* Công ty nên xây dựng các kế hoạch xuất khẩu chi tiết , bao gồm:
- Khả năng cạnh tranh quốc tế của công ty : đó là sản phẩm và giá bán của công ty có thể so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác trong thị truường quốc tế như thế nào?
- Báo cáo năng lực sản xuất: xác định khả năng xuất khẩu của công ty và lợi thế cạnh tranh trên thị trương quốc tế.
- Kế hoạch thực hiện chi tiết : bao gồm nguồn nhân lực và cam kết thực hiện , khu vực thị trường mục tiêu, chi phí và giá xuất khẩu, bao bì và tiếp thị.
- Báo cáo chi tiết nghiên cứu thị trường : bao gồm các vấn đề về giá cả, bao bì, kênh phân phối, các luận định và hạn chế, cũng như các vấn đề về văn hoá xã hội.
* Công tác tiếp thị và nghiên cứu thị trường nên bố trí thành một bộ phận riêng, tách rời khỏi phòng xuất nhập khẩu.
* Công ty nên tách hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới khỏi phòng kỹ thuật đầu tư vì công tác này rất cần thiết để duy trì và phát triển sản xuất.
* Lập phòng ( bộ phận ) mua hàng độc lập, chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho Tổng gián đốc.
* Mở rộng kỹ năng về quản lý chất lượng cơ bản cho công nhân bằng cách thực hiện phương pháp quản lý chất lượng toàn bộ ( với các chu trình quản lý chất lượng ) ở trong một nhà máy. Xây dựng quy trình ISO ra khỏi phạm vi các văn bản giấy tờ nhằm nâng cao chất lượng chung thông qua các hoạt động khắc phục và liên tục nâng cao chất lượng.
* Công ty cần quyết định có nên đưa ra thêm các sản phẩm đơn giản hơn với giá cạnh tranh hoặc sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn để tạo ra sự khác biệt của mình trên thị trường.
81 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những giải pháp nâng cao hoạt động xuất khẩu ở công ty dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
may được xuất đi từ Trung Quốc, Malayxia, Bangladesh, mà mạnh nhất là Trung Quốc. Đặc biệt việc Trung Quốc chính thức gia nhập WTO sẽ là một trở ngại vô cùng lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dệt may.
Bên cạnh những khó khăn từ môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước, Công ty Dệt may Hà Nội còn có một số lợi thế nhất định:
- Là một công ty xuất khẩu hàng dệt may có uy tín với thời gian tham gia vào xuất khẩu 20 năm nay. Trong 3 năm trở lại đây, sản phẩm của công ty luôn có mặt trong top 10 của hàng Việt Nam chất lượng cao.
- Công ty đã nhận chứng chỉ ISO9002. Đây là một bước tiến của công ty , nó nâng cao uy tín, khả năng xuất khẩu của công ty trên thị trường quốc tế.
- Thuế nhập khẩu hàng may mặc Việt Nam là 50% nên khi giảm thuế nhập khẩu thì áp lực cạnh tranh tuy tăng song ngược lại có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh của công ty.
Nếu biết tận dụng và phát huy các lợi thế trên, cùng với lợi thế về nguồn nhân công rẻ, dồi dào, công ty dệt may Hà Nội sẽ tạo ra được các sản phẩm chất lượng cao, nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình, tạo đã xâm nhập vào thị trường các nước phát triển.
.4 Nỗ lực triển khai hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty.
.4.1 Hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty
Trong điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay, làm thế nào để đảy mạnh lượng hàng dệt may ra thị trường thế giới đang là vấn đề được ban lãnh đạo công ty đặc biệt quan tâm. Cụ thể là trong thời gian gần đây, công ty có thành lập 1 tổ chuyên nghiên cứu thị trường. Bên cạnh những khách hàng truyền thống , công ty luôn nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới thông qua các ấn bản, tạp chí về thương mại, giá cả. Công ty cũng tổ chức quảng cáo, giới thiệu sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là các catalogue về thương mại. Ngoài ra công ty còn tham gia vào các hội chợ triển lãm, tổ chức các hội nghị bán hàng để giới thiệuc cho khách hàng biết đến thế mạnh của mình nhằm ký kết hợp đồng. Trong đợt triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao năm 1999, sản phẩm của công ty được Bộ Công nghiệp trao bằng khen là 1 trong 10 sản phẩm của ngành dệt may có chất lượng cao. và liên tiếp 2 năm liền 2000 và 2001, sản phẩm của công ty luôn nằm trong số nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng nhất trong năm. Thêm vào đó, công ty cũng gửi thư chào tới các khách hàng giới thiệu về công ty, về năng lực sản xuất và các mẫu mã sản phẩm.
Tuy nhiên, cho đến nay, công ty mới chỉ quảng cáo trên báo, trên mạng mà chưa có biện pháp quảng cáo mạnh như quảng cáo trên truyền hình, panô, áp phích tại các nơi công cộng. Tình hình này chắc chắn sẽ thay đổi trong tương lai vì nếu không thực hiện tốt công tác tiếp thị thì công ty sẽ khó mở rộng thị trường của mình và sản phẩm của công ty sẽ bị đối thủ cạnh tranh bỏ lại phía sau.
Nhưng quan trọng hơn vẫn là nắm bắt thông tin và nhu cầu từ phía khách hàng. Nó đòi hỏi không những phải có thông tin kịp thời, chính xác mà còn cần sự chi tiết, đầy đủ bởi thông tin là yếu tố mang tính chất quyết định trong hoạt động nghiên cứu thị trường của bất cứ một công ty nào tham gia vào việc kinh doanh trên thị trường, nhất là đối với các doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế. Hoạt động nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng mới của công ty được thực hiện thông qua việc thu thập các thông tin sơ cấp ( qua các bản thông báo, báo cáo của các đối tác nước ngoài ) và thông tin thứ cấp ( thu thập qua các tạp chí kinh tế và các tại liệu có liên quan ).
Để tăng cường công tác tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm của mình, công ty đang gấp rút chuẩn bị thành lập một phòng marketing với chức năng và nhiệm vụ đúng như tên gọi của nó.
4.2 Hoạt động phân phối.
Để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, công ty đã cố gắng phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay công ty đang sử dụng cả 4 kênh phân phối cho quá trình phân phối sản phẩm.
- Với kênh 1 là kênh phân phối trực tiếp, công ty đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng không thông qua hệ thống trung gian. Những sản phẩm này thường là sản phẩm may mặc dệt kim nội địa, phế phẩm không đủ tiêu chuẩn. Công ty không sử dụng kênh này cho việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
- Đối với 3 kênh phân phối còn lại, công ty thường bán cho các doanh nghiệp thương mại trong và ngoài nước, đại lý, người bán buôn, bán lẻ. Các sản phẩm phù hợp với kênh phân phối này là vải, sợi như vải mộc hay vải thành phẩm, khăn, và sản phẩm may.
