Phát triển bền vững là hướng đi đúng đắn đang được lựa chọn bởi tất cả các ngành nghề. Trong những năm qua, phát triển du lịch theo hướng bền vững được các nhà hoạch định đặc biệt quan tâm với một trong những nội dung quan trọng là thúc đẩy da dạng sinh học bảo tồn và tôn tao các cảnh quan tự nhiên.
Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên thế giới - điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế, đang là đối tượng khai thác của các ngành kinh tế như: ngành Du lịch khai thác than, nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản, hoạt động giao thông cảng biển sức ép mà nó đang phải chịu là vô cùng lớn, chính điều đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình du lịch phát triển du lịch bền vững.
86 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu những giải pháp phát triển du lịch bền vững ở vịnh Hạ Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượng các dự án đầu tư vào du lịch Hạ Long chưa nhiều, số dự án triển khai hoạt động chậm hiệu quả, kinh tế xã hội chưa thật sự nổi bật. Lực lượng lao động tham gia phục vụ trong ngành Du lịch được đào tạo chuyên môn chưa nhiều, trình độ chưa cao, đặc biệt là số người biết sử dụng thành thạo hai ngoại ngữ là rất ít.
Hoạt động xúc tiến du lịch của nước ta còn yếu kém do vốn sử dụng cho công tác này chưa nhiều. Trong khi Singapore đầu tư khoảng 60 triệu USD/ năm, hàng năm đón bẩy triệu lượt khách quốc tế trong khi dân số khoảng 3 triệu người. Thái Lan dành 70 – 80 triệu USD hàng năm để đầu tư cho xúc tiến du lịch. Thì nguồn kinh phí đầu tư xúc tiến du lịch Việt Nam chỉ đạt khoảng 1/ 2000 của Thái Lan (năm 1998). Chính vì vậy, hình ảnh du lịch của Hạ Long chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của khách du lịch trên thế giới.
Với ưu thế hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và giá trị địa mạo địa chất, việc phát triển Hạ Long thành một trung tâm du lịch trọng điểm của cả nước và trên thế giới là việc làm tất yếu. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà nó còn có ý nghĩa về mặt chính trị – xã hội khi ta thể hiện được “năng lực” của mình trước cặp mắt để ý của các nước trên thế giới.
Chương 3
Các giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững ở Hạ Long
1. Giới thiệu về Ban quản lý Vịnh.
Xuất phát từ thực tế và sự khuyến khích của Hội đồng di sản thế giới, ngày 4-11-1995 UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quy chế quản lý Vịnh Hạ Long và Ban quản lý Vịnh Hạ Long đã chính thức được thành lập với nhiệm vụ: quản lý, bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long mà trọng tâm là khu vực di sản thế giới đã được UNESCO công nhận.
Ban quản lý Vịnh Hạ Long là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh đồng thời chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ và quan hệ quốc tế của Bộ Văn hoá - Thông tin và Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam. Khi mới thành lập Ban chỉ có 12 người, nay có 258 người với cơ cấu các phòng ban chức năng, bộ phận, phòng nghiên cứu, phòng tài chính tổ chức, phòng kế toán, đội kiểm tra, đội quản lý hang động, trung tâm cứu hộ cứu nạn, phòng dự án, trung tâm dịch vụ Vịnh Hạ Long, trung tâm thông tin hướng dẫn.
Chức năng và nhiệm vụ của Ban đã được quy định trong quyết định số 419/QĐ-UB ngày 02-03-1999 là:
Tham mưu, đề xuất, giúp UBND tỉnh xây dựng quy chế và tổ chức lực lượng thực hiện chủ trương, kế hoạch, biện pháp quản lý, bảo tồn và khai thác Vịnh Hạ Long
Xây dựng các kế hoạch phát triển, các dự án đầu tư tu bổ, tôn tạo trình UBND tỉnh phê duyệt, UBND tỉnh sẽ giao cho Ban quản lý vịnh tổ chức và giám sát việc thực hiện một số dự án cụ thể.
Phối hợp cùng các ngành chức năng có liên quan tiến hành các hoạt động kiểm tra bảo vệ cảnh quan, môi trường và đa dạng sinh học, phát hiện chấn chỉnh và xử lý các vi phạm quy định quản lý hoạt động tham quan du lịch Vịnh Hạ Long.
Chủ trì phối hợp với các ngành: công an, giao thông vận tải, các đơn vị khối kinh tế cảng, khoa học và công nghệ môi trường, xây dựng, thuỷ sản, nông nghiệp và phát triển nông thôn, triển lãm, các đơn vị thuộc ngành than và uỷ ban nhân dân các huyện Vân Đồn, Yên Hưng, Thị xã Cẩm Phả, thành phố Hạ Long xây dựng phương án, quy định và giám sát các hoạt động sản xuất và xây dựng phát triển kinh tế xã hội, các phương tiện đi lại trên Vịnh Hạ Long nhằm bảo vệ cảnh quan môi trường và trật tự an ninh trên Vịnh Hạ Long.
Tuyên truyền rộng rãi những giá trị tự nhiên và nhân văn của Vịnh Hạ Long, những quy định bảo vệ kế hoạch, chủ trương biện pháp an ninh trên Vịnh Hạ Long.
Tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành trung ương và địa phương tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học về Vịnh Hạ Long, lập hồ sơ khoa học về hệ thống các giá trị tự nhiên và nhân văn của Vịnh Hạ Long, làm cơ sở cho việc hoạch định chương trình kế hoạch, biện pháp quản lý, bảo tồn, khai thác lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu về Vịnh Hạ Long.
Tổ chức bán vé, thu phí, quản lý có kế hoạch sử dụng phí tham quan Vịnh Hạ Long một cách hiẹu quả, đúng pháp luật.
Tổ chức các dịch vụ và tham gia hoạt động vận chuyển khách du lịch trên Vịnh Hạ Long và các hoạt động giới thiệu, hướng dẫn cho khách tham quan Vịnh.
Tham gia thẩm định các dự án phát triển kinh tế – xã hội có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến Vịnh Hạ Long.
Tổ chức lực lượng và trang bị cần thiết cho hoạt động bảo tồn môi trường nước, bảo vệ đa dạng sinh học và cảnh quan Vịnh Hạ Long
Tiến hành các hoạt động đối ngoại, mở rộng và tăng cường ảnh hưởng của Vịnh Hạ Long, từng bước nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên, thu hút sự quan tâm đầu tư các tổ chức quốc tế và người nước ngoài đối với các khu di sản , thu hút đông đảo du khách quốc tế tham quan Vịnh Hạ Long.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Ban quản lý Vịnh Hạ Long xác định rõ ràng quan điểm đối với công tác quản lý, bảo tồn di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long: “vừa bảo tồn, vừa khai thác, bảo tồn để khai thác và khai thác tốt để có điều kiện quản lý, bảo tồn tốt hơn các giá trị tiềm năng của Di sản vịnh Hạ Long. Việc khai thác những tiềm năng kinh tế trong khu vực Di sản nhất thiết phải đi đôi với việc quản lý, bảo tồn nhằm phát triển bền vững ”
2. Thành tựu của 10 năm hoạt động.
Sau 10 năm hoạt động Ban quản lý làm được những việc đáng trân trọng. Chỉ sau một thời gian ngắn công tác quản lý đi vào nề nếp, đề xuất được những việc mang tính đột phá, thực hiện giải quyết nhiều nội dung mang tính cấp thiết và đã trở thành cơ quan nòng cốt quản lý di sản đem lại hiệu quả thiết thực.
