Các quy định quốc tế về nội dung Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia rất phức tạp và còn nhiều biến động, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tham gia nhiều cam kết quốc tế có các điều khoản về MFN và NT thì việc thi hành đầy đủ các cam kết quốc tế này là rất quan trọng. Để đảm bảo tốt nhất việc thực thi các cam kết quốc tế trên, điều quan trọng là phải hướng hệ thống chính sách thương mại nước nhà tới những chuẩn quốc tế, phải làm sao để các chính sách thương mại của Việt Nam phù hợp với những nguyên tắc kinh tế quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi mà điển hình là hai nguyên tắc MFN, NT.
Việc thực hiện các bước đi đồng bộ trong quá trình điều chỉnh chính sách trong nước cho phù hợp với tinh thần và yêu cầu của hai nguyên tắc MFN và NT nằm trong chủ trương, đường lối hội nhập, mở cửa nền kinh tế phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt Nam. Việt Nam đã thể hiện quyết tâm của mình trong việc mong muốn sớm tham gia và thực hiện những chế định chung của thương mại quốc tế bằng việc thực hiện từng bước các cam kết, thay đổi chính sách theo hướng tích cực trong các lĩnh vực chủ chốt, đặc biệt là lĩnh vực thương mại hàng hoá. Mặc dù còn nhiều điểm khác biệt, chưa phù hợp với các nguyên tắc này, nhưng với nỗ lực không ngừng trong thời gian qua, hy vọng rằng Việt Nam sẽ tìm được phương cách và tạo cho mình khả năng vận dụng một cách hiệu quả và tích cực các nguyên tắc MFN và NT trong một tương lai không xa.
98 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu về chế độ MFN và NT nhằm hoàn thiện và điều chỉnh chính sách thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển kinh tế cụ thể của các ngành, lĩnh vực liên quan trong nước, cũng như điều kiện cạnh tranh quốc tế vì nguyên tắc MFN và NT gắn liền với việc chấp nhận dành cho các đối tác nước ngoài quyền được cạnh tranh bình đẳng với nhau và với các doanh nghiệp trong nước chính tại thị trường nội địa. Có như vậy, việc cam kết dành MFN và NT mới không gây ra những hậu quả tiêu cực đối với các ngành kinh tế, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế có kết quả, điều chỉnh và hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lý kinh tế, thương mại của Nhà nước, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để phát huy cao nhất tác dụng của việc dành MFN và NT thì yếu tố trong nước cần phải gắn với yếu tố nước ngoài. Các nguyên tắc MFN và NT phải đáp ứng yêu cầu cơ bản về bình đẳng, tự do cạnh tranh giữa các bên tham gia, cũng có nghĩa là khi Việt Nam đã dành các đối xử này cho các đối tác nước ngoài thì ta cũng có quyền yêu cầu được đối xử ưu đãi tương tự. Chỉ có như vậy, các doanh nghiệp của ta mới được phép cạnh tranh bình đẳng trên các thị trường quốc tế, và việc dành MFN và NT của Việt Nam mới đem lại hiệu quả cao.
Mặt khác, việc dành MFN và NT cũng phải phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế. Như trên đã trình bày, việc các nước dành cho nhau MFN và NT cũng được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng giữa nghĩa vụ và quyền lợi của các bên.
Kết hợp các yêu cầu trên, Pháp lệnh số 41 về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia đã khái quát quan điểm của Nhà nước Việt Nam là việc dành MFN và NT cho các đối tác nước ngoài cần được thực hiện theo nguyên tắc có đi, có lại, bình đẳng, vì lợi ích của các bên, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. (Điều 4)
3. Mục đích và nguyên tắc trong việc xây dựng hệ thống chính sách không phân biệt đối xử
3.1 Mục đích
Nội dung cơ bản của nguyên tắc MFN và NT là chống lại sự phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. Do vậy, việc xây dựng chính sách thương mại phù hợp với nguyên tắc MFN và NT thực chất là việc từng bước giảm thiểu phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ trong nước và ngoài nước thể hiện trong hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành, phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế.
Thông thường, sự phân biệt đối xử trong chính sách thương mại của một nước đều nhằm bảo hộ một đối tượng nhất định trong nền kinh tế. Thực hiện loại bỏ sự phân biệt đối xử là theo đuổi mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế thương mại. Thực vậy, một hệ thống chính sách mang tính phân biệt đối xử trong thương mại có tác động hai mặt:
Việc dành cơ hội thị trường ưu tiên cho một số ít doanh nghiệp tạo nên một cơ chế cạnh tranh không hoàn thiện. Cơ chế như vậy có thể đem lại lợi thế nhất thời nhưng về lâu dài tình trạng đó tất yếu dẫn đến xói mòn động cơ cạnh tranh của những đối tác được hưởng ưu đãi hoặc tạo ra một thái độ tiêu cực của đối tác với cạnh tranh.
Khi nhà nước thiếu nguồn lực, mong muốn tối ưu hoá việc khai thác và sử dụng nguồn lực, điều tiết và khống chế thị trường, phân bổ các cơ hội thị trường đó cho các đối tác do Nhà nước chọn, thay vì cơ chế thị trường điều tiết các hoạt động thương mại để đạt kết quả tối ưu. Cách thức đó cho phép việc sử dụng hiệu quả trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Về lâu dài, cơ chế phân bổ đó hạn chế sự lưu thông và phân bổ tối ưu các nguồn lực và kết quả là nguồn lực khan hiếm lại càng trở nên khan hiếm, hiệu quả thương mại giảm và cơ hội thị trường ưu tiên cũng bị thu hẹp.
Có thể nói, chính sách không phân biệt đối xử là nhằm phát huy sự cạnh tranh trong nước và quốc tế. Thực hiện một chế độ thương mại như vậy trước hết phải đứng trên nền tảng của năng lực cạnh tranh toàn diện của nền kinh tế và khả năng sử dụng nhuần nhuyễn công cụ này. Suy cho cùng, mọi công cụ của chính sách thương mại đều phục vụ cho mục tiêu quốc gia mà thương mại quốc tế là sự thể hiện chính sách thương mại quốc gia và là nơi thử nghiệm năng lực vận dụng và tổ chức thực hiện chính sách đó.
Tóm lại, mục tiêu của việc xây dựng chế độ không phân biệt đối xử gắn liền với mục tiêu của tự do hoá thương mại, cụ thể là tận dụng nguồn lực bên ngoài, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và mức sống của nhân dân.