Để hỗ trợ cho công tác xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, công ty đang nỗ lực xúc tiến thiết lập các mối quan hệ với các công ty thương mại nước ngoài . Bên cạnh đó, công ty cũng đang cố gắng thành lập các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm tại các thị trường, trực tiếp quảng bá và đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng.
4.3 Chính sách giá cả.
Hiện nay trên thế giới, cạnh tranh chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thời gian cung cấp hàng hoá và điều kiện giao hàng được đặt lên vị trí hàng đầu. Nhưng giá cả vẫn có vai trò quyết định , thậm chí còn diễn ra gay gắt hơn. Đối với thị trường Việt Nam, thu nhập dân cư chưa cao, yêu cầu về chất lượng và chủng loại hàng hoá còn ở mức thấp thì cạnh tranh bằng chiến lược giá cả vẫn được coi là vũ khí lợi hại giúp cho các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh.
Công ty định giá bán hàng bằng cách cộng thêm mức lãi 10-15% vào tổng chi phí. Giá bán trên thị trường nội địa dựa trên giá thành và giá cả thị trường. Giá xuất khẩu dựa trên thông tin do VINATEX cung cấp ( ước tính ) và chủ yếu từ các khách hàng, giá tham khảo quốc tế và từ tạp chí Ngoại thương nhưng để đưa ra được mức giá xuất chuẩn, công ty cần tìm hiểu rõ về giá thành sản xuất, giá cả thị trường và giá hiện tại đang bán của công ty và giá của các đối thủ cạnh tranh khác. Hiện tại, giá xuất khẩu của công ty thấp hơn giá bán thị trường nội địa vì áp lực cạnh tranh giá trên thị trường quốc tế cao mà mạnh nhất là Trung Quốc.
Xác định rõ vai trò của giá cả, ngoài việc định giá, công ty còn áp dụng các hình thức chiến lược giá cả : chiến lược ổn định, chiến lược giảm giá, chiến lược phân biệt giá. Mục tiêu phân hoá giá cả là nhằm kích thích vào nhu cầu của tất cả các nhóm khách hàng có đặc điểm khác nhau để phát triển và mở rộng thị trường.
4.4 Chính sách sản phẩm
Có thể nói đây là chính sách quan trọng hàng đầu trong chiến lược marketing của công ty. Từ những hiểu biết về thị trường, công ty thiết kế và tạo dáng về kiểu quần áo, mẫu thêu, nhu cầu về loại sợi. Sau đó, công ty cho sản xuất thử mỗi lô tối đa là 5000 sản phẩm. Bước tiếp theo, công ty tung ra thị trường những loại sản phẩm này để tìm thông tin phản hồi từ khách hàng. Từ đó, công ty sẽ có quyết định sản xuất tiếp hay không, và nếu sản xuất tiếp thì với số lượng là bao nhiêu. Để phát triển các sản phẩm của mình, công ty dùng các biện pháp sau:
- Thiết kế mẫu mốt mới : trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay, điều tất yếu là nếu công ty không đưa ra được những sản phẩm mới mà chỉ dựa vào những sản phẩm truyền thống thì chắc chắn sẽ đi đến thất bại. Lý do là mong muốn và nhu cầu của người mua không ổn định cho nên chu kỳ sống của sản phẩm cũng bị rút ngắn theo. Tuy nhiên, việc thiết kế mẫu mới là một công việc rất khó thực hiện và mang lại nhiều rủi ro.
- Sao chép sản phẩm xuất khẩu và bán vào thị trường nội địa. Đây là một biện pháp có thể khắc phục được một số hạn chế của phương án trên. Vì công ty không phải mất thêm chi phí và thời gian vào thiết kế mẫu mới nên khả năng rủi ro ở đây là rất thấp. Hơn nữa, đây là những sản phẩm xuất khẩu đang được chấp nhận trên thị trường quốc tế cho nên kiểu dáng mẫu mã rất phù hợp với trào lưu hiện đại. Từ đó làm cho khả năng thành công trên thị trường nội địa tăng lên.
- Nghiên cứu mốt trên thế giới: dựa vào các kiểu dáng của các nhà tạo mốt nước ngoài công ty đưa ra những mẫu phù hợp với chất liệu, mẫu sắc và phù hợp với khả năng của mình để tạo ra chính sách về sản phẩm mới. Trong năm 1997, công ty đã dựa vào thị trường các kiểu áo mang nhãn hiệu Poloshirt, Navy, Big-Star... Đây là biện pháp khá đơn giản và tiết kiệm cho khâu thiết kế nhưng nó cũng chỉ là một biện pháp trước mắt chứ không mang tính chiến lược lâu dài.
4.5 Chính sách chất lượng
Trong cơ chế thị trường ngày nay, để có thể tồn tại và phát triển, các nhà sản xuất phải có khả năng quản lý và tổ chức có hiệu quả những sản phẩm có chất lượng cao bằng con đường kinh tế nhất. Vì lẽ đó, công ty dệt may Hà Nội luôn đề ra mục tiêu " Đảm bảo chất lượng sản phẩm và những điều đã cam kết với khách hàng là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của công ty ". Để đạt được mục tiêu này, công ty xây dựng chính sách chất lượng nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng; tiết kiệm chi phí; phát huy nội lực của doanh nghiệp, đặc biệt là yếu tố con người.
Hiện nay, công ty có các quy trình kỹ thuật được quy định bằng văn bản cho mỗi loại sản phẩm và Phòng kỹ thuật đầu tư đang chịu trách nhiệm xây dựng các tiêu chuẩn cho mỗi loại sản phẩm. Công ty cũng đã nhận được chứng chỉ ISO cho nhiều nhà máy, trung tâm thí nghiệm và kiểm soát chất lượng.
Tuy nhiên, công ty cũng còn một số điểm cần phải khắc phục trong chính sách quản lý chất lượng của mình. Ví dụ như số liệu ghi chép thủ công, không thuận tiện và cản trở cho việc thực hiện những phân tích về xu hướng để có thể đưa ra các biện pháp cho các vấn đề chất lượng mang tính hệ thống; các phòng thí nghiệm tại các nhà máy không thuộc sự quản lý của trung tâm kiểm soát chất lượng và không được trang bị như phòng thí nghiệm của trung tâm. Nếu hệ thống kiểm soát chất lượng và hỗ trợ quản lý có thể được mở rộng hơn nữa so với việc theo dõi để tối ưu các hoạt động thì công ty dệt may Hà Nội sẽ có thể là một nhà sản xuất sản phẩm chất lượng cao trên thị trường nội địa và thế giới.
Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở
công ty dệt may Hà Nội
I. Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may trong những năm tới
1. Xuất khẩu hàng dệt may trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam
Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất khẩu đã đạt được những thành tựu to lớn và thực hiện được các mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1991-2000. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (1996-2000 đạt trên 51,6 tỷ USD) tăng bình quân trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP. Xuất khẩu đang là đầu ra quan trọng cho nhiều ngành kinh tế, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thành công này có một phần đóng góp rất lớn của ngành công nghiệp dệt may. Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may bình quân chiếm 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu với mức tăng trưởng khoảng 23,8%.