2.1. Công tác giữ gì, bảo tồn di sản Vịnh Hạ Long
2.1.1. Tổ chức và quy chế
Tham mưu, đề xuất việc ban hành quy chế và tổ chức thực hiện các chủ trương, kế hoạch, biện pháp quản lý, bảo tồn và khai thác Vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long là đối tượng khai thác của nhiều ngành kinh tế: nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản, giao thông vận tải – cảng biển du lịch, khai thác than…Những hoạt động này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường cũng như cảnh quan Vịnh Hạ Long, và một loạt các văn bản pháp lý liên quan đến công tác bảo tồn quản lý Vịnh Hạ Long đã ra đời như: Công ước Quốc tế về việc bảo vệ Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới, Quy chế bảo vệ môi trường trong du lịch (Quyết định của Bộ trưởng bộ tài nguyên và môi trường số 02/2003/QĐ-BTNMT ngày 29-7-2003), thông tư số 04/TT – BVNLTS ngày 10-10-1996 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Nghị định số 40/chính phủ của chính phủ ban hành ngày 05-07-1996 về đảm bảo trật tự an toàn giao thông thuỷ nội địa, Thông tư số 2262/TT-BKHCNMT ngày 29-12-1995 của Bộ khoa học công nghệ và môi trường về khắc phục sự cố tràn dầu. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho Ban quản lý xác định hoạt động của Ban trong công tác quản lý, bảo tồn Vịnh Hạ Long.
Ngoài ra, Ban còn chủ động và tích cực phối hợp với các ngành, địa phương sửa đổi văn bản “Quy chế quản lý Vịnh Hạ Long” (ban hành theo quyết định số 2522/QĐ-UB ngày 04-11-1995) sau khi phát hiện ra còn nhiều bất cập, nhằm cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (Luật di sản văn hoá , Luật bảo vệ môi trường, Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long đến 2020 và Nghị quyết số 09/TU ngày 30-11-2001 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long đến 2005).
Ban quản lý Vịnh Hạ Long cùng văn phòng UNESCO tại Việt Nam, Bộ Văn hoá - Thông tin và các chuyên gia nước ngoài triển khai nghiên cứu “Dự án tiền khả thi xây dựng bảo tàng sinh thái Hạ Long” và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trước tình trạng gia tăng nhà bè, nuôi trồng kinh doanh thuỷ sản, phương tiện vận chuyển khách du lịch, phương tiện kinh doanh xăng dầu…Ban quản lý Vịnh đã kịp thời kiên nghị với UBND tỉnh tăng cường quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ. Đồng thời đình chỉ hoạt động của một số doanh nghiệp, tư nhân do khai thác không hiệu quả hoặc sai quy định.
2.1.2. Phối hợp với các ngành liên quan
Ban quản lý Vịnh đã tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 16/TT –UB ngày 08-07-2002 của UBND tỉnh về “việc tăng cường quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ trên Vịnh Hạ Long” và phối hợp với các cơ quan chức năng (Công an tỉnh, Sở giao thông vận tải, Sở du lịch, Sở Thuỷ sản, Chi cục kiểm lâm, Sở Tài nguyên môi trường) và UBND thành phố Hạ Long, công an thành phố Hạ Long, UBND phường Hùng Thắng tổ chức thực hiện Quy chế, chương trình phối hợp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long, kết quả thu được thật đáng khích lệ, các hoạt động sản xuất – kinh doanh gây ảnh hưởng xấu đến môi trường Vịnh đã giảm hẳn, tình trạng đánh cá bằng điện, bằng mìn hầu như đã không còn, tình trạng khai thác san hô, nhũ đá làm quà lưu niệm bán cho du khách đã từng bước bị ngăn chặn. Qua quá trình tuyên truyền vận động, nhiều hộ gia đình đã tự di chuyển hài cốt trên núi về đất liền.
Ban phối hợp với các ngành địa phương liên quan, tích cực kiểm tra các hoạt động kinh tế – xã hội diễn ra trên mặt Vịnh. Năm 2003, qua hai đợt kiểm tra, Đoàn kiểm trâ liên ngành đã thống kê được 452 nhà bè đang hoạt động, phát hiện 257 nhà bè chưa đăng ký, 152 nhà bè neo đậu không đúng vị trí quy định. Cùng với đợt kiểm tra này, Đoàn còn kiểm tra 32 phương tiện thuộc 21 hộ xăng dầu đang hoạt động, phát hiện 12 phương tiện neo đậu sai quy định và thiếu trang thiết bị bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Ban quản lý Vịnh tham gia phối hợp thẩm định một số dự án phát triển kinh tế – xã hội có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến Vịnh Hạ Long.
2.1.3. Nâng cao nhận thức chức năng nhiệm vụ cho cán bộ
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn…” Để làm được điều đó cần phải tạo ra cho được các nguồn nhân lực cho sự phát triển du lịch mạnh mẽ, trong đó quan trọng nhất, mang tính quyết định, là nguồn lực con người. Hiệu quả của công tác bảo tồn, phát huy giá trị của di sản phụ thuộc phần lớn vào trình độ quản lý, năng lực chuyên môn và tính trách nhiệm của đội ngũ cán bộ và nhân viên Ban quản lý Vịnh.
Mỗi cán bộ, nhân viên trong Ban quản lý Vịnh phải có nhận thức đúng, đầy đủ về giá trị của di sản. Nó không chỉ có giá trị về mặt văn hoá mà còn có giá trị to lớn về mặt kinh tế, chính trị đối với đất nước ta. Thực tế rằng, sự tồn tại và phát triển của Vịnh Hạ Long gắn liền với lợi ích của mỗi CBCNV trong Ban.
Trong những năm qua, Ban đã tổ chức cho CBCNV của Ban gồm lãnh đạo Ban, Trưởng ban bộ phận, cán bộ phòng nghiên cứu giá trị Di sản, học tập những quy định, cơ chế chính sách quản lý, bảo tồn Di sản và chức năng nhiệm vụ của Ban. Đồng thời đã tổ chức cho CBCNV của Ban đi thực tế trên Vịnh Hạ Long nhất là khu vực Di sản thế giới.
Nhằm nâng cao khả năng tiếp cận kinh nghiệm quản lý Di sản, Ban đã cử cán bộ tham dự nhiều cuộc hội thảo trong nước, khu vực, quốc tế và hai diễn đàn quốc tế quan trọng là hội thảo “Xây dựng mạng lưới và thực hiện chiến lược quản lý Di sản thế giới biển” do Uỷ ban Di sản thế giới tổ chức tại Nam Phi và Hội nghị Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất trên thế giới tổ chức tại Pháp.
Hàng năm, Ban còn tổ chức những cuộc thi hướng dẫn giỏi để từ đó có thể đánh giá được trình độ của đội ngũ hướng dẫn viên, khắc phục những điểm còn yếu kém, bổ sung thêm những điểm mạnh. Xây dựng một đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp là mục tiêu mà Ban quản lý Vịnh đang hướng đến.
Đánh giá đúng vị trí quan trọng của con người trong sự phát triển của du lịch bền vững của Vịnh Hạ Long, với những hướng đi và hành động tích cực, đội ngũ CBCNV phục vụ trong ngành Du lịch Hạ Long đang lớn mạnh hàng ngày. Lớn mạnh cả trình độ chuyên môn, cả về tinh thần trách nhiệm đối với công việc mình làm. Đây là thành quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban quản lý Vịnh với các ban ngành liên quan và sự tham gia của cộng đồng địa phương .
2.1.4. Nghiên cứu khoa học
Ban quản lý đã hoàn thành một số để tài khoa học quan trọng: Đề tài nghiên cứu về làng chài trên Vịnh, dự án xây dựng chợ hải sản khu vực Ba Hang, đây là những dự án nhằm làm phong phú sản phẩm du lịch Hạ Long cũng như góp vào sự hiểu biết chung của cộng đồng. Ban đã hoàn thành việc biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn khách tham quan Vịnh Hạ Long trình UBND tỉnh xem xét, cho triển khai thực hiện Dự án thu gom chất thải rắn vùng nước chợ Hạ Long 1, đề án nghiên cứu khảo sát các nguồn chất thải rắn gây ô nhiễm Vịnh Hạ Long, các biện pháp quản lý, thu gom” xúc tiến xây dựng để án” sử dụng hệ thống thông tin địa lý ( GPS ), hỗ trợ kỹ thuật quản lý Vịnh Hạ Long. Các đề án và dự án trên nhằm cải thiện môi trường Vịnh Hạ Long như hiện nay thực sự cần thiết.