3.2 Nguyên tắc
Sự vận động của chính sách thương mại từ phân biệt đối xử đến không phân biệt đối xử là khách quan. Việc xây dựng hệ thống chính sách không phân biệt đối xử phải đáp ứng yêu cầu khuyến khích hình thành và phát triển cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường. Trong báo cáo tại phiên họp giới thiệu nội dung Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế ngày 27/12/2001 do Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Thương mại tổ chức, Bộ Thương mại, cơ quan chủ chốt phụ trách việc soạn thảo Pháp lệnh này đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản như sau:
a. Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế phát triển
Nhà nước ta chủ trương khuyến khích sự phát triển của mọi thành phần kinh tế, chủ trương đó phải thể hiện ở các định chế cụ thể. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, những chế độ phân biệt đối xử không chỉ thể hiện sự phân biệt đối xử với hàng hoá, dịch vụ, nhà sản xuất nước ngoài mà ngay cả giữa các thành phần kinh tế. Điều đó dẫn đến sự kém hiệu quả trong khi thực hiện chính sách thương mại cụ thể nhằm hỗ trợ một nền công nghiệp nói chung vì bản thân sự phân biệt giữa các thành phần trong một nền công nghiệp cũng đã làm giảm đi động cơ cạnh tranh của nội bộ ngành. Xét cho cùng, mục tiêu của chính sách thương mại phải là nâng cao sự năng động và sức cạnh tranh của một ngành công nghiệp. Chế độ không phân biệt đối xử phải là định chế vừa nền tảng, vừa bao trùm trong cách thức tổ chức, quản lý kinh tế và kinh doanh.
b. Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh
Chính sách không phân biệt đối xử phải được áp dụng để khuyến khích tập trung vào các nhân tố tích cực, tạo sức ép buộc các nhân tố yếu kém phải đối mặt với nhu cầu phát triển để tồn tại. Sự khuyến khích này có hệ quả tất yếu là loại bỏ các nhân tố yếu kém trong nền kinh tế để phát triển các nhân tố mới có năng lực thích ứng hơn và có hiệu quả cao hơn; cũng theo cách tiếp cận đó, sự lựa chọn này cho phép nhìn nhận thị trường thế giới như là một bộ phận ngày càng có vị trí cao hơn với nền thương mại Việt Nam, thị trường trong nước tăng trưởng nhanh hơn cả về chất lượng và khối lượng trong đó nhân tố nước ngoài là tác nhân ngày càng năng động.
c. Thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước
Thực hiện chế độ không phân biệt đối xử còn đứng trước yêu cầu giải quyết những bất cập trong thực tiễn chính sách đối xử khác biệt giữa các nhóm doanh nghiệp. Trong những năm qua, việc một nhóm nhỏ doanh nghiệp được ưu đãi, hưởng chế độ đối xử khác biệt đã và có thể bóp méo cơ chế thương mại. Những khác biệt đó làm suy yếu phần nào khả năng thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Vì vậy, thực hiện không phân biệt đối xử phải bảo đảm tính hệ thống và nhất quán của chính sách, tạo nên tính khả thi và sức mạnh hấp dẫn các đối tác trong và ngoài nước.
d. Vận dụng linh hoạt để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước
Vận dụng chế độ không phân biệt đối xử phải phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, góp phần triển khai một cách có hệ thống, có quy tắc và nhất quán các chính sách của Đảng và Nhà nước. Vận dụng nguyên tắc này phải thể hiện được tính gắn bó giữa chiến lược chung và chiến lược ngành sẽ được xây dựng, tạo cơ sở để hoạch định một chiến lược tổng thể hay chiến lược ngành mang tính tích cực và thực tiễn. Trong thực tiễn thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc gia, mọi nước đều lấy nhân tố phục vụ sự phát triển của sản xuất trong nước là đặc điểm xuyên suốt của chính sách quốc gia. Các nước tất yếu phải qua các giai đoạn phát triển để chuyển từ chính sách bảo hộ thuần tuý sang chính sách phát triển trong đó nhân tố bảo hộ nằm ngay trong chính sách khuyến khích nâng cao năng lực cạnh tranh, lấy xây dựng năng lực cạnh tranh làm hạt nhân của chính sách bảo hộ. Trong thời gian đầu vẫn cần có sự linh hoạt nhất định để bảo hộ hợp lý, có điều kiện và có thời hạn.
Trong điều kiện Việt Nam chưa tham gia đầy đủ các điều ước quốc tế liên quan, có thể duy trì một diện ngoại lệ không chỉ bao gồm những ngoại lệ chung của hệ thống mà cả một số ngoại lệ tạm thời mang tính linh hoạt trong vận dụng. Sự linh hoạt thể hiện ở mục tiêu áp dụng những ngoại lệ, thời hạn tạm thời trên cơ sở kinh tế thương mại phục vụ nhu cầu dành cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp trong nước để có thời gian thích ứng với các cam kết trong tương lai.
Tuy nhiên, trong khi thực hiện mục tiêu dành sự bảo hộ hợp lý cho một số ngành sản xuất trong nước, không phân biệt đối xử phải đáp ứng được yêu cầu dành những ưu đãi trên cơ sở công khai, minh bạch, ổn định.
Là một nước tham gia hệ thống thương mại quốc tế chậm hơn hầu hết các nước khác, Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời trên ba phương diện: một là chấp nhận những định chế được thừa nhận chung tạo nên khuôn khổ cho hoạt động thương mại quốc tế; hai là đàm phán và vận dụng các định chế còn mang tính điều kiện, riêng biệt hay linh hoạt cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước; và ba là từ yêu cầu thực tế của Việt Nam, tham gia đàm phán và đóng góp phần mình vào sự điều chỉnh, bổ sung các định chế chung hay riêng biệt trong các điều ước quốc tế điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế. Chính vì lẽ đó thực hiện không phân biệt đối xử là một nhân tố trung tâm trong tiến trình hội nhập với nội dung chủ yếu là cải cách không ngừng cả về mặt kinh tế, hành chính và trên các lĩnh vực liên quan đến kinh tế. Các nghĩa vụ cơ bản đòi hỏi cải cách trên các mặt chính sách kinh tế vĩ mô, trình tự thủ tục hành chính, năng lực thể chế trong hoạch định và thi hành chính sách mà nội dung bao trùm là cải cách chính sách thương mại.
II. Các khuyến nghị nhằm hoàn thiện và điều chỉnh chính sách thương mại Việt Nam
1. Xác định hình thức Việt Nam dành MFN và NT cho các đối tác nước ngoài
Như trên đã trình bày, nguyên tắc MFN và NT là những nội dung cốt lõi của các thoả thuận thương mại khu vực và quốc tế. Việc Việt Nam dành MFN và NT cho các đối tác nước ngoài trước hết có thể được thể hiện trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc là một bên tham gia, trong đó quy định dành cho nhau MFN và NT. Các điều ước thương mại quốc tế này có thể là các thoả thuận song phương giữa Việt Nam và một đối tác cụ thể (như các Hiệp định thương mại song phương ta đã ký với Hoa Kỳ, EU và nhiều đối tác khác), cũng có thể là các Hiệp định thương mại đa phương trong đó Việt Nam là một bên tham gia (như thoả thuận để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới trong thời gian tới).
Các điều ước này sẽ quy định cụ thể phạm vi các lĩnh vực mà Việt Nam dành MFN và NT cũng như mức độ được hưởng. Như trên đã nêu, MFN và NT liên quan đến nhiều lĩnh vực, nên một nước có thể dành chế độ đối xử này cho các đối tác khác nhau với những phạm vi áp dụng và mức độ khác nhau. Ví dụ như hiện nay Nhật Bản chỉ dành cho ta MFN liên quan đến thuế nhập khẩu, đối với các vấn đề khác như việc áp dụng các hàng rào phi thuế quan, các thủ tục xuất nhập khẩu… hàng nhập khẩu từ Việt Nam vẫn chưa được hưởng MFN của Nhật Bản. Một ví dụ khác là phần lớn các nước hiện nay quy định dành MFN và NT trong thương mại dịch vụ cho các đối tác nước ngoài nhưng vẫn còn duy trì nhiều ngoại lệ ở các lĩnh vực nhạy cảm như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bưu chính viễn thông.
