Khóa luận Nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

NVTTM là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Ở các nước phát triển, NVTTM có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhiều nước chỉ sử dụng nghiệp vụ này trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, ổn định giá trị đồng tiền. Đối với các nước đang phát triển, NVTTM ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng khi các điều kiện cho nó đã và đang chín muồi. Ở Việt Nam, qua hơn 2 năm đi vào hoạt động, NVTTM đã ít nhiều phát huy được tác dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trong đó phương thức giao dịch chủ yếu được sử dụng là mua bán có kỳ hạn dưới hình thức hợp đồng mua lại. Tuy nhiên do những nguyên nhân cả về mặt chủ quan lẫn khách quan, nghiệp vụ này chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Trên cơ sở lý luận về NVTTM, khái quát kinh nghiệm hoạt động của một số nước và phân tích thực trạng vận dụng ở Việt Nam, khoá luận này đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này sao cho phù hợp với tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. NVTTM là vấn đề tương đối mới mẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm ở Việt Nam. Vì vậy nâng cao hiểu biết về kỹ thuật và tầm quan trọng của nó ở Việt Nam là rất cần thiết trong thời điểm này.

doc107 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2360 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm. - Điều chỉnh giá trị tài sản theo điều kiện của thị trường : Theo điều kiện của thị trường, nếu giá trị tài sản giảm xuống mức tối thiểu phải duy trì thì ECB yêu cầu tổ chức cung cấp bổ sung tài sản hoặc bằng tiền mặt. Ngược lại nếu giá trị thị trường tăng lên một mức nhất định, ECB sẽ hoàn lại phần phụ trội đó. - Những giới hạn trong quan hệ với người phát hành, con nợ hoặc người bảo lãnh. - Những bảo lãnh bổ sung. - Loại trừ : ECB có thể không chấp nhận một số tài sản nhất định sử dụng trong giao dịch. 1.1.3. Nguyên tắc định giá tài sản dùng trong giao dịch có hoàn lại Có 7 nguyên tắc thông thường khi xác định giá trị tài sản là: - Đối với từng tài sản được chấp nhận thuộc nhóm I hoặc II dù được dăng kí, niêm yết hoặc được giao dịch trên nhiều thị trường, ECB phân biệt từng thị trường có liên quan để chọn ra một thị trường làm cơ sở định giá tài sản. - Trên mỗi thị trường, giá mang tính đặc trưng nhất sẽ được sử dụng để tính giá trị thị trường. - Giá trị của những tài sản có thể chuyển nhượng được tính trên cơ sở giá đặc trưng nhất trong ngày giao dịch trước ngày định giá trị. - Nếu không có sẵn giá đặc trưng thì giá của phiên giao dịch cuối cùng trong ngày trước ngày định giá được áp dụng. - Giá trị thị trường được tính cộng thêm số lãi suất phát sinh. - Phải có đầy đủ tài sản làm vật đảm bảo trước khi phần thu nhập phát sinh và trả. - Đối với những tài sản không chuyển nhượng được nằm trong danh sách tài sản thuộc nhóm ECB xác định giá của chúng theo những nguyên tắc riêng. 1.1.4. Các tổ chức là đối tác của ECB trong NVTTM ECB không đưa ra hạn chế về tư cách thành viên, tuy nhiên, chất lượng đối tác trong giao dịch có hoàn lại rất được đề cao bởi đây là giao dịch dựa trên cơ sở cam kết mua bán lại các chứng khoán (ví dụ yêu cầu về tình hình tài chính lành mạnh, thuộc đối tượng giám sát của ít nhất 1 trong các cơ quan có thẩm quyền, tham gia hệ thống dự trữ tối thiểu của ECB, có thể giúp thực hiện CSTT hiệu quả...). Như vậy, tuy mới đi vào hoạt động nhưng việc tổ chức NVTTM đã rất chặt chẽ, khoa học. 1.2. NHTƯ Nhật Bản. Là một nền kinh tế vay nợ nên từ năm 1962, NHTƯ Nhật Bản đã tiến hành mua bán lại các chứng khoán để điều hành CSTT và hạn chế sự vay mượn quá mức của các ngân hàng tại NHTƯ. Nhưng mãi đến năm 1989, NHTƯ Nhật mới bắt đầu cho công bố các thông tin về cung cầu vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ, khối lượng vốn cung ra hay hút về thông qua NVTTM. 1.2.1. Những công cụ được sử dụng trong NVTTM Bên cạnh trái phiếu, tín phiếu chính phủ, thương phiếu và hối phiếu ngân hàng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong NVTTM. Việc có thêm một số qui định mới về thời gian đáo hạn lên một năm kể từ ngày thực hiện hợp đồng so với 3 tháng theo qui định cũ hoặc trái phiếu chính phủ ngoài loại 10, 20 năm còn có thể bao gồm loại 2,4,6 năm. Hiện trên NVTTM của Nhật, các công cụ được sử dụng trong từng giao dịch cụ thể như sau : Cung vốn ngắn hạn: - Mua trái phiếu kho bạc theo Repos - Mua hẳn trái phiếu kho bạc - Vay trái phiếu chính phủ đối thế chấp tiền mặt - Mua hẳn hối phiếu - Mua thương phiếu theo Repos - Mua hẳn các hối phiếu nợ của công ty Rút vốn ngắn hạn: - Bán trái phiếu kho bạc theo hợp đồng mua lại. - Bán hẳn trái phiếu kho bạc - Bán hẳn tín phiếu NHTƯ Đó là các công cụ rất phù hợp với các nghiệp vụ thanh toán trong ngày bởi chất lượng hàng hoá và đối tác cao. Tại đây, việc mua bán có kì hạn được thực hiện hoàn toàn qua mạng BOJ- NET. 1.2.2. Sự phát triển của giao dịch trong NVTTM Trước đây, việc mua bán hẳn các giấy tờ có giá thường chiếm ưu thế. Tuy nhiên hiện nay, ngay cả khi tình hình kinh tế ngày càng có dấu hiệu sa sút thì mua bán trái phiếu theo kì hạn đang được coi là phương thức năng động, hiệu quả khi kết hợp sử dụng với chính sách lãi suất bằng 0 để cung một lượng vốn lớn ra nền kinh tế. Từ bảng 4 dưới đây ta thấy hiện nay NHTƯ Nhật chủ yếu đang cung vốn ra thị trường với lãi suất rất thấp (theo chính sách lãi suất bằng 0). Tổng giá trị hợp đồng là rất lớn, trong đó giao dịch mua bán có kì hạn luôn được tiến hành với doanh số cao hơn nhiều so với giao dịch mua hẳn. Nếu xét theo giá trị, giao dịch kì hạn thực hiện tới 91.1% lượng vốn khả dụng cung ra nền kinh tế. Để hấp thụ vốn khả dụng khi có hiện tượng dư thừa tại các NHTM, tỉ trọng giao dịch có kì hạn cũng chiếm 27.2%. Bảng 4: Tóm tắt các hoạt động chính NVTTM Nhật Bản Mục tiêu Công cụ Phương thức giao dịch Thời gian đáo hạn Số lượng đối tác Giá trị hợp đồng Giá trị HĐ lớn nhất kể năm 1998 Cung vốn khả dụng Mua tín phiếu Mua đứt ≤ 3 tháng 6 tanshi*, các đối tác khác 2,5 tỉ Yên 6,1 tỉ Yên Mua thương phiếu Có kì hạn ≤ 3 tháng 35 NH, công ty chứng khoán 6,6 tỉ Yên 9,5 tỉ Yên Mua TPKB Có kì hạn ≤ 6 tháng 50 NH, cty CK, Tanshi 19,4 tỉ Yên 21,5 tỉ Yên Mua hẳn 0,8 tỉ Yên 1,9 tỉ Yên Vay TP chính phủ Có kì hạn 35 NH, cty CK, Tanshi 8,1 tỉ Yên 10 tỉ Yên Hấp thụ vốn khả dụng Bán tín phiếu NHTƯ Bán hẳn ≤ 3 tháng 6 tanshi, các đối tác khác 6,7 tỉ Yên 23,2 tỉ Yên Bán Trái phiếu kho bạc Có kì hạn ≤ 6 tháng Giống Repos & mua hẳn 4 tỉ Yên 10,7 tỉ Yên Bán hẳn 4 tỉ Yên 10,7 tỉ Yên Nguồn : A guide to Bank of Japan’ s Market Operations.