Ban quản lý Vịnh Hạ Long đã hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học tổ chức triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học nhằm nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện những giá trị cấu thành Di sản, tiến hành kiểm kê, nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học các đảo núi, đặc điểm giá trị tiềm năng, diện tích các đảo, mặt nước…lập hồ sơ khoa học về giá trị địa mạo địa chất trình UNESCO và Vịnh Hạ Long đã được Hội đồng di sản thế giới công nhận là Di sản thế giới lần thứ 2.
Bên cạnh những giá trị to lớn về địa mạo, địa chất đã được thế giới công nhận ở Vịnh Hạ Long, các giá trị về văn hoá, lịch sử hay giá trị đa dạng sinh học biển cũng đang được các cơ quan chức năng quan tâm như các tổ chức quốc tế xem xét và đánh giá cao. Đặc biệt Hạ Long là nơi tập trung các hệ sinh thái tùng áng, núi đá vôi. Ban quản lý Vịnh đã phối hợp với phân viện Hải Dương học Hải Phòng và cơ quan Bảo tồn động thực vật quốc tế tiến hành hai đợt nghiên cứu về giá trị đa dạng sinh học Vịnh Hạ Long. Theo kết quả nghiên cứu, Vịnh Hạ Long là nơi sinh sống của 1847 loài sinh vật bao gồm: 40 loài chim, 10 loài bò sát, 14 loài thú,347 loài thực vật trên cạn, 310 loài thân mềm trên cạn, 20 loài thực vật ngập mặn, 136 loài rong biển, 5 loài cỏ biển, 189 loài cá, 500 loài động vật đáy, 545 loài động vật, không xương sống dưới biển, 232 loài san hô, 4 loài lưỡng cư, 355 loài sinh vật phù du, 20 loài giun, 32 loài hải miên, 30 loài động vật không xương sống trong hang động khác và 6 loài khác. trong những loài trên có nhiều loài trong sách đỏ của Việt Nam như ốc đụn đực (Trochus pyramis), ốc đụn cái (Trochus niloticus), con sút (Anomalocardia-Squamosa). Những con số đa dạng trên là cơ sở để Ban lập hồ sơ khoa học về giá trị sinh học trình UNESCO. Đồng thời cũng thúc đẩy các cơ quan chức năng có trách nhiệm hơn nữa trong việc bảo tồn Di sản thiên nhiên thế giới. Ban quản lý Vịnh giúp UBND tỉnh tổ chức thành công Hội thảo quốc gia đánh giá về đa dạng sinh học khu Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.
Ban chủ động đề xuất và mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế thông qua uỷ ban UNESCO của Việt Nam và Bộ Văn hoá - Thông tin. Đến nay, Ban đã thiết lập quan hệ chặt chẽ có hiệu quả với các tổ chức quốc tế: Trung tâm Di sản thế giới, Văn phòng UNESCO tại Việt Nam, Văn phòng IUCN tại Hà Nội và Bangkok, Văn phòng UNDP tại Việt Nam, tổ chức JICA Nhật và nhiều tổ chức bảo tồn di sản thế giới của các nước trong khu vực.
Ban tăng cường và tranh thủ sự giúp đỡ của tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế ( IUCN ). Tổ chức này còn cam kết trợ giúp, liên kết với các tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ khác nhằm ủng hộ sự phát triển bền vững và các nỗ lực bảo tồn trong khu vực quan trọng của Hạ Long, hay cục khí quyển Đại dương Hoa Kì (NOA) trong việc điều tra khảo sát, nghiên cứu khoa học về các giá trị Vịnh Hạ Long.
Nhờ sự năng động của Ban và được sự ủng hộ của các tổ chức trong nước và quốc tế, nhiều chương trình, dự án bảo tồn Vịnh Hạ Long đã được thực hiện, vị thế của du lịch Hạ Long phần nào được nâng cao trên trường quốc tế .
2.1.5 Tuyên truyền, quảng cáo các giá trị di sản
Tuyên truyền, quảng bá luôn là một khâu quan trọng trong hoạt động phát triển du lịch. Nếu hoạt động này diễn ra một cách có trách nhiệm nó sẽ nâng cao được sự tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên nhiên, văn hoá xã hội và nhân văn ở nơi tham quan. Điều này sẽ góp phần làm giảm những tác động tiêu cực từ hoạt động du lịch đến môi trường .
Những năm trở lại đây, Ban quản lý Vịnh phối hợp với đài phát thanh và truyền hình Quảng Ninh, hội Văn học nghệ thuật tỉnh và Báo đài Trung ương mở các chuyên mục về Vịnh Hạ Long nhằm tuyên truyền quảng bá. Năm 2002, Ban đa phối hợp với thành phố tổ chức tuyên truyền trên đài phát thanh truyền hình vào tối thứ năm hàng tuần. Hơn nữa, Ban đã phối hợp với hãng phim Exilence (Pháp) xây dựng bộ phim tài liệu về Vịnh Hạ Long. Tính đến nay, Ban quản lý Vịnh đã xuất bản được hơn 12 đầu sách, 3 loại bản đồ và hàng loạt băng đĩa CD, VCD, CD Rom phim tài liệu về Vịnh Hạ Long. Tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp tổ chức nhiều sự kiện sinh hoạt chính trị – văn hoá quan trọng. Năm du lịch Hạ Long 2003 hưởng ứng SEAGAME 22, Lễ hội kỷ niệm 40 năm thành lập tỉnh, 10 năm Di sản Hạ Long…Những sự kiện này đã thu hút được sự quan tâm của nhiều du khách đối với Quảng Ninh và Hạ Long , đưa hình ảnh du lịch Việt Nam đến gần hơn với khách du lịch quốc tế .
Năm 2003, Website về Vịnh Hạ Long sau nhiều lần nâng cấp, sửa chữa đã chính thức ra mắt công chúng. Website sẽ cung cấp đầy đủ thông tin cho những ai muốn tìm hiểu về Vịnh Hạ Long với những thông tin chính xác, hình ảnh đẹp và đặc biệt là rất tiện ích khi nó được dịch ra hai thứ tiếng Anh và Pháp.
Để phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, Ban quản lý Vịnh đã thực hiện biên soạn và đưa tờ tin tức Vịnh Hạ Long (New letter), tờ gấp “Hãy bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long ” vào sử dụng. Ban còn cho xây dựng các biển quảng cáo tấm lớn tại đường cao tốc sân bay Nội Bài về Hà Nội hay cửa ngõ vào tỉnh Quảng Ninh dưới sự đồng ý của Nhà nước.
Với sự cố gắng hết mình trong việc sáng tạo các phương pháp tuyên truyền, quảng bá, những kết quả mà Ban mang lại thật không nhỏ. Điều đó được minh chứng trong việc số lượng khách du lịch đên Hạ Long ngày càng tăng, doanh thu trong ngành Du lịch năm sau cao hơn năm trước, nộp vào ngân sách nhà nước ngày càng nhiều.
2.1.6. Thu hút sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý bảo tồn di sản
Sự thành công lớn nhất đối với công tác bảo tồn Di sản, giữ gìn môi trường chính là ở hành động của con người trực tiếp sinh sống trên và ven bờ Vịnh, bởi không ai khác, chính họ là những chủ nhân đích thực của Di sản. Ban quản lý Vịnh đã tổ chức các lớp tập huấn, cuộc thi tìm hiểu, thi vẽ, thi văn nghệ về Vịnh Hạ Long, công tác bảo vệ môi trường cho cộng đồng dân cư đặc biệt là ngư dân các làng chài trên Vịnh. Bên cạnh đó, Ban còn thực hiện một số giải pháp để giải quyết kịp thời và hiệu quả các vấn đề môi trường như: định kỳ tổ chức các buổi ra quân của cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường Vịnh, hưởng ứng ngày môi trường thế giới 5-6-2004, thu gom rác thải từ nơi sinh sống, trồng rừng ngập mặn tại các bãi triều, tổ chức chương trình tuyên truyền cụ thể tới các hộ ngư dân làng chài tại các thôn chài trên Vịnh: Vung Viêng, Cửa Vạn, Ba Hang, Cặp La thông qua các buổi họp dân, những dịp đặc biệt…xây dựng, tu bổ, tôn tạo, những điểm tham quan trên Vịnh với bảng hướng dẫn nội quy, biển báo, panô, áp phích, khẩu hiệu tuyên truyền bảo vệ môi trường di sản Vịnh Hạ Long, xây dựng trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn. Đây là một trong những đề tài của Bảo tàng Sinh thái Hạ Long. Cuối năm 2004, Trung tâm đã đi vào hoạt động, góp phần giảm tải áp lực môi trường từ phía ngư dân làng chài Cửa Vạn, với gần 600 hộ dân.