Việc dành MFN và NT còn có thể được thể hiện bằng các biện pháp áp dụng trên thực tế. Một nước không nhất thiết phải nêu rõ việc dành MFN và NT cho đối tác của mình tại một điều ước quốc tế cụ thể. Đôi khi, các nước vẫn áp dụng các đối xử theo nguyên tắc MFN và NT cho đối tác nước ngoài mà không cần phải ký kết thoả thuận. Trên thực tế, đối tác được hưởng MFN thường là các nước đang áp dụng đối xử tương tự đối với nước cho hưởng MFN. Tuy nhiên, việc dành MFN và NT theo cách này có thể bị huỷ bỏ hay sửa đổi phạm vi, mức độ áp dụng bất cứ lúc nào, tuỳ thuộc vào chính sách của nước dành chế độ đối xử này vì nó không có tính ràng buộc về pháp lý. Ví dụ như hiện nay rất nhiều đối tác thương mại của Việt Nam chưa ký kết các thoả thuận thương mại về việc dành cho nhau MFN và NT nhưng trên thực tế, hàng hoá, dịch vụ của các nước này nhập khẩu vào nước ta vẫn được hưởng MFN hay NT.
2. Về phạm vi và mức độ Việt Nam cho các đối tác nước ngoài hưởng MFN và NT
2.1 Phạm vi và mức độ dành MFN
Như trên đã nói, phạm vi của Việt Nam về việc dành MFN được quy định trong Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia là hoàn toàn phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Với phạm vi kể trên, việc Việt Nam dành MFN cho các đối tác nước ngoài đã bao trùm hầu như toàn bộ các lĩnh vực liên quan đến thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ.
Tuy nhiên, việc xác định các ngoại lệ trong quá trình dành MFN cũng rất quan trọng. Ngoài các ngoại lệ đã được đưa ra trong Pháp lệnh, chúng ta cũng cần lưu ý đến một lĩnh vực nhạy cảm nữa trong thương mại quốc tế mà theo quy định chung Việt Nam có quyền hoặc có thể bảo lưu việc áp dụng MFN, đó là thương mại hàng dệt, may. Trong lĩnh vực này, các nước có quyền áp dụng các biện pháp khác nhau với các đối tác khác nhau trong phạm vi sản phẩm nhất định, đặc biệt là việc áp dụng hạn ngạch và một số biện pháp quản lý xuất nhập khẩu, ví dụ như thủ tục xuất nhập khẩu, quy định về xuất xứ hàng hoá… Trên thực tế, Việt Nam là một nước xuất khẩu hàng dệt, may. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhập khẩu một lượng nhất định các sản phẩm dệt, may mà trong nước chưa đáp ứng được. Để cân đối lợi ích toàn cục, hạn chế tình trạng bất hợp lý trong thương mại hàng dệt, may giữa ta với các nước, đặc biệt nếu Việt Nam trở thành thành viên WTO trước khi Hiệp định ATC của WTO hết hiệu lực, việc nghiên cứu áp dụng ngoại lệ MFN trong thương mại hàng dệt, may là cần thiết.
Xét về phạm vi các đối tác được dành MFN của Việt Nam, thì đó là các nước đáp ứng được nguyên tắc về việc dành MFN như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả của việc dành MFN cho các đối tác cần thường xuyên cập nhật danh sách các nước này và áp dụng trên thực tế các đối xử để làm rõ sự khác biệt với các đối tác chưa được hưởng MFN.
Mức độ dành MFN là một nội dung quan trọng. Các đối xử dành cho các đối tác nước ngoài trong thương mại quốc tế nói chung có thể được chia thành 3 mức độ: không ưu đãi, ưu đãi MFN (phổ thông) và ưu đãi đặc biệt (theo các thoả thuận khu vực). Để xác định được các mức độ ưu đãi cụ thể và cân đối giữa các mức là yêu cầu khá phức tạp. Một mặt chúng phải đáp ứng được mục tiêu đa dạng hoá, đa phương hóa hoạt động thương mại, mặt khác phải phát huy được vai trò của các liên kết khu vực, là mũi nhọn thúc đẩy phát triển thương mại nói chung.
Do vậy, duy trì 3 mức độ ưu đãi khác nhau và cơ cấu hợp lý giữa chúng là cần thiết. Sự điều chỉnh cơ cấu của 3 mức độ ưu đãi kể trên có thể làm chuyển hướng đáng kể hoạt động thương mại, gây ra những tác động không nhỏ đối với nền kinh tế.
2.2 Phạm vi và mức độ dành NT
Về phạm vi áp dụng, có thể nói NT bao trùm toàn bộ các biện pháp ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu tại thị trường trong nước. Cũng chính phạm vi rộng lớn này mà việc dành NT có tính nhạy cảm cao, tác động trực tiếp đến môi trường cạnh tranh giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá nhập khẩu.
Theo các tiêu chuẩn quốc tế, các biện pháp vi phạm nguyên tắc NT sẽ phải được loại bỏ để đảm bảo tính công bằng của thị trường tự do, ngoại trừ các biện pháp nhằm bảo vệ sức khoẻ con người, động, thực vật, các giá trị truyền thống… Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi thì việc duy trì một số biện pháp chưa phù hợp với nguyên tắc NT trong một thời gian là cần thiết.
Về cơ bản, đó là nhóm các biện pháp liên quan đến quyền kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài, chính sách giá riêng đối với hàng hóa, doanh nghiệp nước ngoài.
Các biện pháp liên quan đến quyền kinh doanh có thể hạn chế phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ như quy định một số lĩnh vực hàng hoá, ngành nghề kinh doanh nhạy cảm, có tác động lớn đối với nền kinh tế mà điều kiện phát triển kinh tế chưa phù hợp với sự tham gia của các bên nước ngoài. Một số ngành cần cân nhắc theo hướng này là dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng, kinh doanh thị trường chứng khoán, kinh doanh xuất nhập khẩu một số sản phẩm như xi măng, sắt thép xây dựng…
Cũng thuộc nhóm các biện pháp này còn có các quy định hạn chế quyền tham gia của các bên nước ngoài trong các doanh nghiệp. Ví dụ như quy định hạn chế tỷ lệ số vốn doanh nghiệp nước ngoài được phép chiếm giữ trong các doanh nghiệp cổ phần hay doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Hình thức khác trong nhóm biện pháp hạn chế quyền kinh doanh là quy định về phạm vi địa lý mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép kinh doanh.