-Atsushi Miyanoya (04/2000) *Tanshi : Các công ty kinh doanh và môi giới trên thị trường tiền tệ .) 1.2.3. Đối tác tham gia Khác với các nền kinh tế thị trường khác, Nhật Bản là một nền kinh tế vay nợ, hàm ý rằng vốn trong xã hội chủ yếu do hệ thống ngân hàng cung ứng. Xuất phát từ đặc điểm này, để thực hiện CSTT thông qua NVTTM, NHTƯ hầu như chỉ tác động thông qua các NHTM, các công ty chứng khoán. Thành phần kinh tế tư nhân hoàn toàn bị hạn chế do sự xuất hiện của chúng không cần thiết. Tuy số lượng đối tác không nhiều như một số thị trường trên thế giới, nhưng không phải vì thế mà tác động của NVTTM kém hiệu quả. 1.3. Cục dự trữ liên bang Mỹ. Trên cơ sở phân tích cụ thể diễn biến tiền tệ, tín dụng, mức dự trữ của các NHTM và các mục tiêu CSTT trong từng thời kì, Cục dự trữ liên bang (FED) cùng với ban chỉ đạo NVTTM sẽ áp dụng hình thức mua bán hẳn hoặc mua bán có kì hạn thông qua đấu thầu lãi suất là chủ yếu. Thông thường, các giao dịch mua bán hẳn sẽ được sử dụng khi việc dự báo mức dự trữ cần được điều chỉnh trong một thời gian dài. Ngược lại, khi dự báo cho thấy cần thay đổi tạm thời dự trữ của các ngân hàng hoặc khi khả năng dự báo của Cục dự trữ liên bang về mức độ, thời hạn biến động không cao, FED sẽ thực hiện giao dịch có kì hạn dưới hai hình thức : - FED tăng dự trữ tạm thời bằng cách tiến hành hợp đồng mua chứng khoán với sự cam kết của đối tác sẽ mua lại chứng khoản này sau một thời gian và giá cả nhất định. Mức dự trữ tăng thêm này sẽ tự động giảm xuống khi hợp đồng mua lại có hiệu lực. - Trong trường hợp muốn giảm dự trữ tạm thời, FED sẽ chào bán chứng khoán, đồng thời kết hợp thực hiện hợp đồng mua lại chính những giấy tờ có giá đó. Chỉ tính từ năm 1981 đến năm 1996, doanh số giao dịch có kì hạn đã không ngừng tăng trưởng (tính cả hợp đồng mua lại và hợp đồng mua lại đảo ngược qua đêm hoặc có kì hạn). Đồ thị 2: Doanh số giao dịch bình quân ngày của Repos và Reverse (1981-1996) Nguồn:“Federal Reserve Bulletin, various issues, table, 1.43, and Lumpkin” (1993), p 73 -74 Như vậy, đã có một sự mở rộng rất nhanh chóng về giá trị giao dịch cũng như số lượng đối tác giao dịch chỉ sau 15 năm, doanh số giao dịch hợp đồng mua lại qua đêm tăng 15,536 lần, còn hợp đồng mua lại có kì hạn tính đến tháng 1/1996 cũng gấp 12,469 lần so với năm 1981. Con số này còn cao hơn đối với hợp đồng mua lại đảo chiều qua đêm với doanh số tăng gấp 17.599 lần qua 15 năm. Chính sự mở rộng về cả tỉ trọng và số tuyệt đối của giao dịch có kì hạn đã đã cho thấy tầm quan trọng trong việc điều tiết vốn khả dụng của FED đối với vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng và lượng tiền mặt trong lưu thông. Bên cạnh chứng khoán chính phủ có tính thị trường cao, Cục dự trữ liên bang Mĩ còn sử dụng giấy nhận nợ của tổ chức liên bang, hối phiếu NHTM trong các giao dịch của mình. Đối tác giao dịch với ngân hàng dự trữ liên bang Mĩ trong NVTTM cũng không bị hạn chế. Thông thường bất kì ai sở hữu chứng khoán đủ điều kiện đều có thể trở thành đối tác giao dịch của NHTƯ trong NVTTM. Thời hạn của các chứng khoán chính phủ cũng khá đa dạng, thường từ 1 đến trên 10 năm. Có thể nói, thị trường Mĩ có một độ mở rất cao, các qui chế cũng tương đối thông thoáng. Điều đó phù hợp với tính chất nền kinh tế năng động, đa dạng của Mĩ. Tuy vậy, người ta cho rằng, NVTTM của FED dù sao vẫn chỉ có tác động đến phần dự trữ hình thành do giao dịch với NHTƯ, còn phần dự trữ tạo nên nhờ đi vay từ các TCTD khác vẫn chưa được điều chỉnh một cách trực tiếp. Do vậy hiện nay FED đang sử dụng thêm các công cụ khác để hỗ trợ cho những nhu cầu tăng dự trữ trong dài hạn (như cho vay tái chiết khấu...), từ đó góp phần hạn chế những biến động mạnh của thị trường. 2. Những nhận xét chung về NVTTM tại các nước. Qua tiếp cận 3 đại diện là NHTƯ Châu Âu, Nhật Bản, Mĩ, ta có thể thấy rằng, NVTTM là công cụ lí tưởng, nhiều ưu việt và tính ưu việt của nó càng được hỗ trợ, phát huy thông qua phương thức giao dịch có kì hạn dưới hình thức hợp đồng mua lại hoặc hợp đồng mua lại đảo chiều. Kết luận này được rút ra từ một số thực tế như sau : - Repos đóng vai trò quan trọng thể hiện qua tỉ trọng giao dịch lớn Có thể nói, tỉ trọng giao dịch mua - bán có kì hạn luôn cao hơn giao dịch mua bán hẳn. Điều này là phù hợp với tình hình kinh tế phát triển ổn định của các nước, thông thường chỉ có những thiếu hụt tạm thời về nguồn vốn, nhu cầu thay đổi dự trữ trong một thời gian dài là rất ít. Hơn nữa, không phải khi nào mức độ dự báo Vốn khả dụng của NHTƯ cũng hoàn toàn chính xác, do đó, giao dịch có kì hạn sẽ là phương thức hiệu quả khi điều hành CSTT. Điều đáng lưu ý là càng ở các nước phát triển, nhu cầu giao dịch qua đêm càng chiếm tỉ trọng cao để đáp ứng sự thiếu hụt tức thì của các đối tác (ví dụ điển hình là Mĩ). Tất nhiên để làm được điều này còn phải phụ thuộc rất lớn vào trình độ chỉ đạo của NHTƯ, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật cũng như sự phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng. - Thời điểm sử dụng Repos Thông thường người ta chia sự phát triển của NVTTM thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, NVTTM mới đi vào hoạt động và còn khá buồn tẻ. Đây còn được gọi là giai đoạn hình thành thị trường. Sau đó là giai đoạn hoạt động ổn định, linh hoạt và sôi động của thị trường. Trước đây có nhiều ý kiến cho rằng, trong lúc NVTTM đang hình thành thì phương thức mua bán hẳn mới phù hợp. Tuy nhiên có một thực tế là nếu chỉ sử dụng giao dịch mua bán hẳn thì sẽ làm giảm đi rất nhiều sự chủ động, linh hoạt của NHTƯ trong việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng. Hơn nữa, hàng hoá lúc này trong NVTTM còn rất ít. Việc mua bán hẳn sẽ làm thay đổi luồng chứng khoán, gây sức ép lên cung - cầu lượng chứng khoán vốn đang còn nghèo nàn. Với một giao dịch có kì hạn, luồng chứng khoán không bị đứt đoạn mà vẫn có thể điều tiết được vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng với chi phí rất khiêm tốn. Chính vì vậy, ở các nước, ta thấy Repos dược sử dụng ngay từ đầu khi mới hình thành NVTTM và dần dần chiếm một vị trí quan trọng trong tổng số giao dịch trên thị trường. Tất nhiên không thể phủ định ưu điểm của giao dịch mua bán hẳn, cho nên, nếu có sự kết hợp, xử lí hài hoà các phương thức giao dịch thì hiệu quả điều tiết CSTT sẽ được tăng lên rất nhiều. - Những hàng hoá được sử dụng thường xuyên trong Repos Đã là hàng hoá, hầu như thị trường nào cũng quan tâm đến chất lượng, tức là khả năng thanh khoản, mức