng tỷ trọng các loại sản phẩm cao cấp để cải thiện thu nhập. Đồng thời giải quyết đồng bộ các lĩnh vực: sản xuất nguyên liệu, công nghiệp chế biến và thị trường. Có như vậy mới từng bước vững chắc tạo lập được hình ảnh tôm Việt Nam xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Mục tiêu của ngành thủy sản Việt Nam khi tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu, tăng giá trị gia tăng trên sản phẩm tôm chế biến chính là định hướng chiến lược của ngành thủy sản Việt Nam đối với mặt hàng tôm trong thời gian tới[1] Theo Báo Tin tức số thứ 6, ngày 13/9/2003
Như vậy, mặt hàng tôm cần tự xây dựng hình ảnh riêng cho mình trên thị trường quốc tế. Nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động này sẽ trích từ kim ngạch xuất khẩu tôm hàng năm của các doanh nghiệp. Cách quảng bá có thể là giới thiệu hoạt động sản xuất tôm của Việt Nam từ nuôi trồng đến thu hoạch, bảo quản và chế biến,… Ngành thủy sản cần đưa những thông điệp cho người tiêu dùng hiểu biết hơn về sản xuất và xuất khẩu tôm của Việt Nam. Thông điệp này có thể nói về phương pháp nuôi tôm sinh thái, không sử dụng bất kỳ loại hoá chất hay kháng sinh nào, hoặc chương trình nuôi tôm giúp giải quyết việc làm cho người nông dân, góp phần giữ gìn hệ sinh thái rừng ngập mặn,… Trong cuộc điều tra của một chuyên gia về thủy sản thì “70% số người được hỏi cho biết họ thích mua nhãn hiệu thủy sản cho thấy chúng được sản xuất từ những vùng không bị khai thác quá mức, cho dù giá sản phẩm này có cao hơn sản phẩm cùng loại đôi chút”[2] Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam số ngày 31/1/2002
. Để lập kế hoạch xúc tiến thương mại cho năm 2004, Hiệp hội thủy sản Việt Nam (VASEP) nên đề nghị các doanh nghiệp, các đơn vị xuất khẩu tôm lập kế hoạch xúc tiến thương mại năm 2004 (Làm gì? Thị trường nào? Thời gian nào? Nội dung cụ thể gửi về Hiệp hội để tổng hợp chương trình cho toàn ngành).
Chính sách nguồn nhân lực trên phạm vi cả nước
Có thể nói đây là yếu tố quan trọng vì việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành tôm thông qua việc nâng cao trình độ, tay nghề cho ngư dân, đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và cán bộ thị trường để có đủ năng lực và thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường có điều tiết là chìa khoá cho thành công của chiến lược xuất khẩu mặt hàng này trong thời gian tới. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cuả Nhà nước ngay cả khi được xác định một cách khoa học và đúng đắn cũng chỉ là một vế của phương trình xuất khẩu, trách nhiệm cuối cùng cũng như khả năng tận dụng được mọi sự ưu đãi đó để chào bán sản phẩm có tính cạnh tranh cao để mở rộng thị trường lại thuộc về bản thân các doanh nghiệp. Đào tạo nguồn nhân lực là mối quan tâm không những ở quy mô doanh nghiệp mà còn ở cả quy mô quốc gia và quốc tế. Vì vậy, phương châm Nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư cho việc xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu quả. Ngoài ra, sự trợ giúp về kỹ thuật và tài chính của cộng đồng quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Các giải pháp chính để thực hiện được các chỉ tiêu này là:
Phát triển hệ thống các trường đại học hiện có để đáp ứng yêu cầu về nhân lực có trình độ cao, đặc biệt để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu cần tập trung đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu, làm Marketing quốc tế, phân tích hoạt động kinh doanh quốc tế
Nâng cao trình độ đào tạo và cơ sở vật chất của các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
Phổ cập giáo dục tiểu học trong cộng đồng ngư dân
Tổ chức các lớp học về pháp luật, đào tạo hướng nghiệp cũng như khuyến ngư tại các địa phương, cung cấp kiến thức về kỹ thuật và kinh tế giúp cho người nông dân và ngư dân có thể tiến hành nuôi trồng và khai thác tôm một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả, mang lại năng suất và lợi nhuận cao
Nâng cấp cơ sở hạ tầng về văn hoá, giáo dục xã hội trong các khu vực cộng đồng ngư dân
Nhóm giải pháp vi mô (về phía các doanh nghiệp)
Nhập nguyên liệu đầu vào cho chế biến
Thu mua tôm nguyên liệu là khâu rất quan trọng. Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cần có giải pháp cụ thể thực hiện Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính phủ thông qua thực hiện sản xuất theo hợp đồng, đảm bảo tiêu thụ nguyên liệu cho ngư dân. Các doanh nghiệp chế biến cần tận dụng các hình thức liên doanh, liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa sản xuất tôm nguyên liệu với chế biến tôm xuất khẩu, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu đưa vào sản xuất hàng xuất khẩu, giảm thất thoát sau thu hoạch.
