Khóa luận Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO 3 1. Khái niệm quyền bào chữa và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 3 2. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 7 2.1. Cơ sở lý luận 7 2.2. Cơ sở thực tiễn 9 3. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 11 4. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam 12 4.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật TTHS Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành 14 4.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003 20 4.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến nay 21 CHƯƠNG II 24 NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG PHÁP LUẬT 24 TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 24 1. Bảo đảm quyền tự bào chữa 24 1.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố 24 1.1.1. Đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ 24 1.1.2. Bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can 26 1.2. Đảm bảo quyền tự bào chữa trong giai đoạn xét xử 31 2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa 35 2.1. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố 37 2.2. Đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa trong giai đoạn xét xử 42 2.3. Nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 44 3. Đảm bảo quyền có người bào chữa trong những trường hợp pháp luật quy định 45 CHƯƠNG III 49 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ 49 TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 49 NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ 49 THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA 49 CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO 49 1. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 49 1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 49 1.1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 49 1.1.2. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có người bào chữa trong các trường hợp do pháp luật quy định của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 50 1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 53 1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc từ phía cơ quan THTT 53 1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bào chữa 58 1.2.3. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 60 2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 61 2.1. Nguyên nhân về pháp luật 61 2.2. Nguyên nhân thuộc về mặt nhận thức 62 2.3. Nguyên nhân về tổ chức 63 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 65 3.1. Về hoàn thiện pháp luật 65 3.2. Về tổ chức 69 3.3. Về nhận thức 69 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72

doc76 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
góc độ, được tiến hành một cách khách quan, có sự cọ sát giữa buộc tội và gỡ tội, để các quyết định và hành vi tố tụng của các cơ quan THTT được chính xác hơn, tránh được các quyết định sai lầm đặc biệt là việc tuyên một bản án tử hình thiếu chính xác bởi khi bản án ấy được thi hành thì sẽ không bao giờ có thể sửa sai được nữa. Trường hợp thứ hai: bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo pháp luật TTHS nước ta là những bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do đặc điểm lứa tuổi đây là những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm thần; tâm, sinh lý chưa ổn định, nhiều suy nghĩ và hành động còn bột phát, chưa có đầy đủ năng lực để kiểm soát hành vi của mình. Chính vì vậy, có thể nói “trong TTHS, người chưa thành niên được hưởng một sự bảo vệ kép. Lớp bảo vệ thứ nhất là lớp bảo vệ mà pháp luật TTHS giành cho tất cả những công dân tham gia TTHS, lớp bảo vệ thứ hai là lớp bảo vệ đặc biệt giành riêng cho người chưa thành niên”( (1)Bộ Tư pháp-Vụ pháp luật hình sự-hành chính, Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006, tr. 81. ). Bộ luật TTHS nước ta đã dành hẳn 1 chương (Chương XXIII thuộc phần thứ bảy thủ tục đặc biệt) để quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Về quyền bào chữa cũng vậy, người chưa thành niên do chưa phát triển đầy đủ, chưa có kinh nghiệm sống nên họ không thể thực hiện quyền tự bào chữa của mình một cách tốt nhất, thế nên pháp luật TTHS quy định ngoài quyền tự bào chữa, nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì sẽ được các cơ quan THTT chỉ định người bào chữa cho. Trường hợp thứ ba: người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Là những người bị câm, khiếm thị, khiếm thính hoặc bị những khuyết tật về tâm, sinh lý. Do những nhược điểm này họ khó có thể thực hiện tốt quyền tự bào chữa của mình. Như Võ Thanh Xuyên, bị cáo bị câm điếc và mù chữ bị TAND tỉnh Hậu Giang đưa ra xét xử về tội giết người. Trong phiên toà ngày 09/02/2004, mặc dù đứng trước vành móng ngựa nhưng bị cáo không thể hiểu HĐXX hỏi gì, không thể trình bày ý kiến trước toà (Xuyên chưa được học giao tiếp bằng cách ra hiệu). HĐXX chủ yếu hỏi luật sư và cha mẹ bị cáo đồng thời dựa vào các chứng cứ khác của vụ án để xét xử.(1) Như vậy có thể thấy rằng sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án có những người quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS là hết sức cần thiết. Pháp luật không quy định rõ thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong những trường hợp này, tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì người bào chữa chỉ được chỉ định cho bị can, bị cáo. Đối với người bị tạm giữ (là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) không có quy định về việc được chỉ định người bào chữa. Vậy có thể hiểu rằng người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Quyền được chỉ định người bào chữa của bị can, bị cáo trong các trường hợp này được thực hiện ở tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm. Các cơ quan THTT phải đảm bảo quyền được cử người bào chữa cho họ nếu không sẽ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trừ trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên nhưng khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì không thuộc trường hợp quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS. Bị can, bị cáo trong các trường hợp này có quyền được chỉ định người bào chữa nhưng họ và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Không ai được phép ép buộc họ nhận người bào chữa mà họ không đồng ý. Tuy nhiên, cũng có khi họ không chấp nhận người bào chữa do họ không hiểu pháp luật (như lo không có tiền trả thù lao, sợ rằng có người bào chữa sẽ bị coi là ngoan cố và tội sẽ nặng hơn). Do đó cơ quan THTT phải xem xét kỹ và giải thích cho bị can, bị cáo rõ. Đảm bảo quyền có người bào chữa cho những người được quy định tại điểm a, b, khoản 2 Điều 57 là một trong những quy định thể hiện rõ nhất nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa đồng thời thể hiện tính dân chủ và nhân đạo của pháp luật TTHS nước ta. CHƯƠNG III THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO 1. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 1.1.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Quyền tự bào chữa là một nội dung quan trọng trong quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và vì nhiều lý do khác nhau mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường tự bào chữa cho mình. Theo một nghiên cứu gần đây thì có khoảng 90% số vụ án bị can, bị cáo tự bào chữa cho mình mà không nhờ người bào chữa.( (1)Hoàng Thị Sơn, Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, Số 4/2002. )Bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục trợ giúp pháp lý Bộ Tư pháp cũng cho biết “Chỉ có 30% số vụ án (Hình sự và Dân sự) trong cả nước có luật sư tham gia (2) Báo Thanh Niên, Số ra thứ tư ngày 26/12/2001, “Hơn 70% phiên toà không có Luật sư”. . Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2007 của ngành TAND thì: Năm 2006, các TAND và Toà án Quân sự các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm được 74.455 vụ án hình sự với 122.225 bị cáo. Trong đó các Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết 60.703 vụ với 100.415 bị cáo, các Toà án cấp phúc thẩm đã giải quyết 13.511 vụ với 21.483 bị cáo. Các hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm đã giải quyết 241 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết các vụ án hình sự bị huỷ là 0,6%, sửa là 4,1%. So với năm 2005, tỷ lệ bản án, quyết định bị huỷ giảm 0,1%, sửa giảm 0,1% (trong đó, tỷ lệ bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm huỷ để giải quyết lại chiếm 0,68%, sửa chiếm 5%; tỷ lệ bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm bị huỷ chiếm 0,33%. Các Toà án đã áp dụng hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với 24.771 bị cáo (chiếm 28%) Trong báo cáo trên cũng cho biết: “Trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án, các Toà án đã đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Các phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà và trên cơ sở xem xét một cách khách quan, toàn diện các chứng cứ của vụ án nên đã đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”. So với các năm trước, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị oan đã giảm nhiều. Trong năm 2006 không có trường hợp nào Toà án kết án oan người không có tội và phải bồi thường theo Nghị quyết số 388 ngày 17/03/2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội(1) TAND Tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007 của ngành TAND, H. 2007 . Như vậy, báo cáo trên đã gián tiếp cho chúng ta thấy rằng quyền bào chữa trong đó có quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã phần nào được bảo đảm. Tuy nhiên, tỷ lệ các bản án bị huỷ và bị sửa vẫn còn khá cao. Điều này một phần là do sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án hình sự còn quá ít. Nếu người bào chữa tham gia nhiều hơn vào các vụ án thì tỷ lệ các bản án bị sửa và bị huỷ chắc chắn sẽ không còn cao như vậy. 1.1.2. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có người bào chữa trong các trường hợp do pháp luật quy định của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Tuy tỷ lệ các vụ án hình sự có người bào chữa tham gia còn khá khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 10% nhưng những năm gần đây, người bào chữa đã tham gia ngày càng nhiều hơn vào hoạt động TTHS và sự tham gia của người bào chữa đã góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của 49/62 Đoàn luật sư, trong 4 năm (từ khi Pháp lệnh luật sư có hiệu lực thi hành đến hết tháng 05/2005) các luật sư đã tham gia tố tụng 28.270 vụ án hình sự. Trong việc tham gia TTHS, tỷ lệ số việc bào chữa do công dân mời đang có chiều hướng tăng so với việc bào chữa do các cơ quan THTT chỉ định theo quy định của pháp luật (có 16.357/28.270 vụ việc luật sư bào chữa theo hợp đồng với khách hàng)(2) Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, tr. 7. . Việc người bào chữa tham gia tranh tụng đã giúp cho hoạt động THTT đảm bảo tính dân chủ hơn và tình trạng oan sai từng bước được khắc phục. Nhờ sự tham gia bào chữa của luật sư, nhiều người đã được minh oan, trong đó phải kể đến ông Nguyễn An Trung (Việt Kiều Nhật Bản) được tuyên không phạm tội trong vụ án 118 ô tô tay lái nghịch xảy ra tại Công ty liên doanh Sài Gòn ô tô; các bị cáo được tuyên không phạm tội và trả tự do sau phiên phúc thẩm như Trịnh Ngọc Tương (Long An) sau mức án 5 năm tù, Bùi Văn Mãnh (Tiền Giang) sau mức án 18 năm tù (ông Mãnh là người đầu tiên khởi kiện đòi bồi thường oan sai và mới được chính thức xin lỗi công khai vào ngày 25/02/2005); được tuyên không phạm tội sau phiên toà giám đốc thẩm của Toà hình sự TAND tối cao như Vũ Hùng Lượng (Khánh Hoà) sau bản án hai cấp tuyên phạt 10 năm tù... (1) Phan Trung Hoài, Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006, tr. 141, 142. Trong nhiều phiên toà, HĐXX đã chấp nhận quan điểm bào chữa của người bào chữa, nhiều bị cáo được giảm khung hình phạt, nhiều bị cáo được Toà án tuyên hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo... Thực tế cho thấy, người bào chữa tham gia tố tụng hình sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chủ yếu là luật sư, những người bào chữa khác là bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chiếm số lượng rất ít. Và do thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu kỹ năng hành nghề nên chất lượng bào chữa trong các vụ án có người bào chữa là bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường không cao. Thời gian vừa qua, các cơ quan THTT đã đảm bảo chỉ định người bào chữa cho bị cáo trong những trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa. Theo số liệu thu thập được từ các Toà án cho thấy người bào chữa chủ yếu tham gia tại các TAND cấp tỉnh, các Toà án cấp huyện rất ít vụ án có người bào chữa, nếu có thì cũng chỉ là các trường hợp bào chữa do chỉ định. Theo số liệu của TAND tỉnh Nam Định: Năm Số án HSST đã xét xử Số vụ án có NBC tham gia Tỷ lệ % 2004 242 47 19,4 2005 264 60 22,8 2006 164 42 25,6 (Nguồn: Toà Hình sự TAND tỉnh Nam Định) Số liệu của TAND tỉnh Bắc Giang. Năm Số án HSST đã xét xử Số vụ án có NBC tham gia Tỷ lệ % 2005 174 34 19,5 2006 198 39 19,7 (Nguồn: Toà Hình sự TAND tỉnh Bắc Giang) Theo số liệu của TAND huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (TAND này đã được tăng thẩm quyền xét xử) thì từ năm 2004 đến năm 2006 Toà án đã giải quyết được tất cả 55 vụ án hình sự nhưng chỉ có 2 vụ án có người bào chữa tham gia thuộc trường hợp bào chữa do chỉ định.