Về khả năng chứa
Kết quả nghiên cứu cho thấy phạm vi mỏ Bạch Hổ khả năng chứa tồn tại ở trong móng phong hóa - nứt nẻ, các tập cát kết tuổi Oligoxen và Mioxen dới.
Tầng móng phong hóa nứt nẻ bắt gặp ở giếng khoan BH9 và BH10.
Tầng cát kết Oligoxen bao gồm 3 tập dới, giữa và trên của hệ tầng Trà Tân
Tầng chứa cát kết ở phụ hệ tầng Bạch Hổ có độ rỗng khá tốt:15-22% độ thấm 0.5-1mD và đợc xem là tầng chứa tốt .
Ngoài ra cũng cần lu ý thêm là hầu hết cát kết tuổi Oligoxen hình thành ở giai đoạn tạo rift trong môi trờng bồi tích, gần nguồn vật liệu.
Về khả năng bẫy chứa
Phần lớn các bẫy cấu tạo ở mỏ Bạch Hổ là các bẫy khối móng nứt nẻ, các cấu tạo này nằm ở đới nâng, nguồn sinh phong phú, khả năng nạp từ nguồn sinh vào là rất cao. Ngoài ra còn có các bẫy dạng hỗn hợp và các bẫy dạng vỉa vòm, ở các bẫy này khả năng nạp từ nguồn sinh vào là hạn chế hơn.
Về khả năng tầng chắn
Tầng sét Rotalia mang tính chất khu vực của cả bồn trũng Cửu Long và ở mỏ Bạch Hổ nó cũng là tầng chắn quan trọng . Ngoài ra còn gặp các tầng chắn địa phơng nằm xen kẽ trong các tập cát kết có khả năng chứa tuổi Oligoxen và Mioxen sớm.
51 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2028 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu cấu trúc, kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng Oligoxen mỏ Bạch Hổ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nozoi đã lấy được qua các mẫu lõi giếng khoan gặp đá móng và quan sát được thấy có sự thay đổi đáng kể theo diện tích của khu vực. Các mẫu đá bao gồm chủ yếu là các đá granit, granitoid, granodiorit, có nơi thấy có cả riolit thạch anh. Tuổi đồng vị xác định là Jura - Kreta. Hình dáng hiện nay của mặt móng đã được xác định qua tài liệu địa chấn, từ và được chứng minh bằng tài liệu địa chất. Bản đồ cấu tạo móng âm học đã chứng minh cho sự phức tạp đó. Móng trước Kainozoi bao gồm các thành tạo tuổi khác nhau, nhưng chủ yếu là Mezozoi.
2.1.2. Lớp phủ
Trầm tích Kainozoi phủ chồng lên mặt móng có bề dày đáng kể tuỳ theo từng khu vực và được chia ra làm ba tầng cấu trúc khác nhau:
Tầng cấu trúc dưới (bồn trầm tích Oligocen)
Tầng cấu trúc trên (bồn trầm tích Mioxen)
Tầng cấu trúc lớp phủ thềm lục địa Pliocen - Đệ tứ
2.1.2.1. Tầng cấu trúc Oligocen
Bao gồm hai hệ tầng trầm tích:
Các đá hệ tầng Trà Cú thuộc hệ Oligocen dưới và các đá hệ tầng Trà Tân thuộc phụ hệ Oligocen trên.
Trầm tích Oligocen dưới thay đổi đáng kể và chiều dày có giá trị lớn nhất ở phía Bắc, Đông Bắc, Đông Nam của khu vực nghiên cứu. ở khối nâng Trung Tâm, trầm tích này bị mất. Hầu hết các đứt gãy hoạt động mạnh trong thời kỳ Oligocen sớm.
Trầm tích Oligocen trên phân bố rộng khắp trên toàn bộ khu vực và có chiều dày thay đổi từ 200 - 300m ở phần trung tâm và ra đến cánh khoảng 1000m. Các đứt gãy trong giai đoạn này có cường độ và biên độ giảm hẳn.
2.1.2.2. Tầng cấu trúc trên (bồn trầm tích Miocen)
Tầng cấu trúc này bao gồm các trầm tích lục nguyên. Đó là các trầm tích cát, bột, sét xen kẽ có độ hạt từ thô đến mịn. Đặc trưng của giai đoạn này là quá trình sụt lún và oằn võng kế tiếp sau thời kỳ tách giãn Oligocen, cường độ và biên độ các đứt gãy giảm dần
2.1.2.3. Ttầng cấu trúc lớp phủ thềm lục địa Pliocen - Đệ Tứ
Các thành tạo trong tầng cấu trúc Pliocen - Đệ Tứ bao gồm cát, cát kết gắn kết yếu, đá acko hạt thô màu xám vàng, xen kẽ các tập sét, sét vôi, điểm đặc trưng là có thế nằm ngang, phân bố rộng rãi trên toàn thềm lục địa.
2.2. Cấu trúc ngang
Cấu trúc bể Cửu Long phụ thuộc cơ bản vào bình đồ cấu trúc bề mặt móng trước Kainozoi. Các đới nâng ven rìa của bể từ Phan Rang-Phan Thiết-Vũng Tàu đến Hòn Khoai, Hòn Trứng. Côn Sơn bao quanh và tách bể khỏi các trầm tích khác. Hình thái cấu trúc mặt móng gồm các đới trũng địa hào xen các khối địa luỹ và được giới hạn xung quanh bởi các đơn nghiêng:
Đơn nghiêng Tây Bắc của bể thuộc phần lô 15. Các đứt gẫy theo hệ thống Tây Bắc - Đông Nam và á vĩ tuyến đã phân cắt đơn nghiêng thành cấu trúc bậc thang có phân dị chi tiết.
Đơn nghiêng Đông Nam ít có sự phân dị hơn. Nó được ngăn cách với đới trung tâm qua đứt gẫy Tây Bắc - Đông Nam, gần như dọc theo đới nâng Côn Sơn.
Đơn nghiêng phân dị phía Tây: đới này nằm ở phía tây bể ngăn cách với đới nghiêng Tây Bắc theo các đứt gẫy Đông Tây. Hệ thống đứt gãy Đông Tây hoạt động mạnh mẽ trong móng và yếu dần trong Oligoxen và Mioxen. Một số cấu tạo địa phương như: Tam Đảo, Ba Vì, Đu Đủ được hình thành trong đơn nghiêng này dọc theo các hệ thống đứt gãy.
Các trũng quan trọng là các cấu trúc lõm sâu nhất của mặt móng. Chúng thường là các địa hào (graben) do quá trình tách giãn trong suất Oligoxen đến Mioxen giữa, sau đó bị oằn võng vào cuối Mioxen. Một số cấu trúc lõm có thể kế thừa các trũng Mesozoi muộn.
Đới trũng Tây Bạch Hổ: nằm ở rìa Tây của vòm nâng Bạch Hổ. Đây là đới trũng sâu vớ bề dày trầm tích Kainozoi tới 7400m. Đới này phát triển theo hướng của hệ thống đứt gãy chính Tây Bắc - Đông Nam.
Đới trũng Đông Bạch Hổ phát triển kéo dài theo hướng của hệ thống đứt gãy chính Đông Bắc-Tây Nam, ngăn cách với các vòm nâng ở phía Tây. Tuy vậy các đứt gãy ngang á Vĩ Tuyến cũng đã làm phức tạp cấu trúc lõm này. Trầm tích Kainozoi của đới này tới trên 6000m.
Đới trũng Bắc Bạch Hổ là cấu trúc lớn và sâu nhất của mặt móng, phát triển theo hướng đứt gãy Đông Bắc - Tây Nam, kéo dài 80km và rộng 20km, chiều dày mặt cắt trầm tích đạt tới 8km.
Các đới nâng là các cấu trúc dương tương phản với các đới trũng trong bể Cửu Long. Chúng thường là các kiến tạo kế thừa các khối nhô móng trước Kainozoi của bể. Các đối tượng vòm nâng thường là đối tượng tìm kiếm thăm dò dâu khí, do vậy các mặt cắt cấu trúc thường có giếng khoan kiểm tra.
Đới nâng Trung Tâm (Rồng-Bạch Hổ-Rạng Đông). Đới này hình thành do hoạt động của hai đứt gãy theo phương Đông Bắc-Tây Nam, nối liền các cấu tạo Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Chiều dày của đới là 80km, chiều rộng trung bình từ 16-18km. Đới nâng Trung Tâm được ngăn cách với đới trũng phía Đông- Đông Nam và Tây-Tây Bắc bởi hàng loạt các đứt gãy có phương Đông Bắc-Tây Nam. Các đứt gãy này hoạt động mạnh mẽ, xuyên cắt nhau phân cắt móng thành những khối riêng biệt xen kẽ nhau. Biên độ của các đứt gãy này từ vài trăm mét đến 1000m. Trong đới nâng Trung Tâm hình thành và tồn tại các cáu tạo Rồng, Bạch Hổ, Rạng Đông. Ngăn giữa các cấu tạo này là các trũng sâu địa phương.
