Khóa luận Những giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Kết hợp lẫn nhau giữa DNNN và doanh nghiệp dân doanh để chúng có thể bổ sung cho nhau, nhằm khắc phục một thực tế hiện nay: DNNN có tiềm năng kinh tế cao nhưng hiệu quả kinh tế nói chung kém doanh nghiệp dân doanh tiềm lực thấp nhưng hiệu quả thường cao hơn. Chủ trương kết hợp đó có thể mở rộng ra thị trường thế giới với các doanh nghiệp Việt kiều ở nước ngoài, qua đó nhanh chóng tranh thủ được vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường của người Việt ở nước ngoài. Về lĩnh vực này, thành công của Trung Hoa lục địa với Hoa kiều ở nước ngoài là đáng học hỏi. Việc cư xử đồng đều giữa thành phần quốc doanh và dân doanh sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu muốn phát triển kinh tế mau chóng, không thể chỉ dựa vào DNNN. Ví dụ, nông dân được quyền tự do trồng trọt theo ý muốn từ năm 1986 nhưng việc xuất khẩu gạo là độc quyền các DNNN. Một nghiên cứu cho thấy là nông dân chỉ hưởng 16% giá xuất khẩu gạo trong khi các DNNN được trên 45%. Các DNNN còn nhiều đôc quyền trong việc xuất nhập khẩu, phân phối phân bón hay các đầu vào khác trong nông nghiệp. Như vậy trong khu vực nông nghiệp Nhà nước còn kiểm soát nhiều khâu kẻ cả gây một số trở ngại cho khu vực ngoài quốc doanh trong các vấn đề giấy tờ đăng ký doanh nghiệp, thế chấp, quyền sử dụng đất. Cư xử đồng đều còn dính đến khu vực nông thôn hay nước ngoài các doanh nghiệp tư hay nước ngoài bị giới hạn trong vấn đề sản xuất một số mặt hàng. Việt Nam nên dần bỏ bớt các giới hạn này để thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam không thể tiếp tục “bao cấp” các DNNN trong môi trường thương mại toàn cầu. Các độc quyền của các DNNN sẽ phải dần dần chấm dứt. Các thành phần kinh tế đều được hưởng những ưu đãi như nhau, đồng loạt cùng nhau phát triển bình đẳng và vững chắc.

doc102 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất cho các loại hình doanh nghiệp trong phạm vi cả nước. Không nên hạn chế ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp (trừ một số ngành nghề pháp luật cấm kinh doanh). Khi bổ sung ngành nghề của doanh nghiệp cần có sự phối hợp thống nhất giữa Bộ chuyên ngành và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tránh các vướng mắc trong cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. 2. Một số kiến nghị về tổ chức mô hình DNNN quy mô lớn 2.1. Mô hình Tổng Công ty (TCT) Nhà nước theo Nghị định 90 Bước vào thời kỳ đổi mới, trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, với mong muốn đất nước có những tập đoàn kinh tế lớn có đủ sức mạnh đảm nhận nhiệm vụ chính trị của đất nước và tham gia vào thị trường quốc tế, thực hiện Nghị định 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, cho đến nay cả nước đã có 74 TCT được thành lập và hoạt động với 1220 DNNN thành viên của các TCT nêu trên. Tuy nhiên "các TCT của ta không xuất phát từ bản thân yêu cầu của việc tích luỹ, tích tụ của doanh nghiệp không phải từ quá trình tự lớn lên của nó, mà chủ yếu là thông qua việc hợp nhất các DNNN bằng biện pháp hành chính". Các TCT tuy đã được sắp xếp lại nhưng nhiều TCT thành lập mang tính lồng ghép cơ học, chưa có mối liên kết bằng kinh tế, hoạt động kinh doanh chưa đa dạng, các TCT kinh doanh cùng ngành nghề chiếm tỷ trọng lớn. Ví dụ lĩnh vực xây dựng cả nước có 24 TCT chiếm 25% tổng số. Tuy nhiên, trong thời gian qua các TCT đã góp phần quan trọng vào quá trình ổn định các cân đối kinh tế vĩ mô lớn của đất nước về các mặt hàng chiến lược. Vì vậy, việc thành lập các Công ty theo mô hình TCT 90 là cần thiết ở một số ngành như xây dựng, kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu. Qua kinh nghiệm ở một số Bộ, ngành và địa phương, việc thành lập TCT 90 cần thực hiện thí điểm sau đó rút kinh nghiệm triển khai tiếp tục để phát huy được vai trò tích cực của mô hình TCT 90. Trong quá trình thẩm định đề án để ra quyết định thành lập các TCT 90 cần lưu ý khắc phục những tồn tại và bất cập sau: - Phải xác định rõ mức vốn giao cho TCT, cơ chế điều hành vốn, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn là chủ tịch Hội đồng quản trị, tổng giám đốc TCT. Các giám đốc doanh nghiệp thành viên là người chịu trách nhiệm quản lý sử dụng, bảo toàn phần vốn được giao tại doanh nghiệp trước Hội đồng quản trị TCT, tổng giám đốc TCT. - Về mô hình TCT 90: Có thể chọn mô hình tổ chức theo chiều dọc, hoạt động đa ngành với số lượng các doanh nghiệp thành viên TCT tham gia bước đầu vừa phải trong đó nên có một số Công ty mạnh để làm nòng cốt tạo cơ sở cho sự kết dính và điều hành tập trung, chi phối toàn TCT. - Coi trọng công tác cán bộ TCT 90. Cần lựa chọn những đồng chí có đủ năng lực chuyên môn, quản lý và có uy tín để bổ nhiệm vào chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc TCT. Thí điểm xây dựng cơ chế trách nhiệm và quyền lợi của cá nhân cán bộ lãnh đạo gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động của TCT. Thí điểm thực hiện mô hình hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc TCT. Nên chọn các phó tổng giám đốc từ các giám đốc doanh nghiệp thành viên nòng cốt. Việc kiêm nhiệm này sẽ tạo ra cơ chế điều hành dễ dàng hơn giữa TCT với các đơn vị thành viên. - Về vốn và cơ chế ưu đãi tạo vốn cho TCT 90 được thành lập: Tạo điều kiện cho TCT có vốn tập trung bằng hai con đường sau: cho vay từ nguồn cổ phần hoá hiện nay với lãi suất bảo toàn vốn và cho chuyển một số tài sản cố định hoặc vốn cố định thành vốn lưu động. Cho phép TCT được tham gia một số dự án có lợi; đấu thầu quyền sử dụng đất; chỉ định thầu một số công trình quan trọng. 2.2. Mô hình TCT 91 Các TCT 91 là các TCT được thành lập theo Quyết định số 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ, là loại hình hoạt động trong một lĩnh vực có quy mô cả nước. Các TCT được thành lập tập trung vào các ngành và lĩnh vực then chốt như công nghiệp - xây dựng - giao thông có 12 TCT; nông - lâm nghiệp - thuỷ sản: 4 TCT; thương mại - dịch vụ: 1 TCT. Cho tới điểm này, có thể nhận thấy hoạt động kinh doanh của cac TCT 91 nhìn chung là đúng hướng và có hiệu quả. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, để các TCT 91 hoạt động thực sự hiệu quả hơn nữa, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ kinh doanh cần thiết hơn như tăng vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, giản tiện chính sách thuế, kích thích sản xuất trong nước phát triển. Bên cạnh đó, quan trọng hơn cả là phải khắc phục và tự điều chỉnh về khâu quản lý sao cho vận hành một cách linh hoạt mang lại hiệu quả cao hơn. 2.3. Một số kiến nghị về vận dụng mô hình tổ chức hội đồng quản trị DNNN có quy mô lớn Trong những năm tiếp theo DNNN cần thí điểm tổ chức mô hình hội đồng quản trị để thay cho mô hình giám đốc và bộ máy giúp việc hiện nay. Đặc biệt chú ý vận dụng mô hình tổ chức quản lý trên ở những doanh nghiệp do thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất mà có nhiều đơn vị thành viên hoạt động kinh doanh ở các địa bàn cách xa nhau, có định hướng phát triển kinh tế đa ngành. ở đây, mô hình tổ chức doanh nghiệp là vấn đề cũng rất quan trọng, chúng ta thử đưa ra 3 mô hình DNNN độc lập quy mô lớn như trên. Về trình tự vận dụng cần thiết phải làm thí điểm sau đó rút kinh nghiệm để nhân rộng. Mô hình 1: Mô hình công ty đội (áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây lắp) Hội đồng quản trị doanh nghiệp Giám đốc phó giám đốc Các phòng ban Các đội xây lắp Mô hình 2: Mô hình công ty - phân xưởng - tổ sản xuất (áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất) Hội đồng quản trị doanh nghiệp Giám đốc phó giám đốc Các phòng ban Các xưởng hoặc phân xưởng Mô hình 3: Công ty - cửa hàng (khách sạn), trung tâm thương mại Hội đồng quản trị doanh nghiệp Giám đốc phó giám đốc Các phòng ban Trung tâm thương mại Các cửa hàng mậu dịch (áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất) Ngoài các bộ phận chính trong cơ cấu, các công ty còn có thể thêm các bộ phận, trung tâm đào tạo. 3. Những đề xuất và kiến nghị nhằm thúc đẩy cổ phần hoá DNNN Theo Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp tính đền cuối năm 2001 cả nước có 700 DNNN chuyển sang hình thức cổ phần hoá (CPH). Sau khi cổ phần, các doanh nghiệp này đã đạt được một số kết quả khả quan như lượng vốn Nhà nước tăng 14% so với trước khi cổ phần; doanh thu tăng 1,4 lần; lợi nhận tăng 2 lần; nộp Ngân sách Nhà nước tăng 1,2 lần; thu nhập của người lao động tăng 22%; số vốn huy động thêm ngoài xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh đạt 3000 tỷ đồng. Trong thời gian tới (2001 - 2005), Nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hoá 1300 DNNN. Quá trình cổ phần hoá DNNN trong những năm qua được đánh giá là đã kết quả nhất định, tuy nhiên cũng phát sinh nhiều khó khăn, tồn tại cản trợ quá trình thực hiện chủ trương trên. Hiện có những vương mắc và kiến nghị hướng giải quyết như sau. 3.1. Vướng mắc về cơ chế chính sách và kiến nghị định hướng giải quyết Từ thực tiễn CPH các DNNN cho thấy, từ Quyết định số 28/CP đến Quyết định số 44/1999/QĐ-CP, các chính sách của Nhà nước về CPH DNNN ngày càng được hoàn thiện hơn, tạo nền tảng pháp lý vững chắc hơn cho quá trình CPH. Song cũng trong quá trình này bộc lộ ngày càng rõ một số điểm chưa hợp lý của các chính sách hiện hành. Đó là một số quy định cụ thể về ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp; việc phân loại và xử lý tài sản của doanh nghiệp, xác định giá trị doanh nghiệp; quyền được mua cổ phiếu của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp; thẩm định quyết định giá trị doanh nghiệp vấn đề có hay không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Dưới đây là một số kiến nghị về hoàn thiện các chính sách CPH: Thứ nhất, nên có sự điều chỉnh chính sách ưu đãi với người lao động trong DNNN chuyển sang công ty cổ phần cho phù hợp với tình hình thực tế và tạo động lực mạnh mẽ hơn. - Ngoài việc bán cổ phiếu ưu đãi cho người lao động với giá ưu đãi như hiện nay, Nhà nước có thể cho hẳn người ld một số cổ phần nhất định theo thâm niên và mức độ cống hiến của họ với sự phát triển doanh nghiệp. Nâng giá trị cổ phần ưu đãi bán cho người lao động ở những doanh nghiệp có vốn nhà nước nhỏ. - Trong chính sách ưu đãi đối với người lao động nghèo, thay vì quy định tiêu chuẩn chung cho tất cả các vùng trong việc xếp loại lao động nghèo (300.000đ/người), cần có tiêu chuẩn riêng theo vùng, bởi lẽ mức giá sinh hoạt của các vùng rất khác nhau. - Cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi cho người lao động theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, khắc phục tình trạng dàn trải có tính chất bình quân như hiện nay. - Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp trong vấn đề giải quyết lao động dôi dư thông qua việc hỗ trợ đào tạo hỗ trợ tài chính và bảo hiểm thất nghiệp để tạo việc làm giúp người lao động yên tâm ổn định cuộc sống và nhiệt tình ủng hộ công cuộc CPH nói riêng, cải cách DNNN nói chung. - Thứ hai, thực hiện đúng nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp nêu trong Quyết định số 44/1998/QĐ-CP là: “Giá mà người mua và người bán đều có thể chấp nhận”. Theo đó, cần chú ý một số điểm sau đây ? - Điều chỉnh theo hướng tăng thêm phần ưu đãi cho người lao động ở các doanh nghiệp có số vốn tự tích luỹ lớn. Số vốn đó tuy có nguồn gốc là vốn Nhà nước nhưng lại thể hiện sự nỗ lực cao của tập thể người lao động trong doanh nghiệp trong việc phát triển vốn. - Không tính vào giá trị doanh nghiệp các loại tài sản không phù hợp với phương án kinh doanh tương lai của công ty cổ phần. Nhà nước có trách nhiệm điều chuyển, thanh lý hoặc bán đấu giá các loại tài sản này. Đây là điều kiện cho công ty cổ phần bảo đảm được hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh. Riêng giá trị quyền sử dụng đất cần được nghiên cứu kỹ hơn để còn tạo điều kiện CPH tránh thất thoát tài sản nhà nước. Vấn đề đất đai hết sức nhạy cảm, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều vấn đề. Vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn, trước mắt nên đóng góp lợi thế vị trí quản lý của doanh nghiệp để xác định giá trị doanh nghiệp. - Mở rộng thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp và quyền quyết định chuyển DNNN sang công ty cổ phần. Vấn đề có tính nguyên tắc cần quán triệt “cơ quan nào ra quyết định thành lập DNNN, cơ quan ấy có quyền quyết định chuyển DNNN song công ty cổ phần” với điều kiện tuân thủ chặt chẽ quy định của Nhà nước, không làm thất thoát vốn và tài sản. - Chi phí cho quá trình CPH cần được tính theo giá trị cổ phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp chứ không phải tính theo giá trị thực tế của doanh nghiệp, bở lẽ các doanh nghiệp hiện nay đều có tỷ lệ vốn vay rất lớn. - Trên cơ sở Nghị định 69/2002/NĐ-CP về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN giúp cho doanh nghiệp có được tình trạng tài chính lành mạnh, hấp dẫn cổ đông và tạo điều kiện nhất định phát triển sản xuất, kinh doanh sau CPH. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động, số nợ khó đòi của doanh nghiệp có thể được giải quyết thông qua chứng khoán hoá nợ (tức chưa chỉ nhỏ nợ thành các chứng khoản thấp để bán theo giá rẻ trên thị trường chứng khoán). Thông qua thị trường chứng khoán để đẩy nhanh CPH DNNN là một biện pháp có hiệu quả, đồng thời biện pháp này cũng tạo thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Muốn vậy, cần phải hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng, đặc biệt là các điều kiện niêm yết tại thị trường chứng khoán. Thứ ba, xoá bỏ điều ràng buộc cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp không được mua cổ phần quá mức bình quân chung của người lao động trong doanh nghiệp. Ràng buộc này quy định theo Pháp lệnh chống tham nhũng góp phần ngăn cản sự phân hoá ngay trong một doanh nghiệp, nhưng lại có thể dẫn đến hai điều bất lợi: - Người lao động trong doanh nghiệp thiếu tin tưởng và thiếu hăng hái mua cổ phiếu vì suy diễn cho khả năng rủi ro lớn có thể xảy ra nên cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp mới mua ở mức hạn chế. - Không đạt được mục tiêu huy động vốn vào phát triển sản xuất - kinh doanh, đổi mới công nghệ nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. - Cùng với việc thay đổi quy định này, cần chú trọng hơn việc hướng dẫn bán cổ phiếu cho Việt kiều và người nước ngoài nhằm đa dạng hoá các nguồn vốn cho phát triển doanh nghiệp. Một vấn đề khá tế nhị đã và đang xảy ra trong thực tế là một số doanh nghiệp không muốn phát hành rộng rãi cổ phiếu ra bên ngoài. Nói cách khác, cán bộ, công nhân viên doanh nghiệp không muốn có người doanh nghiệp tham gia vào công ty cổ phần. Tình trạng này thường xảy ra ở các doanh nghiệp thuộc các ngành có lợi thế kinh doanh (kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách sạn...) Lý do họ đưa ra là điều hành công ty cổ phần là công việc phức tạp, với những người đã hiểu biết nhau, quá trình quản lý sẽ được thực hiện thuận lợi hơn. Đó là một thực tế, song chính điều này lại gây nên hạn chế trong việc thực hiện mục tiêu huy động vốn vào phát triển sản xuất - kinh doanh - đây là vấn đề các cơ quan quản lý nhà nước cần chú trọng điều chỉnh sao cho vừa tạo thuận lợi cho hoạt động cuả công ty cổ phần vừa đạt được mục tiêu huy động thêm vốn. 3.2. Về tổ chức thực hiện CPH DNNN Một số vướng mắc chủ yếu hiện nay là: việc phân loại và xác định phương án sắp xếp lại DNNN tiến hành chậm; quy trình CPH phức tạp; sự lúng túng trong việc triển khai CPH; khó khăn trong việc soạn thảo các hồ sơ tài liệu CPH DNNN. Từ đó, để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN cần hướng tập trung chú trọng một số công tác sau đây: Thứ nhất, về xác định đối tượng CPH. Việc này nhất thiết phải được tiến hành trên cơ sở phân loại doanh nghiệp. Từ sự phân loại và phương án sắp xếp lại DNNN cần thực hiện một cách linh hoạt và mềm dẻo việc xác định doanh nghiệp CPH trong từng thời kỳ, một mặt tránh sự gò ép khiên cưỡng từ bên trên mặt khác, tránh sự chần chừ, do dự ở bản thân doanh nghiệp. Thứ hai, ở cấp thành phố (tỉnh) cần xây dựng một kế hoạch tổng thể về CPH DNNN của thành phố (tỉnh). Kế hoạch này là sự cụ thể hoá phương án đổi mới, sắp xếp lại DNNN. Trong kế hoạch này cần xác định rõ: danh mục các doanh nghiệp tiến hành CPH; tiến độ chung và tiến độ thực hiện các công việc cụ thể của quy trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần; phân công cán bộ theo dõi và chỉ đạo thực hiện. Thứ ba, ở cấp doanh nghiệp cần phân chia trách nhiệm cụ thể cho các thành viên Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp. Từ những công việc của quy trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần, có thể chia thành 3 nhóm công tác sau: - Nhóm phụ trách các vấn đề liên quan đến tài chính doanh nghiệp: kiểm kê, đánh giá tài sản; xác định, đối chiếu công nợ và lập phương án giải quyết công nợ; tham gia xác định giá trị doanh nghiệp... - Nhóm phụ trách các vấn đề soạn thảo các hồ sơ, tài liệu chuyển DNNN thành công ty cổ phần: soạn thảo phương án chuyển DNNN thành công ty cổ phần, trong đó quan trọng hàng đầu là phương án kinh doanh sau khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần; dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. - Nhóm phụ trách các vấn đề về lao động và chính sách với người lao động: phân loại lao động, xác định thâm niên làm việc cho Nhà nước; xác định danh sách lao động nghèo; lập phương án phân phối quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi bằng tiền; lập phương án đào tạo lại lao động phù hợp với phương án kinh doanh mới. Giám đốc doanh nghiệp với tư cách trưởng ban sẽ làm nhiệm vụ phối hợp chung hoạt động của ba nhóm công tác. Thứ tư, nghiên cứu hoàn thiện các văn bản hướng dẫn xây dựng các hồ sơ cổ phần hoá DNNN. Ngày 28/8/1996, Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước Trung ương đã có Công văn số 3395/VPCP - ĐMDN hướng dẫn quy trình và phương án mẫu về CPH. Đây là việc làm cần thiết trợ giúp thúc đẩy CPH ở doanh nghiệp. Song có thể dễ dàng nhận thấy rằng, phương án CPH mẫu của Ban này đưa ra hết sức sơ sài không tương xứng với vị trí của tài liệu này trong thu hút vốn của các thể nhân và pháp nhân vào công ty cổ phần. Bản phương án này cần phải khẩn trương hoàn thiện và nên bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Phần thứ nhất: Đánh giá thực trạng DNNN. Ngoài ra cần phải làm rõ được những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Phần thứ hai: Phương án sản xuất - kinh doanh trong 3 - 5 năm sau khi chuyển đổi hình thức doanh nghiệp. Phần này phải làm rõ một cách có luận chứng khoa học các lĩnh vực kinh doanh, quy mô các lĩnh vực kinh doanh, nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh hoặc đổi mới công nghệ. - Phần thứ ba: Phương án chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Trong phần này phải làm rõ được sự cần thiết chuyển sang công ty cổ phần, hình thức CPH DNNN, dự kiến vốn điều lệ và cơ cấu vốn điều lệ, các loại cổ phần và phác thảo cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần. - Phần thứ bốn: Những kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước nhằm thực hiện nhanh quá trình CPH và tạo điều kiện cho công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả. Cùng với việc hoàn thiện phương án mẫu về cổ phần hoá, cũng cần nghiên cứu ban hành một điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Bản điều lệ mẫu này phải bảo đảm 3 yêu cầu sau: - Tuân thủ đúng các văn bản pháp quy hiện hành, trước hết là Luật Doanh nghiệp. - Tạo khung để vận dụng xây dựng điều lệ phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của mỗi công ty. - Ngắn gọn, dễ hiểu và hiểu một cách thống nhất tạo cơ sở cho việc triển khai thực thi trong thực tế. 4. Kiến nghị về thực hiện bán, khoán, cho thuê DNNN Cần quán triệt sâu rộng các chủ trương, chính sách của Nhà nước về giao, bán, khoán, cho thuê DNNN tới các cấp, các ngành, địa phương; đặc biệt là cần phải làm cho lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động trong DNNN thuộc các hình thức chuyển đổi nêu trên nhận thức đầy đủ những quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp để tạo ra sự đồng tình, nhất trí và quyết tâm thực hiện cao. Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về giao, bán, khoán, cho thuê DNNN. Nghiên cứu, sửa đổi một số quy định chưa thông thoáng tại Nghị định 103, ví dụ như: cho phép người mua doanh nghiệp được bán toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp trong thời hạn hợp đồng khi họ có nhu cầu với điều kiện người mua sau phải cam kết thực hiện đúng những điều mà người mua trước đã cam kết trong hợp đồng... Các cơ quan chức năng cần xây dựng lộ trình và danh sách cụ thể các doanh nghiệp sẽ giao, bán, khoán, cho thuê. Danh sách này được niêm yết, thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau những khoản thời gian thực hiện nhất định sẽ có sự tổng kết, rút kinh nghiệm và khen thưởng cũng như kỹ thuật, quy trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm triển khai nhiệm vụ được giao. Các doanh nghiệp sau khi đã được chuyển đổi sở hữu cần phải được đối xử bình đẳng như khi còn là DNNN. Nhà nước cần hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo lại tay nghề cho người lao động. Nhanh chóng ban hành quy chế hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong các công ty đã giao, bán, khoán, cho thuê. 5. Kiến nghị về sửa đổi quy trình thực hiện giải thể DNNN 5.1. Những tồn tại bất hợp lý của quy trình giải thể theo quy định hiện hành Việc thực hiện giải thể DNNN theo quy định hiện nay theo Thông tư số 25/TT-KH-ĐT có những bất cập sau: Một là, theo Thông tư này trong nội dung của quyết định giải thể doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập doanh nghiệp công bố phải có các nội dung là: - Tên địa chỉ doanh nghiệp bị giải thể - Ngày tuyên bố giải thể - Lý do giải thể - Phương án giải thể Mục phương án giải thể được công bố ở đây là phương án giải thể chính thức. Trong khi đó, sau 15 ngày ra quyết định giải thể thì cơ quan có thẩm quyền quyết định giải thể mới thành lập được hội đồng giải thể. Hội đồng giải thể có chức năng thẩm định phương án giải thể do doanh nghiệp bị giải thể xây dựng gửi lên. Do việc quy định có bất cập trên nên trong quyết định giải thể thường không thể có phương án giải thể chính thức mà chỉ là dự kiến. Hai là, về thành phần của hội đồng giải thể doanh nghiệp theo hướng dẫn của Thông tư số 25 chỉ phù hợp với các DNNN Trung ương, còn ở cấp địa phương có sự chưa hợp lý. Chẳng hạn cơ quan tổ chức chính quyền, tham mưu cho Uỷ ban nhân dân ra quyết định thành lập và giải thể và bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp không có trong thành phần của hội đồng giải thể. Đại diện cơ quan Sở Tài chính - vật giá, Cục thuế cũng không nằm trong hội đồng giải thể. Do đó khi thực hiện phương án giải thể thường gặp khó khăn khi các ngành có liên quan thiếu sự phối hợp thống nhất. Ba là, thời gian mở tài khoản và tổ chức bán đấu giá thu hồi tài sản của doanh nghiệp giải thể theo quy định của Thông tư 25 là quá ngắn, không thể thực hiện được các công việc trên theo đúng hạn về thời gian. Bốn là, về trình tự thực hiện công bố quyết định giải thể trên báo chí ba số liên tục cũng không hợp lý về thời gian công bố trên báo trí. Vì theo quy định là sau khi có quyết định của cơ quan quyết định giải thể phải đăng báo ngay, trong khi đó thì phương án giải thể lại chưa được thẩm định và phê duyệt chính thức. 5.2. Những đề xuất vận dụng quy trình về giải thể DNNN Giải thể là một nội dung trong quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN. Trên phương diện tổ chức, quản lý, doanh nghiệp được coi như là sản phẩm của quá trình sản xuất đặc biệt này. Do đó, cũng giống như mọi sản phẩm khác, doanh nghiệp cũng có chu kỳ sống và tuân theo quy luật “vòng đời” của sản phẩm. Vì thế giải thể doanh nghiệp là nội dung tất yếu của viêc sắp xếp lại DNNN. Trong thực tiễn việc giải thể rất phức tạp, khó làm và thường kéo dài, có những doanh nghiệp rơi vào tình trạng phải giải thể nhưng không giải thể được. Vướng mắc chủ yếu khi giải thể tập trung vào những vấn đề: Chính sách Nhà nước về giải thể doanh nghiệp Thủ tục giải thể (trình tự, nội dung, quy định...) Cán bộ tham gia thực hiện giải thể Công nợ của doanh nghiệp Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong doanh nghiệp Do vậy cần thiết phải vận dụng Thông tư số 25 với những nội dung sau: Một là, về quy trình thực hiện giải thể DNNN do cấp địa phương thành lập và quyết định giải thể doanh nghiệp trong nội dung các quyết định giải thể do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố ký chưa cần có phương án giải thể mà cần thành lập ngay hội đồng giải thể; bởi lẽ phương án giải thể chính là việc vận dụng chế độ chính sách của Nhà nước để giải quyết các vấn đề tài sản, công nợ, quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp. Các nội dung này cần được xem xét kỹ càng và được hội đồng thẩm định kiểm tra để trình Uỷ ban nhân dân thành phố (tỉnh) quyết định và thực hiện. Mặt khác, khi thống nhất phải giải thể doanh nghiệp lại cần có ngay quyết định giải thể nhằm xác định thời điểm giải thể để xử lý phạm vi công nợ và quyền hạn chế độ quản lý và lao động. Hai là, cơ cấu hội đồng giải thể do cấp địa phương thành lập cần có các thành viên đại diện cho các ngành sau: Đại diện Uỷ ban nhân dân thành phố (tỉnh) làm Chủ tịch Hội đồng (hoặc uỷ quyền cho sở chủ quản) Sở Kế hoạch và đầu tư - Uỷ viên Sở Tài chính - vật giá - Uỷ viên Ban Tổ chức - chính quyền - Uỷ viên Ngân hàng - Uỷ viên Thuế - Uỷ viên Công đoàn doanh nghiệp - Uỷ viên Đại diện lãnh đạo doanh nghiệp - Uỷ viên Các tổ chuyên viên giúp việc Ba là, việc đăng báo công bố giải thể có thể thực hiện sau khi hội đồng giải thể thẩm định phương án giải thể, trình Uỷ ban nhân dân chấp nhận chính thức. Bốn là, quy định thời gian tiến hành mở tài khoản và tổ chức đấu giá thu hồi tài sản doanh nghiệp có thể tiến hành dài hơn. Tuỳ theo quy mô và đặc điểm tài sản của doanh nghiệp (trong khoảng 30 - 45 ngày). 