(Nguồn: TAND huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương). Theo số liệu của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá (TAND này chưa được tăng thẩm quyền xét xử) thì trong 4 năm từ năm 2003 đến năm 2006 Toà án đã giải quyết tất cả 65 vụ án hình sự nhưng trong đó không có vụ án nào có sự tham gia của người bào chữa. (Nguồn: TAND huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hoá) Tại các Thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng người bào chữa tham gia trong các vụ án hình sự khá cao. Theo số liệu từ Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội thì: từ tháng 10/2002 đến tháng 11/2004, theo số liệu thống kê, báo cáo chưa đầy đủ của các Văn phòng luật sư gửi về Đoàn luật sư, luật sư Hà Nội đã tham gia tố tụng hình sự 2.898 vụ theo yêu cầu của bị cáo hoặc gia đình họ và bào chữa theo chỉ định của Toà án các cấp là 509 vụ(1) http:// www.luatsuhanoi.org.vn/tinhoatdong/kyniem20namthanhlap.asp . Tuy pháp luật đã quy định người bị tạm giữ có quyền nhờ người khác bào chữa nhưng trên thực tế do nhiều nguyên nhân, rất hiếm gặp trường hợp người bị tạm giữ có người bào chữa. Như theo số liệu của VKS nhân dân tỉnh Nam Định, trong 4 năm 2003, 2004, 2005, 2006 CQĐT Công an tỉnh Nam Định đã tạm giữ 495 người, CQĐT Công an các huyện đã tạm giữ 2286 người nhưng trong đó không có trường hợp người bị tạm giữ nào có người bào chữa.( Nguồn: VKS nhân dân tỉnh Nam Định). 1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Như vậy, theo các số liệu và đánh giá ở trên chúng ta có thể thấy rằng việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn còn những hạn chế vướng mắc từ cả ba phía: cơ quan THTT, người bào chữa, và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 1.2.1. Những hạn chế, vướng mắc từ phía cơ quan THTT Thứ nhất, trong việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã được Bộ luật TTHS 2003 ghi nhận rất rõ ràng, Bộ luật cũng quy định các cơ quan THTT có nghĩa vụ giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo biết quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, trên thực tế các cơ quan THTT vẫn vi phạm quyền này của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nhiều trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không biết mình có quyền bào chữa, quyền nhờ người khác bào chữa cho mình, nhất là đối với các bị can phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng bị cách ly, không được gặp người thân, không được tiếp xúc với văn bản pháp luật nếu không được giải thích về quyền và nghĩa vụ thì việc biết có thể mời người bào chữa và việc có người bào chữa là vô cùng khó khăn. Thứ hai, tình trạng mớm cung, bức cung. Lời khai là một loại nguồn chứng cứ quan trọng, nó giúp cơ quan THTT xác định đúng sự thật khách quan của vụ án đồng thời nó cũng là phương tiện giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể chứng minh sự vô tội hoặc gỡ tội cho mình. Lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ trở thành một loại nguồn chứng cứ khi đảm bảo được tính khách quan và tính hợp pháp, nó phải thể hiện ý chí đích thực của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bức cung, mớm cung dưới mọi hình thức đều gây ảnh hưởng đến tính hợp pháp của lời khai, vi phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đều bị pháp luật nghiêm cấm. Thế nhưng, tình trạng mớm cung, bức cung vẫn xảy ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Ở giai đoạn điều tra, mớm cung và bức cung khá phổ biến, có trường hợp để có được lời khai như ý mình ĐTV đã dùng nhục hình với bị can (như trường hợp của Hoàng Linh đã dẫn ở trang 23 của khóa luận này) dẫn đến tình trạng tại phiên toà các bị cáo đồng loạt phản cung, không công nhận lời khai của mình tại CQĐT (như vụ án Vườn Điều khi đưa ra xét xử các bị cáo đều đồng loạt phản cung). Giai đoạn xét xử, ở một số Toà án, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân vẫn sử dụng các câu hỏi mang tính chất mớm cung như các câu hỏi có đuôi “phải không”, các câu hỏi có liên từ “hay là”…Có trường hợp các thành viên của HĐXX và KSV còn quát nạt bị cáo trước toà. Phiên toà ngày 29/03/2007 tại TAND quận Liên Chiểu Thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Châu về tội cố ý gây thương tích, bị cáo Châu đã nhiều lần kêu oan vì kết luận khác nhau giữa bản kết luận điều tra của CQĐT và bản cáo trạng của VKS. Trong khi xét hỏi, KSV Đinh Thanh Dũng đã nhiều lần lớn tiếng, dùng những lời lẽ uy hiếp bị cáo Châu. Rồi khi đến cao trào, vị KSV này đùng đùng đứng dậy chỉ tay vào mặt bị cáo thì bị cáo đã rút từ trong túi quần chai thuốc sâu hiệu Dibamerin uống cạn. Phiên toà tạm hoãn và bị cáo Châu phải nhập viện. Rất may, bị cáo đã không nguy hiểm đến tính mạng và hiện nay đã dần hồi phục.( (1) ) Thứ ba, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa. Gần đây, Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội đã gửi kiến nghị lên đồng chí Trương Vĩnh Trọng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng kiêm trưởng ban nội chính Trung ương về việc các thành viên của đoàn bị cơ quan THTT gây khó khăn, cản trở khi tham gia hoạt động bào chữa trong các vụ án hình sự, một trong những vấn đề mà đoàn đề cập đến là khó khăn trong việc được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Pháp luật quy định, ngay từ giai đoạn điều tra, người bào chữa được phép tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong thời hạn 3 ngày từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo các giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, CQĐT, VKS, Toà án phải xem xét cấp giấy chứng nhận bào chữa để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa (trong trường hợp bị tạm giữ thời hạn này là 24 giờ). Nhưng theo ông Phạm Hồng Hải, chủ nhiệm Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội thì “hiếm có luật sư nào