Thị trường xuất khẩu cũng được củng cố và mở rộng thêm. Thị trường châu á gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng thị trường các nước ASEAN đã chiếm tới 18%. Trên một số thị trường khác như EU, Mỹ, Trung Đông, hàng xuất khẩu của ta cũng đã có mặt và đang tăng dần ( Phụ lục 1 ).
Nhận thức được vai trò to lớn của hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng, vừa qua chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may VN đến năm 2005 và 2010 với các mục tiêu chủ yếu như trong bảng sau.
Nội dung cụ thể:
* Về đầu tư công nghệ: kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu , cải tạo mở rộng và đầu tư mới. Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu , nâng cấp những thiết bị còn khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới, đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chỉ tiêu về sản xuất, số lao động và xuất khẩu
Chỉ tiêu
Đơn vị
mục tiêu
năm 2005
tăng trưởng
bình quân
mục tiêu năm 2010
tăng trưởng bình quân
Trị giá xuất khẩu
triệu USD
4.000
13,2%
7.000
11,0%
Tổng số lao động
1000 ng
3.000
12%
4.000
5,7%
Sản phẩm chủ yếu
1. Bông xơ
2. Tơ sợi tổng hợp
3. Sơ xợi ngắn
4. Vải lụa
5. Sản phẩm dệt kim
6. Sản phẩm may
1.000 tấn
1.000 tấn
1.000 tấn
1.000 tấn
1.000 tấn
1.000 tấn
30
100
150
800
150
780
25,4%
18,1%
13%
18%
8,5%
10,5%
95
130
300
1.200
230
1.200
20,8%
5,8%
12 %
6,5%
6,5%
6,6%
chỉ tiêu về phát triển nguyên liệu dệt
Nguyên liệu
đơn vị
năm 2010
- Bông
+ Diện tích
+ Năng suất bông
+ Sản lượng bông
+ Sản lượng bông xơ
- Dâu tằm tơ
+ Diện tích trồng dâu
+ Sản lượng tơ tằm
ha
tấn/ha
tấn
tấn
ha
tấn
1.000.000
1,8
182.000
80.000
40.000
4.000
chỉ tiêu về nhu cầu tổng vốn đầu tư đến năm 2010
(đơn vị triệu USD )
- Đầu tư chiều sâu
+ dệt
+ may
- Đầu tư mới
+ dệt
+ may
756,9
709,0
47,9
2516,4
2306,4
210,2
Tổng số
3273,3
* Về thị trường tiêu thụ:
Thị trường ngoài nước: củng cố, giữ vững và phát triển quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống, thâm nhập và tạo đà phát triển vào các thị trường có tiềm năng và thị trường khu vực. Từng bước hội nhập thị trường kinh tế khu vực AFTA và thị trường kinh tế thế giới.
Thị trường trong nước: đáp ứng nhu cầu các mặt hàng thuộc ngành dệt may trong nước bằng chất lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị hiếu và phù hợp với sức mua của mọi tầng lớp nhân dân.
* Vốn đầu tư và sắp xếp các doanh nghiệp: đa dạng hoá nguồn vốn và phương thức huy động vốn đầu tư, phát huy nội lực và mở rộng đầu tư trực tiếp của nước ngoài để phát triển. Nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp may, từng bước cổ phần hoá một số doanh nghiệp dệt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của ngành.
* Bố trí quy hoạch cơ sở sản xuất : trên cơ sở hiện trạng, củng cố và phát triển 3 trung tâm công nghiệp dệt của cả nước là vùng Đông nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long; đồng bằng sông Hồng và duyên hải miền Trung. Đối với công nghiệp may, phân bổ rộng tãi trên địa bàn cả nước, ưu tiên phát triển cơ sở may xuất khẩu tại những vùng thuận lợi về giao thông, gần bến cảng , sân bay.
* Định hướng phát triển nguyên liệu : nâng tỷ trọng phụ liệu sản xuất trong nước của sản phẩm xuất khẩu để tăng giá trị gia tăng của công nghiệp may. Phát triển vùng nguyên liệu bông và tơ tằm để chủ động về nguyên liệu dệt, hạ giá thành sản phẩm và thu hẹp nhập khẩu nguyên liệu.
* Đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật , đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành dệt- may.
Đối với từng sản phẩm lại có nội dung riêng:
Đối với ngành dệt: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất.
Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích các thành phần kinh tế kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Đầu tư phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường: quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi , dệt, in nhuộm ở xa các trung tâm đô thị lớn.
Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt , nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Đối với ngành may:
Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động.
Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang , kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung đầu tư , cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2. Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty dệy may HN
Trước mắt công ty cùng với các doanh nghiệp dệt may khác nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu phát triển của toàn ngành dệt may trong thời gian tới.
Về sản phẩm, công ty cần phải xác định các sản phẩm đưa ra thị trường nào phải phù hợp với thị trường đó. Do nhu cầu thị hiếu của các thị trường khác nhau và luôn thay đổi nên các mặt hàng của công ty phải thay đổi theo. Công ty luôn phải tính toán điều chỉnh lại cơ cấu sản phẩm cho hợp lý để phù hợp với từng thị trường. Chẳng hạn như thị trường Nhật Bản cần chú ý tới các loại áo T-shirt , Poloshirt có gam mẫu sặc sỡ, sáng, cỡ vừa phải; còn đối với các thị trường như EU, Mỹ là những thị trường luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã phong phú.
Theo dự đoán tốc độ tăng đối với doanh thu sợi là 6,9% và thị trường nội địa sẽ tiếp tục tăng mạnh còn thị trường xuất khẩu tăng ít với tốc độ là 4,5%.
Dự báo doanh thu
Dự báo doanh thu
đơn vị
2002
2003
2004
2005
%tăng bquân
Sợi
Nội địa
Xuất khẩu
Tấn
14.690
12.490
2.200
15.820
13.520
2.300
16.500
14.100
2.500
16.950
14.450
2.500
6,9
4,5
Vải dệt thoi
Nội địa
Xuất khẩu
triệu mét
6,50
0
0
7,80
0
0
8,50
0
0
9,10
0
0
8,9
Sp dệt kim
Nội địa
Xuất khẩu
1000 sản phẩm
5.628
228
5.400
6.097
697
5.400
6.566
1.166
5.400
7.035
1.635
5.400
8,6
Sp dệt kim
Nội địa
Xuất khẩu
1000 sản phẩm
150
50
100
170
(310)
480
193
(407)
600
219
(501)
720
Khăn
Nội địa
Xuất khẩu
1000 chiếc
9.300
1.000
8.300
9.700
1.000
8.700
10.100
1.000
9.100
10.600
1.000
9.600
7
( nguồn : Công ty dệt may Hà Nội)
( đơn vị : 1000 USD )
Dự báo doanh thu
2002
2003
2004
2005
% tăng bình quân
Xuất khẩu
21.150
22.343
24.825
27.584
10,5
( nguồn : Công ty dệt may Hà Nội)
Công ty dự đoán tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm mặt hàng khăn ở mức 7% cho tới năm 2005.