độ rủi ro...Tuy nhiên, trong phương thức giao dịch Repos, độ lỏng, tính an toàn của các giấy tờ không nhất thiết phải ở mức cao. Phải nhấn mạnh lại rằng, hàng hoá sử dụng trong phương thức này như một vật thế chấp. Nếu NHTƯ cung tiền cho TCTD, khi hợp đồng đáo hạn, nếu TCTD hoàn trả khoản vay thì sẽ được nhận lại các giấy tờ có giá của mình. Chính vì lí do này mà sự an toàn trong hoạt động tài chính cũng như mức độ tin cậy của các đối tác mới là vấn đề đáng quan tâm hơn cả để thực hiện được các nghĩa vụ trả nợ. ở đây, điều kiện thông thường của các đối tác là: - Phải đảm bảo độ tin cậy nhất định về khả năng trả nợ và trả nợ đúng hạn. - Việc giao dịch với các đối tác đó mang lại hiệu quả tích cực trong quá trình thực hiện CSTT của NHTƯ Ngoài ra ở từng nước, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà NHTƯ sẽ đưa ra những chuẩn mực riêng cho phù hợp. Hiện nay, những chứng khoán hay được ưu tiên sử dụng phải kể đến tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, kì phiếu, trái phiếu ngân hàng..., sau đó đến các loại thương phiếu do phía doanh nghiệp phát hành qua mua bán chịu nên có tính rủi ro cao hơn. Với tính thanh khoản cao, uy tín lớn, có thị trường thứ cấp phát triển nên ở nhiều nước, tín phiếu kho bạc hầu như là một công cụ chủ yếu của TTM. Trở lại vấn đề là có sự khác nhau trong quan điểm sử dụng các chứng khoán ngắn, dài hạn khác nhau ở mỗi nước trên TTM. Giải thích cho việc chỉ cho phép mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, nhiều nước đưa ra lí do về độ kém an toàn của các chứng khoán dài hạn (thời gian càng dài, rủi ro càng lớn). Hơn nữa, trong phương thức mua bán hẳn, phải đợi đến hết thời hạn, nhiều khi đến hàng chục năm mới thu hồi được tiền về... nên sẽ gây ra rất nhiều rắc rối. Song khi có sự hỗ trợ của kĩ thuật trong phương thức giao dịch kì hạn, chứng khoán chỉ tạm chuyển quyền sở hữu, có khi chỉ trong một thời gian rất ngắn tuỳ vào sự thoả thuận của hai bên. Với phương thức Repos, vấn đề thời hạn trở nên đơn giản và chính nó là tiền đề dể làm phong phú hơn danh mục hàng hoá trên thị trường. Để giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra, việc thiết lập các biện pháp chống đỡ là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, không phải nước nào cũng triển khai công việc này một cách tích cực như NHTƯ Châu Âu. 3. Khả năng vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy việc áp dụng NVTTM là có hiệu quả, linh hoạt và hầu như đang được áp dụng phổ biến ở các nước. Song để triển khai nghiệp vụ này vào thực tế, nhất là trong điều kiện thị trường mới hình thành, còn đang trong giai đoạn hoạt động cầm chừng thì không đơn giản. Muốn áp dụng NVTTM một cách sớm nhất và có hiệu quả nhất, nền kinh tế nói chung, thị trường mở và khả năng điều hành của NHTƯ nói riêng nhất thiết phải qui tụ được những điều kiện sau : - Hàng hoá được sử dụng cần đảm bảo tính thanh khoản cao. NVTTM chỉ có thể hiện hữu trong môi trường có sự mua đi bán lại các giấy tờ có giá một cách sôi nổi, khối lượng giao dịch lớn, đồng thời việc vay mượn lẫn nhau giữa các TCTD đã trở thành tập quán, thói quen. Hàng hoá ở đây phải thoả mãn điều kiện có độ an toàn cao, tính thanh khoản lớn. Tuy nhiên, những hàng hoá có độ rủi ro cao hơn vẫn có thể được sử dụng thông qua kĩ thuật xử lí nếu thực hiện giao dịch có kì hạn, bởi trong giao dịch này, người ta coi hàng hoá như một vật thế chấp, đồng thời có một loạt các biện pháp chống đỡ rủi ro sẽ được áp dụng. Thông thường, những chứng khoán có thời hạn dài sẽ có tính an toàn ít hơn hoặc do các đối tác có độ tin cậy kém hơn Kho bạc, NHTƯ... phát hành. Việc có đưa vào sử dụng các chứng khoán dài hạn hay không sẽ phụ thuộc vào CSTT chú ý nhiều đến tính lỏng hay tính thời hạn của công cụ tài chính. Nếu mối quan tâm nhằm vào tính thời hạn (ngắn hạn) thì trên thực tế, nhiều công cụ có tính dài hạn có khi lại chuyển đổi nhanh hơn công cụ ngắn hạn song vẫn bị loại bỏ. Ngược lại, nhiều giấy tờ có giá ngắn hạn rất khó chuyển đổi, không phù hợp với yêu cầu điều chỉnh linh hoạt CSTT. Nếu NHTƯ xây dựng được một cơ chế kiểm soát rủi ro thì việc sử dụng các chứng khoán dài hạn là hoàn toàn có tính khả thi . - Đối tác trên thị trường mở của NHTƯ phải đảm bảo những điều kiện nhất định. Trước hết các đối tác được lựa chọn phải thoả mãn những yêu cầu về khả năng tài chính . Thứ hai, sự tác động vào các đối tác này có ảnh hưởng mạnh đến các mục tiêu trung gia của CSTT mà NHTƯ theo đuổi . Qua xem xét NVTTM của các nước, ta tháy có sự khác biệt về phạm vi đối tác tham gia. Trong khi NVTTM của FED và ECB lựa chọn đối tác với phạm vi rộng thì phạm vi này ở NHTƯ Nhật Bản tương đối hẹp, chỉ giới hạn trong một số NHTM, tanshi và một số công ty chứng khoán . Vậy, qui mô rộng hay hẹp của đối tác không phải là điều quyết định hiệu quả của thị trường mở. Vấn đề then chốt là khả năng chi phối thị phần của các đối tác được lựa chọn và khả năng quản lí của NHTƯ. Bởi nếu mở rộng quá mức thành viên tham gia mà không có sự điều tiết hài hoà thì sẽ gây tình trạng rối loạn thị trường và những hậu quả không lường trước. Nhưng nếu có quá ít đối tác thì sẽ làm mất đi tính thị trường, nhu cầu mua bán có nhưng sẽ không phản ánh thực tế, từ đó gây hạn chế trong khả năng tác động của NVTTM. - Khả năng dự báo vĩ mô của NHTƯ Việc đưa ra những dự báo xu hướng phát triển của nền kinh tế, mức lạm phát, thất nghiệp ...trong tương lai sẽ quyết định đến CSTT của NHTƯ. Đó có thể là một CSTT mở rộng để khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện tình trạng nền kinh tế đang có chiều hướng suy thoái. Hoặc khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát giá tăng, NHTƯ sẽ hoạch định CSTT thắt chặt nhằm thu hẹp đầu tư, kìm hãm tăng trưởng quá mức của nền kinh tế. Tuỳ trong từng trường hợp mà NHTƯ sẽ sử dụng các công cụ để bơm tiền hoặc rút bớt tiền về. Nếu lựa chọn NVTTM để thực hiện thì xuất phát từ việc dự báo của mình, NHTƯ sẽ lập kế hoạch về thời gian, qui mô các nghiệp vụ, lựa chọn phương thức giao dịch Repos hay mua bán hẳn, mức lãi suất thích hợp, kì hạn, liều lượng... để thu hút sự quan tâm của đối tác. Điều này đòi hỏi nỗ lực, trình độ, kiến thức, thậm chí cả tính nghệ thuật trong điều hành CSTT. Hơn nữa, do có nhiều diễn biến không thuận có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên nhiều khi NVTTM phải thay đổi theo những tín hiệu thất thường của việc đấu thầu trên thị trường sơ cấp hơn là ý đồ ban đầu của NHTƯ... Bởi vậy, trình độ kế hoạch hoá của NHTƯ là rất quan trọng. - Hiệu quả của công tác dự đoán vốn