Vừa qua, UBND tỉnh Quảng Ninh đã có quyết định ban hành tiêu chuẩn tàu du lịch hoạt động trên Vịnh Hạ Long , gắn sao cho các tàu nhằm nâng cao chất lượng tàu phục vụ khách tham quan. Sở giao thông vận tải Quảng Ninh đã gắn sao cho các tầu du lịch đủ tiêu chuẩn.
Việc đưa công tác giáo dục bảo vệ môi trường Di sản cho các đối tượng là học sinh trong trường học cũng là một giải pháp đúng đắn, hiệu quả, có tính định hướng, bền vững và lâu dài. Ngày 16-11-2000, UBND tỉnh Quảng Ninh ra chỉ thị số 28/2000/CT-UBND về việc đẩy mạnh giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Ngày 30-11-2001, Ban thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh ra nghị quyết số 09 về công tác quản lý ,bảo tồn phát huy giá trị Vịnh Hạ Long đến năm 2005. Thực hiện nhiệm vụ này, Ban quản lý Vịnh Hạ Long phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với Sở giáo dục đào tạo Quảng Ninh triển khai chương trình thí điểm ở sáu trường học trong TP.Hạ Long trong hai năm học 2000-2001 và 2001-2002 và mở rộng quy mô ra tất cả các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn TP Hạ Long năm 2002-2003. Năm 2003-2004 chương trình đã được nhân rộng quy mô thêm huyện, thị: thị xã Cẩm Phả, các huyện Cô Tô, Vân Đồn và Yên Hưng. Chương trình đã trang bị cho các em học sinh những hiểu biết về Vịnh Hạ Long , ý thức bảo vệ môi trường Di sản.
2.2. Công tác quản lý khai thác, phát huy giá trị di sản
“Vừa bảo tồn vừa khai thác” một điểm rất rõ ràng được đặt ra bởi Ban quản lý Vịnh Hạ Long. Vấn đề đặt ra tưởng như mâu thuẫn nhưng chúng lại thống nhất với nhau hỗ trợ nhau cùng tồn tại và phát triển. Hiểu được điều đó, Ban quản lý Vịnh đã có những dự án quản lý khai thác,phát huy giá trị Di sản một cách phù hợp nhất.
2.2.1 Công tác quản lý hang động.
Công tác quản lý hang động chỉ thực sự được thực hiện từ năm 1996 sau khi Ban quản lý Vịnh được thành lập. UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành quyết định giao quản lý các hang động cho Ban. Đội quản lý hang động chịu trách nhiệm chính : Đón tiếp khách du lịch tại điểm du lịch, bảo vệ hang động,quản lý trang thiết bị, bảo vệ môi trường tại điểm.
Vịnh Hạ Long có rất nhiều hang động đẹp nhưng do một vài lý do khác nhau mà Ban chỉ đưa vào khai thác phục vụ du lịch một số hang tiêu biêu như: động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, hang Bồ Nâu, động Mê Cung, đảo Ti Tốp… tại các hang động này cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị đã được đầu tư đạt tiêu chuẩn, thực hiện tốt công tác đón tiếp khách an toàn chu đáo, lịch sự.
- Tại động Thiên Cung: hệ thống chống sập và xây dựng đường dẫn trong động đã được đưa vào sử dụng nhằm đảm bảo an toàn cho khách. Bên cạnh đó, Ban còn tiến hành xây dựng đường vào động, cầu tầu bổ sung với mục đích thuận tiện cũng như an toàn cho khách tham quan. Về cơ sở vật chất ở đây cũng được đảm bảo: hệ thống cây cảnh, bàn ghế đá, biển nội quy, nhà vệ sinh di động, đèn chiếu sáng. Các yếu tố này nhằm tạo cảnh quan sạch, đẹp và lịch sự. Bên cạnh đó động còn được trang bị các thiết bị: máy phát điện, âm thanh loa máy, máy bơm, téc nước, súng hơi cay, gây điện.
- Tại hang Đầu Gỗ: Ban Quản lý Vịnh đã hoàn thành phần xây lắp, tôn tạo đường trong hang tạo sự thuận lợi cho khách tham quan hang động, điện chiếu sáng, điện tự động, hệ thống cấp nước, nhà vệ sinh di động, phần thiết bị điện được lắp đặt hoàn chỉnh.
- Tại hang Sửng Sốt: Ban quản lý Vịnh đã cho xây dựng nhà dừng chân bán vé, nhà đặt máy phát điện, đường lên xuống hang, nhà vệ sinh lưu động, đèn điện chiếu sáng trong hang.
- Tại đảo Ti Tốp: Đây là một trong những điểm du lịch chính có bãi tắm. Ban đã cho xây dựng tuyến kè, quầy Bar, nhà tắm, nhà vệ sinh, phòng tráng nước ngọt, hệ thống cấp thoát nước, lầu ngắm Vịnh, hệ thống thoát nước mưa.
Ngoài ra, tại mỗi điểm tham quan trên đều được những thùng đựng rác với hình dáng ngộ nghĩnh, vừa bảo vệ được môi trường, vừa làm đẹp cảnh quan. Hệ thống đèn chiếu sáng nhiều màu càng làm tăng thêm độ huyền ảo của các hang động.
2.2.2. Công tác quản lý phương tiện, bến bãi tại điểm du lịch.
Do đặc điểm Vịnh Hạ Long là du ngoạn tham quan ngắm cảnh trên Vịnh nên tầu thuyền du lịch là phương tiện vận chuyển hiện nay phục vụ khách du lịch ở Hạ Long. Hiện nay, có khoảng 300 thuyền du lịch hoạt động trên vịnh, trong đó có 163 tầu loại 1; 145 tầu loại 2 và một số tầu loại 3. Như vậy, so với năm 1998 số lượng tàu thuyền đã tăng lên gấp hơn 2 lần (1998 có 130 chiếc).
Ban Quản lý Vịnh đang cho triển khai dự án gắn sao cho các tàu đạt tiêu chuẩn. Điều này sẽ làm tăng tính cạnh tranh giữa các tầu thuyền và hàng loạt tầu thuyền với chất lượng cao sẽ ra đời.
2.2.3 Công tác quản lý, tổ chức bán vé thu phí tham quan.
Theo quyết định số 2796/QĐ-UBND ngày 12-12-1995, UBND tỉnh Quảng Ninh giao chức năng, nhiệmvụ, quyền hạn quản lý Vịnh Hạ Long cho Ban quản lý Vịnh. Theo đó, Ban có quyền thu và sử dụng nguồn thu phí tham quan Vịnh Hạ Long theo kế hoạch chi phí khi UBND tỉnh phê duyệt cụ thể.
Mức thu phí được UBND tỉnh cho phép với từng đối tượng khách nhau:
+ Người Việt Nam : 10.000 đ/ người lớn 5.000 đồng/ trẻ em
+ Người nước ngoài: 30.000 đ/người lớn 15.000 đồng / trẻ em
Theo đề nghị của UBND tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 3347/VPCP-KTT cho phép tỉnh Quảng Ninh giữ lại 100% khoản thu phí này để chi phí cho việc quản lý và duy trì chất lượng khu vực Vịnh Hạ Long, đầu tư tôn tạo Vịnh Hạ Long từ năm 1999 đến 2010.