Nhóm biện pháp thứ hai là ngoại lệ của nguyên tắc NT mà hiện nay chúng ta đang áp dụng là việc duy trì 2 mức giá đối với cùng một hàng hoá, dịch vụ. Mức giá với đối tượng sử dụng nước ngoài cao hơn mức áp dụng với đối tượng sử dụng là người Việt Nam. Ví dụ như giá vé máy bay hiện nay
Cho đến nay, Chính phủ đã có định hướng điều chỉnh và giảm dần việc áp dụng các biện pháp còn chưa phù hợp nêu trên, tiến tới tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Song, cho đến thời điểm đó, việc duy trì có hiệu quả các biện pháp này vẫn cần được nghiên cứu kỹ. Một yếu tố đáng quan tâm khi bảo lưu các biện pháp vi phạm nguyên tắc NT là lộ trình loại bỏ dần các biện pháp đó. Nếu chúng ta xác định được lộ trình hợp lý và áp dụng một cách có hiệu quả, các biện pháp này sẽ thực sự thúc đẩy được quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, tạo điều kiện tham gia cạnh tranh thắng lợi trong bối cảnh hội nhập.
Hiện nay, trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ thời hạn tối đa để chúng ta loại bỏ các biện pháp chưa phù hợp với nguyên tắc NT trong thương mại hàng hoá là 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Mặc dù đó chỉ là cam kết đối với Hoa Kỳ nhưng cũng có thể được dùng làm cơ sở để tới đây, chúng ta xây dựng các cam kết với trên 140 nước thành viên WTO. Tất nhiên, theo nguyên tắc NT của WTO, việc dành quyền bảo lưu thời hạn dài hơn mức ta đã cam kết với Hoa Kỳ là rất khó khăn.
Tóm lại, phạm vi và mức độ Việt Nam có thể dành MFN, NT trong thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ có vai trò nhất định trong tổng thể các chính sách kinh tế, phục vụ tiến trình cải cách cơ cấu nền kinh tế, thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nguyên tắc MFN và NT về cơ bản đều nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các bên tham gia kinh doanh. Các nguyên tắc này cũng điều chỉnh các lĩnh vực rất đa dạng của thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ. Có thể nói, toàn bộ các quy trình tác nghiệp trong giao dịch thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ đều có thể chịu ảnh hưởng của MFN và NT.
Tuy vậy, trong thực tế nguyên tắc MFN và NT cũng có những ngoại lệ nhất định. Việc bảo lưu và áp dụng một cách hợp lý các ngoại lệ này sẽ giúp ích đáng kể cho quá trình cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước thích nghi với điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt, hội nhập thắng lợi vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Để việc dành MFN và NT hay nói cách khác là xác định và áp dụng các ngoại lệ của các nguyên tắc này đem lại hiệu quả cao nhất, cần phân tích kỹ các yếu tố trong nước (như năng lực cạnh tranh của các ngành sản xuất, trình độ phát triển của thị trường, hệ thống chính sách hiện hành, các cam kết quốc tế sẵn có… ) và các yếu tố nước ngoài (như quy định quốc tế về đàm phán và bảo lưu các ngoại lệ MFN và NT, thực tế áp dụng các ngoại lệ MFN và NT của những nước có điều kiện phát triển kinh tế tương tự, viễn cảnh phát triển của thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ quốc tế.. ). Trên cơ sở đó đề ra phạm vi áp dụng MFN và NT thích hợp nhất với điều kiện kinh tế nước nhà.
3. Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật trái với quy định của nguyên tắc MFN và NT
Song song với việc xác định hình thức và phạm vi cho hưởng MFN và NT, một công tác có lẽ còn quan trọng hơn là phải sửa đổi các quy định trong nước trái với các nguyên tắc không phân biệt đối xử này.
Việc vi phạm MFN và NT ở Việt Nam hiện đang thể hiện ở hai hình thức: trên các văn bản pháp lý hoặc trên thực tiễn thi hành.
Về mặt pháp lý, ta có nhiều văn bản luật cũng như dưới luật không tuân thủ các nguyên tắc MFN và NT. Việc điều chỉnh các văn bản luật là tương đối khó khăn về mặt pháp lý, đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực. Việc điều chỉnh các văn bản dưới luật tuy dễ hơn về mặt kỹ thuật nhưng cũng không hề đơn giản. Trong nhiều trường hợp, các quy định vi phạm nguyên tắc MFN hoặc NT nhưng lại là chủ trương lớn hoặc tập quán lâu năm, khó có thể loại bỏ. Điển hình là chương trình nội địa hoá hay việc cấm nhập khẩu thuốc lá điếu.
Các văn bản pháp luật vi phạm nguyên tắc MFN và NT, đặc biệt là nguyên tắc NT, ở Việt Nam hiện còn rất nhiều. Những quy định của các văn bản này gây ra cho các doanh nghiệp nước ngoài những bất lợi trong lĩnh vực hàng hoá và những hạn chế trong lĩnh vực dịch vụ như đã phân tích ở trên. Việc sửa đổi, bổ sung những văn bản này nhằm loại bỏ sự vi phạm là rất cần thiết. Tuy nhiên, đây không phải là công việc một sớm một chiều mà đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Việc tiến hành chỉnh sửa tất cả các văn bản pháp luật gây trở ngại cho việc vận dụng các chế độ MFN và NT ngay một lúc là không thể làm đựoc. Chúng ta phải đi từng bước, phải nghiên cứu xem nên chỉnh sửa văn bản nào trước, những hạn chế nào có thể loại bỏ được ngay và những hạn chế nào còn cần phải duy trì cũng như lộ trình xoá bỏ chúng. Để làm được điều này, các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng nên rà soát ngay từ bây giờ các văn bản pháp luật mâu thuẫn với quy định của MFN và NT để có kế hoạch điều chỉnh trong thời gian gần nhất.
Trên thực tiễn cũng có trường hợp xảy ra phân biệt đối xử, ví dụ như việc áp dụng các quy định về đấu thầu. Việc loại bỏ các quy định này cũng hết sức khó khăn vì nó đòi hỏi việc phổ biến, nâng cao hiểu biết đến mọi giới, đặc biệt là những người trực tiếp chịu trách nhiệm thực thi chính sách.
Ngoài việc sửa đổi các quy định trong nước mang tính phân biệt đối xử đối với người nước ngoài, ta cũng cần chú ý thống nhất hệ thống pháp luật áp dụng cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tránh tình trạng doanh nghiệp nước ngoài lại được ưu đãi hơn doanh nghiệp trong nước. Tuy các quy định của MFN và NT không cấm chúng ta dành ưu tiên cho các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng nếu làm như vậy thì các doanh nghiệp trong nước sẽ không tránh khỏi bị thua lớn ngay trên sân nhà. Do đó, nếu không xoá bỏ được tình trạng này thì khó có thể áp dụng triệt để đối xử MFN và NT vì khi đó chính các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị thiệt thòi.
4. Ban hành quy định về quy chế xuất xứ để có thể áp dụng MFN
Hiện nay, ta vẫn chưa có đầy đủ các quy định về xuất xứ hàng hoá để có thể áp dụng có hiệu quả nguyên tắc MFN. Việc cho hưởng hay không cho hưởng MFN đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xác định được rõ hàng hoá nào có xuất xứ từ những nước được hưởng MFN. Việc thiếu các quy định về xuất xứ hàng hoá có khả năng gây ra tình trạng vô hiệu hoá việc áp dụng MFN trong thương mại. Nếu có các quy định về xuất xứ hàng hoá nhưng không chặt chẽ thì cũng làm giảm hiệu quả của việc cho hưởng MFN vì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể lẩn tránh các quy định này. Chính vì vậy, việc xây dựng các quy tắc xuất xứ mang tính toàn diện, cụ thể là một đòi hỏi bức xúc, cần sớm thực hiện trong thời gian tới.
