Khóa luận Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

1. Xuất khẩu tư bản là một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại phát triển mạnh trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu thu được lợi nhuận tối đa, giành giật thị trường và địa vị thống trị của chúng. Chủ nghĩa tư bản không ngừng coi phát triển xuất khẩu tư bản là chìa khoá cho sự sống còn, tồn tại và phát triển của mình. Đồng thời các nhà tư bản cũng đã liên kết với nhau nhằm nô dịch các nước đang phát triển với âm mưu thống trị về kinh tế và chính trị toàn cầu. Hiện tượng xuất khẩu tư bản là do yêu cầu phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là sự xã hội hoá cao về sản xuất do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ dẫn tới sự phân công lao động quốc tế và thay đổi tương quan lực lượng giữa các cường quốc, đế quốc. 2. Xuất khẩu tư bản là phương thức nhằm săn đuổi những mục tiêu về lợi nhuận, nhưng trong từng thời kỳ mà đối tượng hướng tới của nó có những đặc điểm không giống nhau. Những biểu hiện mới của nó có những thay đổi rõ rệt. Trước kia luồng xuất khẩu tư bản chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đặc biệt sau những năm 70, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư trong các nước tư bản phát triển. Xuất khẩu tư bản giữa các nước tư bản với nhau nhằm giải quyết những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ dẫn tới sự liên kết về kinh tế và chính trị, đảm bảo lợi ích, vị trí cũng như sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Còn xuất khẩu tư bản sang các nước đang phát triển là giành giật thị trường gây ảnh hưởng vị trí của mình, nô dịch các nước thuộc địa, bóc lột giá trị thặng dư. 3. Trong giai đoạn hiện nay khi mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển không ngừng khiến cho số sản phẩm làm ra nhiều đến con số kỷ lục, con người đạt đến nền văn minh hậu công nghiệp trong đó những công nghệ như viễn thông, điện tử, tin học, sinh học. do xuất khẩu tư bản tác động đến cuộc cách mạng khoa học công nghệ mang đến, góp phần quan trọng vào thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và thúc đẩy sự liên kết kinh tế của các Công ty siêu quốc gia thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế chung và hợp tác kinh tế trong kỷ nguyên hoà bình. Ngược lại xuất khẩu tư bản cũng đem lại những tiêu cực không nhỏ cho những quốc gia nhận xuất khẩu tư bản. Đó là sự lệ thuộc, lạc hậu về kinh tế và chính trị vào các nước xuất khẩu tư bản, tình trạng nợ nước ngoài trở thành nhân tố kìm hãm phát triển kinh tế, sự ô nhiễm môi trường và phân hoá xã hội sâu sắc.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu tư bản chủ yếu với hình thức gián tiếp sang các nước thế giới thứ 3 và thuộc địa lệ thuộc, xuất khẩu tư bản giữa các nước đang phát triển với nhau mang tính chất liên kết kinh tế đảm bảo lợi ích mỗi nước. Đến những năm 1980 lại đây xuất khẩu tư bản chủ yếu là sự đa dạng hoá về hình thức xuất khẩu tư bản. Các nước tư bản phát triển và một số nước xuất khẩu tư bản mới ra sức đầu tư vào địa bàn có lợi: cho vay vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất công nghiệp, mua cổ phần các xí nghiệp. Thực tế các nhà xuất khẩu tư bản nhằm vào những chỗ béo bở, ít gặp rủi ro mục tiêu lợi nhuận và chỉ đạo để quyết định áp dụng hình thức đầu tư nào có lợi nhất. Các nhà xuất khẩu tư bản qua việc đầu tư cũng mong muốn mở rộng thị trường, mở rộng địa bàn chiến lược của mình để phát triển kinh tế, phát triển các Công ty đa quốc gia đáp ứng yêu cầu xã hội hoá sản xuất cao. ở các nước tư bản phát triển xuất khẩu tư bản chủ yếu là hình thức mua cổ phần, sát nhập các Công ty trở thành những siêu Công ty quốc gia. Xuất khẩu tư bản sang các nước đang phát triển chủ yếu cho vay vốn và đầu tư cơ sở hạ tầng, các xí nghiệp sản xuất dịch vụ. Tuy vậy, xuất khẩu tư bản giai đoạn này chủ yếu là tập trung vào dịch vụ chiếm tới gần 50%, đó là kết quả của một nền sản xuất phục vụ xã hội tiêu dùng. - Sự thay đổi về vai trò đầu tư của các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển vốn là địa bàn đầu tư của tư bản độc quyền quốc tế. Sau chiến tranh, nhất là từ những năm 70 trở đi, tình hình ít nhiều có thay đổi. Các nước đang phát triển cũng bắt đầu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, gồm cả đầu tư giữa các nước đang phát triển với nhau và đầu tư vào các nước phát triển. Một trong những hiện tượng nổi bật trong lĩnh vực vận động tư bản quốc tế hiện nay là tăng tỷ lệ các nước đang phát triển với tư cách là nước xuất khẩu tư bản và đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước này được định hướng lại sang các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, khối lượng của nó không lớn, chỉ khoảng 2% tổng đầu tư thế giới (7.T49 - 50). Hiện nay có khoảng 30 đến 50 nước và khu vực đang phát triển đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Lượng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo đã có quy mô khác. Ngoài ra, Hàn Quốc, Đài Loan, Achentina, Mêhicô, Vênêxuêla đều đang tích cực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. "Về đại thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát triển gồm có 3 loại hình: Một là, những nước giàu tài nguyên, trong đó phần lớn là các nước xuất khẩu dầu mỏ. Các xí nghiệp độc quyền Nhà nước của họ có số dư xuất siêu lớn, do vậy có năng lực lập ra các Công ty con ở nước ngoài để thống nhất quản lý toàn bộ quá trình sản xuất, tiêu thụ. Loại đầu tư trực tiếp này phần lớn dùng để lập tổ chức tiêu thụ ở nước ngoài. Hai là, các nước giàu lao động, đang nhanh chóng thực hiện công nghiệp hoá. Do tài nguyên thiên nhiên có hạn và thị trường trong nước nhỏ hẹp, họ không thể không tổ chức ra các Công ty sử dụng nhiều lao động hoặc nhận thầu các Công ty nước ngoài ở các nước khác để nhận thầu các Công ty nước ngoài ở các nước khác để tìm lối thoát. Ba là, những nước đang nhanh chóng thực hiện công nghiệp hoá. Họ đã có được những thành tựu nhất định ở trong nước và muốn phát triển ra nước ngoài, cùng với bạn bè ở nước sở tại lập ra những Công ty sản xuất thiết bị công nghiệp, hàng dệt hoặc sản phẩm điện tử" .