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa tình trạng nuôi tôm nhỏ lẻ của các ngư dân và nhu cầu nguyên liệu đầu vào lớn cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu là rất quan trọng. Để nguồn nguyên liệu được ổn định, cần có có các chợ đầu mối tập trung, điển hình như chợ thủy sản Cần Giờ. Các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu nên tận dụng các trung gian. Mô hình Câu lạc bộ sản xuất nguyên liệu cá basa của Agifish trên cơ sở sản xuất nguyên liệu gắn với chế biến cần được nhân rộng cho sản phẩm tôm. Bởi lẽ, mô hình này vừa tạo nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định cho các doanh nghiệp chế biến, vừa bảo vệ quyền lợi của người nông dân, tăng khả năng đàm phán của họ.
Một vấn đề nổi cộm hiện nay của sản phẩm tôm Việt Nam đó là chất lượng đầu vào của tôm nguyên liệu còn rất thấp do chất lượng con giống kém, sử dụng nhiều thuốc trị bệnh tôm. Mặc dù vấn đề này đã được đề cập nhiều lần song dường như các biện pháp thực hiện vẫn còn bỏ ngỏ. Hiện các thị trường nhập khẩu lớn là EU và Mỹ đã lên tiếng về việc áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh đối với sản phẩm tôm, do vậy việc nâng cao hiệu quả khâu nhập nguyên liệu đầu vào là rất cần thiết.
Cho nên, đối với các doanh nghiệp, có thể xem xét một vài giải pháp nâng cao chất lượng:
Tạo lợi ích kinh tế đi kèm trong việc nâng cao chất lượng: ví dụ như có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với các cơ sở sản xuất nguyên liệu,... để nâng cao tính trách nhiệm, tạo động cơ kinh tế trong việc nâng cao chất lượng của các cơ sở này và đảm bảo chất lượng hàng giao luôn đúng mẫu.
Cung cấp thông tin thị trường, chuyển sức ép của thị trường từ khách hàng nước ngoài xuống các nhà máy để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất trực tiếp tiếp cận với quy luật của thị trường.
Áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO hoặc HACCP
Xây dựng tiêu chuẩn tôm xuất khẩu và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn của doanh nghiệp, của ngành, và của Nhà nước để tạo dựng thương hiệu, hình ảnh trên thị trường thế giới trên cơ sở đó tiến tới cải thiện giá.
Cải tiến công tác thu mua “Thu mua” và “Bán hàng và phân phối”.
Quản lý chặt chẽ việc sử dụng các loại thuốc hoá chất đối với con tôm, quản lý chỉ đạo kỹ thuật công nghệ chế biến, đảm bảo tạo ra chất lượng sản phẩm tốt ngay tại cơ sở, ngay trên dây chuyền sản xuất.