được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn 3 ngày”. Nhiều lý do được CQĐT đưa ra nhưng thường gặp nhất là bị can từ chối luật sư. Ông Hải cho biết: “Đơn cử tại vụ án Lương Quốc Dũng, ngày thứ bảy vợ ông ta tới mời tôi. Ngay trong ngày thứ hai khi tới làm thủ tục tôi nhận được câu trả lời là nguyên phó chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao này không có ý định mời luật sư. CQĐT cho biết, việc mời luật sư đã được thông báo với ông Dũng vào sáng thứ bảy. Trong khi đó, buổi chiều vợ ông ta mới tới văn phòng của tôi. Đến nay, vụ án đã khép lại nhưng tôi vẫn chưa thể hiểu được việc này. Hay có người, một ngày trước khi bị bắt đến tìm tôi mời tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh ta. Nhưng khi tôi đến làm thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa thì được CQĐT thông báo là anh ta từ chối có luật sư”(1) Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECFBB/ . Có trường hợp bị can bị tạm giam, thân nhân mời luật sư nhưng khi luật sư cầm giấy giới thiệu đến thì CQĐT nói “Ông có được chính bị can mời đâu mà đòi gặp bị can?”(2) . Thứ tư, trong việc tiếp xúc giữa người bào chữa và bị can, bị cáo bị tạm giam. Xin được giấy chứng nhận bào chữa đã khó nhưng trong trường hợp nhận được giấy chứng nhận bào chữa thì việc tiếp cận thân chủ cũng chưa hẳn sẽ thuận buồm xuôi gió. "Có những vụ án dù đã được cấp giấy chứng nhận bào chữa nhưng luật sư vẫn không được vào trại tạm giam để gặp bị can vì người THTT (đặc biệt là ĐTV) luôn tìm mọi lý do để né tránh không đi cùng. Mà trong thời gian điều tra, nếu không có ĐTV đi cùng, Ban giám thị trại tạm giam không cho phép luật sư vào gặp”, Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội trình bày với Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng.(3) Hay như luật sư Nguyễn Đức Chi – Đoàn luật sư Hà Nội, sau 1 năm chờ đợi để được cấp giấy chứng nhận bào chữa, luật sư vào gặp thân chủ nhưng lại bị yêu cầu phải nộp trước các câu hỏi(4) Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECFBB/ . Khi người bào chữa tiếp xúc với bị can, bị cáo bị tạm giam thời gian gặp rất hạn chế là 1 tiếng đồng hồ mỗi lần gặp, nhiều trường hợp ĐTV, cán bộ trại giam lại có mặt cùng ở đó làm cho việc tác nghiệp, trao đổi giữa người bào chữa và bị can, bị cáo rất khó khăn. Thứ năm, trong việc tạo điều kiện để người bào chữa có mặt trong các cuộc hỏi cung bị can. Khi hỏi cung, các CQĐT thường hẹn tới hẹn lui khiến luật sư không thể theo được. Theo lời một trưởng phòng Cảnh sát điều tra thì khi hỏi cung, chỉ luật sư tin cậy mới được chấp nhận tham dự vì ngại bị tiết lộ bí mật vụ án. Luật sư Đào Ngọc cho biết: “Có lần, tôi làm thủ tục đi cùng một ĐTV vào trại tạm giam, có mặt tại buổi lấy lời khai thân chủ của mình. Anh ta hẹn tôi 8h sáng có mặt tại cửa phòng làm việc. 7h30 tôi đã tới, nhưng tìm khắp nơi không thấy ĐTV này. Vào đến trại, tôi mới phát hiện ĐTV đó đã tiến hành lấy lời khai bị can”(1) . Thứ sáu, trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc với tài liệu của vụ án. Hồ sơ, tài liệu của vụ án là một trong những nguồn quan trọng nhất giúp người bào chữa có thể thu thập chứng cứ để bào chữa cho bị can, bị cáo. Pháp luật quy định cho người bào chữa có quyền đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa. Nhưng trên thực tế quyền này của người bào chữa vẫn chưa được các cơ quan THTT bảo đảm thực hiện tốt. Luật sư Nguyễn Hoàng Hải, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Mai Văn Dâu kể, sau nhiều thời gian chờ để có được luôn tìm mọi lý do để né tránh không đi, nhưng khi tới VKS đề nghị được tiếp cận hồ sơ, ông đã bị từ chối với lý do "KSV đang đọc”...Có trường hợp, luật sư không được tiếp cận tài liệu của vụ án vì cơ quan THTT đưa ra lý do “không có văn bản nào quy định giao hồ sơ cho luật sư mà chỉ cho đọc và ghi chép”(2) . Thứ bảy, đối với các trường hợp phải chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS. Quy định tại khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS là một quy định mang tính chất nguyên tắc nhằm đảm bảo quyền có người bào chữa cho những bị can, bị cáo thuộc loại đặc biệt. Tuy nhiên, trong thực tế các cơ quan THTT thường không chủ động yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ mà bỏ mặc cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời người bào chữa. Chỉ đến khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, lúc này, vì luật định, Toà án mới yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định luật sư cho họ. Trong trường hợp này, quyền có người bào chữa của bị can theo quy định của khoản 2 Điều 57 sẽ không còn được thực hiện trên thực tế bởi lúc này tư cách pháp lý của họ đã thay đổi từ bị can sang bị cáo. Thứ tám, trong việc đảm bảo tranh tụng. Theo một kết quả nghiên cứu, thời lượng dành cho giai đoạn tranh luận tại phiên toà hình sự sơ thẩm thường chỉ chiếm không quá 10% thời gian xét xử của toàn bộ phiên toà(1) Một số vấn đề về cơ sở bảo đảm dân chủ trong tranh luận tại phiên toà hình sự, tạp chí Kiểm sát, VKS nhân dân tối cao, Số 3/2002, tr. 14. . Nhiều quan điểm pháp lý bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho bị cáo của người bào chữa không đựợc ghi nhận trong bản án hoặc bị bác bỏ mà không đưa ra các cơ sở pháp lý vững chắc. Sau một thời gian tranh luận nảy lửa tại phiên toà, người bào chữa thường vẫn nhận được một câu mang tính chất truyền thống của KSV “Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm buộc tội của VKS”. 1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bào chữa Người bào chữa, luật sư than phiền về việc các cơ quan THTT không tạo điều kiện cho người bào chữa, cho luật sư tác nghiệp, nhưng những hạn chế vướng mắc từ phía người bào chữa không phải là không có và điều này cũng gây những ảnh hưởng nhất định đến việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Có thể kể đến như: Thứ nhất, trong việc tôn trọng sự thật của vụ án. Theo phản ánh của các cơ quan THTT thì nhiều luật sư tìm mọi cách kể cả bất hợp pháp để làm nhẹ tội cho thân chủ của mình. “Lẽ ra luật sư phải giải thích cho thân chủ của mình những quy định của tố tụng, động viên thân chủ làm rõ sự thật của vụ án, thế nhưng nhiều người lại lợi dụng việc tham gia hỏi cung để “phím” bị can khai né tội. ĐTV có mặt ở đó để quan sát nhưng cũng không thể bắt bẻ gì vì luật sư có nói toạc ra đâu” - một cán bộ điều tra nói. Không chỉ vậy, luật sư còn dùng quyền của mình để chuyển thư mớm cung, phản