Đới nâng Trà Tân (15-A)-Đồng Nai (15G0theo phương Đông Bắc –Tây Nam và có xu thế nối với cấu tạo Ba Vì qua sườn dốc của đôn nghiêng Tây- Bắc.Đặc tính cấu trúc chỉ dược thể hiện rõ ở phần bề mặt móng và các thành tạo trước Mioxen. Đới nâng được khống chế bởi hệ thống đứt gãy Đông Bắc-Tây Nam, đồng thời bị phức tạp, phân cắt bởi các đứt gãy phương Tây Bắc-Đông Nam và bị chặn ở phía Tây Nam bởi đứt gãy á Vĩ Tuyến.
Đới nâng Tam Đảo-Bà Đen dược phát triển kế thừa trên các khối nhô móng tới sát trước Mioxen.Trong đới này, đứt gãy Đông-Tây phân cắt đới thành các cấu tạo nhỏ hơn và phức tạp như cấu tạo Đu Đủ, Tam Đảo, Ba Vì.
Đới nâng Ru by-Agate kéo dài theo hướng Bắc Đông Bắc và phân bố ở Đông Bắc bể Cửu Long.
Đặc tính cấu trúc thể hiện trong móng và các thành tạo trong Mioxen sớm. Trong đới này có các cấu tạo triển vọng như: Ruby, Diamond, Emerald, Pearl, Topaz, Agate.
Bậc I
Bậc II
Đới rìa Tây Bắc
Khối nâng Kinh Độ
Khối nâng Tây Nam -GK Ba Vì
Khối nâng Đông Bắc-GK Ba Vì
Đới Trung Tâm
Khối nâng Trà Tân
Khối sụt Nam Ruby
Khối nâng Bắc Bạch Hổ
Khối sụt Bà Đen
Khối sụt Đông Tam Đảo
Đới rìa Tây Nam
Đới nâng Trung Tâm
Rồng-Bạch Hổ-Rạng Đông
Trũng Đông Bạch Hổ
(Theo Phan Văn Quýnh, 1995)
2.3. Đặc điểm về đứt gãy (bảng 3.1)
Cấu trúc của khu vực nghiên cứu bị phân cắt bởi các hệ thống đứt gãy chính là:
Hệ thống đứt gãy Đông Đông Bắc - Tây Tây Nam
Hệ thống đứt gãy Tây Tây Bắc - Đông Đông Nam
Hệ thống đứt gãy á Kinh Tuyến
Hệ thống đứt gãy á Vĩ Tuyến
Các hệ thống đứt gãy này chủ yếu là những đứt gãy thuận đồng trầm tích được hình thành sớm hơn rất nhiều so với hệ thống đứt gãy chờm nghịch. Các đứt gãy đồng trầm tích đều được vật liệu lấp đầy và trở thành màn chắn ngăn cản không cho hydrocacbon dịch chuyển từ khối này sang khối khác.
Hệ thống đứt gãy Đông Đông Bắc - Tây Tây Nam thể hiện rõ nét ở phía Đông và Tây của mỏ Bạch Hổ, góc cắm của hệ thống này thường từ 650 - 800 và có biên độ dịch chuyển từ 500 - 2000m. Có một số đứt gãy chờm nghịch ở phía tây mỏ Bạch Hổ. Quá trình hoạt động của các đứt gãy này gắn liền với các pha nén ép cục bộ xảy ra vào cuối Oligocen đầu Miocen. Những đới phá huỷ sinh ra do hệ thống đứt gãy chờm nghịch trở thành đường dẫn cho hydrocacbon đi từ nơi sinh vào trong đá móng.
Hệ thống đứt gãy Tây Tây Bắc - Đông Đông Nam phát triển chủ yếu ở phần trung tâm khu vực nghiên cứu. Chính hệ thống đứt gãy này đã phân chia các khu mỏ ra các khối khác nhau. Sự sinh thành ra chúng vào giai đoạn đầu của thời kỳ tạo rift và tiếp tục hoạt động trong suốt quá trình đó rồi ngưng nghỉ vào Oligocen muộn. Biên độ của chúng bé hơn nhiều so với biên độ của hệ thống đứt gãy Đông Đông Bắc - Tây Tây Nam (khoảng 200 - 600m).
Hệ thống đứt gãy á Kinh Tuyến (theo phương Bắc và Đông Bắc) thể hiện ở phần đông bắc và trung tâm mỏ Rồng có biên độ tương đối lớn (hàng nghìn mét), chiều dài phát triển hàng chục km.
Hệ thống đứt gãy á Vĩ Tuyến (theo phương Đông - Tây) đóng vai trò tạo nên cấu trúc khối, biên độ 200 - 500m, dài khoảng 5 - 15km. Nhìn chung, đặc điểm đứt gãy phần Đông Bắc mỏ Bạch Hổ có quan hệ với phần cuối Tây Nam của mỏ Rồng. Hoạt động đứt gãy trong bể Cửu Long đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành cấu trúc khối, các đơn vị cấu tạo cũng như không gian rỗng chứa dầu trong đá móng của bể.
III. Lịch sử phát triển địa chất khu vực (hình 3.3)
Bể Cửu Long phát triển trên thềm lục địa Việt Nam nên lịch sử tiến hoá của bể gắn liền với lịch sử tiến hoá địa chất của thềm. Tiến hoá địa chất của thềm có thể được chia làm các giai đoạn chính sau:
1. Thời kỳ Mesozoi muộn đầu Kainozoi sớm (thời kỳ trước tạo bồn)
Giai đoạn cố kết của móng trước Kainozoi liên quan đến sự hội tụ của các lục địa vào cuối Mesozoi, do sự hội tụ của hai mảng ấn - úc và âu - á làm cho toàn bộ khu vực thềm Sunda nâng lên cao và làm biến mất đại dương Tethys ở Đông Nam á, và ở thời kỳ này, tại đây đã xuất hiện dải volcanic - plutonic có tuổi từ Jura đến Paleoxen.
Do sự va chạm mạnh của các mảng làm cho móng cố kết bị dập vỡ và tạo thành các đứt gãy phân cắt, phân dị bề mặt móng cổ trước Kainozoi, tạo nên các khối nâng, sụt khác nhau. Sau này chính bể Cửu Long đã được hình thành và phát triển trên móng khối sụt uốn nếp của đai núi lửa plutonic và có phương Đông Bắc - Tây Nam. Các kết quả nghiên cứu hình thái và hình hài kiến trúc, các tài liệu địa vật lý như từ, trọng lực, địa chấn và các tài liệu khoan thu được đã chứng minh điều đó.
Tiếp sau đó là thời kỳ ngưng nghỉ trầm tích kéo dài trong khoảng từ 10 đến 12 triệu năm. Qua bức tranh địa tầng của bể Cửu Long đã đựơc thiết lập cho đến nay đều không gặp các trầm tích thuộc thời kỳ Paleocen, điều đó cho thấy vào cuối Mesozoi đầu Kainozoi thềm Sunda bị nâng lên và bị bóc mòn một cách mạnh mẽ, tạo nên một mặt bất chỉnh hợp giữa cấu trúc móng trước Kainozoi và lớp phủ trầm tích Kainozoi với kiến trúc hoàn toàn khác. Cấu trúc móng bao gồm các thành tạo uốn nếp bị biến vị mạnh của các đá móng Paleozoi và Mesozoi, cấu trúc lớp phủ bao gồm các thành tạo Kainozoi từ Eocen đến Đệ tứ là các trầm tích lục nguyên, lục nguyên vôi.
2. Thời kỳ Oligocen (tạo bồn trầm tích)
Đây là thời kỳ tách giãn và tạo thành các địa hào, bán địa hào dọc theo các đứt gãy và tựa vào khối plutonic. Lấp đầy các địa hào và bán địa hào là các vật liệu trầm tích lục nguyên được vận chuyển từ các vùng cao đến, đấy là cuội, sạn và cát hạt thô đa khoáng và các trầm tích mịn hơn (bột và bột sét).
Giai đoạn này có thể chia làm hai phụ giai đoạn:
Giai đoạn Oligocen sớm:
Thời kỳ này bể Cửu Long được ngăn cách với biển bởi đới nâng Côn Sơn ở phía Đông và Natura ở phía Nam. Vì thế các trầm tích hoàn toàn có tướng lục địa.
Nguồn cung cấp chủ yếu về vật liệu trầm tích là các khối granit và granodiorit bị phong hoá. Các thành tạo chủ yếu là trầm tích hạt thô deluvi, aluvi như cuội, sỏi, cát kết, bột kết ximăng gắn kết chúng là cacbonat, sét, zeolit giàu mảnh đá núi lửa. Xen kẽ các lớp cát kết là các lớp bột kết và sét kết. Phía Đông Nam của bể được ngăn bởi đới nâng Côn Sơn và phía Tây Nam bởi đồng bằng Cửu Long.
Giai đoạn Oligocen muộn
Các thành tạo thời kỳ này điển hình là delta, prodelta bao gồm các trầm tích thuộc tướng aluvial fan, fluvial xen kẽ các trầm tích đầm hồ, vũng vịnh. Càng về cuối giai đoạn Oligocen muộn các trầm tích lowerdelta phát triển chủ yếu các tập hạt mịn dày, giàu vật chất hữu cơ mà sau này chúng trở thành các tầng sinh và chắn dầu khí trong bể Cửu Long. Các doi cát aluvial fan và fuvial đã trở thành các bẫy chứa dầu khí mà ngày nay đã được phát hiện tại khu vực mỏ Bạch Hổ đều được các tập sét dày bao phủ mà ta có thể bắt gặp qua các giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí.