6. Kiến nghị về sắp xếp doanh nghiệp công ích: Trước tiên, cần phân biệt giữa sản phẩm, dịch vụ công ích, công trình công ích với doanh nghiệp công ích. Trên cơ sở đó, quy định rõ những sản phẩm, dịch vụ nào Nhà nước cần duy trì với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Những doanh nghiệp này thực sự là những DNNN hoạt động công ích và nên hạn chế tối đa về số lượng. Chỉ duy trì hoặc thành lập mới những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không được làm như an ninh quốc phòng, xuất bản, đảm bảo hệ thống thông tin liên tỉnh và quốc tế... và những lĩnh vực tư nhân không muốn làm được chưa làm được như quản lý khai thác công trình thuỷ nông, sản xuất thóc giống, thoát nước đô thị... Với các sản phẩm, dịch vụ công ích khác nên cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác tham gia. Các doanh nghiệp này khi tham gia cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích theo kế hoạch, đơn đặt hàng, giá, phí của Nhà nước quy định mà không bù đắp được chi phí sản xuất hoạt động công ích thì được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá và các ưu đãi khác của Nhà nước như đối với DNNN hoạt động công ích. Mặt khác, cũng cần có cơ chế để xác định giá, phí, mắc trợ giá, bù lỗ cho các sản phẩm, dịch vụ này một cách hợp lý. Nhà nước cần ban hành cơ cấu đấu thầu các sản phẩm, dịch vụ công ích, kể cả việc đấu thầu hoặc khoán định mức bù lỗ cho các sản phẩm này hoặc cho các DNNN công ích. Với cơ chế đấu thầu, các hoạt động công ích sẽ được thực hiện với chi phí thấp, chất lượng cao, đồng thời giảm dần sự bao cấp của Nhà nước cho hoạt động công ích. Các quy định về vốn, lao động, tiền lương, cán bộ quản lý, kiểm tra, kiểm soát đối với DNNN công ích cũng cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới để doanh nghiệp hoạt động ổn định, hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện đúng mục tiêu thành lập, đối tượng phục vụ và phạm vi hoạt động. III. Về thị trường, vốn, công nghệ, lao động hỗ trợ các DNNN thực hiện đổi mới, sắp xếp lại 1. Giải pháp mở rộng thị trường cho DNNN Hiện nay, các DNNN vẫn đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm cả ở trong và ngoài nước. Thị trường trong nước bị sức ép của hàng ngoại rất mạnh và sự lũng đoạn của doanh nghiệp tư nhân. Trong lĩnh vực thương nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân buôn lậu và trốn thuế đối với hàng nhập ngoại làm cho các DNNN nhập khẩu chính ngạch nộp thuế đầy đủ có giá bán cao, sức cạnh tranh kém. Các DNNN sản xuất hàng nội địa cũng ở tình trạng tương tự, bị hàng nhập lậu chèn ép gay gắt. Đồng thời còn bị tệ nạn làm hàng giả, hàng “nhái mẫu mã” làm mất tín hiệu của người tiêu dùng trong nước. Thị trường xuất khẩu tuy vẫn được các DNNN chú ý tìm hướng mở rộng và tăng doanh thu và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhưng vẫn còn rất khiêm tốn. Tìm kiếm các giải pháp về thị trường đầu ra cho các DNNN phát triển trong những năm tới cần quan tâm đến những hướng sau: Đối với thị trường trong nước: cần tăng cường vai trò quản lý nhà nước, xử lý nghiêm khắc những hoạt động buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trốn lậu thuế, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh, ổn định thị trường tiêu thụ nội địa, hỗ trợ các DNNN làm ăn nghiêm chỉnh. Chú ý tìm hướng tới thị trường giữa các tỉnh, tạo lập thị trường giữa các vùng kinh tế thông qua việc xác định và hoàn thiện hơn cơ cấu kinh tế cho từng vùng. Kiến nghị Chính phủ tiếp tục hạn chế, kiểm soát nhập khẩu những hàng hoá mà các DNNN trong nước sản xuất được để giúp các doanh nghiệp Nhà nước vươn lên đáp ứng nhu cầu thị trường. Thu hút khuyến khích đầu tư nước ngoài liên kết các DNNN đầu tư công nghệ mới để nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Duy trì, phát triển thị trường xuất khẩu thông qua các hoạt động gia công, chế biến xuất khẩu. Đồng thời mạnh dạn khuyến khích các DNNN tham gia xuất khẩu trực tiếp và mở văn phòng đại diện, đại lý tiêu thụ hàng hoá do các DNNN sản xuất tại các nước có thị trường tiêu thụ lớn. Thông qua các quan hệ, nghiên cứu thí điểm xây dựng các trung tâm thương mại tại các nước có thị trường ổn định đễ hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu. 2. Giải pháp về huy động vốn đầu tư khuyến khích DNNN thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ Về khách quan, khi tham gia một sân chơi bình đẳng, DNNN cũng phải tự huy động vốn, tìm nguồn vốn, vay vốn như mọi doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, do đặc thù của DNNN, vốn ban đầu trong thời kỳ bao cấp quá nhỏ, cơ chế phân phối lợi nhuận còn sử dụng khấu hao không tạo thuận lợi cho việc tích tụ vốn, cơ chế cấp bổ sung vốn rất hạn chế nên doanh nghiệp thường thiếu vốn và khó khăn trong nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vì thế cần có những biện pháp ưu đãi về vốn để giúp doanh nghiệp nhanh chóng nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Mặc khác, DNNN là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, Nhà nước vẫn thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, nhưng vừa là người chủ của DNNN vì thế việc ưu đãi cho doanh nghiệp thông qua vấn đề vốn là cần thiết. Để thúc đẩy tiến trình đổi mới, sắp xếp trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, Nhà nước cần tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách trực tiếp hoặc gián tiếp cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất theo hướng tăng tỷ trọng vốn cho vay ưu đãi dài hạn với lãi suất hợp lý. Đối với nguồn vốn vay thương mại của các DNNN hiện nay, Nhà nước tiếp tục duy trì việc hỗ trợ lãi suất vay như những năm vừa qua đến hết năm đối với các lĩnh vực trọng điểm. Sau đó tuỳ khả năng ngân sách để có biện pháp cụ thể. Đối với các nguồn tài chính thu được từ bán khoán, cổ phần hoá Nhà nước nên ban hành quy chế cụ thể để sử dụng ngay và có hiệu quả nguồn vốn này không nên để ứ đọng. Tích cực cải cách cơ chế, thủ tục xét duyệt và cấp phép đầu tư theo hướng tập trung một đầu mối để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài liên kết, liên doanh với các DNNN, đồng thời việc thực hiện kế hoạch đầu tư tập trung một đầu mối cũng sẽ tạo điều kiện để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư; giảm thủ tục thời gian cho doanh nghiệp. Thu hút vốn từ nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho DNNN vừa và nhỏ. Muốn kéo đàu tư, hỗ trợ từ phía nước ngoài, Bộ Tài chính cần xét lại bộ luật về thuế thu nhập cá nhân để giản tiện và hữu hiệu hoá hơn. Việt Nam có thể giảm tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân hay học hỏi kinh nghiệm của Singapore đánh thuế thu nhập các doanh nghiệp trên một tỷ lệ cố định là 15%. Với nguồn vốn đa dạng và có ưu đãi, Nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư để thay thế thiết bị cũ, mở rộng sản xuất áp dụng công nghệ mới. Định hướng đầu tư và áp dụng công nghệ mới theo hướng sau: Kết hợp chặt chẽ giữa các loại quy mô: quy mô nhỏ - quy mô vừa - quy mô lớn. Trong đó trước mắt lấy quy mô nhỏ, quy mô vừa làm chủ đạo. Kết hợp chặt chẽ giữa việc thay thế thiết bị với đầu tư dây chuyền đồng bộ mở rộng sản xuất sản phẩm và đầu tư sản xuất sản phẩm mới; cần có bước đi vững chắc, thích hợp với từng doanh nghiệp, không đầu tư theo hình thức hoặc phong trào. Kết hợp công nghệ tiên tiến, hiện đại với công nghệ trung bình và công nghệ sản xuất truyền thống theo đặc thù củ doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp đã làm ăn có hiệu quả, có năng lực đi thẳng vào công nghệ hiện đại, sử dụng công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới để tạo sức cạnh tranh khi mở cửa và hội nhập. Đối với các doanh nghiệp nguồn vốn còn hạn chế khuyến khích việc đổi mới thiết bị với việc tận dụng thiết bị cũ của các nước tiên tiến nhưng phù hợp với trình độ công nghệ kỹ thuật của Việt Nam để cơ bản tạo bước đi tích cực và vững chắc. Kết hợp đổi mới công nghệ, mặt hàng sản xuất với phát triển bền vững môi trường sinh thái và cảnh quan. Khuyến khích các DNNN huy động các nguồn đầu tư khác để đổi mới công nghệ như các nguồn vốn từ nội bộ cán bộ công nhân viên, từ nguồn liên kết, hợp tác với nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại. Thực hiện tốt chiến lược công nghệ sẽ quyết định đến nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. Chiến lược công nghệ của doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện nhanh chóng và hiệu quả khi doanh nghiệp xem đây là khâu đột phá có tính chất cách mạng và sẵn sàng trả thù lao xứng đáng cho các phát minh sáng chế có giá trị thực tiễn trong việc đổi mới quy trình công nghệ phục vụ sản xuất và hoạt động dịch vụ, có chế độ đãi ngộ thích đáng đối với chuyên gia kỹ thuật giỏi. Để chiến lược công nghệ thực thi có hiệu quả cần phải đẩy mạnh hơn nữa sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp và các trường đại học, viện nghiên cứu. Qua sự hợp tác này tạo nên sự giao thoa giữa tri thức khoa học và thực tiễn hoạt động sản xuất, một vấn đề được quan tâm đặc biệt khi mà chúng ta đang tiếp cận với nền kinh tế tri thức. 3. Giải pháp về đào tạo, lao động việc làm: Để giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm cho số lao động so sắp xếp DNNN dôi ra cần chú ý các vấn đề sau: Nhà nước cần ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ với mức kinh phí thoả đáng và công bằng do những người lao động có quá trình cống hiến nhiều năm làm việc trong DNNN. Để họ tự nguyện tìm kiếm công việc làm thích hợp khi doanh nghiệp bị phán sản, giải thể hoặc chấp nhận sự sắp xếp chuyển đổi vị trí sang cơ quan khác. Đó là chưa kể kinh phí giải quyết cho người lao động dôi dư trong các DNNN không thuộc diện sắp xếp trong giai đoạn 2000 - 2005, nếu giải quyết số lao động này thì cần phải có thêm số kinh phí khoảng 1200 - 1500 tỷ đồng. Sử dụng kinh phí thu được từ bán cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại cho số lao động còn đủ điều kiện về sức khoẻ và trình độ văn hoá. Bằng nhiều hình thức đào tạo bồi dưỡng thích hợp để người lao động có thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng có được trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của nơi làm việc mới. Khuyến khích, ưu đãi cho các nhà đầu tư mua lại doanh nghiệp nếu họ cam kết sử dụng hết lao động hiện có của doanh nghiệp nhà nước trước khi thực hiện sắp xếp. Tìm kiếm, mở rộng hướng xuất khẩu lao động, ưu tiên tuyển chọn lao động xuất khẩu từ lực lượng lao động dôi ra ở các DNNN thực hiện sắp xếp. IV. Các giải pháp khác 1. Quy chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp Công khai hoá và minh bạch hoạt động tài chính cần được xem là xuất phát điểm của chiến lược tài chính, qua đó doanh nghiệp biết được thực trạng và hiệu quả của đồng vốn. Từ đó có những quyết sách đúng đắn về sử dụng tài chính trong tương lai. Nhanh chóng áp dụng các nguyên tắc kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế - điều đó phải được xem là vấn đề quan trọng trong quá trình cải cách các DNNN. Chúng ta lưu ý một điều là Việt Nam được tổ chức tư vấn về rủi ro kinh tế và chính trị có trụ sở tại Hồng Kông (PERC) xếp hạng cao nhất về an toàn ở Đông Nam á trong năm 2001 là một điều thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng cũng tổ chức này xếp hạng cho Việt Nam thấp nhất về độ công khai minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Đó cũng là một trong những điều kiện hết sức cần thiết để tiến hành CPH các DNNN. Theo quy định của Luật DNNN ban hành tháng 6/1995, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước và giám sát đối với DNNN thông qua các hoạt động: Ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng loại hình DNNN chính sách khuyến khích, chế độ trợ cấp, trợ giá và chế độ ưu tiên đối với các sản phẩm và dịch vụ hoạt động công ích. Quyết định các biện pháp bảo hộ và hỗ trợ các DNNN quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển DNNN trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển ngành, lãnh thổ. Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương chính sách chế độ nhà nước tại doanh nghiệp. Phân cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc quản lý nhà nước đối với DNNN theo sự phân công của Chính phủ. Tuy nhiên, các DNNN đã và đang ngày càng được giao quyền chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tương đối độc lập về tài chính đối với cơ quan chủ quản DNNN. Do đó, công tác giám sát DNNN của Chính phủ thông qua việc thi hành các luật thuế, thông qua hệ thống ngân hàng, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo và thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm toán DNNN ngày càng được tăng cường. Hiện nay, thành lập và quản lý DNNN có 3 cấp: loại DNNN do Thủ tướng Chính phú thành lập, loại doanh nghiệp do các bộ, ngành thành lập và loại doanh nghiệp do các địa phương thành lập. Các cấp này nắm vai trò là cơ quan chủ quản đối với các DNNN thuộc cấp và ngành mình (quản lý theo chiều ngang). Bên cạnh đó, nhiều cơ quan và tổ chức theo chức năng của mình có chức năng giám sát DNNN theo chiều dọc: Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, Tổng cục thuế, Tổng cục hải quan, Kiểm toán nhà nước. Kể từ khi Luật DNNN ra đời, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc kiến tạo hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn đi kèm nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, đồng thời tăng cường cơ chế giám sát và quản lý DNNN. Tuy nhiên, trên thực tế một số quy định về quản lý DNNN thực sự chưa đi vào cuộc sống, chưa đáp ứng được các yêu cầu sản xuất kinh doanh của các DNNN. Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996 là một bước quan trọng trong cơ chế quản lý tài chính đối với DNNN. Tuy nhiên quy chế cũng còn khá nhiều tồn tại làm hạn chế khả năng huy động vốn của nhiều DNNN, hạn chế quyền chủ động của DNNN và gây khó khăn trong việc quản lý, giám sát DNNN. Nghị định 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 sửa đổi, bổ sung “Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN” với một số nội dung đổi mới theo hướng trao quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp, mở rộng khả năng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm giám sát của Hội đồng quản trị trong các DNNN tổ chức theo mô hình Tổng Công ty. Tuy hệ thống các văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động của DNNN nhiều nhưng chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và chưa sát thực. Tình trạng các văn bản mâu thuẫn nhau làm các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp khó thi hành vẫn còn tồn tại. Hiện nay, còn tồn tại quá nhiều đầu mối cơ quan quản lý và giám sát DNNN. Việc thanh tra, kiểm tra các hoạt động của DNNN là hết sức cần thiết giúp tìm ra những tồn tại khó khăn để có các giải pháp tháo gỡ cho doanh nghiệp song tình trạng nhiều cơ quan, tổ chức cùng đến kiểm tra doanh nghiệp cũng gây nên những phiền hà không đáng có. Nhiều khi doanh nghiệp không biết được cơ quan nào chịu trách nhiệm trong việc xử lý các vấn đề của doanh nghiệp. Mặt khác việc tháo gỡ những khó khăn cho DNNN thường không kịp thời do phải qua nhiều cấp, nhiều ngành. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát DNNN, từng bước lành mạnh hoá tài chính cho DNNN, thiết nghĩ một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phải xây dựng và thực hiện quy chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN để phát hiện và ngăn chặn kịp thời tình trạng khó khăn và đổ vỡ về tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường hơn nữa công tác phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, giám sát hoạt động tín dụng để phòng ngừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Trước mắt, cần tổ chức tổng kiểm kê đánh giá lại tài sản, vốn và tình trạng tài chính trong DNNN để nắm được toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, tình trạng vốn, hiệu quả hoạt động, đề ra và tổ chức thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các DNNN. Đồng thời, cần nhanh chóng thực hiện bổ sung, sửa đổi Luật DNNN và hoàn thiện hơn nữa các văn bản hướng dẫn thi hành luật cho phù hợp với tình hình mới. 2. Đổi mới công tác đào tạo và bố trí cán bộ quản lý DNNN Điều quyết định thành bại của DNNN là chiến lược nhân lực. Lựa chọn người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức và tài năng vào các vị trí chủ chốt của DNNN là khâu đột phá trong chiến lược sử dụng con người thông qua cơ chế tuyển dụng, tuyển chọn nghiêm túc. Khắc phục tình trạng hiện nay có đến 67% giám đốc DNNN không đọc nổi bản báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp (theo Báo cáo của Bộ tài chính năm 2000), tiến tới mọi thành viên của doanh nghiệp phải biết được tình hình tài chính hàng năm của doanh nghiệp và hiệu suất sinh lời của đồng vốn, từ đó để điều chỉnh các chiến lược kinh doanh. Đồng thời với việc thực hiện kế hoạch sắp xếp DNNN, Chính phủ và Ban đổi mới doanh nghiệp trung ương cần có chương trình kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại một cách cấp bách đội ngũ cán bộ quản lý DNNN nói chung, đặc biệt là cán bộ chủ chốt: giám đốc, phó giám đốc, bí thư Đảng uỷ. Thực hiện thí điểm mô hình thi tuyển chọn giám đốc DNNN. Nghiên cứu xây dựng và ban hành thực hiện chế độ quyền lợi giám đốc gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh của DNNN. Đồng thời bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo DNNN kế cận một cách thường xuyên. 3. Đổi mới và phát huy hiệu quả các mối quan hệ phối hợp quản lý trong nội bộ DNNN Từ thực tiễn những năm qua ở các DNNN nói chung và đặc biệt ở các DNNN yếu kém các mối quan hệ phối hợp quản lý nội bộ DNNN thường bị xem nhẹ. Đó là tình trạng cấp dưới không chấp hành chỉ đạo của cấp trên, cá nhân coi thường tập thể, vai trò của các tổ chức đảng, công đoàn không được chú ý... dẫn đến tình trạng chung là kỷ cương của doanh nghiệp kém, doanh nghiệp hay mất đoàn kết nội bộ, tư tưởng người lao động thiếu yên tâm. Do đó, sau khi tiến hành sắp xếp DNNN cần thiết và cấp bách phải nghiên cứu đổi mới và phát huy hiệu quả các mối quan hệ phối hợp trong quản lý nội bộ DNNN nhằm đạt được sự đoàn kết thống nhất từ ban lãnh đạo doanh nghiệp cho đến các tổ chức sản xuất kinh doanh và từng người lao động đều thấm nhuần tinh thần này. 4. Phát triển DNNN cần phải đặt trong mối tương quan với phát triển doanh nghiệp dân doanh Kết hợp lẫn nhau giữa DNNN và doanh nghiệp dân doanh để chúng có thể bổ sung cho nhau, nhằm khắc phục một thực tế hiện nay: DNNN có tiềm năng kinh tế cao nhưng hiệu quả kinh tế nói chung kém doanh nghiệp dân doanh tiềm lực thấp nhưng hiệu quả thường cao hơn. Chủ trương kết hợp đó có thể mở rộng ra thị trường thế giới với các doanh nghiệp Việt kiều ở nước ngoài, qua đó nhanh chóng tranh thủ được vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường của người Việt ở nước ngoài. Về lĩnh vực này, thành công của Trung Hoa lục địa với Hoa kiều ở nước ngoài là đáng học hỏi. Việc cư xử đồng đều giữa thành phần quốc doanh và dân doanh sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu muốn phát triển kinh tế mau chóng, không thể chỉ dựa vào DNNN. Ví dụ, nông dân được quyền tự do trồng trọt theo ý muốn từ năm 1986 nhưng việc xuất khẩu gạo là độc quyền các DNNN. Một nghiên cứu cho thấy là nông dân chỉ hưởng 16% giá