Thu mua nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu
Trên thế giới, các công ty kinh doanh uy tín đều hoạt động trên nguyên tắc Đạo đức kinh doanh. Một điều rất tiếc là trong các trường đại học của ta lại không dạy môn học này. Đạo đức kinh doanh là các nguyên tắc ứng xử, quan hệ giữa người bán và người mua trong kinh doanh. Nó yêu cầu các bên phải luôn luôn cởi mở, sòng phẳng và cùng nhau phát triển. Một nguyên tắc chủ đạo của Đạo đức kinh doanh là người bán phải đối xử bình đẳng với các người mua, không được bán cho người này rẻ, bán cho người kia đắt và hơn hết là phải hợp tác và thực hiện đầy đủ các cam kết, người mua và bán phải cùng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Đây cũng là nguyên tắc quan trọng trong kinh doanh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, trong công tác thu mua tôm đã chế biến để xuất khẩu, khâu này của các công ty, xí nghiệp chế biến làm chưa tốt nên các doanh nghiệp xuất khẩu tôm gặp nhiều khó khăn, giá thu mua phải lên xuống thất thường gây tâm lý găm hàng chờ giá. Do đó, nhiệm vụ trong thời gian tới là phải :
Lựa chọn một mạng lưới các nhà cung cấp trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng như phải có cơ sở chế biến đảm bảo tiêu chuẩn, trình độ quản lý tốt,... Đặc biệt, không như trường hợp các doanh nghiệp chế biến mua tôm nguyên liệu của ngư dân, các doanh nghiệp xuất khẩu không nên mua tôm qua các trung gian vì nếu làm như vậy thì trở thành nuôi các đối thủ cạnh tranh và tạo điều kiện cho các nhà máy chế biến tiến hành chân trong, chân ngoài, sản phẩm tôm phải đi vòng vo qua nhiều cấp.
Xây dựng lòng tin, mối quan hệ tốt, luôn luôn lắng nghe và hợp tác trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng với các doanh nghiệp chế biến; tôn trọng đạo đức kinh doanh và cần phải có biện pháp kiên quyết xử lý đối với những doanh nghiệp vi phạm.
Cần phải luôn luôn tôn trọng, củng cố mối quan hệ kinh doanh vì đây là tài sản quý nhất và là phương tiện cạnh tranh hiệu quả nhất, kiên quyết xử lý những hiện tượng làm tổn hại mối quan hệ của các doanh nghiệp với các xí nghiệp, các cơ sở cung cấp; tạo các dịch vụ, tư vấn tốt nhất cho các xí nghiệp chế biến. Chúng ta cần học tập cách thức quan hệ với nhà cung cấp của các tập đoàn đa quốc gia. Chỉ có một hệ thống các nhà cung cấp tin cậy thì chất lượng tôm xuất khẩu mới được cải thiện, sản phẩm tôm mới xây dựng được thương hiệu của mình trên thị trường thế giới.
Giá thu mua phải hấp dẫn hơn, các dịch vụ đi kèm đưa ra phải có hiệu quả hơn.