Vào cuối Oligocen, các địa hào trong bể Cửu Long được lấp đầy và liên kết với nhau trở thành một đầm hồ lớn. Nếu như Oligocen sớm - muộn bể gần như hoàn toàn khép kín thì đến giai đoạn cuối của Oligocen muộn bể trở thành một hồ lớn, có cửa liên thông với Biển Đông qua một kênh hẹp ở phía đông bắc tạo nên hiện tượng khi triều lên nước biển tràn vào hồ, khi nước rút thì nước trong hồ chảy ra biển. Điều này được chứng minh qua các mẫu thu được từ những giếng khoan ở phần cuối của mặt cắt địa tầng Oligocen muộn.
3. Thời kỳ Miocen (sụt võng của bồn)
Vào đầu Miocen sớm, bắt đầu một chu kỳ kiến tạo mới của bể Cửu Long, vào cuối thời kỳ này vai trò của các hệ thống đứt gãy không còn vì hầu như toàn bộ các đứt gãy đều ngưng nghỉ cuối giai đoạn đồng tạo rift. Biển bắt đầu tiến vào bể Cửu Long khá mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của quá trình biển tiến mà các trầm tích lục địa được đẩy lùi về phía Nam và Tây Nam gần nguồn cung cấp vật liệu.
Môi trường trầm tích với động năng giảm mạnh, các tích tụ mịn được tăng lên, chủ yếu là các trầm tích bột, bột sét và sét là chủ yếu. Đặc biệt là sét tạp và sét lục Rotalia, tập sét này được phát triển mạnh cả về không gian và thời gian, chiếm hầu hết diện tích bể Cửu Long và nó đã trở thành một màn chắn dầu khí lý tưởng.
Vào thời kỳ Miocen giữa, một chu kỳ biển lùi toàn cục đã xảy ra và bể Cửu Long được nâng lên, các trầm tích biển giảm mạnh và nhường chỗ cho các trầm tích deltaplain với các lớp sét kết, bột kết và than.
Đến Miocen muộn, một chu kỳ biển tiến diễn ra mạnh mẽ trên toàn bộ bể Cửu Long do đó phát triển trầm tích biển, biển nông, biển ven bờ.
Cuối Miocen muộn, sự tham gia tích cực của sông Mêkông đổ vào bể đã làm thay đổi hẳn môi trường vật liệu trầm tích. Bể Cửu Long được mở rộng về phía đồng bằng châu thổ hiện tại và về phía tây nam. Các vật liệu trầm tích châu thổ tăng lên trong đó có nhiều dấu vết thực vật thượng đẳng hay vật chất hữu cơ loại III.
Giai đoạn Miocen là giai đoạn bể Cửu Long nhận được nhiều nhất về vật liệu trầm tích. Với khối lượng lớn, cộng với các trầm tích giai đoạn đồng tạo rift trước đó, làm cho bể trầm tích bị quá tải về trọng lượng nên bể bị oằn võng mạnh.
4. Thời kỳ Pliocen - Đệ Tứ
Đây là giai đoạn sau sụt lún và oằn võng, được bắt đầu vào Pliocen và kéo dài trong suốt Pliocen - Đệ tứ. Đây là một giai đoạn kiến tạo mới, không những chỉ trung tâm bể Cửu Long sụt lún mà còn cả đới nâng Côn Sơn cũng sụt lún mạnh dần về phía Đông. Đến đây, bể Cửu Long không còn là một cấu trúc riêng biệt nữa mà nó đã hoà chung cùng các bể Nam Côn Sơn, bể Phú Khánh và bể Sông Hồng tạo thành một cấu trúc chung của toàn thềm lục địa Việt Nam và các vùng kế cận.
IV. Tiềm năng dầu khí mỏ Bạch Hổ
Qua các tài liệu sinh, chứa, chắn và các dạng bẫy, tiềm năng dầu khí mỏ Bạch Hổ được khái quát như sau:
1. Đá mẹ
Qua kết quả phân tích địa hoá ở các giếng khoan, trầm tích Oligoxen của mỏ Bạch Hổ có hàm lượng cacbon hữu cơ (TOC) từ 0,6% (ở GK-15A-1X) đến 2,4% (GK-BH-1) và trung bình khoảng 2%. Đó chính là tầng đá mẹ có khả năng sinh dầu và khí đốt tốt. Phần lớn chất hữu cơ thuộc Kerogen loại I và II nên tạo dầu là chính. Cửa sổ tạo dầu ở độ sâu 2950m đến 4200m, pha tạo dầu mạnh nhất xảy ra cách đây khoảng 21 triệu năm, nghĩa là vào thời kỳ Mioxen giữa.
2. Đá chứa
Theo nghiên cứu thì trong mỏ Bạch Hổ đã phát hiện được các loại đá chứa sau:
Khối đá nóng nứt nẻ phong hoá.
Trầm tích cát kết Oligoxen, Mioxen hạ.
Đá phun trào Vocanic tuổi Oligoxen.
Khối đá nóng nứt nẻ phong hoá
Là thân dầu cho sản phẩm cao nhất có dạng khối, thành phần hang hốc nứt nẻ trong đá móng bao gồm granit, granodionit, hydromica và biotit bị kaolitnit hoá, xerixit hoá (từ 45 đến 93%). Tính colecto của chúng được tạo bởi những quá trình địa chất như phong hoá, khử kiềm những khoáng vật không bền bằng các dung dịch thuỷ nhiệt, nứt nẻ kiến tạo, đứt gãy chuyển dịch cùng với việc tạo thành các đới milonit (đới phá huỷ kiến tạo) dọc theo các mặt trượt, nứt và co lại của khối macma đông nguội. Kết quả tạo thành đá chứa dạng hang móc nứt nẻ mà thể tích chứa chủ yếu là các hang hốc, còn kênh dãn chủ yếu là khe nứt. Đặc trưng chứa tốt của dá đảm bảo cho lưu lượng cao phát triển ở phạm vi vòm Trung Tâm và dọc theo sườn Tây của vòm Bắc. ở đây thân dầu dạng khối, tất cả đã colecto từ mặt móng cho tới ranh giới dưới cảu thân đều bão hoà dầu, chưa phát hiện được chiều sâu ranh giới dưới của thân dầu, mặc dù chiều cao thân dầu đã được chứng minh tới 1000m. Bản chất của ranh giới dưới cũng chưa rõ ràng nó ứng với ranh giới dầu nước hay không, hay do đá chứa chuyển dần thành đá không chứa. Thân dầu với viền dầu liên tục bao trùm vòm Trung Tâm cũng như vòm Bắc, trong khi dầu trong móng lún chìm của vòm Nam chưa được phát hiện. Teo tài liệu mẫu lõi thì đá chứa ở đây có độ rống từ 0,6 đến 13%, độ thấm từ 0,02 đến 33mD. Móng đã cho dòng dầu không lẫn nước tới độ sâu tuyệt đối 4046m.
Đá cát kết Oligoxen dưới
Trầm tích sản phẩm Oligoxen dưới nói chung chỉ phát triển trên phạm vi vòm Bắc, bị vát nhọn ở cánh Tây của vòm và ở trên vòm Trung Tâm, gồm cát kết có màu xám sáng, thành phần thạch anh từ 40-70%, fenpat từ 5 đến 25%, mảnh đá từ 5 đến 20%, xi măng cabonat, silic, oxit sắt kiểu tái sinh, độ rỗng thay đổi từ 3 đến 22,4%, độ thấm từ 0,1 đến 20mD, chủ yếu nhỏ hơn 10mD, trung bình là 7mD (theo tài liệu mẫu lõi). Ranh giới sản phẩm ở độ sâu có trị số 4298m và 4348m ứng với chiều sâu đá chứa dầu theo địa vật lý giếng khoan của trầm tích Oligoxen dưới ở giếng khoan 90 và 10130.
Đá chứa cát kết Oligoxen trên
Đá có màu xám phớt nâu, độ hạt mịn đến trung bình, góc cạnh đến bán góc cạnh. Thành phần gồm: từ 25 đến 45% thạch anh, từ 25 đến 55% fenpat, mảnh đá từ 10 đến 25% xi măng là sét kaolinit và hydromica. Đá chứa chia làm 7 tầng sản phẩm (Ib, Ia, I, II, II, IV, V các thân dầu chủ yếu là bị chắn thạch học, chúng được kết hợp thành các vùng độc lập. Khai thác thử của hai vùng (khu vực giếng khoan 1370 và 700) cho thấy nên xem xét các vùng triển vọng như các đối tượng khai thác thứ yếu. Các thân sản phẩm chủ yếu tập trung ở vòm Bắc và sườn nghiêng kiểu bậc thang ở phía Đông Bắc.