cung. Nhiều trường hợp, bị can đã nhận tội, đến khi gặp luật sư lại khai ngược lại, kêu là bị bức cung. Hay còn có chuyện luật sư bắt cá hai tay, mang danh là bảo vệ cho bị can A nhưng cứ vẽ ra để A nhận tội nhằm gỡ tội cho bị can B – đồng phạm trong vụ án(2) (3) . Thứ hai, trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Thực tế cho thấy, vẫn còn những trường hợp người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình một cách qua loa, đại khái, nhất là trong các trường hợp bào chữa chỉ định. Các luật sư luôn than phiền rằng không được dự cung và gặp bị can trước khi hỏi cung nhưng các phiên hỏi cung không có mặt luật sư không phải chỉ do lỗi của CQĐT. Thực tế có luật sư chỉ đến CQĐT khi đã có kết luận chính thức để đọc hồ sơ. Có người thậm chí chỉ tạt ngang, hỏi qua tình tiết của vụ án rồi không thấy quay lại nữa, dù việc lấy cung chưa xong và CQĐT chưa có thông báo về giờ giấc lấy cung(3). Khi bị can, bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b, khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS cơ quan THTT có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho họ. Tuy nhiên, theo ông Vũ Phi Long, Phó chánh Tòa hình sự TAND Thành phố Hồ Chí Minh rất nhiều luật sư không “tâm huyết”, thậm chí chỉ gửi bài bào chữa rồi vắng mặt. Với những bài bào chữa sơ sài, mở đầu bằng điệp khúc “đồng ý với quan điểm truy tố của VKS” rồi loanh quanh nêu các tình tiết xin giảm nhẹ…(1) Có những người bào chữa do nhận quá nhiều vụ án nên buộc phải chạy sô hay phải chọn một trong những vụ án cùng ngày cùng giờ, vì thế mới xảy ra trường hợp bị cáo thuê luật sư nhưng đến khi ra toà thì là người khác bào chữa, bị cáo thắc mắc thì được giải thích là: “Hôm nay luật sư bận nên tôi đi thay”(2) . Có trường hợp người bào chữa không tham gia tố tụng tại phiên toà, không trực tiếp thẩm vấn, tranh tụng mà chỉ gửi bài bào chữa của mình đến toà, đưa ra quan điểm của mình dựa trên những tài liệu có trong hồ sơ. Chính vì vậy lời bào chữa của luật sư trong trường hợp này nhiều khi không chính xác chứ chưa nói gì đến việc thuyết phục HĐXX. Chưa kể có tình huống ngoài dự kiến như bị cáo bị luật sư phía đối phương hay đại diện VKS thẩm vấn có tính chất "gài bẫy", gây bất lợi... mà luật sư không có mặt thì không thể ra tay ứng cứu kịp thời cho thân chủ. Tại phiên toà, người bào chữa còn bộc lộ những yếu kém về khả năng tranh tụng, bà Trần Ngọc Tuyết, đại diện VKS Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, “có những luật sư chỉ chú ý bắt lỗi dùng từ của KSV hoặc mất bình tĩnh từ đó có những phát biểu mang tính xúc phạm, bôi xấu lẫn nhau...”. Có luật sư lại không nhất quán về quan điểm bào chữa, vừa đề nghị tuyên bị cáo không phạm tội, nhưng sau đó lại “nếu nhận định bị cáo có tội thì giảm nhẹ hình phạt”(3) . Thứ ba, một số luật sư còn coi trọng vấn đề thù lao mà quên đi đạo đức nghề nghiệp, chuyện luật sư lợi dụng sự không hiểu biết của thân chủ để vòi tiền vẫn còn tồn tại. Một người thân của bị cáo trình bày: con bà uống rượu và đâm chết người, bà đi thuê luật sư bào chữa với "thù lao ban đầu" 2 triệu đồng. Nhận xong tiền, vị này "lặn" luôn chẳng làm gì cả. Bà đi tìm luật sư khác, đóng khoản tiền đầu tiên 2 triệu đồng. Mấy ngày sau, luật sư lại gọi điện bảo đóng thêm tiền vì "con bà án nặng lắm". 10 triệu đồng nữa được nộp cho luật sư... Thấy cứ phải đóng tiền nhiều lần, bà yêu cầu viết giấy biên nhận, luật sư bèn giãy nảy: "Bà không tin tôi thì thôi" nên bà không dám đề cập nữa. Gặp nhau trước giờ xét xử, luật sư nói với thân chủ: "Con bà có thể bị kết án chung thân, đến tử hình đó, bây giờ bà phải chi thêm 5 triệu nữa"(1) 1.2.3. Những hạn chế, vướng mắc từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Thứ nhất, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thiếu tính chủ động trong việc bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Khi bị rơi vào vòng pháp luật họ phó mặc cho các cơ quan THTT quyết định số phận của mình. Họ cũng thường có tâm lý lo sợ, không dám tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa vì cho rằng như thế sẽ bị coi là ngoan cố, và sẽ bị khép tội nặng hơn. Có những trường hợp muốn tìm người bào chữa cho mình nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, tiền phí thuê luật sư lại cao nên lực bất tòng tâm. Thứ hai, chất lượng tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường là không cao do thiếu hiểu biết pháp luật. Khi tự bào chữa trước toà, bị cáo chủ yếu xin HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho mình hoặc viện hoàn cảnh gia đình, thái độ thành khẩn khai báo xin Toà án cho hưởng án treo. Thứ ba, nếu không có sự giúp đỡ từ phía các cơ quan THTT hoặc từ phía người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khó có thể tự mình thu thập được các tài liệu, đồ vật là chứng cứ của vụ án. 2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 2.1. Nguyên nhân về pháp luật Thứ nhất, Bộ luật TTHS được ban hành và có hiệu lực pháp luật từ 01/07/2004 nhưng một thời gian khá lâu sau những văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn việc thực hiện các quy định về đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới được ban hành. Thứ hai, một số quy định của Bộ luật TTHS và các văn bản liên quan về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn bộc lộ nhiều thiếu sót. Từ khi Bộ luật TTHS 2003 có hiệu lực thi hành đến khi Luật Luật sư có hiệu lực thi hành, trong 3 năm, pháp luật TTHS không có quy định hướng dẫn cụ thể về “các giấy tờ cần thiết liên quan đến việc bào chữa” (quy định tại đoạn 1, khoản 4 Điều 56 Bộ luật TTHS). Hiện nay pháp luật cũng chưa có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa. Điều này gây khó khăn, không thống nhất trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa. Khi tham gia tố tụng thì người bào chữa phải có đơn của người bị tạm giữ, bị can. Trên thực tế khi những đối tượng này bị tạm giữ, tạm giam, họ nhờ người bào chữa bằng con đường nào? Qua thông báo của cơ quan THTT hay do gia đình nhờ. Trường hợp gia đình nhờ người bào chữa thì cơ quan THTT có phải thông báo với bị can, thời gian thông báo trong bao lâu? Chưa có quy định cụ thể. Theo quy định của pháp luật, “người bị tạm giữ, tạm giam có thể được gặp thân nhân, luật sư hoặc người bào chữa khác và do cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định. Trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam quyết định thời gian gặp nhưng không quá một giờ mỗi