Sản phẩm may bằng vải dệt kim dự tính sẽ tăng khoảng 8,9% / năm. Sản phẩm may bằng vải dệt thoi ( denim ) tăng mạnh từ khi công ty lắp đặt nhà máy denim mới.
Về thị trường, Nhật Bản là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của công ty. Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người cao thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ. Đây là thị trường đòi hỏi cao song cũng là thị trường đầy hứa hẹn nếu như đầu tư tốt, nâng cao chất lượng, nắm vững thị hiếu thì công ty sẽ giữ vững được mối quan hệ với bạn hàng này.
Thị trường EU với mức tiêu thụ hàng dệt may bình quân cao trong đó các bạn hàng lâu năm của công ty là Anh, Pháp, Đức, Italia. Đây là thị trường tiềm năng lớn nên công ty rất chú trọng việc xuất khẩu sang thị trường này.
Mỹ là thị trường tự do cạnh tranh về hàng công nghiệp nhất là hàng công nghiệp nhẹ. Hàng dệt may của công ty tuy phải cạnh tranh với các hãng tại Mỹ và các nước xuất khẩu dệt may khác nhưng khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được thực thi, thuế suất với hàng dệt may giảm sẽ là cơ hội để sản phẩm công ty dễ dàng thâm nhập vào thị trường này . Hiện tại VINATEX có một văn phòng tại Newyork , công ty sẽ tham gia cùng VINATEX trưng bày và giới thiệu sản phẩm của mình.
Thị trường ASEAN với tốc độ phát triển kinh tế cao cũng là một thị trường lớn cho hàng may mặc và công ty cũng sẽ rất chú trọng đến thị trường này. Hơn nữa, ASEAN còn là thị trường có nền văn hoá tương đồng nhau do đó thị hiếu về may mặc có phần tương tự nhau. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho dệt may Việt Nam nói chung và công ty dệt may Hà Nội nói riêng .
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty dệt may Hà Nội
Trong điều kiện môi trường cạnh tranh rất gay gắt hiện nay, để tồn tại đã khó nhưng để phát triển được lại càng khó khăn hơn. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một hướng đi phù hợp , có hiệu quả. Dù theo hướng kinh doanh nào , các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn có chung một mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng đi ưu tiên, trọng điểm cho mục tiêu phát triển doanh nghiệp.
Đẩy mạnh xuất khẩu là các hoạt động tác động vào quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu của công ty để mở rộng khả năng của công ty đó. Đối với công ty HANOSIMEX công tác đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao gồm một số giải pháp sau:
1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và mở rộng thị trường xuất khẩu
Công tác nghiên cứu thị trường có một vai trò quan trọng trong kinh doanh, nó hướng dẫn chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nhờ các hoạt động nghiên cứu thị trường các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh có cơ sở hoạt động vững chắc hơn. Có thể nói, hoạt động nghiên cứu thị trường cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường mở rộng xuất khẩu cũng có một vai trò quan trọng đối với công ty dệt may Hà Nội, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Mặc dù công ty có một thành tích tốt về thị trường xuất khẩu nhưng điều này tự nó không đảm bảo sự tăng trưởng liên tục của công ty trong các thị trường hiện tại, hoặc sự sẵn sàng thâm nhập vào các thị trường mới như thị trường Mỹ.
Để tạo được các thị trường mới cần phải có cách tiếp cận có phương pháp và hệ thống . Vấn đề này cần phải được lập kế hoạch tốt, với một cam kết đầu tư dài hạn vào các nguồn lực cần thiết ( về ngân sách, thiết bị, đội ngũ bán hàng có kinh nghiệm...) nhằm đảm bảo phát triển quan hệ bền vững với khách hàng mục tiêu. Vì vậy, công ty phải chú ý tới một số giải pháp cụ thể sau:
- Xây dựng kế hoạch tiếp thị chiến lược với các mục tiêu và các hành động rõ ràng để đạt được mục tiêu và trợ giúp cho mục tiêu phát triển thị trường xuất khẩu cũng như thâm nhập vào thị trường Mỹ.
- Tích cực theo dõi sự phát triển của các hiệp định thương mại thế giới và điều kiện bên ngoài thị trường , đồng thời tìm hiểu về khả năng của các đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường thế giới nói chung và thị trường mục tiêu nói riêng.
- Lập ngân sách cho việc tiếp thị ở nước ngoài , bao gồm thường xuyên đia lại và khuếch trương sản phẩm nhằm làm cho công ty có khả năng thâm nhập
trực tiếp các thị trường đặc biệt là thị trường Mỹ.
- Nghiên cứu các phân đoạn thị trường mục tiêu và xác định nhu cầu tiềm năng của sản phẩm trước khi tiến hành đầu tư.
- Thực hiện tốt công tác tuyển chọn nhân viên cho phòng kế hoạch thị trường, những người trúng tuyển phải là những người được đào tạo một cách có bài bản, có khoa học chuyên ngành marketing ; hoặc là những cán bộ năng động có kinh nghiệm nhiều năm . Ngoài ra, công ty cũng cần thường xuyên nâng cao trình độ cho các cán bộ phòng kế hoạch thị trường về ngoaị ngữ, về chuyên môn, nghiệp vụ marketing trong xuất khẩu để họ có khả năng thu thập thông tin, sau đó phân tích để từ đó đưa ra các kết luận chính xác và lập được kế hoạch sản xuất. Công ty cũng cần dành thêm nhiều chi phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường, đầu tư trang thiết bị văn phòng.
- Tách riêng chức năng mua hàng và bán hàng để công ty có thể tập trung các nguồn lực cần thiết để hiểu được thị trường và sự cạnh tranh. Tăng cường các chiến dịch khuyến mãi, xúc tiến bán hàng để thu hút thên được nhiều khách hàng. Khuyến mãi có thể áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn, vào một số dịp lễ tết. Và nên áp dụng việc khuyến mãi cho khách hàng mua với khối lượng lớn, khách hàng lâu năm.
- Tham gia các hội chợ quốc tế, các hội nghị chuyên đề về thị trường; công ty cần xác định mục tiêu của việc tham gia, chuẩn bị hàng hoá và các nội dung tham gia như thế nào; ai sẽ là người đại diện công ty để trực tiếp tham gia và ký kết hợp đồng. Sau mỗi cuộc hội nghị ngoài việc đánh giá các kết quả thu được phải có đánh giá cụ thể so sánh với các cuộc hội thảo trước và dự đoán xem với kết quả như vậy công ty có nên tham gia tiếp hay không, và tham gia ở mức độ nào, quy mô nào là phù hợp. Ngoài ra cũng cần tiếp tục gủi hàng trưng bày trong các hội chợ và triển lãm hoặc chủ động tổ chức triển lãm trưng bày hàng hoá mang tính chất định kỳ, hoặc khi có sản phẩm mới.
- Công ty cần phát huy việc quảng cáo qua các ấn phẩm như catalogue, tờ rơi giới thiệu về công ty, qua báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng khác. Sau mỗi chiến dịch quảng cáo công ty nên đánh giá hiệu quả quảng cáo, đánh giá doanh thu, lợi nhuận, số lượng đơn hàng, nhu cầu và phản ứng của khách hàng.