Đá cát kết Mioxen dưới
Phức hệ sản phẩm Mioxen dưới ở các tầng 23 và 24, có mặt ở các vòm. Ngoài ra ở vòm Nam còn phát hiện được các thân dầu nhỏ thuộc tầng 25, 26 và 27, cát kết các tầng được thành tạo trong môi trường biển ven bờ, dễ liên kết và phát triển trên toàn diện tích rộng của mỏ, cát kết có màu xám phớt vàng và nâu, hạt mịn đến trung bình, độ rỗng từ 19 đến 25%, độ thấm từ 0,1 đến 15mD (theo tài liệu mẫu lõi).
Đá Vocanic
Là thân đá phun trào bazan, anđerit và diapa, pofirit có chiều dày đạt tới 50-80m, có độ rỗng hở dao động từ 3% đến 4,6%, độ thấm tuyệt đối trung bình là 0,21mD.
3. Đá chắn
Đá chắn trong mỏ Bạch Hổ chủ yếu là đá sét, sét kết có tuổi Oligoxen và Mioxen dưới. Tầng chắn khu vực là tầng chắn Rotali (phổ biến trên toàn bộ bể Cửu Long), tầng năm trong phần trên của trầm tích Mioxen dưới, có chiều dày ổn định từ 180m đến 200m. Đá có cấu tạo khối, lượng sét khoảng 90% đến 95%, đôi chỗ tới 100%, cỡ hạt chủ yếu của sét chủ yếu nhỏ hơn 0,0001mmm, khoáng vật chính là montmorilonit, thứ yếu là hydromica, kaolinit và một ít clorit. Ngoài ra còn có cả tầng chắn địa phương và các tập sét, bột kết trong trầm tích Oligoxen dưới, Oligoxen trên. Trong trầm tích Mioxen dưới với chiều dày dao động lớn, biến tướng mạnh.
4. Các dạng bẫy
Trong phạm vi mỏ Bạch Hổ đã phát hiện các dạng bẫy sau:
Bẫy dạng khối móng nứt nẻ được phủ bởi các trầm tích hạt mịn (sét, bột) có khả năng chắn.
Dạng bẫy hỗn hợp (bị chắn thạch học và màn chắn kiến tạo chủ yếu trong trầm tích Oligoxen).
Bẫy dạng vỉa vòm ở các thân dầu tầng 23 Mioxen dưới và ở một vài vùng ở vòm Trung Tâm và Bắc bị chắn thạch học. Các thân dầu tầng 24, 25, 26 và 27 có dạng vỉa là thấu kính cát hay có các mặt chắn kiến tạo ở các vùng phát triển đứt gãy lớn của móng xuyên qua hệ tầng trầm tích.
Phần II: Cấu trúc-kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng oligoxen mỏ bạch hổ
Chương IV: Hệ Các phương pháp nghiên cứu cơ bản
Trong nghiên cứu các bể trầm tích nói chung, bể dầu khí nói riêng, do số lượng giếng khoan hạn chế lại thường phân bố ở trên các khối nhô móng nên tài liệu thạch học, cổ sinh, địa vật lý giếng khoan thu thập được không đáp ứng nhu cầu nghiên cứu cấu trúc kiến tạo một cách chi tiết, đặc biệt là ở những vùng trũng như địa hào…Vì vậy công tác nghiên cứu cấu trúc kiến tạo phải dựa chủ yếu vào phân tích tài liệu địa chấn, có sự bổ sung hiệu chỉnh của các tài liệu địa chất khác. Khoá luận này sử dụng ba mặt cắt điịa chấn: hai mặt cắt dọc (BHI, BHIII) và một mặt cắt ngang (BRI). Việc phân tích mặt cắt địa chấn dựa vào các chỉ tiêu và nguyên tắc địa chấn địa tầng để giải quyết các nhiệm vụ sau:
Xác định ranh giới địa tầng địa chấn.
Xác định tướng địa chấn trong các phức hệ địa chấn.
Trên cơ sở đó ta liên kết được các ranh giới phản xạ chính, xác định được các hệ thống đứt gãy từ đó ta biết được hình thái cấu trúc kiến tạo của khu vực nghiên cứu.
I. Phương pháp xác định ranh giới địa tầng địa chấn
Ranh giới địa tầng địa chấn được xác định trong các giếng khoan bằng tài liệu carota và thạch học. Trên cơ sở nghiên cứu các ranh giới trong giếng khoan có khảo sát địa chấn, địa chấn địa tầng sẽ tiến hành liên kết các ranh giới đó dựa trên các chỉ tiêu sau:
1. Phân chia mặt cắt địa chấn theo chiều thẳng đứng thành các trường sóng khác biệt về hình dáng, thế nằm, tính liên tục, tính quy luật và độ dày của các mặt phản xạ sóng, về cường độ và tần số, sự có mặt của các thể địa chất (phun trào, xâm nhập…) và các dạng trường sóng đứt gãy cũng như sự phân cực và tính liên tục của các pha phản xạ đã đưa đến kết luận dựa vào vị trí của các bất chỉnh hợp trên phần đáy, nóc và cánh.
Phần đáy bao gồm:
Kiểu trầm tích down lap (gá đáy): xa nguồn cung cấp vật liệu biểu thị môi trường biển.
Kiểu on lap (phủ đáy): xuất hiện trong môi trường biển và biển ven.
Kiểu cover lap (trùm phủ): môi trường lục địa hoặn biển với môi trường thuỷ động lực thấp.
Phần nóc:
Có ranh giới bào mòn: môi trường lục địa bị bào mòn, có hoạt động kiến tạo nâng.
Kiểu top lap (chống nóc): gần nguồn vật liệu cung cấp, vật liệu đặc trưng trầm tích sườn hoặc sườn thềm.
Lòng sông cổ: môi trường lục địa hoặc biển.
Phần cánh:
Bất chỉnh hợp trầm tích: xa nguồn cung cấp, chủ yếu là sét ở đáy bể trầm tích bờ dốc biển hở.
Sông ngầm: bất chỉnh hợp sau trầm tích, các sông ngầm trong điều kiện lắng đọng phức tạp.
2. Thế nằm của các mặt phân lớp đè vào mặt ranh giới của các mặt bất chỉnh hợp địa tầng.
3. Tuân thủ tính nhịp của các chu kỳ trầm tích. Đối với trầm tích biển thì phía trên ranh giới địa chất được bắt đầu bằng các tập trầm tích thô của nón quạt cửa sông, thành tạo sườn. Phía trên các tập trầm tích thô là trầm tích mịn liên quan tới các tập biển tiến của tập mức cao.
Dựa vào các tieu chuẩn này ta có thể xác định các ranh giới địa chấn chính (theo vietsovpetro) trong các mặt cắt BHI, BHIII và BRI như sau.
3.1. Ranh giới móng âm học
Trên trường sóng địa chấn, móng âm học thể hiện một trường sóng trắng tự do. Bề mặt phản xạ kém liên tục chứng tỏ mặt móng bị phá huỷ rất mạnh. Địa hình mặt móng bị phân cắt bởi các khối nâng xen kẽ các địa hào. Trên bề mặt móng bị phân cắt bởi các khối nâng xen kẽ các địa hào. Trên bề mặt móng, có các dạng kè áp vào các khối nhô, các trục đồng pha chống và gá đáy hai phía.
3.2. Ranh giới SH11
Phân chia mặt cắt địa chấn thành hai phần: phần dưới có trường sóng yếu với các trục đồng pha cong, kém liên tục. Phía trên là các trục đồng pha mạnh hơn, tần số thấp, đôi chỗ nằm kè áp SH11.
3.3. Ranh giới SH10
Là bề mặt bào mòn được thể hiện rất rõ trên các mặt cắt địa chấn. Trên bề mặt, tồn tại các đào khoét, chống nóc bào mòn, cắt xén và các trục đồng pha kè áp lên trên. Phần trên SH10, trường sóng đồng nhất hơn và các ranh giới phản xạ liên tục hơn so với phần dưới, Phần dưới gồm các bề mặt phản xạ mạnh, tần số thấp, kém liên tục.
3.4. Ranh giới SH7
Ranh giới chia mặt cắt làm hai phàn: phần trên có tính phản xạ yếu hơn, phân lớp mỏng hơn. Phần dưới có các trục đồng pha uốn cong, kè áp lên trên khối nhô móng.
3.5. Ranh giới SH5
Phần trên SH5 có tính phản xạ yếu hơn, kém liên tục hơn, hỗn loạn hơn phần dưới, đôi khi thấy các trục đồng pha gá đáy.
Phần dưới cảc trục đồng pha dạng chống nóc, phân lớp sng song hay dạng xếp ngói tướng tiền châu thổ, biển nông.
Kết quả minh giải tài liệu địa chấn:
Việc minh giải tài liệu địa chấn đã sử dụng 3 mặt cắt BHI, BHII và BRI. (hình 4.1, 4.2, 4.3). Để liên kết các ranh giới phản xạ chính, đã sử dụng trực tiếp kết quả phân tích địa tầng của 7 giếng khoan là BH4, BH5, BH6, BH7, BH10, BH9 và BH12. Các ranh giới được liên kết là: móng âm học,các ranh giới trong tầng Synrift, tầng Laterift (rift muộn) và tầng postrift.
Móng trước Kainozoi.