Nâng cao năng lực, công nghệ chế biến
Giá trị tôm xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua còn khá nhỏ bé so với tiềm năng của đất nước. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là việc ngành công nghệ chế biến của Việt Nam còn quá yếu kém. Sản phẩm tôm xuất khẩu hầu hết mới chỉ qua sơ chế nên giá trị không cao và việc bảo quản cũng gặp nhiều khó khăn. Bởi vì vậy, bên cạnh việc xây dựng nguồn nguyên liệu ổn định, chúng ta cũng cần phải nâng cao năng lực của ngành chế biến tôm. Để hình thành một ngành công nghiệp chế biến tôm vững mạnh, có đủ khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Các doanh nghiệp chế biến cần dần dần áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia về thiết kế công nghệ và điều kiện sản xuất; đồng thời đầu tư công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế
Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến cần hiện đại hoá công nghệ, hình thành một hệ thống xí nghiệp có công nghệ, kỹ thuật cao, phát triển sản xuất các mặt hàng tôm có giá trị gia tăng, giảm bớt tỷ trọng nguyên liệu trong tôm chế biến. Các mặt hàng có giá trị gia tăng hiện được nhiều thị trường châu Âu và Nhật ưa chuộng cần được phát triển mở rộng như: sashimi, các sản phẩm tôm có dạng làm sẵn như bắp cải quấn tôm, nem tôm, chạo tôm, bánh nhân tôm, tôm lăn bột, tôm xiên, tôm luộc đóng gói nhỏ,…
Áp dụng các biện pháp đồng bộ, tổ chức lại sản xuất kinh doanh để nâng giá bình quân của tôm đông lạnh Việt Nam lên ngang bằng hoặc cao hơn giá trung bình của thế giới hiện nay. Mục tiêu của chúng ta là đạt giá trị xuất khẩu mặt hàng tôm đông lạnh 1,0-1,2 tỷ USD vào năm 2010. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp chế biến tôm đông cần phải:
+ Nâng cao tỷ lệ tôm nguyên đầu, tôm vỏ và tôm cỡ lớn trong cơ cấu hàng tôm đông hiện nay từ 10-15% lên 50%. Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến cần phối hợp với người nuôi tôm trong việc hướng dẫn kỹ thuật, tăng cường đầu tư cho khâu bảo quản sau thu hoạch
+ Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở chế biến tôm đông, cả về thiết bị và công nghệ; giảm dần tỷ trọng của tôm PD và tôm PUD dạng blốc 2 kg, tăng tỷ trọng tôm HOSO, HLSO, sản phẩm IQF, sản phẩm dạng C&P hoặc P&C và sản phẩm đóng gói nhỏ. Đồng thời chú trọng cải tiến bao bì, mẫu mã sản phẩm,…
Cải thiện chất lượng tôm xuất khẩu
Để nâng cao được chất lượng tôm xuất khẩu, trước hết phải có con giống có chất lượng, hệ thống nuôi tôm có chất lượng, và cuối cùng là quy trình chế biến tôm phải đạt chất lượng. Đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm, để nâng cao được chất lượng con tôm xuất khẩu, trước hết cần phải áp dụng phương pháp quản lý chất lượng theo hệ thống HACCP. Từ đó, sản phẩm tôm của Việt Nam mới có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về an toàn vệ sinh của các thị trường khó tính như Mỹ và EU. Việc chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là hướng đi đúng để các doanh nghiệp thâm nhập được vào các thị trường đó. Để xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm tôm theo HACCP, các doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo cán bộ kiểm tra và cán bộ quản lý về chất lượng, thống nhất hoá việc thực hiện, áp dụng trong doanh nghiệp; đồng thời chuẩn bị các chương trình để thực hiện đào tạo về công tác chất lượng cho công nhân.
Các doanh nghiệp còn phải chú trọng đến chất lượng của nguồn nguyên liệu đầu vào. Để làm được điều này, bên cạnh việc kiểm tra khắt khe nguồn tôm nguyên liệu của các thương lái thu mua hoặc của người nông dân bán tôm trực tiếp; các doanh nghiệp nên có những ưu đãi khuyến khích đối với những đầu mối tôm nguyên liệu có chất lượng cao, đồng thời kiên quyết không tiêu thụ loại tôm không đảm bảo chất lượng cho chế biến.
Trong quá trình chế biến, các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Thủy sản về việc không sử dụng các loại kháng sinh bị cấm; ủng hộ chính quyền chống nhập khẩu, mua bán, sử dụng các kháng sinh và hoá chất bị cấm, nhất là trong khâu bảo quản nguyên liệu tôm.
Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm tôm xuất khẩu
Đa dạng hoá mặt hàng là một trong những hướng đi quan trọng để nâng cao được kim ngạch cũng như khối lượng tôm xuất khẩu. Bởi lẽ, chỉ bằng cách đa dạng hoá mặt hàng, chúng ta mới có thể đáp ứng được những thị hiếu hết sức khác nhau của người tiêu dùng quốc tế.