khả dụng Vốn khả dụng của các ngân hàng là nguồn vốn sẵn sàng để thực hiện nghĩa vụ tài chính của ngân hàng đối với các tổ chức phi ngân hàng và NHTƯ. Phần vốn khả dụng này chia thành dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức. Việc dự báo vốn khả dụng thực chất là phân tích, dự báo sự biến động nhu cầu vốn khả dụng và các nguồn cung ứng vốn khả dụng, từ đó nhận biết trước sự chênh lệch cung cầu vốn khả dụng có khả năng ảnh hưởng tới các mục tiêu hoạt động và chủ động điều chỉnh để đạt được các mục tiêu đó.Sự điều chỉnh hàng ngày các chênh lệch giữa cung và cầu vốn khả dụng được thực hiện thông qua hoạt động điều tiết của NHTƯ trên thị trường tiền tệ và làm thay đổi khoản mục “cho vay các ngân hàng ròng”. Xem xét bảng tổng kết tài sản của NHTƯ, ta thấy: Tài sản có Tài sản nợ -Tài sản có ngoại tệ ròng -Tiền mặt lưu thông -Cho vay ròng đối với NS - Dự trữ của các NH -Cho vay ròng đối với NH + DTBB - Các khoản khác ròng + Dự trữ vượt mức Muốn dự báo vốn khả dụng phải được điều chỉnh với một khối lượng bao nhiêu, ta phải dự báo được một loạt các yếu tố sau: DCho vay các NH ròng = D Dự trữ NH {Cầu}-(D tài sản có ngoại tệ ròng + D cho vay chính phủ ròng +Dcác tài sản có khác ròng - D tiền mặt lưu thông){Cung } Trong các yếu tố trên, việc dự báo nhu cầu tiền mặt của khách hàng, nhu cầu thanh toán bù trừ qua NHTƯ, nhu cầu giao dịch với NHTƯ, yêu cầu dự trữ bắt buộc của NHTƯ...có thể được dự báo tương đối chính xác. Tuy nhiên, việc dự báo sự biến động của nguồn vốn khả dụng gồm: Sự biến động tài sản có ngoại tệ ròng, cho vay chính phủ ròng và những thay đổi của lượng tiền mặt ngoài lưu thông... gặp phải rất nhiều khó khăn, cho nên ở nhiều nước, việc dự báo vốn khả dụng được thực hiện trên cơ sở số liệu lịch sử được thu thập với những thời điểm khác nhau. Kết quả của dự báo sẽ là căn cứ quan trọng để đưa ra quyết định về liều lượng, cách thức can thiệp trên thị trường mở. Thiếu sự dự báo và quản lí vốn khả dụng, việc điều hành CSTT, điều tiết lượng tiền cung ứng của NHTƯ sẽ trở nên bị động và thường đi sau những diễn biến thực tế. Vì lẽ đó, sự chính xác khối lượng vốn khả dụng có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả của hành vi can thiệp thị trường (bơm thêm hay hút bớt vốn khả dụng từ ngân hàng). Tuy nhiên, nếu điều kiện thị trường tài chính chưa phát riển, mức độ chứng chỉ hoá các hoạt động huy động vốn và cho vay của các tổ chức tín dụng thấp, sử dụng hệ thống công cụ điều tiết trực tiếp là chủ yếu, kĩ thuật dự báo kém... thì việc không quản lí tốt vốn khả dụng là điều tất yếu. Rõ ràng, việc dự báo sẽ càng chính xác trong điều kiện môi trường ảnh hưởng ổn định. Nếu môi trường có sự biến động thì tính chính xác của dự báo lại phụ thuộc vào việc xác định tỉ lệ sai số. Nhằm giảm thiểu sự tác động của những sai lệch trong dự báo, giao dịch có kì hạn là một phương thức có hiệu quả cao bởi tự nó có thể đảo ngược để trở về vị trí ban đầu sau thời hạn cam kết. - Trạng thái can thiệp của NHTƯ Sau khi đã lên kế hoạch thực hiện CSTT, dự báo chính xác lượng vốn khả dụng cần điều chỉnh, NHTƯ sẽ quyết định trạng thái can thiệp của NVTTM. Có thể NHTƯ sẽ phải thay đổi hẳn cơ số tiền tệ (tăng hoặc giảm MB) nhằm mở rộng hay nới lỏng CSTT song cũng có thể NHTƯ chỉ muốn duy trì chỉ tiêu tiền tệ như cũ, tức là bù lại những chuyển động của các nhân tố đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ. Nói cách khác, khi nền kinh tế đang phát triển ổn định, không có dấu hiệu lạm phát hoặc suy thoái, NHTƯ luôn đặt mục tiêu duy trì một điều kiện tiền tệ như cũ. Trong trường hợp tác động làm biến đổi hẳn cơ số tiền tệ (tức là khi nền kinh tế cần có những thay đổi thực sự), ưu điểm của Repos chưa được thể hiện rõ bởi NHTƯ có thể lựa chọn hoặc phương thức mua bán hẳn hoặc giao dịch có kì hạn.Tuy nhiên trong trường hợp duy trì điều kiện tiền tệ, giao dịch kì hạn, đặc biệt là hợp đồng mua lại qua đêm lại có tác dụng hơn cả. - Sự phát triển của thị trường liên ngân hàng. Xem xét quá trình hoạt động của thực hiện NVTTM các nước, ta có thể thấy hoạt động của nghiệp vụ trên thị trường này chính là hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng nội tệ và ngoại tệ. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là nơi các ngân hàng vay, gửi lẫn nhau. Khi thị trường này càng sôi động thì mối quan hệ tương tác và sự phụ thuộc giữa các ngân hàng càng lớn. Chính vì vậy, từ sự thay đổi lượng dự trữ của một ngân hàng mà lan truyền ảnh hưởng đến các ngân hàng khác và toàn hệ thống. Đương nhiên, nếu thị trường vốn ngắn hạn, thường xuyên giữa các ngân hàng không phát triển thì quyền lực tác động của NVTTM tới khối tiền cung ứng sẽ bị hạn chế. Kết luận: Như vậy chúng ta đã tìm hiểu một cách tổng quát về NVTTM, trong đó đi sâu phân tích hiệu quả và khả năng áp dụng phương thức hợp đồng mua lại (giao dịch có kì hạn), một phương thức giao dịch có rất nhiều ưu việt và đang được áp dụng phổ biến tại nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, NVTTM mới ra đời và Repos thậm chí vẫn còn là một thuật ngữ rất mới, gây nhiều lúng túng trong cách hiểu và thực hiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng phương thức giao dịch hợp đồng mua lại trong điều hành CSTT ở các nước nhằm rút ra những bài học cho Việt Nam trong bước đầu của hoạt động NVTTM. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả Nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam Như chúng ta đã biết, Chính phủ Việt Nam đang theo đuổi một chính sách phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định. Do đó, chính sách tiền tệ nới lỏng đang được áp dụng. Công cụ chính sách tiền tệ được lựa chọn chủ yếu sẽ là NVTTM do tính chất linh hoạt và chủ động của nó. Do đó để đẩy mạnh và hoàn thiện nghiệp vụ này, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động ổn định, sôi động để từng bước đưa NVTTM trở thành công cụ chủ yếu linh hoạt và hiệu quả trong chính sách thị trường và mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng, trong thời gian tới cần phải thực hiện một số giải pháp sau: 1. Tăng nhanh chủng loại hàng hoá giao dịch Muốn tăng cường chủng loại hàng hoá vốn dĩ đang rất nghèo nàn hiện nay: - Cần đưa vào sử dụng những giáy tờ có giá chất lượng tốt đã được lưu hành như: thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kì phiếu Ngân hàng. Kinh nghiệm cho thấy đây là những hàng hoá được mua bán rất phổ biến trong NVTTM ở các nước phát triển . - Mở rộng hơn điều kiện để giấy tờ có giá được tham gia giao dịch NVTTM, chẳng hạn quy định về thời hạn của chứng khoán cần bao gồm loại trung dài hạn ...bên cạnh những giấy tờ ngắn hạn như trước đây. - Tạo điều kiện cho các loại hàng hoá mới ra đời bằng việc ban hành khung luật pháp về việc phát hành và lưu thông giấy tờ có giá . 