lần gặp”. Điều bất hợp lý là ở chỗ, từ quyền Hiến định được bào chữa và nhờ người khác bào chữa, pháp luật đã biến thành “cơ chế xin- cho” thông qua việc phải được sự chấp thuận của cơ quan thụ lý vụ án và giới hạn thời gian làm việc “không quá một giờ” Mặt khác, điểm e, khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa được “gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam” nhưng không quy định cụ thể được gặp riêng hay không? Bởi hiện nay, khi người bào chữa trao đổi với người bị tạm giữ, bị can gặp rất nhiều ảnh hưởng khi ĐTV có mặt. Khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS chưa quy định rõ CQĐT, VKS, Toà án cơ quan nào có trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho bị can cáo thuộc điểm a, b khoản này trong từng giai đoạn tố tụng mà chỉ quy định một cách chung chung dẫn đến khó xác định trách nhiệm của các cơ quan này. Pháp luật TTHS còn thiếu các chế tài xử lý các trường hợp vi phạm trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: như trường hợp chậm cấp giấy chứng nhận bào chữa, ... 2.2. Nguyên nhân thuộc về mặt nhận thức Thứ nhất, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thiếu những hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. Khi tiến hành khảo sát trình độ học vấn của người phạm tội ở một số tội, kết quả thu được cho thấy, số người phạm tội không biết chữ còn chiếm tỷ lệ khá cao. Ví dụ, khảo sát 205 bị cáo phạm tội giết người, kết quả là số bị cáo không biết chữ chiếm tỷ lệ 17,56%, trong khi số bị cáo có trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm 0,98%(1) Đỗ Đức Hồng Hà, Một số đặc điểm tội phạm học của tội giết người, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2004, tr. 72 . Trình độ học vấn thấp, thiếu những kênh thông tin cần thiết về pháp luật nhất là pháp luật TTHS phần lớn người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã không thể thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả quyền bào chữa của mình. Thứ hai, những người THTT vẫn chưa quen với việc có mặt của người bào chữa, chưa có ý thức trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đồng thời người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng chưa có ý thức tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa bào chữa cho mình. Điều này là do trong một thời gian dài hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta tuân theo một ý thức hệ cũ, “di sản lịch sử tư pháp để lại là một hệ thống TTHS chú ý nhiều đến việc trừng trị kẻ phạm tội, hướng tới việc giải quyết nhanh chóng và kịp thời các vụ án hình sự mà vô hình chung đã quên đi việc đảm bảo tính công bằng để bảo vệ quyền lợi của công dân bị tình nghi phạm tội”(1) Nguyễn Hà Thanh, Vai trò hạn chế của luật sư trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự-nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí TAND Số 3/2007, tr. 2 . 2.3. Nguyên nhân về tổ chức Thứ nhất, đội ngũ những người THTT thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Theo một số liệu thống kê gần đây, có 45,2% tổng số ĐTV, cán bộ điều tra có trình độ trung học nghiệp vụ (chủ yếu ở các tỉnh phía nam, các tỉnh miền núi và cấp huyện); có 38,9% cán bộ điều tra, ĐTV cấp huyện có độ tuổi trên 40 và có xu hướng tăng, số cán bộ này không trong độ tuổi để đào tạo đại học (2) Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát, Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Pháp lệnh Điều tra hình sự trong lực lượng cảnh sát nhân dân, H. 2006, tr. 5. . Theo báo cáo của Cục Chính trị Tổng cục Cảnh sát nhân dân thì ở những quận huyện thuộc các thành phố lớn, một ĐTV phải thụ lý trung bình 10 vụ/tháng, cá biệt có nơi lên đến 20 đến 30 vụ/tháng như ở các quận Tân Bình, Bình Thạnh (Thành phố Hồ Chí Minh). Như vậy, bình quân mỗi ĐTV có chưa tới 3 ngày để giải quyết 1 vụ, thậm chí có nơi 1 ngày 1 vụ(3) Tổng cục cảnh sát nhân dân, Cục chính trị, Báo cáo tổng kết . Báo cáo của Chánh án TAND Tối cao cũng cho biết hiện nay toàn ngành toà án đang thiếu hơn 900 Thẩm phán, số Thẩm phán đương nhiệm cũng chưa đáp ứng được về chất lượng và yêu cầu công việc(4) . Chính đội ngũ những người THTT vừa thiếu vừa yếu như vây đã làm cho chất lượng giải quyết các vụ án không cao, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được đảm bảo. Thứ hai, đội ngũ luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Tính đến ngày 25/03/2006, tổng số luật sư nước ta là 3.918 luật sư và luật sư tập sự, trong đó có 2.035 luật sư có chứng chỉ hành nghề luật sư (chiếm 51,94%) và 1.883 luật sư tập sự (chiếm 48,06%). Như vậy có thể nói so với trước khi thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, đội ngũ luật sư nước ta đã tăng nhanh về số lượng. Tuy nhiên, số lượng luật sư phát triển không cân đối giữa các khu vực, ở các thành phố lớn đặc biệt là Hà Nội (chiếm 26,11% luật sư cả nước), Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 31,24%) trong khi ở một số nơi không có luật sư để thành lập Đoàn luật sư theo quy định của pháp luật như Điện Biên, Lai Châu(1) (2) Vụ bổ trợ tư pháp, Nội dung cơ bản của dự án Luật về luật sư so sánh với pháp luật của một số nước, Nxb. Tư pháp, H.2006, tr. 11, 12, 13. . Số lượng luật sư hiện có so với số dân cả nước còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta là 1/21.215 người dân trong khi đó ở Thái Lan là 1/1.526, ở Singapore là 1/1.000, ở Mỹ là 1/250. Số lượng luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý của nhân dân ngay cả việc thực hiện bào chữa trong các vụ án bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa(2). Theo số liệu thống kê tháng 5/2005 thì có 1.726 luật sư có dưới 5 năm kinh nghiệm hành nghề (chiếm 50,4%), và phần lớn các luật sư đã được cấp chứng chỉ hành nghề chưa qua đào tạo một cách cơ bản về kỹ năng hành nghề (do pháp luật trước đây không quy định việc đào tạo nghề luật sư đối với những người muốn hành nghề luật sư); Tính chuyên môn hoá của luật sư nước ta cũng chưa cao, ở nước ta đa số các luật sư hành nghề trong tất cả các lĩnh vực như tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác(3) Vụ bổ trợ tư pháp, sđd, tr.16, 17. . Chính những điều này đã làm cho chất lượng luật sư ở nước ta không cao. Thứ ba, về tổ chức của hệ thống các cơ quan THTT VKS hiện nay có hai chức năng: chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố Nhà nước là thay mặt Nhà nước buộc tội bị cáo, chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là để bảo