Nguồn thu phí này được sử dụng vào các hoạt động: chi phí cho việc bảo vệ, kiểm soát, bảo vệ và làm vệ sinh môi trường trong phạm vi quyền quản lý, chi phí cho hoạt động của bộ máy Ban quản lý Vịnh Hạ Long: chi cho đầu tư xây dựng tu bổ hang động, thi công các công trình khai thác nhằm bảo vệ và tôn tạo cảnh quan Vịnh Hạ Long. Trên thực tế, nguồn thu này chỉ đủ trang trải cho các công việc trên.
Để tránh tình trạng trốn vé và quay vòng vé, tại cảng tàu du lịch Bãi Cháy, Hòn Gai cũng như các hang động, tàu biển nước ngoài, đã có điểm kiểm tra vé của hành khách.
2.2.4. Công tác quản lý hoạt động dịch vụ du lịch
Số lượng khách du lịch thăm quan Vịnh Hạ Long ngày càng tăng, các loại hình dịch vụ du lịch càng phong phú, công tác quản lý của Ban quản lý Vịnh càng phức tạp.
- Hiện nay UBND phê duyệt 3 điểm neo đậu ban đêm cho du khách. Tại điểm neo đậu này sẽ rất thuận lợi cho nghỉ ngơi, tham quan của du khách. Những tàu muốn neo đậu ban đêm phải đăng kí và phải đạt tiêu chuẩn về độ an toàn .
Tại các điểm neo đậu, cơ sở dịch vụ du lịch phát triển ngày một nhanh và rất đa dạng về loại hình: nhà hàng phục vụ các món ăn đặc sản rất phong phú, mang đậm phong cách Hạ Long. Nhà hàng với các dịch vụ vui chơi giải trí như karaoke, massage… Các nhà hàng này được xây dựng theo mô hình nhà nổi, hầu hết là nhà hàng tư nhân. Bên cạnh đó nhiều tàu thuyền của dân chài cũng tham gia vào việc bán hàng trên Vịnh với những mặt hàng nhu yếu phẩm phục vụ chính cuộc sống của họ cũng như nhu cầu của khách khi cần thiết. Tuy nhiên, sản phẩm chính đem bán của người dân chài là các loại hải sản tươi sống do chính họ vừa đánh bắt như: tôm, cua, cá, ghẹ…
Một loại hình dịch vụ phổ biến đối với những vùng sông nước là dịch vụ chở thuê bằng thuyền nhỏ vào thăm hang động khi những tàu du lịch không thể vào sâu bên trong vào những ngày thuỷ triều lên cao, loại hình này phổ biến khi khách tham quan Hang Luồn, Hồ Ba Hầm. Việc bảo vệ môi trường cảnh quan Vịnh Hạ Long là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Thời gian qua, trước sức ép lớn về môi trường từ các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, Tỉnh luôn nỗ lực thực hiện các giải pháp cơ bản nhằm cải thiện tình hình và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo vệ, quản lý môi trường Vịnh Hạ Long. Cụ thể như đưa toàn bộ hoạt động vận chuyển và chế biến than ra khỏi trung tâm thành phố Hạ Long; lập dự án nghiên cứu đánh giá tác động của sản xuất than và du lịch tới môi trường Di sản; xúc tiến thực hiện quy hoạch quản lý môi trường Vịnh Hạ Long đến năm 2010. Triển khai thực hiện dự án cấp thoát nước thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm Phả do chính phủ Đan Mạch tài trợ; xây dựng Trung tâm xử lý nước thải thành phố đặt tại khu du lịch Bãi Cháy; quy hoạch làng chải nổi trên Vịnh nhằm quản lý tốt môi trường, vận động nhân dân tham gia chương trình bảo vệ Di sản. Đặc biệt, Tỉnh đã kiến nghị với Chính phủ về việc di chuyển cảng nổi Trà Báu ra khỏi khu vực Di sản, phân công trách nhiệm quản lý cho các cơ quan, đơn vị, nhà máy xí nghiệp đóng trên địa bàn vịnh Hạ Long và vùng phụ cận.
Hiện nay, Ban quản lý Vịnh đang khẩn trương triển khai dự án thu gom chất thải rắn trên Vịnh, đặc biệt là tại các khu vực hang động, bãi tắm, các làng chài trong khu Di sản, tiếp tục tiến hành các chương trình giáo dục cộng đồng bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long. Đến năm 2010, các dịch vụ vệ sinh môi trường Vịnh Hạ Long phải được đưa vào hoạt động.
- Đối với rác thải: Thành lập đội quản lý vệ sinh môi trường Vịnh Hạ Long trực thuộc Ban quản lý Vịnh Hạ Long, có trách nhiệm thu gom rác thải trôi nổi trên mặt Vịnh (cách bờ từ 500m nước trở ra Vịnh) bằng mọi biện pháp thích hợp, vận chuyển vào bờ giao cho Công ty môi trường đô thị thành phố Hạ Long xử lý.
- Đối với nước thải: Các tầu tham gia giao thông trên Vịnh bắt buộc phải có thùng chứa rác và nước thải, có bơm phù hợp để bơm nước thải đổ vào các cống chung của thành phố để xử lý.
- Xây dựng hoàn thiện hệ thống trạm bơm nước thải từ các thùng chứa của các tầu tại những cảng tàu chính của TP Hạ Long.
- Xây dựng hệ thống thu gom và chứa chất thải tại các điểm du lịch trên Vịnh Hạ Long.
- Tại các đảo du lịch trên Vịnh, lắp đặt hệ thống nhà vệ sinh sinh thái, khắc phục được hiện tượng gây ảnh hưởng xấu tới môi trường chung và chất lượng nước của Hạ Long.
Môi trường Vịnh Hạ Long là một vấn đề nhạy cảm, có phần phức tạp. Mục đích cuối cùng của các giải pháp trên là bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long luôn xanh, sạch, đẹp, phục vụ phát triển bền vững Di sản Vịnh Hạ Long. Để đảm bảo chất lượng môi trường Vịnh Hạ Long, cần phải có sự tham gia của nhiều cơ quan có liên quan và cộng đồng trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp quy quy định cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí cho hoạt động bảo vệ môi trường Vịnh cần phải được huy động rộng rãi từ nhiều nguồn. Trong quá trình thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội từ Trung ương đến địa phương cần phải có sự tôn trọng những nguyên tắc bảo tồn Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, kêu gọi ý thức tự giác bảo vệ môi trường của ngư dân làng chài, khách du lịch và cộng đồng dân cư trên và ven bờ Vịnh.
Nhìn lại 10 năm qua, kể từ khi Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, tỉnh Quảng Ninh nói chung, Ban quản lý Vịnh nói riêng đã có những cố gắng vượt bậc trong công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của Di sản. Mười năm đối với một số cơ quan quản lý Di sản hai lần được thế giới tôn vinh chưa phải là dài. Nhưng những thành tựu đạt được qua hành trình ấy khiến chúng ta có thể tự hào và hy vọng tin tưởng rằng trong tương lai Vịnh Hạ Long sẽ ngày càng được quản lý, bảo vệ tốt hơn.
3. Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch Hạ Long.
3.1. Đa dạng hoá hơn nữa các loại hình hoạt động du lịch biển.
Ngoài những loại hình du lịch đã được khai thác để phục vụ phát triển du lịch Hạ Long như: du lịch sinh thái, du lịch tham quan Vịnh, du lịch tắm biển, du lịch thể thao nước, du lịch thăm quan các di tích lịch sử văn hoá… để tạo nhiều hơn nữa sức hút cho du lịch Hạ Long thì các doanh nghiệp du lịch cần mở rộng hơn nữa các loại hình du lịch biển như:
3.1.1. Du lịch lặn biển
Hạ Long có các rạn san hô ở một số nơi như: đảo Ngọc Vừng, đảo Quan Lạn, đảo Cô Tô với rất nhiều hệ sinh thái biển đặc thù, phong phú đây là tiền đề để phát triển loại hình du lịch lặn ở biển Hạ Long.