(8 - T.38). Cho đến nay, đầu tư ra nước của các nước đang phát triển tăng mạnh và có một vị trí đáng kể trong xuất khẩu tư bản toàn thế giới. - Sự xuất hiện của các tổ chức liên kết kinh tế, các Công ty xuyên quốc gia và cục diện đa trung tâm. + Các Công ty xuyên quốc gia: là hình thức tổ chức quốc tế hoá chủ yếu của tư bản hiện đại. Nó phát triển từ những Công ty độc quyền lớn của các nước tư bản và mở rộng quy mô, thực lực nhờ kết quả của quá trình xã hội hoá sản xuất và phân công lao động. Đầu tư và các Công ty quốc gia ra nước ngoài không ngừng tăng, 25 tỷ USD năm 1990, lượng luỹ kế đầu tư ra nước ngoài vượt 100 tỷ USD với trên 90% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với 35000 Công ty xuyên quốc gia. Sự xuất hiện của các Công ty xuyên quốc gia với quy mô lớn, hùng hậu là lực lượng chủ yếu xuất khẩu tư bản, thực tế đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu bới sự vận động tư bản quốc tế này nay trên phạm vi toàn cầu. + Các tổ chức liên kết kinh tế, khu vực hoá và toàn cầu hoá. Khu vực hoá kinh tế là hiện tượng ra đời sau chiến tranh thế giới lần hai và đặc biệt phát triển mạnh từ những năm 80 trở lại đây và trở thành xu thế toàn cầu biểu hiện là sự quốc tế hoá sản xuất và đời sống kinh tế phát triển tới một trình độ nhất định. Nội dung liên kết không chỉ giới hạn trong vấn đề mậu dịch và trong việc lưu động quốc tế và kỹ thuật lao động, phối hợp với các chính sách kinh tế đặc biệt là lưu động phát triển về tư bản. Đến nay trên thế giới đã có các tổ chức liên kết như EU, NAFTA (11/1994) APEC. Khu vực hoá kinh tế thuận lợi cho xuất khẩu tư bản giữa các nước tư bản với nhau, ở đây có mối quan hệ hai chiều. Xuất khẩu tư bản đặc biệt phát triển nhất là xuất khẩu tư bản hai chiều thì rõ ràng cấp thiết đòi hỏi khu vực hoá kinh tế toàn cầu hình thành. Từ khi EU thành lập đầu tư của Mỹ, Nhật vào Tây Âu phát triển mạnh chủ yếu của tư nhân năm 1989 lên tới 150 tỷ USD chiếm 40% tổng đầu tư trực tiếp của Mỹ. Nhật cũng ra sức đầu tư vào Châu Âu và Mỹ, ở đây hai bên đối tác đều tranh thủ lợi nhuận từ khu vực hoá kinh tế. + Sự đa phương hoá về kinh tế. Nếu như trong những thập kỷ 70 trở về trước Mỹ là một cường quốc về kinh tế đến 50,7% tỷ trọng công nghiệp của các quốc gia tư bản, ngày nay Mỹ chỉ còn 25%. Vị trí này bị lung lay bởi sự phát triển của Tây Âu và Nhật Bản. Đến nay Nhật có tổng thu nhập quốc dân bằng 3/5 Mỹ và Tây Âu. Do vậy, thực lực xuất khẩu tư bản giữa các quốc gia này là ngang bằng nhau. Đặc biệt Nhật Bản trở thành nước có tư bản dư thừa nhiều nhất và xuất khẩu tư bản không kém gì Mỹ. Các quốc gia Tây Âu cũng đầu tư mạnh vào Bắc Mỹ 80% FDI (1989). Nước Mỹ cũng đưa vào Tây Âu 53% FDI, Nhật đưa 50% FDI vào Bắc Mỹ (9 - T.94). Từ thực tế trên ta thấy, xuất khẩu tư bản giai đoạn này vẫn chủ yếu là xuất khẩu tư bản lẫn nhau giữa ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Sự phát triển của xuất khẩu tư bản và những biểu hiện của nó trong những năm cuối thế kỷ XX và những năm tiếp theo phụ thuộc 3 trung tâm lớn này của thế giới. 1.2.2. Kết quả và những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay. 1.2.2.1. Kết quả của quá trình xuất khẩu tư bản Xuất khẩu tư bản cuối thế kỷ XX đã đem lại những thay đổi to lớn đối với sự phát triển của kinh tế thế giới. - Trước hết xuất khẩu tư bản đã đem lại kết quả là làm thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu, thúc đẩy một bước phát triển mới về khoa học và công nghệ và quan hệ sản xuất mới. Thứ nhất; nó là sự phát triển kinh tế mạnh của các quốc gia nhận đầu tư: Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc... đã tạo được sự tăng trưởng cao từ những năm 60 lại đây. Mức tăng trưởng GDP liên tục trong vòng vài chục năm thường là trên 10% cao nhất thế giới, các nước này nhanh chóng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước và trở thành các quốc gia phát triển hay còn gọi là các nước Nics. Một điểm dễ nhận ra các quốc gia này đều là các quốc gia trong tranh thủ được sự đầu tư nước ngoài để phát triển đất nước và cũng là các nước nhận đầu tư xuất khẩu tư bản nhiều nhất. Riêng đối với các quốc gia tư bản phát triển, xuất khẩu tư bản lẫn nhau là chủ yếu nên giúp các nước này bước vào khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, hình thành các Công ty xuyên quốc gia. Chính vì vậy, các nước tư bản phát triển đã thu được nhiều thành tựu đặc biệt trên mọi lĩnh vực. Sự gắn kết về lợi ích kinh tế trong xuất khẩu tư bản đảm bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi nước tư bản, cho bản thân sự tồn tại của chúng. Thứ hai, từ sự hợp tác, phân công lao động quốc tế và sự xã hội hoá sản xuất đảm bảo tuyệt đối cho xuất khẩu tư bản trở thành một phương thức để cho các nước tư bản phát triển giải quyết việc thay đổi công nghệ. Trong thời đại khoa học, kỹ thuật có những bước phát triển vượt bậc thường xuyên thay đổi công nghệ góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm tạo sự cạnh tranh tối đa để thu được lợi nhuận cao. Các nước xuất khẩu tư bản xuất khẩu công nghệ hạng 2 sang các nước thế giới thứ 3 này công nghệ hạng 2 cũng là hiện đại đối với họ, nên đã góp phần thay đổi công nghệ lạc hậu ở các quốc gia đó. ở các nước tư bản phát triển, công nghệ mới được thay đổi liên tục kích thích khoa học kỹ thuật, phát triển đòi hỏi sự hợp tác quốc tế và sự xã hội hoá ngày càng cao. Do đó, xuất khẩu tư bản đã liên kết các khu vực kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu. Thứ ba, "quan hệ sản xuất mới" ra đời: xuất khẩu tư bản đã tạo ra một "quan hệ sản xuất mới", sự hợp tác ngang bằng giữa các quốc gia xuất khẩu tư bản với nhau và sự hợp tác bất bình đẳng với các nước đang phát triển. Do sự phân công lao động sâu sắc nên dẫn đến sự tập trung hoá sản xuất cao độ, giữa nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. - Hình thức các tổ chức liên kết quốc tế, các Công ty xuyên quốc gia, tự do toàn cầu hoá kinh tế và thể chế đa trung tâm của kinh tế thế giới. Sự phát triển vượt bậc của các Công ty xuyên quốc gia, ở thế kỷ XXI này xuất khẩu tư bản thông qua các Công ty xuyên quốc gia. Một khi các Công ty xuyên quốc gia phát triển vượt bậc sẽ dẫn tới sự ràng buộc lẫn nhau về kinh tế tiến tới liên kết khu vực và toàn cầu hoá về kinh tế, xuất khẩu tư bản cũng không nằm ngoài xu thế này. Thế giới ngày nay, Mỹ đã mất vai trò là cường quốc kinh tế số 1 từ vị trí 50,7% GDP của thế giới đến nay Mỹ còn 20 - 25% GDP thế giới. Thập kỷ 80 trở lại đây đánh dấu sự trỗi dậy của Nhật và Tây Âu. xuất khẩu tư bản trước đây chủ yếu là Mỹ và Tây Âu. Thì ngày nay sự xuất hiện của Nhật đã làm thay đổi quan hệ kinh tế thế giới tạo nên thế chân kiềng vững chắc, là Nhật xuất khẩu tư bản sang Mỹ và Tây Âu, Tay Âu xuất khẩu sang Mỹ và ngược lại. Tóm lại, sự xuất khẩu tư bản lẫn nhau giữa ba trung tâm kinh tế thế giới, trong đó Nhật đóng vai trò chủ đạo. Tiếp sau đó là sự trỗi dậy của một số quốc gia xuất khẩu tư bản mới như: Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Braxin, Mêxicô...