Là một tập mà các phản xạ không có tính phân lớp, tần số cao, không liên tục. Bề mặt là một mặt phản xạ có hai pha mạnh, tần số thấp hơn đối với các vùng nâng của móng. Còn những khu vực lún chìm sau, phản xạ không rõ ràng và bị phá hủy mạnh. ở khu vực lô 09 mỏ Bạch Hổ móng dược bắt gặp ở các giếng khoan là móng kết tinh có thành phần gabro granodiorit, granodiorit có tuổi Kreta. Mặc dù đặc trưng về địa chấn là khác nhau,ở các vùng nâng và lún chìm, song kết quả giếng khoan cũng có thể nhận định rằng móng kết tinh là loại móng phổ biến ở mỏ Bạch Hổ.
Tầng cấu trúc tạo bồn Oligoxen
Có thể xem tầng Synrift ở khu vực bồn trũng Cửu Long bao gồm các tập E1 và E4. Tập E1 là tập trầm tích cổ nhất của bồn trũng Cửu Long dược các giếng khoan (BH6 và BH10) xuyên qua. Nó đặc trưng bởi các phản xạ hỗn độn, biên dộ trung bình, tần số thấp. Đỉnh các tập này là một bất chỉnh hợp khu vực. Tập E1 có tướng trầm trầm tích thiên về tướng cát (có năng lượng cao), có lẽ là các tập quạt Aluvi môi trường đầm hồ với tính liên tục trội hơn. Nó là tập trầm tích chính lấp đầy bồn trũng rift. Tập E4 được đặc trưng bởi các phản xạ địa chấn từ á song song đến song song với độ liên tục khá hơn, biên độ cao và tần số cao hơn tập E1. Tập này được nhận biết rất rõ trên hầu hết các tuyến địa chấn mà nó tồn tại. Đỉnh của tập là một bất chỉnh hợp đặc trưng bởi sự “Onlap” của tập nằm trên và sự bào mòn (ở các khu vực nâng) của tập nằm dưới. Các đặc trưng này cho thấy quá trình lấp đầy bồn trũng rift trong giai đoạn này kém mạnh mẽ hơn thời kỳ E1. Và các tập trầm tích thiên về tướng sét (năng lượng thấp). So với ở E1 thì sự phân bố khu vực của E4 bị thu hẹp lại. Sự thay đổi này có thể liên quan đến một chu kỳ nâng nhưng biên độ không lớn của móng hoặc là sự giảm của mực nước biển đủ để thay đổi hướng cung cấp vật liệu.
Tầng Laterift (rift muộn)
Được tất cả các giếng khoan trong khu vực bắt gặp. ở khu vực lô 09 mỏ Bạch Hổ tầng synrift bao gồm hai tập D và C và nóc của chúng là các bất chỉnh hợp khu vực. Đặc trưng địa chấn của các tâng D là các phản xạ “trong suất” độ liên tục khá đến tốt, tần số cao. Nóc tập D là bất chỉnh hợp khu vực đặc biệt là ở những vùng nó bị bào mòn khá rõ. Đặc trưng địa chấn của tầng D thiên về tướng sét (năng lượng thấp) hơn là cát và nó là một trong những tập đá mẹ sinh dầu tốt.
Tập C đặc trừng phản xạ có độ liên tục cao, tần số thấp biên dộ lớn. ở khu vực mỏ Bạch Hổ tập C là tập set dày và giữ vai trò vừa là tầng sinh dầu vừa là tầng chắn.
Tầng sau rift (Postrift).
Được chia thành nhiều tập (1,2,3) thứ tự từ cổ đến trẻ là BI (bao gồm BI-1, BI-2), BII, BIII và A. Tuy nhiên trên mặt cắt địa chấn có thể nhìn thấy rõ 3 tập chính. Tập BI được đặc trưng bởi các pha gần như trong suất có độ liên tục kém hơn, tần số cao. Đặc trưng này phản ánh môi trường trầm tích có tính cát trội hơn. Kết quả phân tích tướng trầm tích qua các giếng khoan BH4, BH5, BH6, BH7, BH9, BH10 và BH12 cho thấy môi trường trầm đọng là đồng bằng ngập lụt, đầm hồ. Phần trên cùng của tập BI có tồn tại một lớp sét Rotalia mang tính chất khu vực đánh dấu thời kỳ biển tiến vào bồn trũng. Tuy nhiên càng đi về phía Tây - Tây Nam Tập sét này mỏng dần do sự thay đổi tướng. Nóc của tập BI được xác định với độ tin cậy cao trên toàn khu vực. Tâp BII và BIII được đánh dấu bằng các phản xạ có độ liên tục khá, biên độ phản xạ cao, tần số cao, khác hẳn với tập bên dưới. Nó phản ảnh yếu tố cát, bột kết là chủ yếu trong thành phần trầm tích, xen kẽ các tập sét dày, được trầm đọng trong môi trường đồng bằng châu thổ, kênh lạch. Tập A trên cùng của mắt cắt địa chấn được phân biệt với các tập bên dưới đó bởi các sóng phản xạ có biên độ thấp hơn, tần số cao độ liên tục trung bình đến khá. Đặc trưng này phản ảnh môi trường trầm đọng là biển nông.
II. Phương pháp phục hồi lịch sử tiến hóa kiến tạo khu vực nghiên cứu
Kết quả thu được qua phương pháp phục hồi lịch sử tiến hoá kiến tạo khu vực nghiên cứu như sau:
Khối nâng móng granitoit ở cấu tạo Bạch Hổ đã được sinh thành vào giai đoạn gần cuối Mesozoi (có nghĩa là khối nhô này đã có trước khi các trầm tích Kainozoi được hình thành). Đây là khối nhô granit đã được nâng cao dần trong suất thời kỳ tạo rift, ở phần đỉnh bị phong hoá và bào mòn mạnh và chính là nơi cung cấp vật liệu trầm tích cho khu vực xung quanh.
Pha nén ép cục bộ đã xảy ra tại khu vực phía Tây - Tây Nam của vùng nghiên cứu vào cuối Oligoxen sớm đầu Oligoxen muộn, mạnh mẽ nhất vào giữa Oligoxen muộn và kết thúc vào đầu Mioxen sớm. Như vậy trong thời kỳ Oligoxen muộn ở khu vực mỏ Bạch Hổ đã xảy ra các hoạt động kiến tạo khác nhau ở hai cánh Đông - Đông Bắc và Tây – Tây Nam. Bên cánh phía Đông - Đông Bắc hoạt động tách giãn tạo rift, hàng loạt đứt gãy đồng trầm tích mới được sinh thành và tiếp tục hoạt động cùng các đứt gãy được sinh thành trước đó làm cho khu vực này được mở rộng. Trong khi đó ở cánh phía Tây - Tây Nam khu vực, do pha nén ép hoạt động mạnh nên hành loạt đứt gẫy chờm ngịch được sinh thành và phát triển, cắm sâu vào khối móng và phá vỡ cấu trúc Kainozoi đã được sinh thành trước đó.
Các hệ thóng đứt gãy thuận phía Đông - Đông Bắc/Tây - Tây Nam, Tây - Tây Bắc/Đông - Đông Nam, á Kinh Tuyến và hệ đứt gẫy Đông Tây có tuổi sinh thành sớm hơn nhiều so với hệ đứt gãy chờm ngịch ở phía Tây - Tây Nam của vùng nghiên cứu.
Thời kỳ ngưng nghỉ hoạt động của hệ thống đứt gãy chờm nhịch muộn hơn so với các đứt gãy đồng trầm tích, các đứt gãy đồng trầm tích đều ngưng nghỉ hoạt động vào gần cuối Oligoxen muộn, trong khi đó các đứt gãy chờm ngịch đều đồng loạt hoạt động vào đầu Mioxen sớm.
Những đứt gãy trẻ hơn được sinh thành vào giữa Mioxen sớm và tiếp tục hoạt động đến cuối Mioxen giữa đầu Mioxen muộn đều là đứt gãy thuận, đồng trầm tích và do sự tác động của pha tách giãn Biển Đông mới.
Thời gian hoàn thiện cấu tạo Bạch Hổ là vào cuối Mioxen sớm, chúng trở thành các prospects hoàn chỉnh, nghĩa là sự hoàn thiện của bẫy chứa đã có trước khi pha tạo dầu và dịch chuyển trong Mioxen giữa.
Do lực ép ở cánh phía Tây - Tây Nam và lực kéo căng ở phía Đông - Đông Bắc ở kkhu vự mỏ Bạch Hổ đã làm cho khối móng granitoit cứng - giòn bị dập vỡ và tạo thành một góc lớn từ 750 - 1200 các khe nứt liên thông với nhau, làm cho tính thấm của đá tăng cao, và thuận lợi cho khai thác dầu khí.
Trong thời kỳ đầu của Oligoxen (Oligoxen sớm tương ứng với hệ tầng Trà Cú), nguồn cung cấp vật liệu chính cho hai cánh Đông - Đông Bắc và Tây - Tây Nam của cấu tạo Bạch Hổ là từ khối nhô móng bị phong hoá và bị bào mòn cung cấp là chính theo thể thức “tự cung tự cấp”.