Một mặt, công ty tìm cách mở rộng quan hệ với thị trường mới, song mặt khác, công ty cũng phải nên chú trọng trong việc chủ động đưa ra các giải pháp nhằm củng cố mối quan hệ với các bạn hàng truyền thống bởi đó là các đối tác quen thuộc, công ty không phải tốn nhiều chi phí trong việc quảng cáo, giới thiệu về mình.
2. Giải pháp về công nghệ thông tin
Trong quản lý tiêu thụ sản phẩm, công nghệ thông tin được coi là một công cụ không thể thiếu được. Ngày nay công ty nào nắm bắt được thông tin trước là công ty đó đã giành phần thắng lợi trong cạnh tranh.
Mặt dù công ty dệt may Hà Nội đã bỏ ra rất nhiều chi phí vào xây dựng cơ bản nhưng rất tiếc là công ty lại chưa đầu tư vào triển khai công nghệ thông tin mới nhất.
Để xuất khẩu sản phẩm vào các thị trường thế giới, vấn đề không chỉ là sản xuất đúng với số lượng cần thiết mà còn là cung cấp dịch vụ tốt cho những thị trường này. Điều này có nghĩa là việc giao hàng phải đáng tin cậy, trong thời gian ngắn nhất, với giá cạnh tranh nhất và chất lượng tốt nhất đến khách hàng. Công ty sẽ không thể đạt được mục tiêu này nếu chưa có các hệ thống thông tin quản lý thích hợp sử dụng trong tất cả các phòng ban.
Chi phí tập trung vào công nghệ thông tin mới nhất sẽ đánh giá đúng lợi ích thật sự và khả năng thu hồi vốn đầu tư. Điều đó giúp công ty xác định kịp thời và chính xác quy trình hoạt động hiện tại và chi phí có liên quan , xác định chính xác thời gian giao hàng, hiểu rõ hơn về phục vụ và mức độ phục vụ.
Hệ thống này cũng giúp cho việc ra quyết định một cách có hiệu quả nhất trong việc mua hàng và cung cấp, do đó chi phí tồn kho có thể duy trì ở mức hợp lý. Việc mua hàng không được thực hiện một cách có hiệu quả có thể làm mất đi hiệu quả của hoạt động kinh doanh cho dù công ty có được quản lý tốt đến mức nào.
Hơn nữa, các hệ thống quản lý trợ giúp và quản lý chất lượng sẽ giúp công ty tăng cường khả năng giám sát để tối ưu hoá chất lượng của các quy trình cũng như hoạt động của công ty.
Chắc chắn việc áp dụng công nghệ thông tin sản phẩm của công ty sẽ trở nên gần gũi hơn với khách hàng, được nhiều người thích đồng thời sẽ giảm đáng kể chi phí cho công tác quản lý sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, loại bỏ được một vài bộ phận cồng kềnh, quản lý chồng chéo , góp phần làm hạ giá thành sản phẩm và đối phó được với những biến động của thị trường, qua đó góp phần mở rộng thị phần cho công ty.
3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên công ty.
Cán bộ công nhân viên trong một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu phải là những người có đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, quy mô nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của doanh nghiệp. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường , những nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó . Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp.
Để có một đội ngũ cán bộ như vây, mỗi nhân viên cán bộ của công ty dệt may Hà Nội trước tiên phải là những người giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình trong doanh nghiệp, đồng thời phải giỏi ngoại ngữ, am hiểu đặc điểm tâm lý, thói quen... của các bạn hàng. Luôn rèn luyện thói quen ghi nhớ, theo dõi , nghiên cứu và phân tích các thông tin có liên quan tới sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu... đồng thời phải nắm được kỹ năng sử dụng một số phương tiện phân tích thông tin .
Muốn thực hiện điều này, công ty cần quan tâm tới một số giải pháp sau:
- Nâng cao kỹ năng quản lý của cán bộ công nhân viên ở tất cả các cấp mặc dù công tác quản lý nguồn nhân lực của công ty tương đối tốt. Cơ cấu nhân sự tốt có thể được sử dụng để xây dựng các chương trình hỗ trợ nâng cao năng suất lao động và tiếp tục phát triển trình độ cho người lao động. Nếu cơ cấu nhân sự tỏ ra không linh hoạt để có thể nâng cao năng lực lao động mà vẫn muốn duy trì tiêu chuẩn trình độ trong khi lại muốn nâng cao năng suất thì sẽ gặp khó khăn.
- Công ty cần đặt ra các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của mình theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với các cơ sở hoạt động tương tự và xây dựng chiến lược nâng cao năng suất lao động .
- Công ty cần tìm hiểu những lý do thôi việc của người lao động và xây dựng chiến lược duy trì tỷ lệ thay thế nhân viên dưới 3%: tỷ lệ thay thế nhân viên là vào khoảng 5,3% vào năm 1998; 7,7% năm 1999 và 3,4% năm 2000. Đây là con số không tính đến số lao động nghỉ hưu và lao động tôừi vụ. Tỷ lệ 3,4% trong năm 2000 cho thấy lực lượng lao động của công ty khá ổn định. Từ năm 1991 đến 2001, công ty đã cho nghỉ việc 10% lực lượng lao động.
- Nên mở rộng chương trình đào tạo để có thể nâng cao tay nghề , đặc biệt là tay nghề dệt. Công ty có ngân sách đào tạo tập trung ( 0,12% doanh thu) được phân bổ cho từng nhà máy và sau đó sẽ lựa chọn người được đào tạo theo chức năng và nhu cầu đào tạo của nhân viên. Công ty có cả các khoá đào tạo nội bộ và các khoá đào tạo ở các cơ sở bên ngoài và có quan hệ tốt với một số trung tâm đào tạo, trường đại học và trung cấp. Các chương trình đào tạo tại từng thời điểm nhằm giúp họ có thể sử dụng được các máy móc và ứng dụng công nghệ mới hơn là theo một chương trình đào tạo cán bộ được tập trung hoá.
- Công ty cần cân nhắc việc phát triển đề bạt những người làm việc tốt vào các vai trò lãnh đạo thông qua việc đánh giá hiệu quả công việc hàng năm của người lao động ( bao gồm cả nhân viên nhà máy và nhân viên văn phòng ). Căn cứ vào kết quả đánh giá đó, mức lương sẽ được điều chỉnh tương ứng.
- Công ty cần bắt đầu phát triển kỹ năng người lao động rộng hơn không chỉ giới hạn trong việc vận hành máy móc mà còn có thể hiểu rõ hơn sản phẩm.
4. Tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm ngang với tiêu chuẩn quốc tế.
Công ty dệt may Hà Nội đã xác định nhân tố chính góp phần vào thành công trong tương lai chính là khả năng luôn cung cấp sản phẩm đạt chất lượng cao. Hoạt động sản xuất và quản lý chất lượng chung của công ty hiện tại là tốt và các thủ tục quy định cũng được quản lý tốt. Mức độ thiết bị phụ trợ của công ty đồng đều và tập trung nhiều vào việc kiểm soát quy trình chất lượng tốt.