đã đưa đến cho nền kinh tế thế giới những kết quả quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của các quốc gia trên thế giới. 1.2.2.2. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay. Từ những kết quả của xuất khẩu tư bản cuối thế kỷ XX như đã trình bày ở trên. Xuất khẩu tư bản đã làm thay đổi mọi mặt nền kinh tế cững như sự phát triển của mỗi quốc gia. Thay đổi các quan hệ kinh tế quốc tế và điều quan trọng là sự lột xác của chủ nghĩa tư bản để phù hợp với thời đại. Từ đó chúng ta thấy ra đời một chủ nghĩa tư bản hiện đại mới đặc trưng là sự tập trung hoá sản xuất cao độ đó là sự phát triển tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Xét riêng về xuất khẩu tư bản chúng ta cũng thấy rõ đó là lối thoát cho chủ nghĩa tư bản, là con đường mà chủ nghĩa tư bản không ngừng tìm kiếm lợi nhuận và qua đó nhằm liên kết kinh tế đảm bảo lợi ích chung. Nói một cách khác "chủ nghĩa tư bản hiện đại" là chủ nghĩa tư bản tự biến đổi, tự điều chỉnh trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và kinh doanh trên quy mô toàn thế giới. Sự tập trung hoá kinh tế bởi những tổ hợp kinh tế lũng đoạn toàn cầu, bởi sự xã hội hoá sản xuất ngày càng cao phát triển dựa trên xuất khẩu tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu là những nước tư bản phát triển, trong đó nổi bật là 3 trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Các Công ty xuyên quốc gia thúc đẩy quốc tế hoá hàng loạt hoạt động của tư bản, đưa trao đổi sản xuất và mọi hoạt động kinh tế vào hệ thống kinh doanh thế giới rộng lớn. Công ty xuyên quốc gia là hình thức tổ chức quốc tế hoá, chủ yếu là tư bản hiện đại, có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia và quan hệ giữa các nước liên quan mạnh đến việc xuất khẩu tư bản. Phát triển vượt bậc của các Công ty xuyên quốc gia mà các Công ty xuyên quốc gia chủ yếu phát triển từ những Công ty độc quyền lớn của các nước phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và kinh doanh xuyên quốc gia, các Công ty này không ngừng mở rộng. Hiện nay, tổng giá trị sản xuất hàng năm của các Công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng hàng năm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, giá trị sản xuất ở nước ngoài của chúng nhiều hơn tổng lượng mậu dịch thế giới. Lượng luỹ kế đầu tư ra nước ngoài đã vượt quá 100 tỷ đô la, lượng tiêu thụ ở nước ngoài lên tới 4000 tỷ USD, nắm giữ và kiểm soát 50% lượng mậu dịch quốc tế, trên 90% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trên 80% bản quyền kỹ thuật mới và công nghệ mới. Với quy mô to lớn và thực lực hùng hậu các Công ty xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu đối với sự vận động của tư bản quốc tế ngày nay trên phạm vi toàn cầu. Sự phát triển của thị trường thế giới với hai nhân tố của khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường. Hợp tác quốc tế sản xuất là một trong những con đường chính hoà nhập kinh tế trong đó dẫn tới việc xuất khẩu tư bản mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại cuối thế kỷ XX đầu tư thế kỷ XXI. Tính đa dạng hoá ngày càng tăng của những đầu tư quốc tế. Các Công ty của Nhật biến thành những người xuất khẩu tư bản chủ yếu hoạt động ngày càng tăng vào Tây Âu, Mỹ, chuyển trọng tâm đầu tư vào các nước đang phát triển. Quá trình liên kết quốc gia hoá các ngân hàng được đẩy mạnh. Dịch vụ chiếm tỷ trọng càng lớn trong đầu tư trực tiếp của các Công ty xuyên quốc gia, 40% vốn đầu tư thế giới và 1/2 tổng số đầu tư trực tiếp. Đó là sự thoát dần của các quốc gia lệ thuộc vào xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản của các quốc gia tư bản phát triển đã mang tính chất bình đẳng. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản vẫn còn có trung tâm và ngoại vi của nó. Tóm lại, xuất khẩu tư bản góp phần lột xác chủ nghĩa tư bản, hình thành chủ nghĩa tư bản hiện đại đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của nó. Trong đó, xuất khẩu tư bản là một nhân tố quan trọng trong quá trình thay đổi nội tại của chủ nghĩa tư bản phù hợp với sự phát triển của lịch sử. Chương II đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 2.1. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 2.1.1. Sự cần thiết phải tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Việt Nam là một nước đang trong quá trình đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá để trở thành một nước công nghiệp phát triển, Việt Nam đang cần đến hai điều kiện hết sức cơ bản là vốn và kỹ thuật. Việc mở cửa nền kinh tế tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài đã giúp chúng ta thực hiện những vấn đề cơ bản đó. Trong khi tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, việc khai thác vốn đầu tư từ bên ngoài để có thể kết hợp với nguồn lực nội địa nhằm tạo ra những "bước nhảy" trong tăng trưởng kinh tế. Vì vậy thu hút vốn đầu tư nước ngoài là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày nay. Sau hơn 10 năm đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước đạt được những thành qủa nhất định. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trở thành hết sức cần thiết giúp cho nền kinh tế của đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tạo tiền đề phát triển đi lên cùng với khu vực và trên thế giới. Trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đầu tư nước ngoài là yếu tố có khả năng tạo ra những điều kiện quyết định mức độ thành công và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Điều đó cũng cho thấy rằng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng và là một hình thức kinh tế chủ yếu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì với việc đầu tư nước ngoài vào trong nước (cả gián tiếp lẫn trực tiếp) đã khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển hết khả năng vốn có của nó và việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài ấy lại là một cơ sở quan trọng trong việc hợp tác kinh tế với các nước bạn; thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư và nâng cao dần vị thế của mình trên trường quốc tế. Đó chính là nâng cao vai trò, và tầm quan trọng của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó phát triển nền kinh tế vững mạnh tạo thêm được nhiều công ăn, việc làm cho người lao động, tăng mức thu nhập và sử dụng một cách đúng đắn khoa học tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. 2.1.2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam 2.1.2.1. Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, trong đó một trong những vấn đề nổi lên tương đối gay gắt là thiếu vốn đầu tư. Huy động vốn, thực sự đã trở thành vấn đề cốt yếu của sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, dựa vào tính chất, đặc điểm của từng thời kỳ cụ thể, để lựa chọn, huy động sử dụng nguồn vốn nào là việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, vì nó ảnh hưởng đến tốc độ, kết quả, và tính bền vững của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như sự phát triển lâu dài của đất nước. Thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi khả năng tích luỹ và huy động vốn trong nước còn khó khăn, khi mà trình độ tổ chức quản lý cũng như các điều kiện để sử dụng vốn vay, còn kém hiệu quả, thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ở Việt Nam bình quân 1.737,7 triệu USD/năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản các dự án đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ 1991 - 2000 là 17.423,2 tỷ đồng/năm. Đối với một nền kinh tế có quy mô như của chúng ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu quả nhất định: Tính từ năm 1988 trở lại đây khối lượng vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh qua các năm (xem sơ đồ dưới đây). Sơ đồ biểu diễn tình hình vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. (10). Năm Tổng số vốn đầu tư (triệu USD) 1988 371,8 1989 582,5 1990 839,0 1991 1322,3 1992 2165 1993 2900 1994 3765,6 1995 6530,8 1996 8497,3 1997 4649,1 1998 3897 1999 1568 2000 2012,4 2001 2436 Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991 - 2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24,8%. Và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. (cụ thể xem, bảng sau): Sơ đồ tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xây dựng thực hiện toàn xã hội thời kỳ 1991 - 2000 (11) Năm Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng) Vốn trong nước (tỷ đồng) Vốn đầu tư trực tếp của nước ngoài Số lượng (tỷ đồng) So với tổng số (%) 1991 13.471 11.545 1.926 14,3 1992 24.737 19.552 5.185 21,0 1993 42.177 31.556 10.621 25,2 1994 54.296 37.796 16.500 30,4 1995 68.048 46.048 22.000 32,3 1996 79.367 56.667 22.700 28,6 1997 96.870 66.570 30.300 31,3 1998 97.336 73.036 24.300 25.0 1999 105.200 86.300 18.900 18,0 2000 120.600 98.200 21.800 18,2 Tổng 701.502 527.270 174..232 24,8 Vốn đầu tư xây dựng từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1991 - 2000 = 174.232 tỷ đồng) gần bằng 50% tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước (1991 - 2000 = 354.203 tỷ đồng). Như vậy, có thể nó đầu tư nước ngoài là một trong những tác nhân có khả năng làm cho việc hình thành tại Việt Nam một thị trường vốn thực sự có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2.1.2.2. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho cơ cấu của nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá, thị trường, hiện đại. Ta thấy rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố quan trọng và đang ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. (năm 1995 chỉ số phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 114,98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,54%; năm 1997 là 120,75% và 108,15%; năm 1998 là 119,54%. Số liệu tương ứng của năm 1996 là 119,42% và 109,34%; năm 1997 là 120,75% và 108,15%; năm 1998 là 119,1% và 105,8%; năm 1999 là 117,6% và 104,8% năm 2000 là 109,9% và 106,7%). Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm trong nước cũng có xu hướng tăng lên tương đối ổn định (tỷ trọng này đạt từ 6,3% - 1995; 7,39% - 1996; 9,07% - 1997; 10,03% - 1998; 12,2% - 1999; lên 13,3% - 2000). Theo tạp chí của tổng cục thống kê 4/2003 số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 01/01 - 20/2/03 được biểu diễn theo sơ đồ sau đây: (12). Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam từ 01/2001 đến 20/2/2003. Số dự án (DA) Số vốn đăng ký (nghìn USD) Tổng số Trong đó: vốn pháp định Tổng số 52 122017 66568 Phân theo ngành kinh tế công nghiệp nặng 14 29365 13876 Dầu khí 1 16000 16000 Công nghiệp nhẹ 20 21033 10027 Công nghiệp thực phẩm 4 10000 5170 Nông, lâm, ngư nghiệp 1 500 350 Khách sạn, du lịch 1 100 300 Văn phòng cho thuê 1 4995 200 Dịch vụ 3 850 270 Giao thông vận tải và bưu điện 1 3524 2400 Xây dựng 2 28000 13800 Văn hoá, y tế và giáo dục 3 2750 1370 Thuỷ sản 1 400 1000 * Đối với ngành công nghiệp: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những có tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp; tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này đạt từ 25,1% (1995) 26,73% (1996); 28,9% (1997); 31,98 (1998) đã tăng lên 34,73% (1999) và 35,5% (2000). "Sự đóng góp của đầu tư trực tiếp nước đã chi phối đáng kể quá trình chuyển cơ cấu kinh tế nước ta. Tỷ trọng công nghiệp tăng lên và đang ngày càng chiếm ưu thế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế thể hiện tương đối rõ nét trong thực tế vừa qua". (13 T.131). sự chuyển biến về tỷ trọng của công nghiệp trong GDP, gần như đồng biến với tỷ trọng GDP của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP của ngành công nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng, trong số các nhân tố ảnh hưởng, đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có vai trò rất quan trọng trong phát triển công nghiệp mà nó còn có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong ngành công nghiệp khai thác các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí chủ đạo, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức tỷ trọng của một số năm như sau: 77,8% (1995); 78% (1996); 77,7% (1997); lên 81,4% (1998). Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra, với các mức cụ thể như sau: 99,7% (1995); 99,7% (1996); 99,8% (1997) và 99,8% (1999). Điều mà chúng ta rất dễ nhận biết là nếu như không có đầu tư nước ngoài thì tin chắc chúng ta chưa thể tiến hành được công tác khai thác dầu thô và khí đốt. Trong công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18,1% (1995); 20,1% (1996); 22,9% (1997) lên 25,3% (1998). Trong đó có một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như sau: 71% trong ngành sản xuất và sửa chữa xe có động cơ (trong đó 100% trong sản xuất và lắp ra ô tô, xe máy). 44,3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da, 100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà không khí, đầu video, sản xuất sợi PE, PES, 67,6% trong ngành sản xuất radiô, ti vi, thiết bị truyền thông; 31% trong ngành sản xuất kim loại, 22,2% trong ngành sản xuất thiết bị điện, điện tử, ngành may mặc, 18,6% trong ngành dệt. Các công nghệ đang sử dụng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp hiện nay, theo đánh giá của nhiều nhà chuyên gia là đều thuộc công nghệ hiện đại hơn các công nghệ vốn có tại nước ta. Cụ thể, các công nghệ đang sử dụng trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, hoá chất... đều thuộc loại công nghệ hiện đại và các công nghệ này thực sự đã góp phần tạo nên bước ngoặt tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Đa số công nghệ sử dụng trong các ngành công nghiệp điện tử, hoá chất, ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng đều là những dây chuyền tự động hoá tương đối hiện đại. Một số sản phẩm điện tử, vi mạch, người máy công nghiệp... được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. Các khách sạn, văn phòng cho thuê đều được trang bị các thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế. * Đối với ngành nông nghiệp: tính đến nay, còn 278 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang còn hiệu lực hoạt động trong ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông, lâm sản hàng hoá. Vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến gỗ, lâm sản... thì những năm gần đây nhiều dự án đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi... Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông - lâm - ngư nghiệp đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của đông đảo nhân dân Việt Nam cư trú ở nông thôn, góp phần đầu tư, cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở lạc hậu, yếu kém ở nhiều địa phương, tạo nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn, tạo ra khả năng tiếp nhận những công nghệ tiên tiến cho sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. 2.1.2.3. Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trong nước là một trong những mục tiêu đặt ra khi thực thi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay, ta thấy đây là mục tiêu mà chúng ta đã thu được kết quả cao hơn so với một số mục tiêu khác. Tính đến năm 2001, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra cho người lao động Việt Nam 380.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng hơn 1 triệu lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan). Số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% - 40% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực Nhà nước. Điều này cho thấy hiệu quả đạt được nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD/tháng (tương đương 980.000 đồng) bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỹ thuật lao động nghiêm khắc... đúng với yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại. Trong một số lĩnh vực còn có yêu cầu đối với lực lượng lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn, ngoại ngữ... sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào làm việc tại các doanh nghiệp loại này. Theo đánh giá của một số chuyên gia về lao động cho thấy đến nay, ngoại trừ một số ít lao động bỏ việc do mâu thuẫn với giới chủ, một số khác bị thải loại do không đáp ứng được yêu cầu (chủ yếu do tay nghề yếu...) số công nhân hiện còn làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến. Sự phản ứng dây truyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động trẻ tự đào tạo một cách tích cực và có hiệu quả hơn, cũng như góp phần hình thành cho người lao động Việt Nam nói chung một tâm lý tuân thủ về nề nếp làm việc theo tác phong công nghiệp hiện đại có kỹ thuật. Về đội ngũ các cán bộ quản lý, kinh doanh: trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta có chưa nhiều nhà doanh nghiệp giỏi, có khả năng tổ chức quản lý kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm, quản lý. Mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy, dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đến nay chúng ta có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Họ chủ yếu là những kỹ sư trẻ có trình độ, có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng để tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại, thậm chí cả những bí quyết kỹ thuật. 2.1.2.