Đến gần cuối Oligoxen toàn bộ khối nhô móng granitoit đã bị chôn vùi dưới các thành tạo trầm tích Oligoxen muộn mà thành phần vật chất của thành tạo này đã được vận chuyển từ nơi khác đến chứ không còn thể thức “tự cung tự cấp” như thành tạo trầm tích Oligoxen sớm. Như vậy sau khi kết thúc giai đoạn đầu của hệ tầng Trà Tân, do ảnh hưởng lớn của pha hoạt động kiến tạo mới, toàn bộ khu vực bị ngập lụt, môi trường lắng đọng trầm tích đã có thay đổi hẳn động năng trầm tích giảm, nguồn vật liệu được vận chuyển từ nơi xa đến, chủ yếu là các thành phần hạt mịn chứa nhiều vật chất hữu cơ và sapropen được tích đọng trong điều kiện khử mà sau này chính tập sét này đã trở thành tầng đá mẹ sinh dầu chính của khu vực nghiên cứu nói riêng và toàn bộ của bể Cửu Long nói chung và cũng chính tập đá này đa trở thành một tầng chắn hết sức quan trọng, chắn “trực tiếp’ trên khối nhô móng nứt nẻ và hang hốc chứa đầy hydrocacbua ở mỏ Bạch Hổ.
Kết quả phân tích các mặt cắt phục hôi cho thấy trong mô hình cấu tạo đương thời thì cấu trúc cánh phía Tây - Tây Nam đã cho phép hydrocacbua được sinh thành từ đá mẹ Oligoxen muộn dịch chuyển vào phần móng granitoit phong hoá và nứt nẻ vào đầu thời kỳ Mioxen giữa.
Còn các thân dầu được phát hiện ở trong các vỉa cát có tuổi Mioxen sớm là do dầu khí được sinh thành từ đá mẹ Oligoxen muộn dịch chuyển lên phía trên theo các đứt gãy nghịch và tích tụ lại thành các thân dầu công nghiệp.
Như vậy qua phương pháp lập mặt cắt phục hồi lịch sử tiến hoá kiến tạo đã giải đáp được những câu hỏi về lịch sử hình thành của cấu tạo Bạch Hổ đồng thời làm sáng tỏ về đặc điểm các hệ thống đứt gãy và cơ chế hình thành thân dầu tại khu mỏ Bạch Hổ (hình 4.4,4.5,4.6).
Chương V: đặc điểm Cấu trúc-kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng oligoxen mỏ bạch hổ trên cơ sở phân tích bản đồ đẳng dày sử dụng các phần mềm chuyên dụng gis và cps-3
I. ứng dụng công nghệ thông tin thành lập bản đồ đẳng dày và nghiên cứu cấu trúc tầng Oligoxen mỏ Bạch Hổ trên cơ sở sử dụng CPS-3
1. Sự phát triển của công nghệ thông tin đặc biệt cho ngành dầu khí
Ngày nay công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Đối với ngành dầu khí, công nghệ thông tin càng phát triển và khẳng định vai trò không thể thiếu.
Cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò ngày càng lớn, đa dạng. Việc thực hiện trên tài liệu giấy không thể đáp ứng, nhất là với tài liệu địa chấn 3D việc thực hiện trên giấy là không khả thi.
Quá trình tìm kiếm thăm dò được thực hiện ngày càng phổ cập trên bình diện rộng với nhiều hệ toạ độ khác nhau cần được thống nhất về một mối. Sự giao lưu, hợp tác trao đổi cần có tiếng nói chung.
Đòi hỏi đáp ứng nhanh, tính toán nhanh, truy cập, truy xuất những cơ sở dữ liệu lớn.
Khả năng trao đổi và tiếp cận trong xu thế toàn cầu hoá.
2. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin ở công ty dầu nói chung và ở cơ sở thực tập nói riêng.
Với một công ty dầu quốc tế công nghệ thông tin được đầu tư với một tỷ trọng đáng kể từ vài trăm ngàn đến vài triệu USD bao gồm thu mua phần mềm,phần cứng, phầm mềm ứng dụng, chi phí bảo trì, văn phòng phẩm cho in ấn chỉnh lý cao và một phần không nhỏ cho việc bảo trì nâng cấp hệ thống thiết bị cũng như các phần mềm ứng dụng.
ở PIDC đầu tư và phát triển cho công nghệ thông tin là rất lớn để phục vụ cho công tác tìm kiếm thăm dò có hiệu quả.
3. Nguồn tài liệu
Để thực hiện nghiên cứu cấu trúc-kiến tạo trên cơ sở đó đánh giá tiềm năng dầu khí, khoá luận này đã sử dụng các bản đồ đẳng sâu và tiến hành xử lý số liệu bằng công nghệ thông tin.
4. Chuyển đổi
Nguyên tắc chuyển đổi:
Việc chuyển đổi phải loại bỏ các lỗi của số liệu, cập nhật số liệu hoặc hiệu chỉnh số liệu cho phù hợp với nguồn số liệu khác.
5. Thực hiện vẽ bản đồ
Trong quá trình thực tập sinh viên đã được thực tập trên các phần mềm:
IESX 2/3D: Minh giải tài liệu địa chấn 2D/3D
STRALOGII: Minh giải tài liệu log, xây dựng mặt cắt địa chất-địa vật lý
PRIZM: Minh giải tài liệu địa vật lý giếng khoan
QUIKVIEW: Minh giải đánh giá nhanh tài liệu LOG
INDEPTH: Chuyển đổi thời gian độ sâu
CPS-3: Vẽ bản đồ
Do tài liệu hạn chế, nguồn tài liệu mà sinh viên thu thập được để ứng dụng các phần mềm này chỉ là các bản đồ đẳng sâu. do đó sinh viên làm khoá luận mới chỉ sử dụng phần mềm CPS-3 để thành lập bản đồ đẳng dày, nghiên cứu cấu trúc-kiến tạo và tính toán thể tích.
CPS-3 là phần mềm vẽ bản đồ,sử dụng giao diện trên nền OSF/MOTIF, móc nối làm việc trên nền GEONET, có thể trao đổi dữ liệu với các phần mềm khác (IESX, STRALOG,...) mà chúng ta có.
CPS-3 cho phép thành lập mặt cắt địa chất-địa vật lý ở những mức độ chi tiết cụ thể, cho phéo tính toán thể tích (Volummetric) khi ta có nhữnh dữ liệu nhất định.
Sử dụng CPS-3 để xây dựng bản đồ (địa lý, cấu tạo, đẳng thời, đẳng sâu, đẳng dày,...) thông thường trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò dầu khí chúng ta vẽ bản đồ cấu tạo cho một tầng.
Để từ các bản đồ đăng sâu tác giả thiết lập bản đồ đẳng dày của tập I, II và III của Oligoxen (giũa mặt địa chấn SH12 và mặt địa chấn SH11, giữa mặt địa chấn SH11 và mặt địa chấn SH10 và giữa mặt địa chấn SH10 và mặt địa chấn SH7). Các bản đồ thể hiện ở trên hình 5.1, 5.2 và5.3.
Chu trình xử lý của chúng tôi đưa ra là như sau: Sử dụng CPS-3 cho việc thành lập bản đồ đẳng dày trong khoá luận như sau:
Số hoá bản đồ (có nhiều cách: số hoá bản đồ trong Mapinfo, Arcinfo,Arcview,micsostaqtion,cps-3,..) bằng bàn số hoá hoặc bằng tay
Chuyển đổi dữ liệu sang ASCII bằng phần mềm geoshare (có thể chuyển đổi trong Arcinfo)
Nhập dữ liệu vào CPS-3
khai báo cấu trúc file dữ liệu: loại dữ liệu, các thông số nhập, kiểu ghi và trường ghi
Khai báo các thông số trắc địa
Sau khi nhập dữ liệu CPS-3 sẽ tạo thành các file *.*cps và nhìn nhận đó là dữ liệu của project
Chọn thuật toán để Grids (gồm bán kính tìm kiếm và các thông số làm mịn)
Xây dựng một basemap
Khai báo các tham số
Hiển thị basemap bằng Modul Display
Bản đồ cấu tạo tâng 1
Bản đồ cấu tạo tầng 2
Bản đồ cấu tạo tâng 3
Bản đồ cấu tạo tầng 4
Bản đồ đẳng dày 2-1
Bản đồ đẳng dày 3-2
Bản đồ đẳng dày 4-3,...
Tiến hành chồng ghép dùng Modul SurfaceđC = A - B
Kết quả
II. Sử dụng phương pháp GIS trong nghiên cứu cấu trúc địa chất và thành lập bản đồ đẳng dày tầng Oligoxen mỏ Bạch Hổ
Sơ đồ các bước tiến hành:
Cơ sở dữ liệu (các bản đồ đẳng sâu)
Tạo cơ sở dữ liệu GIS (Mapinfo, Arcview)
Thông tin đường đẳng sâu
Thông tin đường đứt gãy
Thông tin tuyến địa chấn
Thông tin giếng khoan
Nội suy giá trị đẳng sâu theo TIN
Nội suy DEM trên mô hình (Grid) Surface Idrisi
Nghiên cứu bề mặt 3D của các tầng
Bề mặt số đẳng sâu (đẳng sâu tầng 1, đẳng sâu tầng 2,...)
Arcinfo,Arcview
Tương tự các lớp thông tin đứt gãy, tuyến địa chấn, giếng khoan ta cũng thực hiện theo sơ đồ trên.