đảm quyền công dân (tuy nhiên, VKS không trực tiếp bảo vệ quyền lợi cho công dân mà chỉ thực hiện gián tiếp thông qua kiểm sát các hoạt động tố tụng). Về mặt tư duy có thể phân chia ra thành hai chức năng như trên nhưng khi đã giao cho KSV cả hai chức năng và cùng được thực thi song song với nhau thì khó có thể tách biệt được chúng. Việc thực hiện cùng lúc cả hai chức năng này đối với VKS hiện nay là rất hạn chế. Để rõ hơn về vấn đề này xin trích dẫn lời của một chuyên gia pháp luật: “Vai trò của VKS còn rất hạn chế, còn hình thức, chưa bảo đảm được mức độ hiệu quả cần thiết. Đây là một thực tế. Đâu là nguyên nhân của tình trạng này? Tôi lấy ví dụ, người ta chú ý nhiều đến việc trừng trị kẻ phạm tội. Nhưng để chấp hành các thủ tục về bắt giam, nếu có sai sót chút ít , thì người ta vẫn chưa đặt vấn đề lớn đối với chuyện đó. Thành ra những sai sót nhỏ, những cái sai về thủ tục, người ta chưa đặt vấn đề đầy đủ để đảm bảo tránh sai sót. Người ta chỉ chú ý xác nhận cho đúng kẻ phạm pháp. Chính tư tưởng như vậy, tôi nghĩ rằng nếu CQĐT có sai thì VKS cũng không nghiêm khắc với những vấn đề đó, không chú ý đến những vấn đề đó”(1) Nhà Pháp luật Việt-Pháp, Hội thảo Pháp luật về tổ chức Điều tra hình sự, H. 2002. . Và lâu nay cũng chính do không xác định rõ ranh giới giữa hai chức năng này, thực hành quyền công tố đan xen cả kiểm sát tư pháp nên trong phiên toà, vị thế của KSV dường như cao hơn hẳn luật sư và những người tham gia tố tụng khác gây ảnh hưởng đến việc tranh luận dân chủ tại toà. Cũng phải nói thêm rằng, mô hình phiên toà nước ta vẫn chưa được đổi mới nhiều theo cải cách tư pháp, HĐXX có nhiệm vụ tìm kiếm sự thật, tìm kiếm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, sau cùng kết luận phán xử chứ chưa đóng vai trò là những người trọng tài phân xử khách quan, điều này cũng ảnh hưởng đến việc tranh tụng tại phiên toà. 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 3.1. Về hoàn thiện pháp luật Có thể nói, nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những giải pháp lâu dài và tổng thể đã được thể hiện trong Nghị quyết Bộ Chính trị số 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, Nghị quyết 48 và 49 về chiến lược cải cách tư pháp. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể: Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung đoạn 1, Điều 11 Bộ luậtTTHS bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Do kỹ thuật lập pháp, liên từ “hoặc” được dùng không chính xác, bởi vì từ hoặc mang tính chất lựa chọn, mà quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo lại bao gồm cả hai loại quyền. Vì vậy nên sửa đổi lại là: Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này. Thứ hai, pháp luật TTHS cần bổ sung quy định về thủ tục mời người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam: khi người bị tạm giữ đang bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì họ có thể mời người bào chữa qua hai con đường: qua người thân hoặc qua các cơ quan THTT. Trong trường hợp gia đình nhờ người bào chữa thì cơ quan THTT phải thông báo với người bị tạm giữ, bị can. Cần bổ sung khoản 1 Điều 57 như sau: Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa. 1. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có thể nhờ người bào chữa thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thân nhân của những người này có thể mời người bào chữa cho họ. Trong trường hợp thân nhân của người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam mời người bào chữa cho họ thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam biết trước khi cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa. 2. ... (giữ nguyên) 3. ... (giữ nguyên) Thứ ba, quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa (quy định cụ thể một bộ phận nào đó của cơ quan THTT có nhiệm vụ xem xét các điều kiện cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa để kịp thời đề xuất lên người có thẩm quyền quyết định ví dụ bộ phận trực ban của CQĐT) Thứ tư, quy định về chế độ tạm giữ, tạm giam hiện hành đã lạc hậu, không còn phù hợp, nên ban hành một văn bản mới quy định về chế độ tạm giữ, tạm giam. Trong văn bản này có quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam được tạo cơ hội, thời gian, phương tiện (phòng gặp) để người bào chữa đến gặp và cuộc gặp này mang tính chất riêng biệt. Những cuộc gặp như vậy có thể được tiến hành trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của những người THTT. Thứ năm, quy định cụ thể trách nhiệm chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b, khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS trong từng giai đoạn tố tụng cho các cơ quan THTT. Vì vậy đề nghị sửa đổi bổ sung khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS như sau: Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa. 1. ... (giữ nguyên như đề xuất thay đổi) 2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình: a) ... (giữ nguyên) b) ... (giữ nguyên) 3. ... (giữ nguyên) Thứ sáu, quy định CQĐT có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can: cần sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 131 Bộ luật TTHS: Điều 131. Hỏi cung bị can. 1. Việc hỏi cung bị can phải do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Khi có đề nghị của người bào chữa của bị can, điều tra viên phải thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành cuộc hỏi cung cho người bào chữa và tạo điều kiện cho người bào chữa của bị can tham gia cuộc hỏi cung. Trước khi hỏi cung... (giữ nguyên) Nếu vụ án... (giữ nguyên) 2. ... (giữ nguyên) 3. ... (giữ nguyên) 4. ... (giữ nguyên) Thứ bảy, quy định VKS có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Bổ sung khoản 5 vào Điều 162 Bộ luật TTHS như sau: Điều 162. Kết thúc điều tra. 1. ... (giữ nguyên) 2. ... (giữ nguyên) 3. ... (giữ nguyên) 4. ... (giữ nguyên) 5. Sau khi Viện kiểm sát nhận được những văn bản quy định tại khoản 4 Điều này và người bào chữa có yêu cầu, Viện kiểm sát tạo điều kiện cho người bào chữa đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa. Thứ tám, quy định những biện pháp chế tài đối với các cơ quan THTT, người THTT có hành vi cản trở việc thực hiện quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hành vi chậm cấp giấy chứng nhận bào chữa. Cần sửa đổi bổ sung Điều 62 Bộ luật TTHS như sau: Điều 62. Trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng, cơ quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản. Người tiến hành tố tụng có hành vi gây cản trở tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. 