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố có sức mạnh thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Đồng thời, nó là một trong những phương thức đưa hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất. Trong xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế hiện nay, mức độ thành công của mở cửa và hội nhập với thế giới sẽ có tác động chi phối mạnh mẽ đến sự thành công của công cuộc đổi mới, đến kết quả của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hướng mở cửa và hội nhập tương đối có hiệu quả. Chúng ta biết rằng, Việt Nam triển khai thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp trong bối cảnh quan hệ kinh tế đối ngoại chỉ ở phạm vi rất hạn hẹp. Các quốc gia có quan hệ hợp tác với Việt Nam chủ yếu thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một hệ thống bao gồm các nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đây là thời kỳ mà Việt Nam ở vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội và cũng là thời kỳ cả hệ thống xã hội chủ nghĩa đang lâm vào thoái trào. Việt Nam lúc này đang rất khó khăn lại mất đi các nguồn viện trợ, mất đi những bạn hàng truyền thống và dễ tính, những đối tác hợp tác quốc tế có nhiều ưu ái với mình. Bên cạnh đó, cùng với chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ đã làm cho Việt Nam rất khó xác lập được những mối quan hệ kinh tế với các nước khác. Tuy vậy, với chính sách đầu tư nước ngoài được đánh giá là có sức hấp dẫn lúc bấy giờ, nhiều nhà đầu tư thuộc các chế độ chính trị, xã hội khác nhau đã tìm đến và chấp nhận làm ăn với Việt Nam. Như phần trước ta đã đề cập: các đối tác đến Việt Nam thực hiện đầu tư đã tăng nhanh, những kết qủa mà họ đạt được trong hoạt động đầu tư cùng với chính sách đối ngoại rộng mở của chính phủ Việt Nam không ngừng đã xoá đi những mặc cảm, định kiến của một số nước mà còn chính các nhà đầu tư đã tạo ra sức ép đối với một số chính phủ (trong đó có chính phủ Mỹ) trong việc cải thiện quan hệ với Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài cùng với các hoạt động thực hiện dự án đầu tư đã trở thành "cầu nối" là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới. 2.1.3. Một số thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1.3.1. Thuận lợi - Trong bối cảnh của thế giới hện nay, các hoạt động xuất khẩu, liên doanh, đầu tư ra nước ngoài đã trở thành những yếu tố chi phối, quyết định khả năng tồn tại và phát triển của các Công ty xuyên quốc gia thực hiện việc chiếm lĩnh và mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ để kéo dài chu kỳ kỹ thuật cao nhưng đồng thời vẫn có điều kiện để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả... Điều này cho thấy xu hướng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang ngày càng tăng lên là tương đối hiện thực. - Với đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng và lãnh đạo, chúng ta đã giành được sự thành công nhất định trong việc thực hiện bước chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập. Cùng với những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đã tạo ra một hệ thống kinh tế quốc tế rộng rãi và tương đối có hiệu quả. Vị thế của Việt Nam trên thế giới đang ngày càng được củng cố, cải thiện và tăng cường về nhiều mặt. - Mặc dù chưa hết những thế lực chống phá, nhưng trong thời gian qua Việt Nam cũng đã tạo ra được một sự ổn định về chính trị, xã hội, giữ vững được nền an ninh quốc phòng, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có được tâm lý tin tưởng, yên tâm về sự an toàn trong hoạt động đầu tư. - Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những bước phát triển tương đối khả quan. Điều này cho thấy, nếu khi có các điều kiện tốt, các nhân tố đảm bảo sự phát triển đạt được mức cần thiết và có quan hệ hợp lý... thì khả năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam là không nhỏ. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được Đảng cộng sản Việt Nam xác định là một thành phần bình đẳng trong tổng thể các thành phần của nền kinh tế Việt Nam. Sự đánh giá cao và nhất quán này không những đã tạo ra những triển vọng tốt đẹp cho sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang tồn tại ở Việt Nam, mà nó còn là yếu tố tạo thêm sức hấp dẫn về môi trường đầu tư của Việt Nam đối với các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm hiểu để lập dự án đầu tư tại Việt Nam. - Đến nay chúng ta đã trải qua 15 năm thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, so với một số nước thì khối lượng vốn nước ngoài đầu tư vào nước ta chưa lớn và cũng chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho phát triển của Việt Nam. Tuy vậy, từ sự đa dạng, phong phú về các đối tác đầu tư nước ngoài, về loại hình sản xuất, về quy mô doanh nghiệp... cũng như từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... đã giúp ta có thể rút ra một số vấn đề được và chưa được trong công tác thu hút, quản lý, cũng như tổ chức hoạt động đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.1.3.2. Khó khăn - Thế giới (nói chung) và Châu á (nói riêng) đang diễn ra cuộc cách mạng gay gắt về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong khi, đa số các nhà đầu tư nước ngoài đang giành sự chú ý nhiều hơn đến các nền kinh tế phát triển thì Việt Nam vẫn đang đứng trong hàng ngũ những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp thuộc các nước đang phát triển. Tương quan này, đã đặt nước ta trước những thử thách to lớn trong cuộc cạnh tranh đầy khó khăn và phức tạp để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các điều kiện vật chất đảm bảo cho hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài còn rất thiếu, và lạc hậu. Chẳng hạn, chúng ta đang rất thiếu vốn trong nước để tham gia, đối ứng với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong khi đó thị trường vốn vừa yếu, vừa thiếu đồng bộ, các cơ sở hạ tầng và các dịch vụ còn rất lạc hậu - không đáp ứng được yêu cầu của một nền sản xuất hiện đại. - Chúng ta chưa hình thành được một hệ thống luật pháp đồng bộ, nhất quán và ổn định đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, chưa thật sự tạo ra được sự hấp dẫn có sức cạnh tranh với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. - Chúng ta có một nguồn thuận lợi dồi dào và tương đối có tiềm năng nhưng chưa có sự chuẩn bị, chưa có quy hoạch đào tạo một cách có hệ thống cho hoạt động kinh tế đối ngoại - nhất là cho lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó phần đông số cán bộ Việt Nam tham gia quản lý trong các liên doanh còn bất cập về trình độ cũng như năng lực so với yêu cầu của cương vị mà họ đang đảm nhận. Hay nói cách khác, hiện chúng ta đang rất thiếu những nhà doanh nghiệp giỏi và những công nhân kỹ thuật lành nghề. 2.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài và một số giải pháp khắc phục. 2.2.1. Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam - Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đưa Việt Nam không ít những công nghệ lỗi thời. Việt Nam luôn mong muốn tiếp thu công nghệ tiên tiến, song thực tế chỉ được chuyển giao công nghệ hạng hai mà thôi. Thực tế đó, trên nhiều dự án các máy móc thiết bị nước ngoài đầu tư đều là lỗi thời và không đồng bộ. Theo một số báo cáo của bộ công nghệ khoa học và môi trường thẩm định 727 máy móc thiết bị của 42 Công ty liên doanh cho thấy 76% sản xuất từ những năm 1960, 2/3 thiết bịn hết khấu hao, nhưng được các nhà đầu tư tâng trang nhằn tính khống giá cho tỷ lệ góp vốn. Với những thủ đoạn này của chúng, Nhà nước Việt Nam phải chịu thiệt thòi rất nhiều. Những máy móc, công nghệ lạc hậu đưa vào để tiến hành sản xuất hàng hoá Việt Nam sẽ mất hết sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, khó khăn trong quá trình hội nhập khu vực và quan hệ kinh tế thế giới. - Mở rộng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ nội địa của Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn quan tâm đến việc xuất khẩu tại chỗ, trong khu các khu vực này có những tăng trưởng sản xuất công nghiệp là 22,2%/năm với 12,5%/năm của cả nước thĩk chỉ tăng 20% so với 30,2% của cả nước. Hướng xuất khẩu ngay nội địa, cách mà các nhà đầu tư hay làm là nhập linh kiện, phụ tùng lắp ráp tại nước đầu tư và bán ngay tại thị trường nội địa. Do tranh thủ được giá nhân công rẻ, bán phá giá nên lấn át hết thị trường trong nước, một số sản phẩm chèn ép sản phẩm cùng loại của Việt Nam dẫn đén xí nghiệp sản xuất của Việt Nam gặp khó khăn. Một số xí nghiệp hay sản phẩm uy tín bị cuốn hút vào liên doanh và mất luôn nhãn hiệu của mình, trở thành người làm gia công cho nước ngoài. Từ đó làm tăng quá trình nhập siêu, phụ thuộc về kinh tế vào nước ngoài của Việt Nam. - Cơ cấu kinh tế độc lập, tự chủ bị xói mòn Thực chất các nhà đầu tư biến các liên doanh của mình trở thành mắt xích quan trọng trong dây chuyền kinh doanh sản xuất ở Công ty mẹ xuyên quốc gia. Điều đó dẫn tới Công ty mẹ xuyên quốc gia yêu cầu sản xuất gì là tuỳ theo yêu cầu chiến lược của trung tâm "mẹ" nên kinh tế nước ta chịu sự phụ thuộc. Sự đầu tư tràn lan đặc biệt do lấn diện tích tỷ lệ vốn thường là 70%/30% nên các doanh nghiệp nước ngoài giành được những vị trí có lợi về địa bàn, lĩnh vực đầu tư, bố trí nhân sự dẫn đến tình trạng sản xuất quản lý các liên doanh không thể kiểm soát được. Cơ cấu đầu tư không hợp lý tập trung các ngành ít rủi ro, đầu tư mạnh vào các trung tâm đô thị lớn tạo ra một nền kinh tế tuy có phát triển song phát triển lệch về cơ cấu phát triển kinh tế, chèn ép các xí nghiệp sản xuất trong nước dẫn tới sự lệ thuộc về kinh tế vào các nước đầu tư. - Mục tiêu chính trị của các nước đầu tư Từ sự lệ thuộc về kinh tế sẽ dẫn tới sự lệ thuộc về chính trị. Trong thực tế không ít những khoản tiền cho Việt Nam vay mà chủ đầu tư không kèm theo một điều kiện nào đó về chính trị, ví dụ như "dân chủ về chính trị hơn nữa". ở các Công ty liên doanh, các tổ chức chính trị, đoàn thể của Việt Nam hoạt động không có hiệu quả hoặc bị chèn ép làm mất vai trò. Sự tham gia sâu vào các mắt xích trong cơ cấu kinh tế làm chúng ta bị lệ thuộc nhiều về kinh tế từ đó chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng chính trị của các nước đầu tư. - Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu á là bài học tham khảo đối với Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khởi đầu là sự phá giá của đồng tiền nội địa Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia - Tháng 7/1997 từ 30 - 72%, đẩy tốc độ tăng trưởng của các nước này xuống dưới 0% là một bài học tham khảo cho các nhà lãnh đạo Việt Nam về đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở Châu á là các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn do suy thái kinh tế ở các nước cho vay. Sự rút vốn đồng loạt cùng một lúc của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài dẫn tới một loạt ngân hàng bị phá sản các xí nghiệp không còn vay vốn ngân hàng nên không hoạt động hay hoạt động cầm chừng, nên kinh tế bị khủng hoảng sâu sắc dẫn tới khủng hoảng về chính trị. Việt Nam tuy không chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ song những ảnh hưởng của nó cũng gây cho chúng ta không ít những khó khăn. 2.2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam - Rà soát, xem xét lại thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vừa qua, làm rõ những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong cơ cấu kinh tế hiện nay. Xác định một cách khoa học các yếu tố cần thiết để có được một cơ cấu kinh tế thích hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong tương lai. Trên cơ sở đó xây dựng định hướng chiến lược và quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Xây dựng hệ thống luật pháp và các chính sách có liên quan đến hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam một cách đồng đồng bộ, đảm bảo tính rõ ràng, nhất quán, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với tất cả các nhà đầu tư. - Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài: cần xác định chiến lược lâu dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các Công ty xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu tư thiếu năng lực, hoặc làm trung gian môi giới đầu tư. - Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức Nhà nước, và nhân công kỹ thuật có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Do đó vừa qua chúng ta đã rất chú ý đến việc đầu tư cũng như kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Tuy nhiên, sự phát triển hình thức này cũng phải tuân theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế của Việt Nam. - Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hoá trong huy động vốn cho đầu tư. Trước mắt, xúc tiến hoạt động có hiệu quả với quy mô rộng hơn (kể cả địa bàn) của thị trường chứng khoán. Thực hiện mô hình cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia rộng rãi hoạt động của thị trường vốn trong nước cũng như thị trường chứng khoán. - Nghiên cứu, xây dựng để sớm hoàn thành, áp dụng bộ luật đầu tư chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt và tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình rút ngắn khoảng cách, sớm tiến tới giai đoạn xoá bỏ hẳn sự chênh lệch về giá, phí hàng hoá, dịch vụ, giá cước...giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kết luận 1. Xuất khẩu tư bản là một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại phát triển mạnh trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu thu được lợi nhuận tối đa, giành giật thị trường và địa vị thống trị của chúng. Chủ nghĩa tư bản không ngừng coi phát triển xuất khẩu tư bản là chìa khoá cho sự sống còn, tồn tại và phát triển của mình. Đồng thời các nhà tư bản cũng đã liên kết với nhau nhằm nô dịch các nước đang phát triển với âm mưu thống trị về kinh tế và chính trị toàn cầu. Hiện tượng xuất khẩu tư bản là do yêu cầu phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là sự xã hội hoá cao về sản xuất do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ dẫn tới sự phân công lao động quốc tế và thay đổi tương quan lực lượng giữa các cường quốc, đế quốc. 2. Xuất khẩu tư bản là phương thức nhằm săn đuổi những mục tiêu về lợi nhuận, nhưng trong từng thời kỳ mà đối tượng hướng tới của nó có những đặc điểm không giống nhau. Những biểu hiện mới của nó có những thay đổi rõ rệt. Trước kia luồng xuất khẩu tư bản chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đặc biệt sau những năm 70, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư trong các nước tư bản phát triển. Xuất khẩu tư bản giữa các nước tư bản với nhau nhằm giải quyết những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ dẫn tới sự liên kết về kinh tế và chính trị, đảm bảo lợi ích, vị trí cũng như sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Còn xuất khẩu tư bản sang các nước đang phát triển là giành giật thị trường gây ảnh hưởng vị trí của mình, nô dịch các nước thuộc địa, bóc lột giá trị thặng dư. 3. Trong giai đoạn hiện nay khi mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển không ngừng khiến cho số sản phẩm làm ra nhiều đến con số kỷ lục, con người đạt đến nền văn minh hậu công nghiệp trong đó những công nghệ như viễn thông, điện tử, tin học, sinh học... do xuất khẩu tư bản tác động đến cuộc cách mạng khoa học công nghệ mang đến, góp phần quan trọng vào thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và thúc đẩy sự liên kết kinh tế của các Công ty siêu quốc gia thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế chung và hợp tác kinh tế trong kỷ nguyên hoà bình. Ngược lại xuất khẩu tư bản cũng đem lại những tiêu cực không nhỏ cho những quốc gia nhận xuất khẩu tư bản. Đó là sự lệ thuộc, lạc hậu về kinh tế và chính trị vào các nước xuất khẩu tư bản, tình trạng nợ nước ngoài trở thành nhân tố kìm hãm phát triển kinh tế, sự ô nhiễm môi trường và phân hoá xã hội sâu sắc. 4. Đối với Việt Nam là một quốc gia có xuất phát điểm về kinh tế thấp, hoà nhập với xu thế kinh tế mở cửa của thế giới, chúng ta đã tranh thủ được nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển nền kinh tế đất nước. Hàng năm chúng ta cần 10 tỷ USD để phát triển nền kinh tế đất nước trong đó số vốn nội lực không đủ, do đó chúng ta phải cần một số vốn lớn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam góp phần quan trọng trong việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, nhận rõ những mặt tiêu cực do xuất khẩu tư bản gây ra, chúng ta đã đề ra những chính sách và giải pháp hợp lý để tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Đó là những giải pháp tổng hợp tác động các yếu tố cấu thành đầu tư để phát huy những ưu thế, khắc phục những hạn chế về môi trường đầu tư của nước ta từ nay về sau. Danh mục các Tài liệu tham khảo "Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" - Lênin, Nxb tiến bộ, năm 1975, T.103. "Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" - Lênin, Nxb tiến bộ năm 1975, chương IV - xuất khẩu tư bản, T.108. "Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" - Lênin, Nxb tiến bộ, năm 1975, chương IV - xuất khẩu tư bản. T.109. Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" - Lênin, Nxb tiến bộ, năm 1975, chương IV - xuất khẩu tư bản. T.109. Lê Văn Sang - Đào Lê Minh - Trần Quang Lâm (1995) "Sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế" chủ nghĩa tư bản hiện đại tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, T.34. Lê Văn Sang - Đào Lê Minh - Trần Quang Lâm (1995) "Sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế" chủ nghĩa tư bản hiện đại tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, T.21. Đào Lê Minh "kinh tế tài chính - tiền tệ thế giới" Những vấn đề và triển vọng kinh tế thế giới 1991, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội 1990, T49, 50. Lê Văn Sang - Đào Lê Minh - Trần Quang Lâm (1995) "Sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế" chủ nghĩa tư bản hiện đại, tập 3, Nxb chính trị quốc gia, T.38. Lê Văn Sang - Đào Lê Minh - Trần Quang Lâm (1995) "Sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế" chủ nghĩa tư bản hiện đại, tập 3, Nxb chính trị quốc gia, T.94. Nguyễn Trọng Xuân "Đầu tư trực tiếp nước ngoài công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam" - Nxb khoa học - xã hội, Hà Nội 2002. Nguồn thời báo kinh tế Việt Nam, kinh tế 2000 - 2001 Việt Nam và thế giới, T.52. Tạp chí "con số và sự kiện" - 4 - 2003 của tổng cục thống kê. Nguyễn Trọng Xuân, "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội 2002. Nguyễn Trọng Xuân, "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội 2002. Lê Văn Sang - Đào Lê Minh - Trâng Quang Lâm (1995) "những thay đổi trong tổ chức quản lý kinh tế" chủ nghĩa tư bản hiện đại - tập 2, Nxb chính trị quốc gia. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 1999. "Chủ nghĩa hiện đại - những tìm kiếm mới" (1992) viện thông tin khoa học, xã hội. Tạp chí nghiên cứu kinh tế các năm 1995, 1996, 1997, 1998, 1999, 2000. Nguyễn Trọng Xuân (7/1995), "kinh tế đối ngoại với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam", tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4 (206). Nguyễn Trọng Xuân (9/2000) . "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam", tạp chí kinh tế số 268.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29721.doc
Tài liệu liên quan