Hiện ta đã có một số quy định về quy tắc xuất xứ, ví dụ như quy tắc xuất xứ ưu đãi dành cho hàng hoá có xuất xứ từ các nước ASEAN để thực hiện CEPT (xuất xứ form D). Đây là cơ sở tốt để ta triển khai xây dựng các quy chế xuất xứ áp dụng phổ cập cho hàng hoá nhập khẩu.
5. Xây dựng một luật chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp
Thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và tối huệ quốc đòi hỏi phải tạo những điều kiện kinh doanh bình đẳng đối với tất cả các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Điều này đòi hỏi phải loại bỏ những ưu đãi đang được giành cho những doanh nghiệp nhà nước về quyền kinh doanh trên một số ngành và lĩnh vực, về đất đai, về tín dụng, về xuất, nhập khẩu v.v… và đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tham gia kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, điều đó bao hàm việc loại bỏ chế độ hai giá cũng như những khác biệt về ưu đãi thuế so với những doanh nghiệp trong nước. Cho dù trước mắt việc duy trì những ưu đãi và chế độ nói trên là cần thiết nhưng sớm hay muộn Việt Nam cũng phải khắc phục tình trạng này để có thể hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới có hiệu quả.
Về nguyên tắc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) (12-1997) đã xác định những phương hướng xây dựng một luật chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng đối với các doanh nghiệp tư nhân v.v…, song việc thực hiện các ý tưởng đó còn rất khó khăn và đòi hỏi thời gian. Ngoài những vấn đề liên quan đến lợi ích của các công ty cung cấp sản phẩm dịch vụ như việc áp dụng hệ thống một giá điện, về cước điện thoại đối với tất cả các doanh nghiệp, vấn đề này còn liên quan đến một số vấn đề có tính quan điểm như sự cần thiết phải ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình xây dựng một Luật mới trong đó điều chỉnh hoạt động của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các Bộ, ngành, của cơ quan chính quyền các cấp và của chính các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh. Tiến tới, về lâu dài, Việt Nam sẽ phải xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp dù có muốn hay không. Vì vậy, việc nghiên cứu để ban hành một Luật doanh nghiệp chung ngay từ bây giờ là rất cần thiết.
6. Các khuyến nghị cải cách chính sách thuế
Tham gia vào quá trình hội nhập với kinh tế khu vực cũng như thế giới và để áp dụng các nguyên tắc MFN và NT đòi hỏi hệ thống chính sách thuế nước ta phải có những bước cải cách phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện để thực hiện chính sách phát triển kinh tế theo hướng mở cửa, tham gia vào phân công lao động quốc tế. Mặc dù chính sách thuế của Việt Nam đã có những điểm tương đồng với quy định của nghĩa vụ MFN và NT, nhưng như trên đã nói, sự tương đồng đó chỉ là tương đối và chưa đầy đủ. Do dó, để làm cho chính sách thương mại Việt Nam tương thích với các định chế MFN và NT trong quá trình hộp nhập khu vực và thế giới thì việc cải cách chính sách thuế hiện hành là điều tất yếu. Trong bối cảnh của tiến trình hội nhập, quá trình cải cách chính sách thuế cần đạt được một số mục tiêu sau:
Đảm bảo ổn định thu phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế;
Góp phần thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích đầu tư trong nước;
Tăng cường và thúc đẩy sản xuất xuất khẩu;
Phù hợp với xu hướng hội nhập cũng như khả năng quản lý thuế.
Phương hướng cải cách chính sách thuế có thể được thực hiện như sau:
6.1 Thực hiện đơn giản hoá các mức thuế suất
Cho đến nay, do trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta còn thấp, các ngành kinh tế chưa đạt được trình độ phát triển đồng đều thể hiện ở những mức độ khác nhau về hiệu quả sản xuất và tỷ lệ lợi nhuận, đòi hỏi những mức độ khác nhau về sự trợ giúp của Nhà nước, về bảo hộ, về điều tiết. Trong điều kiện như vậy, chính sách thuế bị chi phối và chưa thể tính toán các mức thuế suất dựa trên mức lợi nhuận bình quân trong các ngành.
Tuy nhiên, việc tham gia vào quá trình hội nhập và đảm bảo những nguyên tắc của một hệ thống chính sách thương mại không phân biệt đối xử đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống thuế trung lập thể hiện rõ nhất ở việc đơn giản hoá các mức thuế suất để có thể phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh lớn, có thể đạt được hiệu quả sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá các nước. Việc đơn giản hoá các mức thuế suất tức là áp dụng những mức thuế suất như nhau cho những hàng hoá có xuất xứ khác nhau cũng như áp dụng những mức thuế suất như nhau đối với hàng trong nước và hàng nhập khẩu, đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Qua đó góp phần hình thành một hệ thống thuế trung lập, bước đầu thực hiện những quy định không phân biệt đối xử của nguyên tắc MFN và NT. Đồng thời một hệ thống thuế trung lập và rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, thực hiện cụ thể đối với từng sắc thuế như sau:
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, áp dụng một thuế suất thống nhất cho mọi ngành sản xuất, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cần nghiên cứu, xác định mức thuế suất hợp lý so với mặt bằng chung trong khu vực để tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp từ những nước ngoài khu vực.
Chúng ta đã chuyển sang thực hiện thuế giá trị gia tăng (VAT) thay cho thuế doanh thu. Với sự thay đổi này, chúng ta không chỉ khắc phục được tình trạng đánh trùng của thuế doanh thu mà còn cải thiện một cách cơ bản trong việc đơn giản hoá các mức thuế suất. Tuy nhiên, mức thuế suất VAT cũng cần được nghiên cứu, xác định một cách hợp lý để vừa có tác động thuận lợi về số thu, vừa tác động một cách hiệu quả tới việc khuyến khích kinh doanh.
6.2 Thực hiện giảm những thuế suất cao
Tuy cho đến thời điểm hiện nay, số lượng khung thuế suất của Việt Nam đã không ngừng được giảm xuống nhưng để áp dụng có hiệu quả các nguyên tắc của các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực nói chung, hay nguyên tắc MFN và NT nói riêng thì một số mức thuế suất cao còn cần phải được giảm nữa. Đặc biệt, thuế suất MFN là mức thuế suất tương đối thấp, khi Việt Nam áp dụng hình thức đối xử này cho các đối tác nước ngoài thì cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải giảm những mức thuế suất cao đánh vào hàng hoá của họ. Việc thực hiện cải cách, giảm dần những mức thuế suất cao thực tế sẽ liên quan nhiều nhất đến thuế nhập khẩu, phù hợp với việc chúng ta thực hiện Hiệp định CEPT cũng như tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại nói chung. Tuy nhiên, khi thực hiện vấn đề này các mức thuế suất cần được nghiên cứu, sửa đổi một cách hợp lý để phù hợp với trình độ và tình hình phát triển kinh tế hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phải căn cứ trên sự phân tích thị trường và chiến lược, khả năng sản xuất của các ngành. Những mức thuế suất này sẽ là những công cụ quan trọng góp phần thiết lập cơ chế bảo hộ trong thời gian trước mắt cho các ngành sản xuất trong nước, thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời vừa khuyến khích sự cạnh tranh đảm bảo sản xuất có hiệu quả.