Trước khi đưa các tour du lịch lặn biển vào hoạt động thì các nhà tổ chức phải thực hiện các bước nghiên cứu, khảo sát những khu vực có rạn san hô, hệ sinh thái biển có cảnh quan đẹp để khai thác du lịch, lập dự án với điều quan trọng đặt lên hàng đầu là phải thật sự an toàn với du khách và phải đảm bảo các tour du lịch này không gây ảnh hưởng xấu gì tới hệ sinh thái dưới đáy biển. Khi triển khai dự án phải chú tâm đầu tư vào các trang thiết bị hiện đại, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho du khách.
3.1.2. Du lịch leo núi.
Các đảo đá vôi ở Hạ Long có độ cao từ 150 đến 200 m, độ hiểm trở trung bình nên có thể khai thác loại hình du lịch leo núi. Với một độ cao trung bình lại không quá khó khăn trong việc chinh phục, các yếu tố này sẽ kích thích sự tham gia đông đảo của khách du lịch. Từ trên cao du khách có thể ngắm toàn cảnh vịnh Hạ Long đẹp như một bức tranh khổng lồ sống động.
Đảm bảo tuyệt đối an toàn cho du khách là trách nhiệm của các nhà tổ chức hoạt động du lịch. Vì vậy, trước khi đưa loại hình du lịch này vào hoạt động thì các nhà tổ chức phải cho nghiên cứu, thực nghiệm nhiều lần, phải đầu tư các trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt, phải quan tâm đến việc quảng cáo thu hút sự quan tâm của nhiều du khách.
3.1.3. Du lịch chèo thuyền phao (KAYAKING)
Đây là kiểu du lịch lãng mạn, hoang dã và mạo hiểm, là loại hình du lịch mang tính chất khám phá rất được ưa chuộng trên thế giới. Với hình thức một chiếc tầu lớn đưa du khách cùng với những chiếc thuyền nhỏ bằng chất dẻo ra những vùng biển vắng còn ít người biết đến. Tầu neo lại và du khách cùng với những chiếc thuyền nhỏ được bơm hơi sẽ tự chèo đi thám hiểm vào những điểm mới lạ và có thể dựng lều trại ngủ qua đêm trong các hang động. Tàu lớn sẽ giúp ở mọi phương diện khi du khách cần.
Tham quan loại hình du lịch này du khách sẽ cảm thấy rất thoải mái và chủ động theo đúng ý nghĩa của chuyến đi du lịch là nghỉ ngơi, thư giãn. Chính vì vậy, loại hình du lịch chèo thuyền phao có thể sẽ nhận được sự quan tâm của rất nhiều du khách, sẽ làm tăng thêm sự hấp dẫn cho du lịch Hạ Long.
3.1.4. Du lịch cáp treo
Các nhà tổ chức có thể dựa vào độ cao của núi Bài Thơ để xây dựng hệ thống cáp treo từ Bãi Cháy sang đỉnh núi Bài Thơ. Du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng toàn cảnh Vịnh và thành phố Hạ Long từ trên cao. Loại hình du lịch này đang rất được ưa chuộng trên thế giới và với tiềm năng là một vùng biển Đông Bắc đẹp như vậy, việc đưa du lịch cáp treo vào hoạt động sẽ có rất có tương lai.
3.1.5. Du lịch trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn.
Dự án trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn đã được chính phủ nước Việt Nam phê duyệt và chính phủ Na Uy tài trợ, do Ban Quản Lý vịnh Hạ Long thực hiện từ tháng 7-2003 và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2005.
Trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn là nơi giữ gìn những giá trị văn hoá làng chài và nơi diễn ra các hoạt động giao lưu của ngư dân Cửa Vạn với cộng đồng và với du khách. Với 6 mục tiêu cụ thể dưới đây, chúng ta sẽ thấy một hướng nghiên cứu và áp dụng những thành tựu văn hoá rất mới. Các hình thức diễn xướng dân gian, các nghề truyền thống và các đặc trưng làng chài sẽ được thể hiện, trình diễn trực tiếp tại chỗ hết sức sinh động. Không những đó sẽ là nơi sinh hoạt của ngư dân vạn chài, mà còn thu hút sự quan tâm của cộng đồng, khách tham quan, các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh khắp nơi trên thế giới. Sáu mục tiêu chính mà trung tâm văn hoá hướng tới là:
Bảo tồn, giới thiệu các giá trị văn hoá của ngư dân vạn chài. không chỉ văn hoá truyền thống mà cả văn hoá đương đại, không chỉ văn hoá điển hình mà cả văn hoá đời thường
Tuyên truyền, quảng bá giáo dục cộng đồng ngư dân và du khách giữ gìn cảnh quan môi trường, bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá của ngư dân làng chài, của di sản thế giới Vịnh Hạ Long
Là nơi giao lưu văn hoá giữa ngư dân làng chài Cửa Vạn với các làng chài khác trong khu vực, với cộng đồng dân cư và với du khách.
Là nơi thu hút học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu đến tham quan, học tập, nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm.
Trưng bầy, trình diễn các loại hình văn hoá bản địa phục vụ khách tham quan.
Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống kinh tế, xã hội cho người dân làng chài Cửa Vạn.
Để thực hiện những mục tiêu trên, ngoài những hạng mục công trình thiết yếu của một số nhà văn hoá cộng đồng, Trung tâm Văn hoá Cửa Vạn có các phòng trưng bầy cố định và triển lãm chuyên đề, ở đây luôn cập nhật những thành tựu, thông tin mới nhất về các hình thức kiếm sống, các ngư cụ đánh bắt, các hình thức tín ngưỡng, phong tục tập quán, kiêng kị…và cuộc sống thường nhật của ngư dân vạn chài. Ngoài ra, trung tâm sẽ được thiết kế xây dựng các khu trình diễn, trình chiếu những giá trị văn hoá dân gian. Như vậy, phần trình diễn sẽ là mảng quan trọng, hấp dẫn đối với tất cả mọi người khi đến với Trung tâm. Các hình thức văn nghệ dân gian như hát đám cưới, hát đúm, hò biển truyền thống sẽ được các thế hệ nam nữ làng chài trực tiếp thể hiện. Mọi người sẽ được sống trong môi trường văn hoá làng chài “xịn” chứ không sợ là “nhái” do đối tượng khác trình chiếu, Trung tâm sẽ giới thiệu toàn bộ các hình thức diễn xướng dân gian làng chài qua hệ thống màn hình. Du khách sẽ có cái nhìn toàn cảnh về đời sống văn nghệ của ngư dân qua những bộ phim này.
Với Trung tâm Văn hoá nổi Cửa Vạn, chúng ta hy vọng rằng những giá trị văn hoá truyền thống làng chài sẽ được bảo tồn và phát huy, đời sống văn hoá và đời sống kinh tế của ngư dân làng chài sẽ được nâng cao, Vịnh Hạ Long một lần nữa sẽ lại được toàn thế giới ngưỡng mộ bởi một cộng đồng dân cư bản địa sống ngay trong lòng một Di sản thế giới với biết bao điều bí ẩn, kỳ thú, hấp dẫn cần khám phá.
3.2. Đa dạng hoá các chương trình du lịch biển Hạ Long
Để du khách đã đến Hạ Long sẽ quay trở lại, để giữ chân du khách lưu lại lâu hơn ở Hạ Long thì cần phải tạo thêm những tuyến điểm du lịch mới, kết hợp với các loại hình du lịch phong phú đa dạng, làm cho du khách luôn đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, không bao giờ có cảm giác nhàm chán (vì các tour du lịch quá giống nhau, lặp đi lặp lại), phải làm cho du khách thấy Hạ Long là một điểm đến kì diệu không thể chỉ một lần nữa mà có thể khám phá được hết cái đẹp của nó.