Trong thời gian tới, chúng ta cần phát triển các mặt hàng tôm có giá trị gia tăng. Để đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm tôm xuất khẩu, các nhà máy chế biến cần đầu tư nhập khẩu các dây chuyền công nghệ chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng, các sản phẩm đóng gói nhỏ bán ở các siêu thị.
Đồng thời các doanh nghiệp tiếp tục sản xuất và nâng cao chất lượng các mặt hàng IQF (HOSO, HLSO, PTO luộc, Nobashi, tôm tẩm bột, tôm rán,…). Bên cạnh đó chú trọng phát triển công nghệ bảo quản và vận chuyển tôm sống; tăng tỉ trọng các mặt hàng tôm HOSO, HLSO.
Củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
Cùng với việc nâng cao khối lượng và chất lượng tôm xuất khẩu, chúng ta cần phải mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ, tránh tình trạng các doanh nghiệp sản xuất tôm ra không có nguồn tiêu thụ hoặc phải bán với giá rẻ. Để mở rộng thị trường, các doanh nghiệp cần củng cố, giữ vững những thị trường truyền thống, tham gia tích cực vào thị trường khu vực, đồng thời tập trung mở rộng, thâm nhập và từng bước chiếm lĩnh thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ, tìm hiểu cơ hội mở rộng thị trường ở các khu vực khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm cần phát triển và hướng dẫn nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm chế biến trên thị trường nội địa, vì đây là mảng thị trường cũng không kém phần quan trọng.
Để tăng được thị phần trong nước cũng như ở nước ngoài, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm của Việt Nam cần nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu của từng thị trường, nhu cầu về từng loại sản phẩm, về dung lượng đối với từng loại, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu các dịch vụ vận tải, thanh toán, luật pháp, phong tục,…
Như vậy, cần:
Xây dựng đội ngũ cán bộ thị trường có kiến thức và năng lực chuyên môn cao, có tâm huyết thực sự với nghề nghiệp để nghiên cứu thị trường.
Tìm kiếm các thông tin về thị trường xuất khẩu, bao gồm những kênh chính thức như: các tổ chức tư vấn về thị trường, văn phòng đại diện của các công ty, và cả những kênh không chính thức như thông qua việc tiếp xúc với khách hàng.
Hoạt động nghiên cứu thị trường hiện nay trong xuất khẩu tôm cần phải đặt lên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay, vì điều kiện cạnh tranh ngày càng cao thì việc chủ động tìm kiếm khách hàng, nắm bắt các cơ hội là vô cùng quan trọng.
Tăng cường công tác xúc tiến thương mại
Để xây dựng được một thương hiệu cho mặt hàng tôm Việt Nam, bên cạnh việc nâng cao chất lượng của sản phẩm tôm, nâng cao chất lượng của các dịch vụ cung ứng, còn phải tăng cường công tác xúc tiến thương mại để quảng bá rộng rãi sản phẩm tôm Việt Nam ra thị trường thế giới.
Đào tạo nguồn nhân lực trong phạm vi doanh nghiệp
Yếu tố con người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và giảm được chi phí sản xuất một cách hợp lý. Bởi lẽ con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Sản phẩm do con người tạo ra, vì thế chất lượng của sản phẩm như thế nào là do con người quyết định, cũng như chất lượng của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, nếu muốn nâng cao được chất lượng sản phẩm để tăng được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì việc đầu tiên cần làm là phải chú trọng đầu tư vào con người.
Các doanh nghiệp cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật tại cơ sở. Do hiện tại lực lượng cán bộ kỹ thuật còn thiếu, trình độ còn yếu kém, tay nghề chưa cao, trong sản xuất chưa kiên quyết uốn nắn theo quy trình, chưa phát hiện được kịp thời các khuyết tật và sự cố xảy ra. Công nhân tay nghề cao còn ít, làm việc chưa tuân thủ kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn chất lượng, chạy theo sản lượng là chính chứ chưa đặt chất lượng là mục tiêu hàng đầu trong sản xuất.