Công ty đã áp dụng ISO 9001 trong hầu hết các nhà máy sản xuất. Công ty còn có chương trình bảo dưỡng tuyệt vời tạo ra hiệu quả tốt cho các máy móc cũ. Hầu hết các nhà máy đã được đầu tư nâng cấp, riêng nhà máy denim là mới hoàn toàn.
Công ty quản lý việc chu chuyển nguyên liệu, sản phẩm dở dang rất tốt và các quy trình hoạt động đều được ghi lại đầy đủ rõ ràng bằng các văn bản; có các quy trình kỹ thuật cho mỗi loại sản phẩm và đã đạt được các mục tiêu về chất lượng thông qua kiểm tra, sửa chữa, xử lý tại chỗ.
Tuy nhiên, công ty chưa chú trọng đầy đủ để nâng cao kết quả. Phòng thí nghiệm cơ bản với các thiết bị đã lâu năm; tỷ lệ thành công trong nhuộm và hoàn tất sản phẩm còn thấp, phòng thí nghiệm nghèo nàn với các thiết bị đã cũ vẫn được sử dụng để khớp mầu; 10% vải phải nhuộm lại; nhà máy sợi không có các máy móc được theo dõi trực tuyến; nhà máy dệt kim và dệt thoi có dàn sợi ống và thiết bị điều chỉnh độ dài định sẵn của sợi nhưng không có bộ phận theo dõi trung tâm.
Mục tiêu chất lượng sản phẩm phải là yếu tố không ngừng nâng cao, nếu như công ty mong muốn duy trì khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thâm nhập vào các thị trường mới thì công ty nên xem xét một số giải pháp sau:
- Nâng cấp các phòng kiểm tra chất lượng tại nhà máy có cùng điều kiện vật chất với phòng kiểm tra chất lượng trung tâm, và phòng khớp màu dưới sự quản lý của phòng kiểm soát chất lượng sản phẩm.
- Công ty cũng nên sử dụng nhiều hơn các báo cáo kiểm soát quy trình thống kê để kiểm soát những giới hạn và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm , bằng cách đề ra tiêu chuẩn hoạt động chặt chẽ hơn.
- Công ty phải thay thế tất cả các quy trình kiểm soát chất lượng thủ công bằng một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp.
- Tất cả các dữ liệu chất lượng phải được nhập vào hệ thống để nhanh chóng đánh giá xu hướng chát lượng.
- Các quy trình chất lượng thủ công cần chuyển thành một hệ thống chất lượng nội bộ kết nối tất cả các nhà máy và trung tâm kiểm soát chất lượng quản lý.
- Xem xét việc hiện đại hoá các phòng thí nghiệm của nhà máy, đặc biệt là phòng thí nghiệm hoá chất nhuộm với máy khớp màu và pha thuốc nhuộm tự động.
- Công ty cần đẩy mạnh chiến luợc đầu tư nhằm thay thế máy móc thiết bị cũ một cách tuần tự trong vòng 5 năm tới cho tất cả các nhà máy và các khu phụ trợ.
- Công ty cần nghiên cứu một hệ thống thông tin quản lý để xác định lợi ích từ việc áp dụng các hệ thống tại các nhà máy liên quan đến năng suất lao động, đánh giá chất lượng và ghi chép thông tin sản xuất.
Chất lượng cần phải liên tục được nâng cao và công ty phải tiếp tục nâng cấp nhà máy của mình, các quy trình và hệ thống hỗ trợ để đảm bảo cho công ty có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các chiến lược đầu tư máy móc thiết bị cần vận dụng cùng với các kế hoạch kinh doanh rõ ràng, bao gồm đánh giá các thị trường mục tiêu cho tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh. Nếu hoạt động sản xuất và kiểm soát chất lượng không được trang bị đầy đủ những công cụ ( và các hệ thống ) vần thiết để đi đầu trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm thì các đối thủ cạnh tranh có thể đuổi kịp công ty và kết quả hoạt động của công ty sẽ bị ảnh hưởng.
5. Mở rộng hoạt động thiết kế cho thị trường xuất khẩu.
Nghiên cứu, phát triển mặt hàng mới đối với các doanh nghiệp may mặc thực chất là việc nghiên cứu sáng tạo các loại mẫu mốt thời trang phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của thị trường để có thể chiếm lĩnh và phát triển thị trường.
Công tác nghiên cứu thiết kế các mẫu mốt thời trang thực sự chuưa được các doanh ngiệp may mmặc Việt Nam nói chung và công ty dệt may Hà Nội nói riêng giành sự quan tâm thoả đáng bởi hầu hết hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp may mặc nước ta là gia công hàng xuất khẩu với nguyên phụ liệu được cung cấp và mẫu mã có sẵn. Do đó mặc dù các doanh nghiệp này đều có bộ phận tạo mẫu nhưng tính thụ động còn cao, chủ yếu chỉ thực hiện nhiệm vụ thiết kế mẫu một số mặt hàng đơn giản, hoặc dựa vào những mẫu hàng gia công để tạo ra những sản phẩm mới.
Đối với công ty dệt may Hà Nội, chưa có trung tâm thiết kế thời trang để tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu của thị trường để thiết kế các loại mẫu mốt mới, đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Hiện nay, sản phẩm may của công ty mới chỉ dừng lại ở sản phẩm dệt kim và quần áo bò. Những sản phẩm bán FOB và bán nội địa của công ty chủ yếu lấy mẫu mã từ những sản phẩm mà công ty sản xuất gia công. Mà những sản phẩm công ty gia công chủ yếu xuất sang thị trường châu Âu với mẫu mã và hình thức không phù hợp với sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam. Do đó sản phẩm của công ty sản xuất ra khó được người tiêu dùng nội địa chấp nhận. Vì vậy, trong thời gian tới, công ty cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và thiết kế mẫu vải và sản phẩm lên một tầm cao mới không những đáp ứng được sở thích ăn mặc trong nước mà còn phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nước ngoài.
Với kinh nghiệm thành công của các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như từ thực trạng của các doanh nghiệp may nước ta, để nghiên cứu phát triển mẫu mốt thực sự trở thành vũ khí cạnh tranh sắc bén trong chiến lược chiếm lĩnh và phát triển thị trường, những biện pháp mà công ty cần quan tâm thực hiện là:
- Tích cực tham gia vào các hội chợ , triển lãm thời trang hàng dệt may trong nước; nghiên cứu học hỏi, tiếp cận thời trang quốc tế thông qua catalogue
của những hãng thời trang hàng đầu trên thế giới, thông qua những buổi biểu diễn thời trang quốc tế, thông qua những chuyến đi khảo sát thị trường quốc tế do Bộ Thương mại tổ chức...