Tiến hành thực hiện các bước cắt giảm thuế nhập khẩu theo trình độ phát triển hiện tại của Việt Nam sẽ là một thách thức. Việt Nam cần đặt mục tiêu thực hiện kế hoạch giảm thuế quan trước năm 2003 đối với những ngành có lợi thế so sánh trước mắt, và trước năm 2006 đối với những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng. ở đây đòi hỏi một nỗ lực rất lớn về cải cách kinh tế và hành chính, trong đó phải cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng hiệu suất hoá, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân hoạt động, cải cách hệ thống ngân hàng để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, v.v…
6.3 Mở rộng diện chịu thuế
Thực hiện giảm những thuế suất cao để phù hợp với những cam kết của AFTA và hướng tới là WTO về MFN và NT sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Việc nghiên cứu, cải cách các sắc thuế theo hướng mở rộng diện chịu thuế có một ý nghĩa quan trọng nhằm tăng thu cho ngân sách, góp phần giải quyết những vấn đề về số thu bị giảm khi chúng ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu khi tham gia AFTA. Mở rộng diện chịu thuế có thể được thực hiện thông qua các sắc thuế cụ thể như sau:
Hạn chế, loại bỏ những diện ưu đãi, miễn giảm trong mọi sắc thuế;
Mở rộng việc áp dụng phương pháp khấu trừ thuế tại nguồn đối với các trường hợp có nguồn thu phát sinh tại Việt Nam của các đối tượng cư trú nước ngoài.
Đối với thuế nhập khẩu, có thể nghiên cứu để nâng mức thuế suất 0% trong một số trường hợp. Những thuế suất này cần được xem xét cụ thể căn cứ theo kim ngạch thương mại cũng như tình hình sản xuất để nâng lên mức 3% - 5%. Như vậy sẽ bù đắp những thiếu hụt cho ngân sách khi thực hiện cắt giảm thuế nói chung mà vẫn đảm bảo thực hiện các quy định của CEPT.
Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, thực hiện sửa đổi theo hướng mở rộng diện các mặt hàng phải chịu loại thuế này. Hiện nay, loại thuế này chỉ mới áp dụng với các mặt hàng: thuốc lá, rượu bia, ô tô nhập khẩu, xăng, điều hoà nhiệt độ công suất 90.000 BTU trở xuống, vàng mã. Tuy nhiên, những mặt hàng này không thuộc danh mục các mặt hàng đưa vào thực hiện chương trình CEPT. Vì vậy, diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt cần mở rộng thêm đối với một số mặt hàng tiêu dùng cao cấp (chẳng hạn như máy điều hoà nhiệt độ tất cả các loại, tủ lạnh…). Cùng một mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì dù sản xuất trong nước hay nhập khẩu đều phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như nhau.
Có thể nghiên cứu ban hành một số loại thuế mới một cách hợp lý.
6.4 Hoàn thiện công tác quản lý thuế
Việc thực hiện các biện pháp để hoàn thiện công tác quản lý thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc chống thất thu thuế. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta tiến hành giảm các mức thuế suất để thực hiện các nguyên tắc của các định chế khu vực và quốc tế trong điều kiện hội nhập. Đồng thời, việc quản lý thuế tốt cũng nhằm đảm bảo các mức thuế suất, đặc biệt là thuế suất MFN được áp dụng đúng đối tượng, đúng với chủ trương đối xử bình đẳng giữa các quốc gia của Nhà nước ta. Trong vấn đề này, cần tập trung chú ý nhất việc quản lý thu thuế đối với những thu nhập được phát sinh từ nước ngoài, tiến hành quản lý đối tượng nộp thuế bằng mã số. Ngoài ra tăng cường chất lượng kiểm tra, thanh tra thuế và tạo môi trường đơn giản, rõ ràng để khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của các đối tượng nộp thuế.
Tham gia vào quá trình hội nhập, việc hoàn thiện công tác quản lý thuế là cần thiết và phải được thực hiện từ khía cạnh tạo ra một hệ thống quản lý phù hợp với các nước trong khu vực và quốc tế. Vấn đề này yêu cầu rõ nhất đối với thuế xuất nhập khẩu và thể hiện trong một số yêu cầu hoàn thiện sau:
Sửa đổi hệ thống mã số hiện hành của Biểu thuế xuất nhập khẩu theo mức 8 số phù hợp với Danh mục biểu thuế chung của các nước ASEAN đang được soạn thảo.
Nghiên cứu để áp dụng việc xác định trị giá hải quan theo GATT để xoá bỏ tình trạng áp dụng thuế nhập khẩu tối thiểu khác nhau đối với những hàng hoá có xuất xứ khác nhau.
Nghiên cứu để áp dụng các mức thuế suất ưu đãi, thuế suất phổ thông, thuế suất tạm thời… phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới.
Ngày nay, nhiều nước đang tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực cũng như nền kinh tế toàn cầu. Đó là quá trình tự do hoá thương mại bằng các biện pháp cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế. Vì thế, về lâu dài thu về thuế xuất nhập khẩu trong tổng số thu ngân sách sẽ giảm dần về tỷ trọng cũng như về giá trị tuyệt đối là xu thế tất yếu. Điều này sẽ càng xảy ra nhanh chóng hơn khi Việt Nam mở rộng diện dành đối xử tối huệ quốc cho các đối tác nước ngoài. Hiện nay, ở các nước công nghiệp phát triển, mức độ tự do hoá thương mại tương đối cao, thu thuế xuất nhập khẩu chiếm khoảng từ 7% đến 8% thu nhập của Chính phủ, trong khi đó tổng thu về ngân sách chiếm khoảng từ 40% đến 50% GDP. Như vậy, trong tiến tình tham gia hội nhập khu vực và thực hiện các nguyên tắc MFN, NT Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tham gia vào quá trình này và thực hiện cải cách hệ thống, chính sách thuế chắc chắn sẽ dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu số thu từ thuế, tỷ trọng thuế gián thu (trong đó có thuế nhập khẩu) sẽ giảm và ngược lại tỷ trọng thuế trực thu sẽ tăng lên. Việc chúng ta nghiên cứu ban hành các luật thuế: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân chính là bước cải cách căn bản đầu tiên nhằm khai thác tối đa các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo ra những công cụ thuận lợi để thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
7. Các biện pháp bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và chính sách công cụ phi thuế quan
Cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong một thời gian dài đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, vấn đề hiệu quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, tham gia vào quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực, cùng các nước ASEAN xây dựng khu vực mậu dịch tự do và tiến tới là gia nhập WTO, chúng ta không thể đi ngược lại với xu thế chung của quá trình tự do hoá thương mại để tiếp tục duy trì hàng rào bảo hộ mậu dịch. Hơn nữa, việc thực hiện nguyên tắc MFN và NT cũng đòi hỏi chúng ta phải xoá bỏ những biện pháp bảo hộ đang được áp dụng đối với sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay nếu loại bỏ ngay các hình thức bảo hộ thì các nhà sản xuất trong nước, vốn đã yếu kém so với các nhà sản xuất nước ngoài chắc chắn sẽ không còn cơ hội vươn lên được. Nói cách khác, nếu không được bảo hộ hợp lý trong thời gian đầu hội nhập thì các doanh nghiệp trong nước sẽ bị chết yểu ngay trên sân nhà. Do đó vấn đề bảo hộ cho sản xuất trong nước cần được thực hiện như sau:
* Nguyên tắc bảo hộ chung:
+ Chỉ bảo hộ những mặt hàng sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu có tiềm năng phát triển về sau, tăng thu ngân sách và giải quyết lao động.