Từ những hạn chế về mặt lao động như trên, các doanh nghiệp cần đưa ra biện pháp đào tạo hợp lý như: (-) Kỹ sư ở được các tỉnh cử đi đào tạo tại các trường Đại học phải có hợp đồng sau khi tốt nghiệp trở về địa phương công tác (như đã thực hiện với ngành Đường), (-) Mở các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý ngắn hạn cho các lãnh đạo của các nhà máy (do các trường cán bộ quản lý của Bộ chịu trách nhiệm), (-) Công nhân kỹ thuật do các trường công nhân kỹ thuật của Bộ đào tạo, (-) Mở các lớp huấn luyện kỹ thuật cho người sản xuất tôm và chế biến chè theo chương trình khuyến ngư và khuyến công. Ngoài ra cần thường xuyên tổ chức thi thợ bậc giỏi, thi nâng bậc, ca sản xuất có chất lượng, nâng cao trình độ kỹ thuật, tay nghề thợ bậc cao trong lĩnh vực sản xuất, chế biến tôm nhằm ổn định và nâng cao kỹ thuật sử dụng thiết bị và kỹ thuật chế biến tại cơ sở. Ngoài ra, việc tạo cơ hội cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp được tiếp xúc nhiều hơn nữa với những kiến thức mới trong quản lý thị trường để họ có thể kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với kinh nghiệm quản lý nhằm giải quyết tốt công việc.
Một vấn đề quan trọng là tất cả các cán bộ trong thời gian tới cần được phổ cập tin học và ngoại ngữ. Bởi trong thời đại hiện nay, nếu thiếu những kỹ năng này thì khó có thể làm việc hiệu quả.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, để phát triển sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nói chung cũng như với sản phẩm tôm nói riêng, chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá đúng mức vị thế thực tế của sản phẩm đó trên thị trường, phân tích được chính xác và cụ thể những lợi thế cũng như những tồn tại trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Từ đó, xây dựng nên một hệ thống liên hoàn các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm không chỉ trên thị trường trong nước mà cả trên thị trường thế giới. Trong phạm vi của một khoá luận do sinh viên thực hiện, tác giả hy vọng sẽ đóng góp được một phần nhỏ nhưng thiết thực vào việc giúp đánh giá rõ hơn những ưu điểm và nhược điểm trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm tôm của Việt Nam; đồng thời xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất và kiến nghị sau:
- Việc hiện đại hoá sản xuất và chế biến mặt hàng tôm là rất cần thiết vì nó liên quan đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, đề nghị Nhà nước miễn thuế sử dụng đất đối với diện tích nuôi tôm trong vòng 3 năm đầu, không tính VAT với nguyên liệu tôm đầu vào, cho phép các xí nghiệp, công ty liên doanh với nước ngoài được hưởng các chế độ như doanh nghiệp trong nước, nhất là giá điện.
- Chất lượng tôm ở các cơ fở sản xuất khôn‡<có một tiêu chuẩn thống nhất, vì thế có nhiều mặt hàng tôm không đạt yêu cầu chất lượng trôi dạt trên thị trường làm ảnh hưởng đến uy tín của thương hiệu tôm Việt Nam. Bộ Thủy sản cần thiết lập Ban thanh tra chuyên ngành để ngăn chặn và kiểm soát tình hình này.
- Thị trường là vấn đề sống còn đối với những sản phẩm như tôm. Vì thế các doanh nghiệp xuất khẩu cần tăng cường công tác xúc tiến hỗn hợp, đầu tư xây dựng chiến lược Marketing Mix thật phù hợp để khai thác những lợi thế so sánh của mình. Các doanh nghiệp nên tăng cường quảng bá sản phẩm tôm Việt Nam bằng những panô, băng rôn quảng cáo ngoài trời; tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như TV, đài phát thanh hay các tạp chí, báo hàng ngày,…để tạo được ấn tượng về mặt hàng trong lòng người tiêu dùng.