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, thông qua quan hệ công chúng, thông qua những cuộc thăm dò ý kiến của khách hàng để đưa sản phẩm thiết kế của công ty bám sát với nhu cầu thực tế của người tiêu dùng , tránh tình trạng thiết kế theo cảm hứng, tạo ra những sản phẩm không phù hợp với thẩm mỹ, thói quen và truyền thống đạo đức của dân tộc. Đồng thời trên cơ sở nghiên cứu, nắm vững đặc điểm tiêu dùng sản phẩm may mặc của thị trường, chú trọng kịp thời đưa ra các sản phẩm có cấp chất lượng, giá cả khác nhau. Bên cạnh đó cũng phải thường xuyên tìm tòi nghiên cứu để thay đổi mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
- Công ty nên đầu tư nhiều thời gian và nguồn lực hơn vào việc phát triển thiết kế mẫu vải mới để tạo ra sự khác biệt về sản phẩm của công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
- Mở rộng năng lực thiết kế mẫu để tập trung phát triển sản phẩm đưa vào từng thị trường xuất khẩu cụ thể.
Công ty cần chú trọng nghiên cứu, lựa chọn, xây dựng sản phẩm mũi nhọn trên truyền thống sản xuất, nhu cầu thị trường và lợi thế so sánh của mình. Chú ý nghiên cứu những loại nguyên liệu mới, công nghệ sản xuất mới nhằm tìm ra những sản phẩm mới có giá trị kinh tế cao hơn, đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm để từ đó công ty có khả năng chiếm lĩnh được thị phần nhất định trên thị trường.
6. Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và tổ chức xây dựng chiến lược kinh doanh phát triển thị trường.
Công ty dệt may Hà Nội có đội ngũ lãnh đạo có kinh nghiệm và tương đối trẻ, được đào tạo thường xuyên ; một số cán bộ quản lý được gửi ra nước ngoài để tham dự các khoá học riêng về công nghệ mới. Song công tác quản lý luôn đóng một vai trò quan trọng, vì vậy không lúc nào là không cần nâng cao công tác này để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Trong thời gian tới công ty nên quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Cần phân công hợp lý đúng người, đúng việc hợp với khả năng chuyên môn của từng người.
- Cần phân bổ chức năng, nhiệm vụ cho các phòng ban một cách hợp lý hơn , tránh chồng chéo không cần thiết.
- Cần thực hiện triệt để cơ chế khoán quản để các phòng ban có mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Đồng thời có cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng thành viên, qua đó có chế độ thưởng phạt đảm bảo công bằng , bình đẳng giữa các bộ phận, cá nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong hoạt động kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, việc tổ chức hoạch định và triển khai một chiến lược phát triển thị trường là cách làm hữu hiệu để công ty có thể chiếm lĩnh thị trường nội địa và thâm nhập thành công vào thị trường hàng dệt may quốc tế. Bởi ngoài yêu cầu khách quan là phải thực hiện trong trong điều kiện nước ta đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, công ty còn có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện chiến lược phát triển thị trường của mình do ngành dệt may đang tổ chức thực hiện chiến lược tăng tốc phát triển toàn ngành từ nay đến năm 2010 đã được chính phủ phê duyệt. Điều đó giúp cho các doanh nghiệp dệt may trong ngành và cả công ty dệt may Hà Nội có nhiều thuận lợi trong việc xác định mục tiêu phương hướng phát triển của doanh nghiệp mình.
Để có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển thị trường , những điểm mà công ty nên quan tâm lưu ý trong quá trình hoạch định và triển khai :
- Xác định mục tiêu dài hạn, ngắn hạn và mục tiêu phải mang tính thực tiễn , xét đến năng lực sản xuất tổng thể và tiêu chuẩn chất lượng hiện tại của công ty phù hợp với mục tiêu chung của toàn ngành.
- Kế hoạch đề ra phải trên cơ sở nghiên cứu hoặc hiểu biết về các nhân tố bên ngoài chứ không bị bó buộc trong khuôn khổ của Vinatex.
- Kế hoạch đề ra phải dựa vào nhu cầu thị trường không mang nặng tính đầu tư, sản xuất.
- Công ty cần nghiên cứu và lập trình tự kế hoạch thực hiện các mục tiêu, các biện pháp thực hiện một cách hợp lý và có khoa học. Mặt khác, công ty cũng cần phải xây dựng các chiến lược dự phòng bởi môi trường kinh doanh luôn biến động và dù công ty có khả năng dự báo tốt đến đầu thì cũng không thể chắc chắn rằng chiến lược hiện tại của mình là hoàn hảo, đã tính toán được hết những xu hướng biến động của thị trường.
- Công ty cũng cần đầu tư thích đáng vào công tác hoạch định cũng như cung cấp kinh phí hoạt động cho kế hoạch triển khai và các biện pháp thực hiện để có thể thu được kết quả tốt nhất. Nguồn kinh phí tập trung cho công tác nghiên cứu triển khai và tổ chức thực hiện, công ty có thể đề nghị cơ quan chủ quản tạo điều kiện giúp đỡ, cho phép được huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp hoặc kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài.
- Ban lãnh đạo công ty cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược. Kịp thời phát hiện và có biện pháp khắc phục những yếu kém , tồn tại để các kế hoạch thực hiện được diễn ra theo đúng tiến trình đã vạch sẵn. Đồng thời có các biện pháp khen thưởng và kỷ luật để nâng cao hiệu quả hoạt động và tinh thần trách nhiệm của cán bộ thực hiện.
Cuối cùng, để có thể thực hiện thành công được các yêu cầu trên, ngoài sự quyết tâm của Ban lãnh đạo công ty còn cần có sự đoàn kết, trên dưới một lòng của tập thể cán bộ công nhân viên và một lòng tin không lay chuyển của tất cả mọi thành viên của công ty về tương lai tốt đẹp và phát triển của công ty. Đó sẽ là động lực lớn nhất giúp công ty vượt qua được những khó khăn của môi trường cạnh tranh mới, giúp thực hiện thắng lợi chiến lược mở rộng và phát triển thị trường , hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong giai đoạn tăng tốc phát triển của toàn ngành nói chung và bản thân doanh nghiệp nói riêng.
III Một số kiến nghị
1. Kiến nghị với chính phủ và các cơ quan Nhà nước
Để thực hiện thành công chiến lược " tăng tốc " phát triển của toàn ngành dệt may, chính phủ cần có những cơ chế chính sách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may trong hoạt động xuất nhập khẩu và thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế.
1.1 Về cơ chế xuất khẩu: Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp.
- Chỉ cấp hạn ngạch cho các doanh nghiệp thực sự sản xuất hàng xuất khẩu đi các thị trường có hạn ngạch.
- Bảo đảm tính ổn định sản xuất, thị trường. Đặc biệt cần ổn định hạn ngạch cho các doanh nghiệp đã thực hiện tốt hạn ngạch được cấp.
- Việc tổ chức đấu thầu hạn ngạch cần hết sức thận trọng vì lợi hại hiều. Nên chăng chỉ đấu thầu phần hạn ngạch hàng năm tăng thêm và với một một số mặt hàng hạn chế (khoảng 3,4 mặt hàng). Đối tượng dự thầu phải là những doanh nghiệp thực sự sản xuất, xuất khẩu hàng có uy tín, có chất lượng cao.