Bề mặt số đứt gãy (tầng1, tâng2,...)
Bề mặt số tuyến địa chấn (tđc1, tđc2,...)
Bề mặt số giêng khoan (gk1,gk2,...)
Bề mặt số đẳng sâu (đẳng sâu1, đẳng sâu2,...)
Chồng bề mặt đẳng sâu, đứt gãy, tđc, gk của từng tầng (ví dụ: đẳng sâu1, đứt gãy1, tđc1, gk1; đẳng sâu 2, đứt gãy 2, tđc 2, gk 1;...ta được bề mặt 1, bề mặt 2,...)
Đẳng dày 1, đẳng dày 2,...
Việc tạo cơ sở dữ liệu trong GIS có thể tiến hành bằng nhiều cách. Một trong các cách đó mà tác giả trình bày là dùng Mapinfo, số háo dữ liệu có sẵn cho các bản đồ đẳng sâu. Tác giả đã số hóa các đường đẳng độ sâu, các tuyến địa chấn, các điểm giếng khoan và các đứt gãy.
Sau khi đã số hóa trên Mapinfo dữ liệu được chuyển đổi sang Arcinfo để tạo topology. Các dữ liệu được biên tập để chỉnh rửa thống nhất trên một hệ tọa độ UTM của khu vực nghiên cứu, chúng được dùng để tạo mô hình TIN.
Ngoài ra dữ liệu tạo ra trên môi trường Arcinfo được tạo ra theo kiểu dữ liệu văn bản ASCII chuẩn (bằng UNGEN) nhằm mục đích cho các phần mềm khác có thể truy cập và chuyển nhận được. Các tệp Arcinfo đường đẳng sâu, đứt gãy, tuyến đia chấn và giếng khoan chuyển sang các tệp ASCII để IDRISI WIN 32 có thể hiểu và nhập được nhằm mục đích tạo mô hình DEM.
Một số thao tác cơ bản dùng phân tích:
1. Gắn các giá trị thuộc tính
[ARC]TABLES¿
ENTER COMMAND:sel dangsau.aat¿
ENTER COMMAND:sel dutgay.aat¿
ENTER COMMAND:sel tdc.aat¿
ENTER COMMAND:sel dgk.aat¿
ENTER COMMAND:cal dangsau_id = id¿
ENTER COMMAND:cal dutgay_id = id¿
ENTER COMMAND:cal tdc_id = id¿
ENTER COMMAND:cal dgk_id = id¿
Xuất dữ liệu sang ASCII:
ENTER COMMAND:q¿
[ARC]build dangsau line¿
[ARC]build dutgay line¿
[ARC]buil tdc line¿
[ARC]buil dgk point¿
[ARC]ungen line dangsau dangsau.lin¿
[ARC]ungen line dutgay dutgay.lin¿
[ARC]ungen line tdc tdc.lin¿
[ARC]ungen line dgk dgk.poi¿
2. Thiết lập bề mặt
Đối với các đường đẳng độ sâu, các tuyến địa chấn, các đứt gãy và các giếng khoan, giá trị được thiết lập cho từng đối tượng trong GIS và được lưu trữ trong GIS bằng các tệp file dữ liệu bề mặt khác nhau (file *.lin, *.poi).
Chuyển đổi các file dangsau.lin, dutgay.lin, tdc.lin và dgk.poi sang IDRISI để tiến hành tạo file bề mặt
Từ các file.lin trên ta chạy DEM (Digital Elevation Model) bằng cách vào Modul DataEtryđSurface InterpolationđIntercon.
3. Chồng các lớp thông tin
Kiểm tra tọa độ cuẩ từng DEM vừa tạo ra xem có bằng nhau không, nếu không bằng nhau ta phải hiệu chỉnh cho bằng nhau.
Tiến hành chồng các lớp thông tin, ta dùng Modul Overlay. Một trong những nguyên lý để chồng lớp thông tin là các bề bặt phái cùng độ lớn về số dòng, số cột và tọa độ.
Kết quả ta đã tạo ra được các lớp thông tin đẳng dày (hình 5.1, 5.2, 5.3)
III. Kết quả
1. Cấu trúc-kiến tạo
Mỏ Bạch Hổ là một bộ phận quan trọng cấu thành đới nâng Trung Tâm bồn trầm tích. Cửu Long, khối nhô gồm 3 vòm nhỏ. Cấu tạo mỏ Bạch Hổ có phương á Kinh Tuyến. Phía Tây Bắc, Tây Nam và Đông Bắc là các trũng có phương trùng với phương cấu tạo của mỏ, được ngăn cách bởi các đứt gãy. Bồn trũng Cửu Long được hình thành do hoạt động tạo rift xảy ra mạnh mẽ vào giai đoạn Mezozoi muộn đặc biệt là vào thời kỳ tách giãn đáy Biển Đông từ giữa Oligoxen. Cấu trúc của mỏ bị phức tạp bởi hai hệ thống đứt gãy chính phương á Kinh Tuyến và phương Đông - Tây. Biên độ phá huỷ của các hệ thông đứt gãy giảm dần về phía trên mặt cắt. Đặc tính địa luỹ của khối nâng thể hiện rất rõ ở phần dưới của mặt cắt. Cấu tạo Bạch Hổ có cấu trúc không đối xứng đặc biệt ở phần vòm. Góc dốc của lớp đá tăng dần theo độ sâu từ 80 đến 300 ở cánh Tây, còn cánh Đông từ 60 đến 200, trục uốn nếp ở phần kề vòm thấp dần về phía Bắc với một góc nhỏ, trục ở phía Nam sụt xuống thoải hơn.
Một trong số các phương pháp tính toán là xác định độ dày để xác định sự hình thành của bồn trầm tích và sự di chuyển của các trục sụt lún.
1.1. Kiến tạo
Hệ thống đứt gãy phương á Kinh Tuyến
Đây là hệ thống đứt gãy chính gồm các đứt gãy lớn và mức độ phá huỷ kiến tạo cao. ở đây có các đứt gãy rất phức tạp, kéo dài trong phạm vi vòm Trung Tâm và vòm Bắc, biên độ cực đại đạt tới 800m theo chiều ngang của mỏ ở mặt cắt địa chấn tầng móng, độ nghiêng của bề mặt đứt gãy khoảng 650.
Đứt gãy số I
Chạy dài theo cánh Tây của nếp uốn biên độ của đứt gãy thay đổi từ 300m ở phía Nam đến 500m của vòm Trung Tâm theo chiều ngang của móng, kéo dài đến vòm Bắc bằng ba đứt gãy thuận VI, VII, VIII, với biên độ từ 50-100m (theo mặt địa chấn tầng móng).
Đứt gãy số II
Chạy dọc theo sườn Đông vòm Trung Tâm đến phía Bắc đứt gãy đổi hướng về phía Đông Bắc ngoài ra còn các đứt gãy biên độ nhỏ như III, IV, IX, XI, XII như ở mặt móng.
Hệ thống đứt gãy theo phương Đông-Tây
Được xác định bằng các đứt gãy IIIC, IIb, V và chính nó đã phân mỏ Bạch Hổ theo 3 đơn vị cấu trúc kiến tạo. Chi tiết về cấu trúc kiến tạo của cấu tạo Bạch Hổ được thể hiện trên bản đồ cầu trúc của địa tầng địa chấn và trên các mặt cắt địa chấn địa chất. ở đó, cho thấy số lượng lớn nhất các đứt gãy kiến tạo được ghi nhận trong móng, thứ hai ở phức hệ trung gian và thứ ba là ở vỏ nền, theo mức độ tắt dần của đứt gãy trong mặt cắt, chúng được chia thành: đứt gãy trước Kainozoi, Paleogen và Neogen.
Quan trọng hơn cả là các đứt gãy hình thành cấu tạo của Oligoxen không chỉ trong các phức hệ trung gian mà cả trong móng. Theo quan điểm của đa số các nhà nghiên cứu thì chúng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cấu tạo của mỏ hiện tại, mặc dù cơ chế thành tạo của các đứt gãy đó vẫn còn phải tranh luận.
1.2. Cấu tạo
Trục uốn nếp của cấu tạo Bạch Hổ không đơn giản mà lại lượn sóng, chính điều này đã tạo cho cấu tạo Bạch Hổ các đứt gãy ngang, chéo, phá huỷ khối nâng thành 3 đơn vị cấu trúc kiến tạo chính (vòm Bắc, vòm Trung Tâm và vòm Nam), mà ranh giới các vòm được chia ra một cách ước định, vì các vùng trũng (phân chia chúng không rõ ràng) và các đứt gãy bị che lấp.
Vòm Trung Tâm
Phần nâng cao nhất của cấu tạo Bạch Hổ và là những địa luỹ lớn của phần móng. Trên mặt cắt dọc nó được nâng cao hơn so với vòm Bắc và vòm Nam tương ứng của móng là 300m và 800m. Phía Bắc vòm Trung Tâm được giới hạn bởi đứt gãy kiến tạo số IX hướng đổ bề mặt phía vòm Trung Tâm. Phía Nam của vòm được giới hạn bởi đứt gãy IIIc. Đứt gãy II, III, IV làm cho cánh Đông của vòm bị phá huỷ thành một loạt khối dạng bậc thang lún chìm phần vòm bị phá huỷ bởi một loạt các đứt gãy nhỏ.