+ Nguyên tắc bảo hộ phải được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Điều này đòi hỏi một định hướng sáng suốt trong việc hoạch định chính sách phù hợp với cơ chế thị trường, tạo điều kiện bình đẳng trong cạnh tranh kinh tế.
+ Cơ sở bảo hộ được quy định cho một số ngành nghề và có thời hạn cụ thể. Về nguyên tắc, không có bảo hộ vĩnh viễn bất kỳ ngành nghề nào.
+ Việc bảo hộ phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các hiệp định quốc tế mà Chính phủ ký kết.
Cụ thể đối với CEPT, vì CEPT là hiệp định quốc tế đầu tiên về hợp tác kinh tế khu vực mà Việt Nam tham gia, trong khi chúng ta còn chưa có kinh nghiệm trong các vấn đề thực hiện bảo hộ thông qua các biện pháp phi thuế quan cũng như vấn đề tiến hành loại bỏ chúng, do đó, khi thực hiện AFTA, cần cố gắng duy trì việc bảo hộ một cách hợp lý nhất, đồng thời thực hiện những cam kết về cắt bỏ bảo hộ một cách từ từ để đảm bảo cho các nhà sản xuất trong nước có thể quen dần với môi trường không có bảo hộ, trên cơ sở từng bước thực hiện các vấn đề sau:
Xác định cụ thể chính sách bảo hộ sản xuất trong nước với các yêu cầu về mức độ và thời gian bảo hộ thích hợp cho từng ngành sản xuất, phù hợp với chiến lược ưu tiên phát triển ngành như đã đề cập ở phần trên.
Trên cơ sở những yêu cầu về mức độ bảo hộ, xây dựng tiến trình cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời một cách thích hợp, theo hướng những mặt hàng nào cần được bảo hộ ở mức cao nhất sẽ được đưa vào cắt giảm thuế sau cùng và những mặt hàng không cần bảo hộ sẽ được cắt giảm thuế sớm hơn. Chẳng hạn, đối với những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh trước mắt, hàng rào bảo hộ có thể được loại bỏ sớm hơn và kế hoạch cắt giảm thuế quan có thể được thực hiện trước năm 2003; và đối với những ngành có lợi thế so sánh kém hơn hay là những lợi thế tiềm năng, hàng rào bảo hộ có thể được duy trì lâu hơn và kế hoạch cắt giảm thuế quan được thực hiện trước năm 2006.
Hiện nay phần lớn các mặt hàng cần được bảo hộ cao - đang có mức thuế suất thuế nhập khẩu lớn hơn 20% - đều đang được đưa vào Danh mục loại trừ tạm thời để có thể kéo dài thời gian phải thực hiện cắt giảm thuế và loại bỏ bảo hộ. Bắt đầu từ năm 1999 chúng ta thực hiện các bước chuyển hàng hoá từ danh mục này sang danh mục cắt giảm thuế để thực hiện cắt giảm. Như vậy, chúng ta có một khoảng thời gian nhiều nhất là 2 năm để tiến hành nghiên cứu, xác định cụ thể chính sách bảo hộ với các mức độ bảo hộ cần thiết cho các ngành.
Phối hợp việc cắt giảm thuế với việc loại bỏ các rào cản phi quan thuế một cách linh hoạt và thích hợp để có thể duy trì bảo hộ cho các ngành sản xuất trong những trường hợp cần thiết.
* Đồng thời với việc xác định chính sách bảo hộ, cần gấp rút triển khai việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các biện pháp phi thuế quan hữu hiệu, phù hợp và được thông lệ quốc tế cho phép. Thực hiện được vấn đề này sẽ tạo điều kiện bảo hộ hợp lý cho các nhà sản xuất trong nước khi chúng ta buộc phải cắt giảm hàng rào bảo hộ thuế quan. Điều này là hết sức cần thiết trong thời gian đầu Việt Nam mới thực thi các quy định về MFN và NT.
Hiện nay các biện pháp phi thuế quan của nước ta còn đơn giản, chủ yếu mới chỉ là các biện pháp về giấy phép, hạn ngạch,… còn thiếu những biện pháp về kỹ thuật, chất lượng với những quy định một cách hệ thống và chi tiết như các nước và nhất là chưa có định hướng theo chính sách bảo hộ sản xuất trong nước.
Trước tiên, việc xây dựng hệ thống chính sách phi thuế quan của Việt Nam khi tham gia hợp tác kinh tế quốc tế phải đảm bảo được các mục tiêu sau:
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thương mại của Việt Nam, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, góp phần tăng thu ngân sách;
Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, khuyến khích đổi mới khoa học kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế;
Góp phần tích cực cho việc hội nhập của Việt Nam vào nền thương mại thế giới, phục vụ công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Việc xây dựng hệ thống chính sách phi thuế quan cũng phải quán triệt những nguyên tắc sau:
Những biện pháp phi thuế quan phải phù hợp với thông lệ quốc tế đã được cụ thể hoá ở WTO;
Phải phù hợp với những quy định cụ thể của ASEAN, APEC;
Hệ thống phi thuế quan phải đủ mạnh để bảo vệ nền sản xuất non trẻ trong nước, song cũng phải tạo đà và thúc giục các doanh nghiệp tự đổi mới, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên trường quốc tế;
Tuy lấy mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại là chính, nhưng phải có sự kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa hệ thống hàng rào thuế quan với hệ thống các biện pháp phi thuế quan, giữa tự do hoá mậu dịch theo quy định của CEPT với việc bảo hộ sản xuất trong nước, đặt quyền lợi quốc gia lên hàng đầu;
Hệ thống phi thuế quan phải đảm bảo nguyên tắc luôn tạo ra được một lối thoát nhất định khi nền thương mại trong nước bị đe doạ trước sức cạnh tranh quốc tế;
Các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam cần định hình theo hướng tăng cường tự do hoá mậu dịch, loại bỏ dần những trở ngại về thương mại tương ứng với mức độ phát triển kinh tế, phù hợp với xu thế chung thời đại và với yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước, mở đường cho kinh tế và thương mại phát triển.
Để có cơ sở áp dụng các biện pháp phi thuế quan một cách hữu hiệu theo các mục tiêu và nguyên tắc nêu trên, đồng thời phù hợp với chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, trước mắt chúng ta cần phải xác định rõ danh mục những mặt hàng cần được ưu tiên bảo hộ và phân loại chúng theo các cấp độ bảo hộ khác nhau. Việc tính toán đưa ra danh mục hàng cần được ưu tiên bảo hộ phải dựa trên kết quả của những phân tích định tính và định lượng tình hình cung cầu trong nước, sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa và các diễn biến của thị trường quốc tế.