- Việc đa dạng hoá các mặt hàng để đáp ứng thị hiếu thay đổi hàng ngày của khách hàng là vấn đề cấp bách trong điều kiện hiện nay. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu để tạo ra nhiều loại mặt hàng hơn nữa để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của khách hàng trong nước và ngoài nước.
Tuy nhiên khoảng cách giữa mong muốn thực hiện và khả năng, giữa mục tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tiễn lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc không ít vào cách thức tiếp cận vấn đề và việc tìm ra giải pháp đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển kinh tế, sản xuất - xuất khẩu các sản phẩm thủy sản nói chung và sản phẩm tôm nói riêng của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế những thách thức không nhỏ.
Những giải pháp đưa ra hy vọng sẽ góp phần đáp ứng những đòi hỏi cấp bách đã và đang đặt ra đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng thủy sản Việt Nam nói chung và mặt hàng tôm nói riêng trên thị trường quốc tế. Hy vọng rằng cùng với những nỗ lực cố gắng của Bộ Thủy sản, của các xí nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất,chế biến và xuất khẩu tôm, Việt Nam sẽ nhanh chóng thực hiện được các mục tiêu cho đến năm 2010 cho mặt hàng tôm, đưa sản phẩm tôm Việt Nam xứng đáng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tình hình xuất khẩu thuỷ sản năm 2002 và phương hướng phát triển năm 2003. Trung tâm thông tin, Bộ Thuỷ sản.
Báo cáo tình hình xuất khẩu thuỷ sản năm 2001 và phương hướng phát triển năm 2002. Trung tâm thông tin, Bộ Thuỷ sản.
Báo cáo tình hình xuất khẩu thủy sản năm 2000 và phương hướng phát triển năm 2001. Trung tâm thông tin, Bộ Thuỷ sản.
Báo cáo tình hình xuất khẩu thuỷ sản năm 1999 và phương hướng phát triển năm 2000. Trung tâm thông tin, Bộ Thuỷ sản.
Báo cáo tình hình xuất khẩu thủy sản năm 1998 và phương hướng phát triển năm 1999. Trung tâm thông tin, Bộ Thuỷ sản.
Báo cáo số 6 về tiếp thị, tiểu dự án 3: Thương mại, chế biến và tiếp thị thủy sản thuộc Dự án Quy hoạch Tổng thể Ngành Thuỷ sản Việt Nam.
Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2002 và các chỉ tiêu, biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2003 của ngành thủy sản – Hà Nội , Tháng 1/2003
Nghiên cứu đánh giá ngành chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tháng 3-2003 của Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
“Mở rộng nuôi tôm trên cát ở Việt Nam- Thách thức và cơ hội” - 2003
Báo Thương mại Thuỷ sản các số năm 2002, 2003
Báo Kinh tế Thuỷ sản các số năm 2002, 2003
Báo Ngoại Thương 21-31/9/2003.
Tạp chí chuyên ngành Bộ Thuỷ sản tháng 3/2002
Tạp chí Thông tin khoa học công nghệ và kinh tế thủy sản, tháng 1/2003
Một số vấn đề về thương mại thuỷ sản thế giới- Trung tâm thông tin khoa học và kỹ thuật thuỷ sản – Hà Nội/2002
Phương hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam đến 2010 -Bộ thương mại - tài liệu Thư viện quốc gia
Tài liệu phát triển nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 1996 - 2010 - Bộ thuỷ sản.
Chiến lược quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản Việt Nam đến 2010 – Bộ thuỷ sản.
Tham luận hội thảo về các biện pháp nâng cao chất lượng và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam – 8/2003.
Internet:
www.globefish.org
www.fistenet.gov.com
www.vasep.com
www.fao.org
www.infofish.org
www.media.vdc.com.vn
www.vnexpress.net
www.vneconomy.com.vn
www.hanoimoi.com.vn
www.mof.gov.vn
www.mpi.gov.vn
www.vir.com.vn
www.nhandan.org.vn
www.mofa.gov.vn
www.agroviet.gov.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19534.doc