2. Mở rộng phạm vi đối tác trong hoạt động NVTTM Với những đối tác đã được lựa chọn, tức là các TCTD đủ tiêu chuẩn, hiện chỉ có khoảng 30% trên tổng số tham gia NVTTM. Để NVTTM trở nên hấp dẫn hơn vớ các đối tác thì bản thân lãi suất trong các phiên đấu thầu cần phù hợp với thị trường và dễ chấp nhận hơn. Ngay cả vấn đề thủ tục thanh toán cần được đơn giản hoá, đảm bảo nhanh gọn, an toàn, chính xác. 3. Tăng cường hiệu quả sử dụng phương thức giao dịch hợp đồng mua lại 3.1. Về định giá chứng khoán Trước mắt, có thể tạm chấp nhận công thức tính giá của hợp đồng mua lại chưa tính đến yếu tố đảm bảo rủi ro nhưng về lâu dài cần phải sử dụng công thức tính toán chính xác để đảm bảo an toàn cho NHTƯ như ở các nước phát triển. Muốn vậy, NHNN cần có đội ngũ cán bộ dần dần xây dựng và hoàn thiện kĩ thuật giao dịch . 3.2. Về hình thức đấu thầu Về lí thuyết, hình thức đấu thầu gồm có đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng. Tuy nhiên, khi chủ thể tham gia đã phát triển cả về số lượng và cả chất lượng thì NHNN nên lựa chọn đầu thầu lãi suất để đảm bảo tính thị trường của NVTTM. Còn trong điều kiện hiện nay, khi số lượng chủ thể còn ít và cạnh tranh kém, NHNN đã và đang sử dụng khá nhiều lần hình thức đấu thầu khối lượng để giữ cho lãi suất tiền tệ ổn định thì vai trò quan trọng của NHTƯ là định ra các mức lãi suất hợp lí để các phiên giao dịch đạt hiệu quả. NHNN cần phải thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở. Nếu trọng tâm các biện pháp của chính sách tiền tệ hướng vào việc kiểm soát chặt chẽ khối tiền tệ thì áp dụng phương pháp giá cố định là không thích hợp. Trong trường hợp này NHNN phải thực hiện phương thức đấu thầu nhằm nhanh chóng đạt được một khối lượng mua bán cần thiết. Nếu chính sách tiền tệ đặt trọng tâm vào việc điều tiết lãi suất thì NHNN nên áp dụng phương pháp giá cố định. Ban điều hành NVTTM phải nghiên cứu, xác định lãi suất phát hành và lãi suất đó là lãi suất thấp từ thông tin tiền tệ, nhằm giảm lãi suất tiền tệ theo mục tiêu đã định. Ngược lại khi cần tăng lãi suất tiền tệ khống chế khối lượng tiều tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tiến phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất ấn định cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung, đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp được khối tiền tệ ngoài lưu thông như dự định. 3.3. Về loại hợp đồng mua lại Muốn sử dụng đa dạng cáchợp đồng mua lại, NHNN cần nâng cao kĩ năng dự đoán vốn khả dụng để các phiên giao dịch được thường xuyên hơn. Thêm vào đó, NHNN cần hạn chế sử dụng các hình thức cấp vốn khác cho TCTD như: tái cấp vốn, cấp vốn theo chỉ định ..., để các TCTD thấy cần thiết và tích cực tham gia giao dịch NVTTM. Cần tiến tới các phiên giao dịch hàng ngày và sử dụng nhiều loại hợp đồng mua lại. 3.4. Về các điều kiện sử dụng hợp đồng mua lại. NHNN cần có văn bản quy định rõ trong trường hợp nào sử dụng hợp đồng mua lại, mà chủ yếu là trong những giao dịch nhằm duy trì chỉ tiêu tiền tệ hay ở những trường hợp dự báo không chính xác.Trong khi đó, mua bán hẳn chỉ nên được sử dụng trong những giao dịch thay đổi chỉ tiêu tiền tệ một cách tương đối dài hạn . 4. Nâng cao khả năng dự báo vốn khả dụng Trong mỗi phiên giao dịch, khối lượng trúng thầu dự kiến thường cách xa với khối lượng trúng thầu thực tế. Đó chính là hậu quả của khả năng dự báo vốn khả dụng của NHNN chưa cao. Hiện nay, vốn khả dụng của ngân hàng biến động thường xuyên với biên độ mạnh xuất phát từ sự biến động trong tài sản có ngoại tệ cũng như chi tiêu ngân sách Nhà nước. Vì thế, để dự báo mang tính khoa học, chính xác hơn so với việc dự báo còn thiên về cảm tính như hiện nay, cần: - Thu thập và xử lí thông tin từ nhiều nguồn đồng thời phải luôn cập nhật những thông tin mới, chính xác nhất . - Nâng cao tần số dự báo hơn so với 10 ngày như trước đây. 5. Xây dựng một thị trường tiền tệ năng động, đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng Củng cố, phát triển thị trường tiền tệ (thị trường tiền tệ liên ngân hàng,...), làm cơ sở cho NVTTM hoạt động có hiệu quả. Để làm điều này cần tiếp tục đẩy mạnh tiến độ hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước nhằm mục đích tăng cường khả năng điều chuyển vốn trong hệ thống các ngân hàng. Việc vay vốn theo các hình thức tái cấp vốn, tái chiết khấu chỉ nên thực hiện khi NHNN thực sự đóng vai trò "Người cho vay cuối cùng" để đảm bảo an toàn hệ thống. Nói một cách khác, NHNN cần khuyến khích các ngân hàng vay mượn lẫn nhau,và chỉ can thiệp vào thị trường để đảm bảo khả năng thanh toán cho các ngân hàng, sau khi các ngân hàng đã thực hiện vay mượn lẫn nhau. Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong đề án cải cách hệ thống ngân hàng, đặc biệt là cải thiện tình hình tài chính và tỉ lệ an toàn của các ngân hàng. Đối với khả năng phát huy hiệu quả của NVTTM, vấn đề quan trọng là khắc phục tình trạng dư thừa vốn trong quá trình hoạt động, tính toán và quản lý vốn khả dụng của các ngân hàng, xác lập hệ thống thông tin hai chiều giữa NHNN và NHTM. Các giải pháp xử lí nợ quá hạn, nâng cao quy mô vốn điều lệ của các NHTM cổ phần, các yêu cầu tổ chức lại hệ thống ngân hàng,... là những vấn đề mà NHNN cần chú trọng. 6. Các biện pháp liên quan khác Quá trình thu thập dữ liệu (kể cả số liệu hàng ngày) cần được tiến hành ngay từ giai đoạn đầu của thị trường mở. Các số liệu này cung cấp cơ sở cho sự giám sát và ra quyết định về NVTTM. Vì vậy để góp phần cho thị trường mở hoạt động tốt cũng như tạo điều kiện cải cách hệ thống Ngân hàng, NHNN cần cải tiến công tác thống kê, thu thập thông tin từ NHTM và TCTD. Việc giữ gìn hay công bố thông tin nên sớm tuân theo các tổ chức quốc tế, nên có sự đồng bộ, thống nhất giữa các Bộ, ngành có liên quan. Các thông tin về vòng quay tiền, tiền gửi chính phủ, tỉ giá hối đoái,... cần được liên tục tiếp cận với thị trường. Nếu như NHNN không cải tiến và cụ thể hoá công tác thông tin thì NVTTM cũng như nhiều hoạt động chuyên môn khác sẽ không chính xác, không cập nhật, gây cản trở cho việc ra quy định tức thời và khả năng điều chỉnh của NHNN III. Một số kiến nghị 1. Về phía Chính phủ Trong thời gian tới, Chính phủ nên thông qua và sửa đổi một số điều qui định về NVTTM (điều 9, điều 21...) trong luật Ngân hàng Nhà nước theo đề nghị của NHNN để tạo cơ sở pháp lí mở