Mặc dù điều kiện hiện tại chưa cho phép có những nghiên cứu sâu sắc trên, nhưng dựa trên thực tiễn Việt Nam và các nước ASEAN, trước mắt chúng ta có thể dự kiến phân loại các mặt hàng bảo hộ của Việt Nam như sau:
Bảo hộ cấp 1 (cao nhất): những mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm.
Bảo hộ cấp 2: những mặt hàng thuộc cân đối lớn của nền kinh tế như ô tô, xe máy, phân bón, thuốc trừ sâu, xi măng, sắt thép,…
Bảo hộ cấp 3: những mặt hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất.
Những mặt hàng không thuộc các danh mục bảo hộ trên có thể huỷ bỏ ngay các hàng rào thuế và phi thuế quan, thực hiện tự do hoá mậu dịch.
Hệ thống chính sách phi thuế quan của Việt Nam trước mắt có thể xây dựng thành bốn loại lớn sau dựa trên cơ sở sắp xếp lại các biện pháp phi thuế quan cũ và xây dựng thêm một số biện pháp mới phù hợp với quy định của WTO:
Loại 1- những biện pháp phi thuế quan phổ thông trong khuôn khổ WTO:
Giấy phép nhập khẩu tự động và giấp phép không tự động.
Quota: quy định theo WTO, bao gồm quota định lượng, quota kết hợp cả định lượng và thuế, quota kết hợp định lượng và giấy phép đặc biệt.
Kiểm tra trước khi xếp hàng lên tàu.
Quy tắc xuất xứ.
Thuế đối kháng.
Biện pháp chống bán phá giá
Biện pháp phòng ngừa.
Loại 2 - những biện pháp kỹ thuật:
Những quy chế về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Những quy chế về chất lượng.
Vệ sinh kiểm dịch.
Bảo vệ môi trường.
Loại 3 – những biện pháp hành chính: bao gồm những quy chế xuất nhập khẩu khác của nước ta hiện nay như đầu mối xuất nhập khẩu, công ty quốc doanh,… mà không thể sắp xếp chuyển vào loại 1 và 2 theo như quy định của WTO được.
Loại 4 – những chính sách vĩ mô có tác động điều tiết gián tiếp xuất nhập khẩu: cơ chế tỷ giá hối đoái, thanh toán, lãi suất, tín dụng ngân hàng, chính sách đầu tư,…
Nếu thực hiện các quy định của CEPT về các biện pháp phi quan thuế mà lấy mốc hiện tại thì chúng ta sẽ phải giảm các biện pháp phi thuế quan sau khi đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các biện pháp phi thuế quan của mình. Công việc này cần được tiến hành hết sức khẩn trương vì đây là một khối lượng công việc rất lớn và cần sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành liên quan.
Sau khi hoàn chỉnh hệ thống chính sách phi thuế quan, chúng ta sẽ bắt đầu thực hiện quá trình loại bỏ các rào cản phi thuế quan. Quá trình này sẽ được kết hợp chặt chẽ với quá trình cắt giảm thuế quan, dựa trên sự phân loại theo ba cấp độ bảo hộ như phân tích ở trên và có thể được thực hiện theo các bước như sau:
Bước 1: bắt đầu bằng việc giảm các biện pháp hành chính.
Bước 2: giảm các biện pháp phi thuế quan phổ thông.
Bước 3: tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật và các hình thức bảo hộ gián tiếp vô hình khác.
Kết luận
C
ác quy định quốc tế về nội dung Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia rất phức tạp và còn nhiều biến động, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tham gia nhiều cam kết quốc tế có các điều khoản về MFN và NT thì việc thi hành đầy đủ các cam kết quốc tế này là rất quan trọng. Để đảm bảo tốt nhất việc thực thi các cam kết quốc tế trên, điều quan trọng là phải hướng hệ thống chính sách thương mại nước nhà tới những chuẩn quốc tế, phải làm sao để các chính sách thương mại của Việt Nam phù hợp với những nguyên tắc kinh tế quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi mà điển hình là hai nguyên tắc MFN, NT.
Việc thực hiện các bước đi đồng bộ trong quá trình điều chỉnh chính sách trong nước cho phù hợp với tinh thần và yêu cầu của hai nguyên tắc MFN và NT nằm trong chủ trương, đường lối hội nhập, mở cửa nền kinh tế phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt Nam. Việt Nam đã thể hiện quyết tâm của mình trong việc mong muốn sớm tham gia và thực hiện những chế định chung của thương mại quốc tế bằng việc thực hiện từng bước các cam kết, thay đổi chính sách theo hướng tích cực trong các lĩnh vực chủ chốt, đặc biệt là lĩnh vực thương mại hàng hoá. Mặc dù còn nhiều điểm khác biệt, chưa phù hợp với các nguyên tắc này, nhưng với nỗ lực không ngừng trong thời gian qua, hy vọng rằng Việt Nam sẽ tìm được phương cách và tạo cho mình khả năng vận dụng một cách hiệu quả và tích cực các nguyên tắc MFN và NT trong một tương lai không xa.
***************************
tài liệu tham khảo
I/ Tài liệu tiếng Việt:
Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành kèm theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 20/5/1998.
Chính sách thương mại Việt Nam: sự tiến triển, những vấn đề và triển vọng, Lê Bộ Lĩnh. NXB Khoa học Xã hội 2000.
Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2000 – 2001, Thời báo Kinh tế.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ban hành ngày 26/12/1991.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ban hành ngày 26/12/1991.
Luật Thương mại thông qua ngày 10/5/1997.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực ngày 1/1/1999.
Luật đất đai thông qua ngày 14/7/1993.
Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp thông qua ngày 10/7/1993.
Luật kinh tế quốc tế, Học viện quan hệ quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, 1999.
Luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Khoa học Kỹ thuật 1999.
Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/200, quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Quyết định số 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000.
Tổ chức Thương mại Thế giới, Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.
Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Chính trị quốc gia, 2001.
Chính sách thương mại Việt Nam và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới, Công ty Luật Vietbid, 1998.
Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH 10 ngày 25/5/2002 về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
Báo cáo giới thiệu nội dung Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế ngày 27/11/2001, Bộ Thương mại.
Đề tài nghiên cứu khoa học số 2001 – 78 – 024 về chế độ MFN và NT trong thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ, Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại, 2001.
II/ Tài liệu tiếng nước ngoài:
Business Law and the Regulatory Environment, Lusk Series, 1986.
Dictionary of Trade Policy Terms, Walter Goode, 1995.
National Treatment, UNDP, United Nations, 1990.
Train for Trade, UNCTAD, 1996
The Results of the Uruguay Round of Multilateral Trade Policy, WTO Secretariat, 1995.
Uruguay Round Further Papers on Selected Issues, UNCTAD/UNDP, 1990.
WTO Dispute Settlement Decisions, Bernan Press, 1998.
APEC Symposium on Strenthening economic legal infrastructure, Falculty of Law, University of Indonesia, 2000.