Thiết lập một số tuyến thăm quan các hòn đảo có phong cảnh ngoạn mục:
Bãi Cháy – Hòn Đũa - Đảo Rều
Bãi Cháy - đảo Cửa Ông – Ngọc Vừng – Tiền Tiêu – Quan Lạn - Đảo Cô Tô
Bãi Cháy - Đảo Rều – Cái Rồng – Cát Bà.
Bãi Cháy - Đảo Rều – Trà Cổ.
Các tuyến điểm du lịch này sẽ đưa du khách tham quan được nhiều đảo nổi bật ở Vịnh Hạ Long, tham gia vào nhiều loại hình du lịch như: ngủ qua đêm trên tầu, tắm biển, thể thao nước, câu cá, leo núi, lặn biển… Trên tàu, khách được phục vụ những món ăn đặc sản biển, được phục vụ những buổi biểu diễn ca nhạc dân tộc, đây luôn là điều thú vị đối với du khách, đặc biệt là du khách quốc tế.
Ngoài giá trị kinh tế đem lại, việc mở rộng các chương trình, tuyến điểm du lịch sẽ thúc đẩy việc tìm kiếm và khôi phục lại những lễ hội, những nét văn hoá truyền thống tưởng chừng như đã mất đi. Thúc đẩy sự năng động, sáng tạo và tính trách nhiệm của các CBCNV hoạt động trong ngành Du lịch tìm ra các sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn mới.
3.3. Thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư vào các đảo
Việc mở rộng hướng phát triển là việc làm rất cần thiết cho việc phát triển du lịch bền vững ở Hạ Long. Thay vì chỉ đầu tư phát triển du lịch vào các hang trọng điểm như: động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt… thì việc đầu tư phát triển du lịch biển đảo sẽ tạo ra một sức hấp dẫn mới, làm tăng khả năng cạnh tranh của du lịch Hạ Long trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trong mục tiêu phát triển du lịch biển đảo Quảng Ninh giai đoạn 1998-2010 đã khẳng định: đầu tư phát triển đảo Quan Lạn nhằm mục tiêu chủ yếu là khai thác giá trị các bãi biển Minh Châu, Quan Lạn…hình thành một trung tâm trong tổng thể các điểm du lịch phụ cận như : Ngọc Vừng, Ba Đồn…
Một ví dụ điển hình cho việc mở rộng hướng đầu tư phát triển vào du lịch biển đảo là việc xây dựng bán đảo Tuần Châu thành khu du lịch Quốc tế, quy mô lớn với hơn 50 hạng mục phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách. Tuần Châu đang là điểm sáng của du lịch Hạ Long.
Tiềm năng du lịch các đảo thực sự là kho báu dự trữ cho sự phát triển du lịch biển Hạ Long. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài, khuyến khích nguồn nội lực đầu tư vào các dự án phát triển du lịch biển trên đảo. Đỏi hỏi sự nỗ lực hết mình của Ban quản lý Vịnh Hạ Long phối hợp với các ngành có liên quan.
3.4. Tăng cường quản lý nhà nước(QLNN) về công tác xúc tiến du lịch (XTDL)
Các cơ quan QLNN về du lịch cần hoàn thiện môi trường pháp lý đối với công tác XTDL để các cơ sở trong ngành, các đối tác nước ngoài có thể hoạt động một cách thuận lợi nhất. Đồng thời, phải tuyên truyền, quán triệt, thực hiện tốt những văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành. Bộ máy tổ chức của các cơ quan QLNN về du lịch cần kiện toàn cả ở cấp trung ương và địa phương nhằm thống nhất hoạt động XTDL theo kế hoạch và định hướng. Những cán bộ làm việc trong lĩnh vực này phải được đào tạo chuyên môn sâu ở trong và ngoài nước.
Chú trọng đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường du lịch, xác định các thị trường trọng điểm, thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng, trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch XTDL cụ thể. Hiện tại, các thị trường mục tiêu của du lịch Việt Nam là thị trường Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Đông Nam á và các nước ASEAN. Trong tương lai, công tác XTDL cần vươn tới thị trường tiềm năng như ấn Độ, Nam Phi, các nước Đông Âu.
Tăng cường các phương tiện, công nghệ, cách thức (các ấn phẩm như tập gấp, các báo trong và ngoài nước, đài truyền hình trung ương, các phòng thông tin ở sân bay quốc tế, thông qua mạng Internet) để tuyên truyền quảng bá trong và ngoài nước, nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, nâng cao nhu cầu du lịch trong nước.
Ngành Du lịch cần tiếp tục phối hợp với Tổng cục Hàng không, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hoá - Thông tin…để tăng cường tuyên truyền du lịch Việt Nam ra nước ngoài bằng mở các văn phòng XTDL tại các thị trường trọng điểm (Nhật, Hàn quốc, Mỹ, Anh, Pháp và các nước Đông nam á) chú trọng tập trung quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam trên một số kênh truyền hình quốc tế phổ biến như CNN, TV5, NHK… Tổ chức các Farm tour, Press tour cho đại diện các hãng lữ hành lớn ở các thị trường trọng điểm.
Nghiên cứu và tiếp tục đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, miễn thị thực cho công dân một số nước có nhiều khách du lịch tới Việt Nam. Khuyến khích, tạo điều kiện để các dự án nước ngoài đầu tư vào du lịch được thực hiện tốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là dự án cho các khu du lịch tổng hợp, khu du lịch chuyên đề tại các địa bàn trọng điểm, đồng thời, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nhanh chóng thành lập Quỹ hỗ trợ và phát triển du lịch để tạo ra cơ sở huy động nguồn cho công tác XTDL địa phương và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Nhanh chóng kí thoả thuận hợp tác với bộ Ngoại giao để phối hợp thực hiện các hoạt động XTDl ở nước ngoài, tìm kiếm các cơ hội đầu tư vào ngành Du lịch cũng như tranh thủ sự ủng hộ của Quỹ Hỗ trợ hoạt động phục vụ kinh tế của Bộ ngoại giao và các ngành có liên quan.
3.5. Phân vùng bảo vệ .
Vùng bảo tuyệt đối với di sản thế giới
Trong vùng bảo tồn tuyệt đối, đối tượng bảo tồn là những núi đá, hang động, bãi tắm, san hô, hệ động thực vật, môi trường nước và cảnh quan tự nhiên. Duy trì bảo vệ vùng ngập mặn, rừng mưa nhiệt đới, rạn san hô, thảm cỏ biển phục hồi những vùng san hô bị suy thoái. phát triển các khu bảo vệ tự nhiên, các loài sinh vật cảnh, bảo tàng tự nhiên và nhân tạo về đời sống của sinh vật biển.
Hạn chế nuôi trồng hải sản trong các cửa hang hay trên mặt Vịnh. Hạn chế xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình có quy mô lớn, khai thác tài nguyên với quy mô lớn ảnh hưởng đến cảnh quan tự nhiên. Giảm thiểu đến mức tối đa các loại ô nhiễm do chất thải, dầu và tiếng ồn. Phòng ngừa cháy rừng, tảo nở hoa, tràn dầu, tai nạn thuyền hay khai thác quá mức. Quản lý nghiêm ngặt các hoạt động du lịch như: tiêu chuẩn tầu thuyền để đảm bảo môi trường, điểm neo đậu, các hoạt động dịch vụ du lịch trên Vịnh. Bảo tồn dáng vẻ tự nhiên của quần thể đảo, bề mặt đảo, chất lượng nước, ấn tượng cảnh quan tự nhiên. Khuyến khích các hoạt động tham quan, thắng cảnh, nghiên cứu khoa học. Khai thác tài nguyên tự nhiên, song không phương hại đến các nguyên tắc về bảo tồn .
Vùng bảo tồn sinh thái .
Bao gồm các khu vực bãi triều, khu vực rừng ngập mặn, khu vực san hô, khu vực bảo tồn thiên nhiên, khu vực bảo tồn tài nguyên nước.