rộng chủng loại hàng hoá được phép giao dịch trên thị trưòng mở. 2. Về phía Ngân hàng Nhà nước 2.1. Tăng nhanh chủng loại hàng hoá giao dịch Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hoá có thể giao dịch cho NVTTM. Ngân hàng Nhà nước nên đề nghị Chính phủ trình quốc hội sửa luật ngân hàng Nhà nước (Điều 9, Điều 4 và Điều 21) để Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện NVTTM với các giấy tờ có giá nói chung, chứ không phải chỉ là các giấy tờ có giá ngắn hạn như đã quy định. Ngoài giấy tờ có giá ngắn hạn được phép lưu hành trên thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước nên sử dụng cả các loại chứng khoán dài hạn có thời hạn còn lại dưới một năm và có tính thanh quản cao như các loại chứng khoán Chính phủ khác. Như vậy công cụ lưu hành trên thị trường mở sẽ đa dạng hơn và cũng phù hợp với quy định của các nước khác. Trên thực tế, lượng trái phiếu kho bạc có thời hạn một năm hiện nay khá lớn, nếu được sử dụng làm hàng hoá cho thị trường mở thì sẽ góp phần giải quyết khó khăn về thiếu hàng hoá hiện nay. Để tạo điều kiện cho vấn đề chuyển nhượng mua bán các chứng từ có giá hình thành các giao dịch hợp pháp trên thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành khung luật pháp về việc phát hành và lưu thông các chứng từ có giá; nghiên cứu khả năng sử dụng các chứng khoán do các tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành (như trái phiếu ngân hàng và phát triển Việt Nam) làm công cụ cho NVTTM, đồng thời làm lưu động hoá được các khoản tiền gửi tiết kiệm. 2.2. Mở rộng phạm vi đối tác hoạt động NVTTM Để mở rộng các đối tác tham gia trên thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản pháp lý, cơ chế, quy chế liên quan đến NVTTM để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường, xây dựng thị trường hoạt động linh hoạt, hiệu quả. Nếu phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở chủ yếu gồm các NHTM và các tổ chức tín dụng khác thì khi Ngân hàng Nhà nước có biện pháp mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở, sẽ chỉ tác động đến khối lượng các phương tiện thanh toán qua các NHTM, tổ chức tín dụng, sau đó mới tác động đến khu vực phi ngân hàng và toàn xã hội. Khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua bán thẳng với các khu vực phi ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến khối tiền tệ, trực tiếp tới M1, tác dụng sẽ nhanh chóng và chắc chắn hơn. Do vậy để công cụ NVTTM có thể thực hiện tốt chức năng điều tiết mức cung ứng tiền tệ, đề nghị nên quy định tham gia thị trường mở không chỉ có Ngân hàng Nhà nước và kho bạc Nhà nước, các NHTM, tổ chức tín dụng mà còn phải có các chủ thể kinh tế khác. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục tuyên truyền và bồi dưỡng kiến thức về NVTTM cho các tổ chức tín dụng để khuyến khích các tổ chức tín dụng đủ điều kiện tích cực tham gia NVTTM. 2.3. Nâng cao khả năng dự báo vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng Ngân hàng Nhà nước cần tập trung nâng cao chất lượng công tác điều hành tiền tệ mở: tăng cường cán bộ dự báo vốn khả dụng, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ các vụ, cục Ngân hàng Nhà nước, giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính, kho bạc nhà nước. Từng bước chuẩn bị các điều kiện để nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường, tiến tới mục tiêu thực hiện NVTTM hàng ngày để kịp thời điều tiết vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cần sử dụng tích cực hơn nghiệp vụ Swap cho mục đích điều tiết vốn khả dụng không chỉ coi nghiệp vụ này phục vụ điều hoà thị trường ngoại hối. 2.4 Xây dựng thị trường tiền tệ năng động, đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Trước mắt Ngân hàng Nhà nước cần khẩn trương ban hành quy chế tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cần hạn chế việc cung ứng tín dụng của mình cho các NHTM thông qua cửa sổ chiết khấu. Nếu không có những hạn chế này, thì NVTTM không thể sử dụng như một công vụ tiền tệ chủ yếu để kiểm soát tiền dự trữ của các ngân hàng và các định chế tài chính nói chung. Để hạn chế cung ứng tín dụng, NHTƯ các nước thường thực hiện tăng lãi suất tái cấp vốn hoặc đặt ra các quy định hạn chế khi NHTM muốn vay tiền tại cửa sổ chiết khấu. Điều này sẽ làm giảm tính hấp dẫn nguồn tín dụng qua NHTƯ, từ đó, khuyến khích các ngân hàng phải tìm nguồn bổ sung từ NVTTM. 2.5. Phát huy hiệu quả phương thức giao dịch hợp đồng mua lại Ngân hàng Nhà nước cần sớm nghiên cứu và ban hành những văn bản như: - Định giá chứng khoán làm đảm bảo. - Các điều kiện sử dụng giao dịch hợp đồng mua lại - Loại hàng hoá đặc trưng trong hợp đồng mua lại. - Các chế tài kiểm soát rủi ro trong hợp đồng mua lại 3. Về phía Bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước 3.1. Tăng nhanh chủng loại hàng hoá giao dịch Bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước cần phối hợp với Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu để củng cố và phát triển thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc làm cơ sở cung cấp nguồn hàng hoá chủ yếu cho thị trường mở. Trước mắt, đề nghị Bộ tài chính hạn chế dần việc phát hành trái phiếu bán lẻ ra công chúng, tập trung vào việc phát hành qua các hình thức đấu thầu trong đó có đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nắm giữ thêm lượng hàng hoá có thể giao dịch NVTTM. Đặc biệt, nên phát hành các loại tín phiếu kho bạc Nhà nước với thời hạn ngắn hơn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng để tạo điều kiện cho hoạt động NVTTM sôi động hơn. Đồng thời, nghiên cứu để có cơ chế sao cho Ngân hàng nhà nước có thể nắm giữ trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc Nhà nước (mua sơ cấp hoặc mua hẳn trên thị trường thứ cấp), từ đó có công cụ chủ động điều hành thị trường tiền tệ. 3.2. Mở rộng phạm vi đối tác của NVTTM Để thu hút thêm thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đề nghị Bộ tài chính bỏ việc khống chế lãi suất đấu thầu dưới hình thức lãi suất chỉ đạo. Lãi suất đấu thầu cần để cho thị trường quyết định. 3.3. Nâng cao khả năng dự đoán vốn khả dụng Bộ tài chính và Kho bạc nhà nước cần cung cấp số liệu một cách chính xác, cập nhật và thường xuyên cho Ngân hàng nhà nước để phục vụ công tác tổng hợp, phân tích thông tin và dự báo vốn khả dụng của Ngân hàng nhà nước. 4. Về phía các tổ chức tín dụng Các tổ chức tín dụng cần nhận thức được tầm quan trọng của NVTTM để tích cực tham gia. Do NVTTM được thực hiện trên cơ sở hệ thống, máy tính, điện thoại, telex, fax... hiện đại. Vì