3.2. Về tổ chức Thứ nhất, cần nhanh chóng bổ sung đủ số lượng đồng thời nâng cao chất lượng ĐTV, KSV, Thẩm phán đáp ứng đòi hỏi yêu cầu của công tác giải quyết các vụ án hình sự. Hiện nay có một thực tế là số lượng sinh viên có bằng cử nhân luật tốt nghiệp ra trường không có việc làm hàng năm rất nhiều nhưng số lượng cán bộ làm công tác tư pháp nói chung và công tác TTHS nói riêng lại đang rất thiếu. Đây là một sự bất hợp lý và lãng phí nguồn nhân lực. Vì vậy, chúng ta phải có kế hoạch sử dụng nguồn nhân lực này, bổ sung vào hệ thống các cơ quan THTT, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Thứ hai, cần có chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý đối với những người làm công tác THTT. Hiện nay, lương chính cộng với những khoản phụ cấp ngoài lương của những người THTT như KSV, Thẩm phán, Thư ký Toà án... còn thấp, chưa đủ đáp ứng được cuộc sống vật chất cũng như tinh thần hàng ngày, cũng như chưa tương xứng với tính chất nghề nghiệp của những đối tượng này. Có chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý sẽ làm cho những người THTT nhiệt tình với công việc và quan trọng hơn nữa là tránh được những cám dỗ vật chất, yên tâm công tác tốt. Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ của VKS cần từng bước chuyển đổi theo tinh thần của cải cách tư pháp. 3.3. Về nhận thức Thứ nhất, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, tăng cường công tác giáo dục và phổ biến pháp luật: đưa pháp luật vào giáo dục sớm hơn trong nhà trường từ cấp tiểu học, giáo dục pháp luật thường xuyên trên những phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường hơn nữa số lượng các phiên toà xét xử lưu động, tích cực xây dựng các tủ sách pháp luật phổ thông... Thứ hai, song song với việc nâng cao năng lực chuyên môn nên giáo dục thường xuyên về mặt nhận thức cho những người THTT: tôn trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền và nghĩa vụ của những người tham gia TTHS; đồng thời tạo cho những người THTT quen dần với sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động TTHS vì đây là xu thế tất yếu của cải cách tư pháp. KẾT LUẬN Quyền bào chữa phát sinh trên cơ sở sự buộc tội của các cơ quan THTT đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và là quyền năng cơ bản, đặc thù chỉ thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng mọi biện pháp pháp luật quy định nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hay loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự. Các cơ quan THTT có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định trên cơ sở quyền con người và thực tiễn THTT. Nguyên tắc này được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp đã ban hành đồng thời nó cũng là một nguyên tắc đặc thù của luật TTHS Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và sự mở rộng dân chủ ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, Bộ luật TTHS 2003 cùng những văn bản có liên quan đã có những quy định rất đáng ghi nhận về mở rộng quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can bị cáo. Tuy nhiên, thực tiễn TTHS cho thấy, việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn còn những hạn chế, vướng mắc do thiếu sót của pháp luật; do nhận thức chưa đầy đủ của những người THTT, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; do tổ chức hệ thống các cơ quan THTT còn nhiều bất cập... Vì vậy, việc nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân nói chung và những người THTT, tham gia tố tụng nói riêng; việc sửa đổi bổ sung, hoàn thiện pháp luật đồng thời kiện toàn tổ chức của những cơ quan THTT là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc này. Đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi mặt, hy vọng rằng trong lĩnh vực pháp lý nói chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng sẽ có những bước phát triển tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện có hiệu quả hơn nữa trên thực tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo Thanh Niên, Số ra thứ tư ngày 26/12/2001, “Hơn 70% phiên toà không có Luật sư”. Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát, Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Pháp lệnh Điều tra hình sự trong lực lượng cảnh sát nhân dân, H. 2006. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, H. 2006. Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001. Bộ Tư pháp-Vụ pháp luật hình sự-hành chính, Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006. Chức năng bào chữa trong TTHS Xô Viết, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 1/1978. Đỗ Đức Hồng Hà, Một số đặc điểm tội phạm học của tội giết người, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2004, tr. 72. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2004. Hoàng Thị Sơn, Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, H. 2003. Hoàng Thị Sơn, Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, Số 4/2002. http:// www.luatsuhanoi.org.vn/tinhoatdong/kyniem20namthanhlap.asp http:// www.vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2003/05/3B9C7CCE/ Vietnam/Phap-luat/2006/08/3B9ECFBB/ 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948). 24. Một số vấn đề về cơ sở bảo đảm dân chủ trong tranh luận tại phiên toà hình sự, tạp chí Kiểm sát, VKS nhân dân tối cao, Số 3/2002. 25. Nguyễn Hà Thanh, Vai trò hạn chế của luật sư trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự - nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí TAND Số 3/2007, tr. 2. 26. Nhà Pháp luật Việt-Pháp, Hội thảo Pháp luật về tổ chức Điều tra hình sự, H. 2002. 27. Phạm Hồng Hải, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb. Công an nhân dân, H.1999. 28. Phan Trung Hoài, Hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H. 2006. 29. Quốc triều Hình luật (Luật Hình triều Lê), Nxb. Pháp lý, H.1991 30. TAND Tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2007 của ngành TAND, H. 2007. 31. Tổng cục cảnh sát nhân dân, Cục chính trị, Báo cáo tổng kết 32. Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người quyền công dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2004. 33. Vụ bổ trợ tư pháp, Nội dung cơ bản của dự án Luật về luật sư so sánh với pháp luật của một số nước, Nxb. Tư pháp, H.2006. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (112).doc