1.2 Về công tác thị trường ngoài nước
* Tạo pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu củaViệt Nam vào thị trường nước ngoài:
- Song song với việc ký mới, rà soát để đàm phán lý lại hiệp định thương mại với các nước theo yêu cầu mới; Việt Nam sẽ thoả thuận để thống nhất các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật tiến tới cam kết công nhận lẫn nhau về kết quả kiểm tra vệ sinh, kiểm dịch và chất lượng hàng hoá; nới lỏng các hàng rào phi thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam; tổ chức việc phổ biến , hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các hợp đồng thương mại và các cam kết về thương mại giữa Việt Nam với nước ngoài.
- Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu
- Tổ chức tốt việc nghiên cứu , khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có trách nhiệm trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, trung tâm trung bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt Nam; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt Nam.
- Nhà nước hỗ trợ , tạo điều kiện thuận lợi và doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ đối với từng mặt hàng, thị trường.
* Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường ngoài nước: kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ và đổi mới lề lối làm việc của các Vụ chính sách thị trường ngoài nước và gắn hoạt động của các đơn vị này với các doanh nghiệp vì sự tăng trưởng xuất khẩu.
* Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại
- Hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp khảo sát thị trường, mở các phòng trưng bày để khuếch trương hàng hoá Việt Nam tại các thành phố lớn ở nước ngoài.
- Phối hợp và hỗ trợ các ngành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược marketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng; tham gia vào các hội trợ triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài.
- Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này.
- Khuyến khích , tạo điều kiện và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu.
* Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp.
- Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp.
- Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp.
* Sớm xây dựng và ban hành cơ chế về thị trường ngoài nước, trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan ở trung ương cũng như địa phương và trách nhiệm của doanh nghiệp.
1.3 Về thủ tục hành chính và hải quan
- Bỏ việc buộc phải kiểm dịch, xuất xứ hàng hoá, nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết.
- Bỏ yêu cầu về chứng minh nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu, nếu không liên quan đến việc hoàn thuế.
- Ưu tiên phân bổ quota cho các đơn hàng FOB sử dụng nguyên liệu nội địa. Hiệp hội dệt may Việt Nam được tham gia vào việc thảo luận xây dựng các quy chế phân bổ quota.
- Để tăng sức cạnh tranh về giá cho các sản phẩm dệt may, đề nghị chính phủ trợ giá xuất khẩu tương đương 10% ngoại tệ thực thu qua xuất khẩu. Đặc biệt trong thời điểm hàng dệt may Việt Nam hiện cần phải chịu thuế suất nhập khẩu vào Mỹ cao, chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp khẩn trương thiết lập kênh tiêu thụ xuất khẩu vào thị trường Mỹ bằng cách trợ giá 15% trên số ngoại tệ thực thu cho đến khi được hưởng chế độ Quan hệ thương mại bình thường ( NTR ).
- Cho phép Viện kinh tế kỹ thuật dệt may được phối hợp cùng với cơ quan hải quan và cơ quan thuế áp dụng mã thuế phù hợp đối với các nguyên phụ liệu , vật tư nhập khẩu cho ngành dệt may.
1.4 Về sự hỗ trợ của chính phủ và các chính sách thuế, tín dụng liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
- Đề nghị chính phủ hỗ trợ trong việc đầu tư chế biến hàng xuất khẩu, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng và công tác thị trường nước ngoài, công tác xúc tiến thương mại cho hoạt động xuất khẩu.
- Đẩy mạnh quá trình cải cách thuế hai bước, trong đó việc hoàn chỉnh thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng thuế suất VAT 5% cho các sản phẩm sợi và vải hoặc cấp lại 50% thuế VAT đã nộp để tái đầu tư phát triển dệt may. Miễn thuế VAT đối với nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ nhập khẩu ( sẽ khấu trừ về sau ).
Doanh nghiệp ngành dệt may sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn thuế lợi tức tương ứng với phần đầu tư.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại; tăng cường kỷ luật hành chính và xử lý nghiêm đối với các cơ quan , công chức không thực hiện đúng luật pháp, chính sách trong hoạt động xuất khẩu.
- Chính phủ cần có các cơ chế cho vay ưu đãi để tăng tốc phát triển ngành dệt may trong giai đoạn 10 năm,2001-2010, bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài.
1.5 Về chính sách đối với người lao động
- Đề nghị chính phủ có chính sách phù hợp để các doanh nghiệp dệt may Nhà nước giải quyết lao động dôi dư: năm 55 tuổi với 30 năm công tác, nữ 50 tuổi với 25 năm công tác có thể giải quyết nghỉ chế độ. Hoặc năm 50 tuổi, nữ 45 tuổi có thể giải quyết nghỉ sớm với phần đền bù về lương.
- áp dụng nghị định 23/CP cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.
- Vì ngành dệt may sử dụng nhiều lao động nhưng lợi nhuận thấp nên đóng phí công đoàn 2%/ lương thực trả là quá cao, nên đề nghị cho đóng 2% /lương cấp bậc.
2. Một số kiến nghị với ban lãnh đạo công ty.
* Công ty nên xây dựng các kế hoạch xuất khẩu chi tiết , bao gồm:
- Khả năng cạnh tranh quốc tế của công ty : đó là sản phẩm và giá bán của công ty có thể so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác trong thị truường quốc tế như thế nào?
- Báo cáo năng lực sản xuất: xác định khả năng xuất khẩu của công ty và lợi thế cạnh tranh trên thị trương quốc tế.
- Kế hoạch thực hiện chi tiết : bao gồm nguồn nhân lực và cam kết thực hiện , khu vực thị trường mục tiêu, chi phí và giá xuất khẩu, bao bì và tiếp thị...
- Báo cáo chi tiết nghiên cứu thị trường : bao gồm các vấn đề về giá cả, bao bì, kênh phân phối, các luận định và hạn chế, cũng như các vấn đề về văn hoá xã hội..
* Công tác tiếp thị và nghiên cứu thị trường nên bố trí thành một bộ phận riêng, tách rời khỏi phòng xuất nhập khẩu.
* Công ty nên tách hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới khỏi phòng kỹ thuật đầu tư vì công tác này rất cần thiết để duy trì và phát triển sản xuất.
* Lập phòng ( bộ phận ) mua hàng độc lập, chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho Tổng gián đốc.
* Mở rộng kỹ năng về quản lý chất lượng cơ bản cho công nhân bằng cách thực hiện phương pháp quản lý chất lượng toàn bộ ( với các chu trình quản lý chất lượng ) ở trong một nhà máy. Xây dựng quy trình ISO ra khỏi phạm vi các văn bản giấy tờ nhằm nâng cao chất lượng chung thông qua các hoạt động khắc phục và liên tục nâng cao chất lượng.
* Công ty cần quyết định có nên đưa ra thêm các sản phẩm đơn giản hơn với giá cạnh tranh hoặc sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn để tạo ra sự khác biệt của mình trên thị trường.