vậy, các tổ chức tín dụng cần trang bị máy tính cần thiết và nối mạng với máy tính trung tâm cũng như trong nội bộ hệ thống tổ chức tín dụng để tiếp nhận, cung cấp và xử lý thông tin kịp thời. Sự trợ giúp của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước lúc này là cần thiết. Ngoài ra cần quan tâm tạo cơ sở vật chất, bố trí các cán bộ chuyên trách, tham gia tập huấn... và có sự phối hợp cung cấp thị trường kịp thời phục vụ công tác điều hành NVTTM của NHNN, tăng cường công tác hiện đại hoá hệ thống thanh toán trong nội bộ tổ chức tín dụng. Hệ thống NHTM cần tiếp tục đổi mới công nghệ thanh toán, tiến tới thực hiện xã hội hoá việc mở tài khoản thanh toán cho các chủ thể trong xã hội, có như vậy khi các chủ thể này tham gia mua bán tín phiếu trên thị trường mở, nó sẽ nhanh chóng tác động ngay đến khả năng tín dụng của các NHTM và công cụ NVTTM mới có thể phát huy hết các ưu thế vốn có của nó. 5. Về phía Bộ kế hoạch và Đầu tư, tổng cục thống kê và các bộ ngành khác có liên quan Bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê và các bôl ngành có liên quan cần cung cấp thông tin, số liệu chính xác, thường xuyên, phối kết hợp với NHNN cũng như các NHTM để giúp cho quá trình điều hành NVTTM đạt được kết quả cao . kết luận NVTTM là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu của chính sách tiền tệ. ở các nước phát triển, NVTTM có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhiều nước chỉ sử dụng nghiệp vụ này trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, ổn định giá trị đồng tiền. Đối với các nước đang phát triển, NVTTM ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng khi các điều kiện cho nó đã và đang chín muồi. ở Việt Nam, qua hơn 2 năm đi vào hoạt động, NVTTM đã ít nhiều phát huy được tác dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trong đó phương thức giao dịch chủ yếu được sử dụng là mua bán có kỳ hạn dưới hình thức hợp đồng mua lại. Tuy nhiên do những nguyên nhân cả về mặt chủ quan lẫn khách quan, nghiệp vụ này chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Trên cơ sở lý luận về NVTTM, khái quát kinh nghiệm hoạt động của một số nước và phân tích thực trạng vận dụng ở Việt Nam, khoá luận này đã đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này sao cho phù hợp với tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. NVTTM là vấn đề tương đối mới mẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm ở Việt Nam. Vì vậy nâng cao hiểu biết về kỹ thuật và tầm quan trọng của nó ở Việt Nam là rất cần thiết trong thời điểm này. Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức và tìm hiểu thực tiễn, khoáluận sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, quan tâm của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Học viện ngân hàng, TS. Ngô Hướng, ThS Tô Kim Ngọc “Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng” - NXB Thống kê 2001 2. Đại học Ngoại thương, GS - PTS Đinh Xuân Trình, PTS. Nguyễn Thị Quy, Đặng Thị Nhàn, Lê Thị Thanh “Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ”- tập 1 - NXB Giáo dục 1998 3. Học viện Ngân hàng, PTS. Nguyễn Duệ, Nguyễn Văn Tiến, THS.Tô Kim Ngọc “Đồng tiền chung châu Âu và chính sách tiền tệ của NHTW Châu Âu” - NXB Thống kê 1999 4. Frederic S. Mishkin “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính” - NXB Khoa học và kỹ thuật 2001 5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “Tìm hiểu về nghiệp vụ thị trường mở” NHNN - 2002 6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “Báo cáo sơ kết hoạt động NVTTM sau 1 năm hoạt động” - năm 7. 2001Finacial Markets Department - Bank of Japan. “A guide to Bank of Japan’s Market Operations.” - 4/2000 Tạp chí Ngân hàng các số năm 2001 và 2002. Tạp chí Thị trường tài chính các số năm 2001, 2002. Thời báo Ngân hàng các số 2001, 2002. 11. Thời báo kinh tế Việt Nam 2002 Phụ lục phụ lục 01 : Giấy đăng kí tham gia nvTTM Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----o0o---- Ngày........tháng.........năm........ Giấy đăng kí tham gia nghiệp vụ thị trường mở Kính gửi : Ngân hàng nhà nước Việt Nam Tên tổ chức tín dụng: ................................................... Địa chỉ : ............................................................................................................ Điện thoại : ................................... Fax ......................................... Telex: ....................................... Tài khoản tiền gửi VND ......................... tại ............................................ Xin đăng kí tham gia nghiệp vụ thị trường mở tại NHNN và cam kết chấp hành đầy đủ các quy định tại Qui chế nghiệp vụ thị trường mở. Chúng tôi xin giới thiệu chữ kí và xin cấp mã số chữ kí cho những người có tên sau đây tham gia giao dịch nghiệp vụ thị trường mở: Người có thẩm quyền Chức vụ Chữ kí 1 Chữ kí 2 - Người thứ nhất: - Người thứ hai: Người kiểm soát -Người thứ nhất: - Người thứ hai: Người giao dịch lập biểu - Người thứ nhất: - Người thứ hai : Giám đốc tổ chức tín dụng (Ký tên, đóng dấu) Phụ lục 02: Hợp đồng bán và mua lại GTCG NH Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----o0o---- Hợp đồng bán và mua lại giấy tờ có giá ngắn hạn Căn cứ vào quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Qui chế nghiệp vụ thị trường mở và thông báo kết quả trúng thầu ngày.............của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước Bên bán : Ngân hàng..... Sau đây gọi là bên A Địa chỉ : ...................................................................................................................... Điện thoại : ...................................... Fax................................. Số tài khoản : ............................ Bên mua : Ban điều hành Sau đây gọi là bên B Địa chỉ: .......................................................................................................................... Điện thoại : ..................................... Fax................................. Số tài khoản : ............................ Hai bên thoả thuận các nội dung của Hợp đồng như sau: (kèm theo mẫu biểu) 1. Bên A đồng ý bán các giấy tờ có giá ngắn hạn cho bên B với giá là.......đồng trong trời hạn..........ngày. Bên A có trách nhiệm giao các giấy tờ có giá ngắn hạn trên co bên B, đồng thời bên B có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền mua lại các giấy tờ có giá ngắn hạn cho bên A vào ngày.......... 2. Bên A cam kết mua lại các giấy tờ có giá ngắn hạn trên với giá mua lại là...................