Vòm Bắc
Phần phức tạp nhất của khối nâng. ở đây các đứt gãy I, VI, VII, VIII chia vòm thành hàng loạt các khối dạng địa hào, dạng bậc thang theo mặt móng. Bẫy cấu tạo của vòm Bắc được khép kín bởi đường đồng mức 4100m.
Vòm Nam
Phần lún sâu nhất của cấu tạo Bạch Hổ. Phía Bắc được giới hạn bởi đứt gãy á Vĩ Tuyến IIIc, các phía khác được giới hạn bởi đường đồng mức 4300m.
Ngoài ra còn phần nghiêng xoay ở cánh dưới đứt gãy V và phần phía Đông (phía Đông của đứt gãy II) đang được nghiên cứu thêm.
Kết luận
Từ bản đồ bề mặt móng và các bản đồ đẳng dày giải thích các chế độ cổ kiến tạo:
Bản đồ bề mặt móng thể hiện sự phân dị cấu trúc không gian của mỏ Bạch Hổ. Khu vực mỏ Bạch Hổ là một cấu trúc nâng (bề dày bằng 0), cánh phải là một loạt các bồn thứ cấp phân dị theo chiều Đông – Tây và Bắc – Nam. ở đây có thể chia ra các cấu tạo bậc cao sau:
Lõm phía Đông và lõm phía Tây, độ dày trầm tích ở đây thay đổi từ 0m đến 300m. Cánh trái là một cấu tạo lõm ít phân dị hơn cánh phải song sụt lún mạnh hơn. Bề dày ở trung tâm đạt 300m, ở các cánh khoảng 25m.
Bản đồ đẳng dày giữa SH12 và SH11 cho thấy khu vực trung tâm mỏ Bạch Hổ vẫn là một cấu trúc nâng, độ dày bằng 0, ở hai bên cánh phải và trái là các cấu trúc lõm, độ dày trầm tích ở đây thay đổi từ 0m đến 400m, ở cánh phải do hệ thống đứt gãy dày đặc nên cấu tạo lõm ở cánh trái phân dị mạnh nhưng bề dày trầm tích mỏng hơn ở cánh trái do cánh trái vẫn tiếp tục sụt lún.
Bản đồ đẳng dày giữa SH11 và SH10. ở bản đồ này ta thấy bề dày trầm tích tăng đáng kể đặc biệt là ở phía cánh trái, bề dày trầm tích trung tâm cấu tạo lõm này đạt đến 800m và ở phía cánh là 100m trong khi đó bề dày trầm tích ở các lõm phía Bắc, phía Nam và bên phía cánh phải (phía Đông) chỉ đạt từ 0m đến 350m. Phía Đông Đông Bắc là các đơn nghiêng. Đây là giai đoạn hình thành địa hào và bán địa hào, đến cuối Oligoxen các địa hào và bán địa hào này được lấp đầy bởi các trầm tích (hình thành các bồn trầm tích).
Bản đồ đẳng dày giữa SH10 và SH7, độ dày trầm tích khá lớn, ở những lõm sâu độ dày trầm tích đạt đeens 1300m và giảm dần về phía cánh là 250m. ở khu vực trung tâm bồn trũng độ dày trầm tích mỏng khoảng 25m và tăng dần ra rìa khối nhô. Từ phân tích bề dày trầm tích ta thấy ở giai đoạn này là giai đoạn oằn võng bồn và vai trò của các đứt gãy không còn, các bồn trũng được lấp đầy bởi các trầm tích biển tiến.
Từ những điều trình bày trên cho thấy, trong suất giai đoạn đầu Oligoxen khối nâng Bạch Hổ là một cấu trúc nâng tồn tại ngay từ đầu giai đoạn phát triển Oligoxen (độ dày bằng 0).
Cấu trúc Bạch Hổ cũng tồn tại như một cấu trúc nâng trong bình đồ cấu trúc của vùng. Song xem xét trong tổng thể thì cấu trúc này đang chìm dần xuống dưới mực nước biển.
Trong thời gian giữa SH11 đến SH12 ở đây đã phát triển một lớp trầm tích mỏng với bề dày đạt được là từ 0m đến 400m.
Trong thời gian SH11đến SH10, bề dày trầm tích đã được tăng lên là 0m đến 800m.
ở hai cánh bên khối nâng Bạch Hổ, sự sụt lún xẩy ra mạnh, bề dày trầm tích biến đổi từ 0m (móng đến SH12) đến 400m (SH12 đến SH11) đến 800m (SH11 đến SH10) và đến 1300m (SH10 đến SH7).
Mỏ Bạch Hổ nằm trong đới nâng Trung Tâm bể Cửu Long, cho nên cấu trúc địa chất, lịch sử phát triển và tiềm năng triển vọng dầu khí của mỏ này gắn liền với cả bồn trũng. Tuy nhiên, do vị trí cấu trúc đặc biệt nên mỏ Bạch Hổ có những đặc thù riêng sau đây.
Về mặt cấu trúc kiến tạo
Mỏ Bạch Hổ đặc trng bởi hai hệ thống đứt gãy chính: hệ thống đứt gãy phơng á Kinh Tuyến (là chính phá hủy kiến tạo cao) và hệ thống đứt gãy Đông-Tây, hệ thống đứt gãy nay đã phân mỏ Bạch Hổ theo ba đơn vị cấu trúc (Vòm Bắc, Vòm Nam và Vòm Trung Tâm)
Về mặt địa tầng trầm tích
ở phạm vi mỏ Bạch Hổ có mặt các thành tạo có tuổi từ Oligoxen đến hiện tại, tuy nhiên trầm tích Oligoxen chỉ có mặt trong các nhánh trũng địa hào, đặc trng bằng các thành tạo lục địa tớng châu thổ, hồ đầm của thời kỳ đầu tạo rift. Trầm tích Mioxen hiện tại đặc trng cho thời kỳ phát triển châu thổ rộng khắp nhất là từ Mioxen giữa trở lại đây trong đó có yếu tố biển.
Mục tiêu tìm kiếm chủ yếu là các thành tạo Oligoxen và Mioxen sớm tức là trầm tích lắng đọng trong thời kỳ tạo rift hoặc ngay sau khi tạo rift.
Về khả năng tầng sinh dầu khí
Các trầm tích hạt mịn (set, bột) tuổi Oligoxen bắt gặp trong 2 giếng khoan BH9 và BH10 có hàm lợng vật chất hữu cơ cao, thuộc kerogen loại I + II với khả năng sinh tốt.
Về khả năng chứa
Kết quả nghiên cứu cho thấy phạm vi mỏ Bạch Hổ khả năng chứa tồn tại ở trong móng phong hóa - nứt nẻ, các tập cát kết tuổi Oligoxen và Mioxen dới.
Tầng móng phong hóa nứt nẻ bắt gặp ở giếng khoan BH9 và BH10.
Tầng cát kết Oligoxen bao gồm 3 tập dới, giữa và trên của hệ tầng Trà Tân
Tầng chứa cát kết ở phụ hệ tầng Bạch Hổ có độ rỗng khá tốt:15-22% độ thấm 0.5-1mD và đợc xem là tầng chứa tốt .
Ngoài ra cũng cần lu ý thêm là hầu hết cát kết tuổi Oligoxen hình thành ở giai đoạn tạo rift trong môi trờng bồi tích, gần nguồn vật liệu.
Về khả năng bẫy chứa
Phần lớn các bẫy cấu tạo ở mỏ Bạch Hổ là các bẫy khối móng nứt nẻ, các cấu tạo này nằm ở đới nâng, nguồn sinh phong phú, khả năng nạp từ nguồn sinh vào là rất cao. Ngoài ra còn có các bẫy dạng hỗn hợp và các bẫy dạng vỉa vòm, ở các bẫy này khả năng nạp từ nguồn sinh vào là hạn chế hơn.
Về khả năng tầng chắn
Tầng sét Rotalia mang tính chất khu vực của cả bồn trũng Cửu Long và ở mỏ Bạch Hổ nó cũng là tầng chắn quan trọng . Ngoài ra còn gặp các tầng chắn địa phơng nằm xen kẽ trong các tập cát kết có khả năng chứa tuổi Oligoxen và Mioxen sớm.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng kết hội nghị khoa học ngành dầu khí năm 2001.
2. Nguyễn Văn Thắng. Đồ án tốt nghiệp. Cấu trúc địa chất - Đánh giá ảnh hưởng nước rìa lên động thái khai thác các giếng khoan thân dầu tầng 23 Mioxen hạ mỏ Bạch Hổ.
3. Nguyễn Mạnh Hà. Đồ án tốt nghiệp. Đặc điểm trầm tích Oligoxen sớm mỏ Bạch Hổ trong mối liên quan với bối cảnh kiến tạo.
4. Phan Trung Điền. Giáo trình. Địa chất dầu khí.
5. Trần Nghi và NNK. Nghiên cứu tướng đá cổ địa lý và chuẩn hoá địa tầng Kainozoi ở mỏ Rồng và mỏ Bạch Hổ.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28409.doc