Các khu vực bảo tồn sinh thái cần phải có những giải pháp khác nhau, đáp ứng hiệu quả bảo tồn cho từng khu vực: bãi triều, ngập mặn…Mọi hoạt động của con người trong khu vực này cần tránh tác động xấu đến môi trường, đặc biệt không làm biến dạng hệ sinh thái tự nhiên.
+ Khu vực quản lý chủ động – khu vực đệm thuộc Di sản thế giới
Phát triển thêm các tuyến du lịch hang động, tổ chức nhiều loại hình du lịch khác nhau. Bảo tồn vùng san hô, xác định các vùng nuôi cấy ngọc trai, vùng đánh cá. Kiểm soát chặt chẽ quy định lấn biển để xây dựng khu đô thị, cảng và dịch vụ du lịch. Cần thực hiện báo các đánh giá tác động môi trường trong quá trình lấn biển. Quản lý kiểm soát chặt chẽ các hoạt động dịch vụ cảng biển, các quá trình vận chuyển than và các loại hàng hoá khác.
Trong khi vực đệm, hầu hết các hoạt động của con người đều bị cấm nếu không có giấy phép chính thức. Do đó các nhà đầu tư vào khu vực này bắt buộc phải trình cho các cơ quan chức năng báo cáo đánh giá tác động của môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường
+ Khu vực phát triển
- Vùng phát triển bao bồm khu vực phát triển hiện nay và dự kiến là trung tâm các hoạt động kinh tế của khu vực Vịnh Hạ Long bao gồm các khu vực phát triển công nghiệp, khu vực phát triển cảng biển, khu vực phát triển du lịch , khu vực phát triển nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản, khu vực phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng.
Kết luận
Phát triển bền vững là hướng đi đúng đắn đang được lựa chọn bởi tất cả các ngành nghề. Trong những năm qua, phát triển du lịch theo hướng bền vững được các nhà hoạch định đặc biệt quan tâm với một trong những nội dung quan trọng là thúc đẩy da dạng sinh học bảo tồn và tôn tao các cảnh quan tự nhiên.
Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên thế giới - điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế, đang là đối tượng khai thác của các ngành kinh tế như: ngành Du lịch khai thác than, nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản, hoạt động giao thông cảng biển… sức ép mà nó đang phải chịu là vô cùng lớn, chính điều đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình du lịch phát triển du lịch bền vững.
Vì vậy, nghiên cứu những giải pháp bảo tồn giá trị Vịnh Hạ Long phục vụ phát triển du lịch bền vững là nhiệm vụ cấp thiết. Đồng thời, cần góp phần giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân trong công tác bảo vệ môi trường di sản. Nghiên cứu công tác bảo tồn, khóa luận đã tìm hiểu và giải quyết các vấn đề sau:
Tổng quan các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và trên thế giới về du lịch bền vững, nguyên tắc của du lịch bền vững đây được coi là cơ sở lý luận trong việc đưa ra những giải pháp tổng quát cho công tác quản lý và bảo tồn Vịnh Hạ Long.
Tìm hiểu hiện trạng hoạt động du lịch Hạ Long, những thành tựu đã đạt được và những mặt hạn chế cần khắc phục. Tác động của du lịch đến những ngành kinh tế khác đến môi trường Vịnh Hạ Long, đặc biệt môi trường nước- một yếu tố cấu thành nên cảnh quan của Vịnh.
Trước tình hình đó, Ban quản lý đã được thành lập để giúp UBND tỉnh trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của Vịnh. Các hoạt động của Ban trong thời gian qua đã góp phần tích cực làm giảm các hiện tượng vi phạm ảnh hưởng đến cảnh quan của di sản. tuy nhiên, do những hạn chế về cơ chế quản lý, trình độ quản lý địa bàn lại quá rộng nên công tác còn nhiêu bất cập. Trong tương lai cùng với sự đổi mới cải cách về cơ chế quản lý nhà nước và đầu tư, với sự nỗ lực của ban quản lý và sự đóng góp của cộng đồng địa phương, công tác này sẽ được giải quyết một cách triệt để hơn.
Các giải pháp quản lý bảo tồn di sản cần mang tầm vĩ mô. Sự phát triển du lịch phải đảm bảo hoàn chỉnh trong tổng thể phát triển chung của các ngành kinh tế
Tài liệu tham khảo
1/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Báo cáo kết quả công tác quản lý, bảo tồn phát huy giá trị Vịnh Hạ Long năm 2003 - phương hướng nhiệm vụ năm 2004.
2/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Báo cáo kết quả công tác quản lý, bảo tồn phát huy giá trị Vịnh Hạ Long năm 2004 - phương hướng nhiệm vụ năm2005.
3/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Chuyên đề quản lý môi trường Vịnh Hạ Long, Hạ Long – 2003.
4/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long và Trung tâm dự báo khí tượng thuỷ văn Quảng Ninh, Đặc điểm khí tượng hải văn Vịnh Hạ Long, Hạ Long 10-2003.
5/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Vịnh Hạ Long Di sản thiên nhiên thế giới - Hạ Long 1-2003.
6/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Một số văn bản pháp quy liên quan đến công tác quản lý, bảo tồn khu Di sản Vịnh Hạ Long, Hạ Long 1-2003.
7/ Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Hạ Long những lời đánh giá và ca ngợi, Hạ Long 4-2000.
8/ Bộ KH-CN-MT và Viện nghiên cứu phát triển Du lịch,Tổng quan kinh nghiệm các nước về phát triển Du lịch bền vững, Hà Nội 12-2000.
9/ Bộ xây dựng, Viện quy hoạch đô thị nông thôn, Báo cáo tóm tắt quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long đến 2020.
10/ Cơ quan JICA Nhật Bản, Đánh giá môi trường Vịnh Hạ Long , 2000.
11/ Nguyễn Đình Hoè,Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, NXB ĐHQG – HàNội ,Hà Nội 2001.
12/ Trần Đức Thanh, Nhập môn Du lịch, NXB ĐHQG-Hà Nội 2001.
13/ Tỉnh uỷ Quảng Ninh, Nghị quyết của Ban Thường Vụ Tỉnh Uỷ về công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Vịnh Hạ Long đến 2005, số 09 NQ/TU, Hạ Long 30-11-2001.
14/ UBND tỉnh Quảng Ninh, Sở Du lịch Quảng Ninh, Quy hoạch phát triển Du lịch tỉnh Quảng Ninh thời kì 2001-2010.
15/ UBND tỉnh Quảng Ninh ,Bộ Văn hoá Thông tin, UBQG UNESCO của Việt Nam, Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm Di sản thế giới, Hạ Long 4-2000.
16/ Phạm Hồng Hải, Cẩm nang du lịch Vịnh Hạ Long, NXB Thế giới và Ban Quản lý vịnh Hạ Long - 2001
17/ Non nước Hạ Long – Thi Sảnh, Hội khoa học lịch sử Quảng Ninh 10-2002.
18/ Tạp chí Du lịch Việt Nam
Số ra tháng 8/2004; tháng10/2004; tháng11/2004; tháng 12/2004;
tháng 1/2005; tháng 2/2005.
19/ Tạp chí Chân trời UNESCO
Số ra tháng 12/2004 ; tháng 1/2005; tháng 2/2005
20/ Tạp chí Quản lý Nhà Nước
21/ Website :http:// WWW.Viet nam tourism.com
Mục lục
Trang
Nhận xét và đánh giá của giáo viên phản biện
về chất lượng của khóa luận
Tôi đánh giá khóa luận này đạt điểm: …../10
Hà Nội, ngày….. tháng …. năm 2005
Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học dân lập đông đô
Khoa du lịch
----o0o----
Khóa luận tốt nghiệp
Nghiên cứu những giải pháp phát triển du lịch bền vững ở vịnh hạ long
Sinh viên : Trần Phượng Loan
Mã sinh viên : 721425
Giáo viên hướng dẫn : Lê Hồng Phấn
ý kiến của giáo viên hướng dẫn
ý kiến của người nhận xét
ý kiến của chủ tịch hội đồng
Hà Nội - 2005
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34170.doc