đồng khi kết thúc hợp đồng. Bên B có trách nhiệm giao lại các giấy tờ có giá ngắn hạn trên cho bên A, đồng thời bên A có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền mua lại các giấy tờ có giá ngắn hạn này vào ngày...... Hợp đồng này có hiệu lực kể từ ngày............ hai bên cam kết thực hiện theo đúng các nội dung thoả thuận của Hợp đồng này và các quy định tại Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 của Thống đốc NHNN. Đại diện bên bán (bên A) Đại diện bên mua (bên B) Biểu kèm theo phụ lục số 02 Tên giấy tờ có giá ngắn hạn Kỳ hạn giấy tờ có giá ngắn hạn Hình thức giấy tờ có giá ngắn hạn Khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán (Triệu đồng) Thời hạn của giao dịch có kỳ hạn Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ, hoặc lãi suất do NHNN thông báo Giá mua Giá bán lại Ngày giao nhận và thanh toán khi kết thúc hợp đồng bán và mua lại Phụ lục 03: Báo cáo kết quả đấu thầu Ngân hàng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số : --------------------------- Hà nội, ngày.............. Báo cáo Kết quả đấu thầu TTM Kính gửi : .......................................... Ngày đấu thầu : Ngày thanh toán : Phương thức đấu thầu : Phương thức xét thầu : Phương thức mua bán : Thời hạn mua bán : Khối lượng dự kiến : Lãi suất thông báo : 1. Số thành viên tham dự: 2. Số thành viên trúng thầu : 3. Lãi suất đăng kí thấp nhất : 4. Lãi suất đăng kí cao nhất : 5. Lãi suất trúng thầu : 6. Tổng số tiền đăng kí hợp lệ : 7. Khối lượng trúng thầu : 8. Tổng số tiền thanh toán trúng thầu : Nơi nhận : T/L Thống đốc Ngân hàng Nhà nước - Ban lãnh đạo NHNN Giám đốc sở giao dịch - Ban điều hành NVTTM. - Vụ CSTT,TD,KTTC,VP. - Các báo. - Chi nhánh NHNN tỉnh, TP liên quan - Lưu SGD. phụ lục số 04: Ngân hàng nhà nước Việt Nam Mẫu số : Bảng kê tổng hợp đăng kí đấu thầu bán GTCGNH Ngày mở thầu : Thời hạn mua (bán):....... Số dự kiến...... (triệu đồng) STT Tổ chức tín dụng và giấy tờ có giá ngắn hạn Hình thức GTCG NH Kì hạn GTCG ngắn hạn Lãi suất dự thầu (%năm) Khối lượng GTCG ngắn hạn khi đến hạn TT (triệu VNĐ) Ngày đến hạn của GTCG Thời hạn còn lại của GTC (Ngày) Giá mua (bán) Tổng số Đại diện BĐHTTM Lập biểu Kiểm soát Giám đốc sở giao dịch NHNN Phụ lục 05: Thông báo bán giấy tờ có giá Ngân hàng nhà nước Việt Nam Sở giao dịch Số : Thông báo bán giấy tờ có giá ngắn hạn Ngày,............................ Kính gửi ....................................................... Căn cứ vào thông báo số............. ngày............của Ban điều hành Nghiệp vụ TTM, Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước thông báo bán giấy tờ có giá theo các nội dung sau : Ngày đấu thầu :.............. Phương thức đấu thầu : ...................... Phương thức xét thầu :.......................... Ngày thanh toán : ......................... Thời hạn giao dịch :....................... Tên giấy tờ có giá ngắn hạn Kì hạn giấy tờ có giá ngắn hạn Hình thức giấy tờ có giá ngắn hạn Khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn tính theo giá trị đến hạn thanh toán (triệu VNĐ) Lãi suất bán giấy tờ có giá ngắn hạn(1) (%/năm) Ngày đến hạn thanh toán cua giấy tờ có giá ngắn hạn Phương thức bán Bán hẳn (Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn (ngày) Bán có kì hạn (thời hạn bán) (ngày) Tổng cộng Giám đốc sở giao dịch ngân hàng nhà nước ___________ (1): Lãi suất do NHNN thông báo trong trường hợp đấu thầu khối lượng Phụ lục 06: Thông báo mua giấy tờ có giá Ngân hàng nhà nước Việt Nam Sở giao dịch Số : Thông báo mua giấy tờ có giá ngắn hạn Ngày,............................ Kính gửi ....................................................... Căn cứ vào thông báo số............. ngày............của Ban điều hành Nghiệp vụ TTM, Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước thông báo mua giấy tờ có giá theo các nội dung sau: Ngày đấu thầu :.............. Phương thức đấu thầu : ...................... Phương thức xét thầu :.......................... Ngày thanh toán : ......................... Thời hạn giao dịch :....................... Tên giấy tờ có giá ngắn hạn Kì hạn giấy tờ có giá ngắn hạn Hình thức giấy tờ có giá ngắn hạn Khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn tính theo giá trị đến hạn thanh toán (triệu VNĐ) Lãi suất mua giấy tờ có giá ngắn hạn(1) (%/năm) Ngày đến hạn thanh toán cua giấy tờ có giá ngắn hạn Phương thức mua Mua hẳn (Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn (ngày) Mua có kì hạn (thời hạn mua) (ngày) Tổng cộng Giám đốc sở giao dịch ngân hàng nhà nước (1): Lãi suất do NHNN thông báo trong trường hợp đấu thầu khối lượng Phụ lục 07: Đăng ký mua giấy tờ có giá cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Ngân hàng …. độc lập - tự do - hạnh phúc Mã Số : -------***------ Đăng ký mua giấy tờ có giá ngắn hạn Ngày,........tháng...........năm......... Kính gửi: Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước Căn cứ vào thông báo bán giấy tờ có giá ngắn hạn số..... ngày........của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước ,………đăng ký mua giấy tờ có giá ngắn hạn như sau : Tên giấy tờ có giá ngắn hạn Kì hạn giấy tờ có giá ngắn hạn Hình thức giấy tờ có giá ngắn hạn Khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn tính theo giá trị đến hạn thanh toán (triệu VNĐ) Lãi suất dự thầu(1) (%/năm) Ngày đến hạn thanh toán cua giấy tờ có giá ngắn hạn Phương thức mua Giá mua(2) Mua hẳn (Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn (ngày) Mua có kì hạn (thời hạn mua) (ngày) Bằng số Bằng chữ Người giao dịch người kiểm soát giám đốc (Ký tên) (Ký tên) (ký tên) Phụ lục 08: Đăng ký bán giấy tờ có giá Ngân hàng …. Mã Số : Đăng ký bán giấy tờ có giá ngắn hạn Ngày........tháng...........năm......... Kính gửi: Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước Căn cứ vào thông báo muagiấy tờ có giá ngắn hạn số..... ngày........của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước ,………đăng ký mua giấy tờ có giá ngắn hạn như sau : Tên giấy tờ có giá ngắn hạn Kì hạn giấy tờ có giá ngắn hạn Hình thức giấy tờ có giá ngắn hạn Khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn tính theo giá trị đến hạn thanh toán (triệu VNĐ) Lãi suất dự thầu(1) (%/năm) Ngày đến hạn thanh toán cua giấy tờ có giá ngắn hạn Phương thức bán Giá bán (2) Bán hẳn (Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn (ngày) Bán có kì hạn (thời hạn bán) (ngày) Bằng số Bằng chữ Người giao dịch người kiểm soát giám đốc (Ký tên) (Ký tên) (ký tên)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan tot nghiep-Trang A7K37l.doc
Tài liệu liên quan