xuất khẩu gạo trong khi các DNNN được trên 45%. Các DNNN còn nhiều đôc quyền trong việc xuất nhập khẩu, phân phối phân bón hay các đầu vào khác trong nông nghiệp. Như vậy trong khu vực nông nghiệp Nhà nước còn kiểm soát nhiều khâu kẻ cả gây một số trở ngại cho khu vực ngoài quốc doanh trong các vấn đề giấy tờ đăng ký doanh nghiệp, thế chấp, quyền sử dụng đất... Cư xử đồng đều còn dính đến khu vực nông thôn hay nước ngoài các doanh nghiệp tư hay nước ngoài bị giới hạn trong vấn đề sản xuất một số mặt hàng. Việt Nam nên dần bỏ bớt các giới hạn này để thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam không thể tiếp tục “bao cấp” các DNNN trong môi trường thương mại toàn cầu. Các độc quyền của các DNNN sẽ phải dần dần chấm dứt. Các thành phần kinh tế đều được hưởng những ưu đãi như nhau, đồng loạt cùng nhau phát triển bình đẳng và vững chắc. Kết luận Khả năng cải cách doanh nghiệp nhà nước để biến chúng thành các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả không thua kém các doanh nghiệp tư nhân trong một nền kinh tế cạnh tranh, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế đó là việc làm rất khó khăn cả về mặt hoạch định và thực thi. Qua quá trình nghiên cứu và tham khảo tài liệu có liên quan, nhìn nhận về thực trạng của DNNN hiên nay có thể rút ra nhận xét rằng: kết quả thực hiện trong nhiều năm vừa rồi cho thấy việc cải tổ cơ cấu trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa đạt được mục tiêu căn bản. Khoá luận đã rút ra nguyên nhân tình trạng trên từ cả hai phía chủ quan và khách quan. Nền kinh tế có xuất phát điểm thấp là những nguyên nhân khách quan còn những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ những vấn đề liên quan đến pháp lý, công tác tổ chức, nhân sự và công tác tuyên truyền về đổi mới, sắp xếp để nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước. Với kiến thức, trình độ còn nhiều hạn chế em cũng mạnh dạn đóng góp một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Song đó là những giải pháp chưa có được sự đồng bộ và hoàn thiện. Vì thế, khoá luận này cũng nhận thức được rằng để có được các biện pháp hữu hiệu để nâng cao tác động tích cực đến nền kinh tế của khu vực DNNN - trụ cột của nền kinh tế quốc dân, thì không những Chính phủ phải có chiến lược và kế hoạch đúng đắn mà còn cần thiết có sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ ngành liên quan và đặc biệt là giải quyết vấn đề tư tưởng cho người lao động không chỉ ở trong các doanh nghiệp là đối tượng sắp xếp lại và cải cách. Về viễn cảnh của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới tất nhiên chúng ta đều có niềm mong ước cho một tương lai sáng sủa hơn của đất nước Việt Nam, bắt đầu bằng hình ảnh tốt đẹp là mong Việt Nam sẽ “ngựa phi đường xa” trong năm Nhâm Ngọ 2002. Sau đó là nỗ lực thu ngắn khoảng cách tụt hậu từ lâu với các lân bang châu á. Do thời gian có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế nhưng được sự giúp đỡ tận tình của Thạc sỹ Bùi Thị Lý, em đã hoàn thành khoá luận của mình. Tuy nhiên, khoá luận của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót nên em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế ngoại thương để hoàn thiện hơn nữa khoá luận này. Hà Nội tháng 10 năm 2002 Danh mục tài liệu tham khảo Luật Doanh nghiệp và các văn bản liên quan, Bộ kế hoạch và đầu tư, 1997. Tìm hiểu Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật sư Trần Hà, Nxb Đồng Nai. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường, PGS.TS Lê Văn Tâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc, Trương Văn Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Văn kiện Đai hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Nghị định 338/HĐBT, Nghị định 50/CP, 56/CP. Nghị định 90/CP, 91/CP; Chỉ thị 500/TTg. Sắp xếp doanh nghiệp nhà nước chi phí và các giải pháp, Đặng Văn Thanh, Bộ Tài chính. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1, 2 - 2002. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, tháng - 2002 Sự phối hợp trong các hoạt động cải cách hệ thống tài chính và khu vực doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước), Tiến sĩ kinh tế Lê Quốc Lý. Tạp chí Thương mại, số 22 - 2002. Tạp chí Con số và Sự kiện, số 2, 3 - 2002 Tạp chí Cộng sản, số 653, tháng 8 - 2002 Báo cáo phát triển Việt Nam 2002 - Thực hiện cải cách để tăng trưởng và giảm nghèo nhanh hơn - World Bank tại Việt Nam Tạp chí Thế giới thương mại, số 28, ngày 13- - 19/7/2002 Kinh tế Việt Nam đổi mới - Tiến sỹ Nguyễn Văn Chỉnh, Tiến sỹ Vũ Quang Việt, Cử nhân Trần Vân, Cử nhân Lê Hoàng, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 2002. Kinh tế thế giới 2001 - 2002 đặc điểm và triển vọng, Tiến sỹ Kim Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia. Nghị định 28/CP, 44/CP về thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Những vấn đề kinh tế Việt Nam thử thách của hội nhập, Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình, Vũ Quang Việt; Thời báo kinh tế Sài Gòn, Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương. Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương ........ – ² — ........ Khóa luận tốt nghiệp Đề tài: đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : Thạc sỹ. Bùi Thị Lý Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Kim Ngân Lớp : Nhật 3 - K37 Hà Nội, năm 2002 Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa 3 I. Khái niệm và phân loại DNNN 3 1. Khái niệm về DNNN 3 2. Phân loại DNNN 6 II. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước 8 1. Vai trò kinh tế 10 2. Vai trò chính trị 13 3. Vai trò xã hội 13 III. Một số kinh nghiệm phát triển và cải cách DNNN của các nước 13 1. Kinh nghiệm của các nước phát triển 13 2. Kinh nghiệm của các một số nước đang phát triển về phát triển và cải cách xếp lại DNNN 14 Chương II: Thực trạng của DNNN ở nước ta những năm qua và những đổi mới bước đầu 19 I. Quá trình hình thành và phát triển của DNNN ở Việt Nam 19 1. Quá trình hình thành của DNNN và kinh tế Nhà nước qua các thời kỳ 19 2. Quá trình hình thành, phát triển DNNN ở Việt Nam 21 II. Những đổi mới của DNNN ở Việt Nam trong những năm qua 24 1. Thực chất của việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN ở nước ta 24 2. Những đổi mới bước đầu của DNNN ở Việt Nam 25 3. Những kết quả bước đầu triển khai phương án đổi mới, sắp xếp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở một số tỉnh, thành trong cả nước 42 III. Thực trạng tình hình DNNN ở Việt Nam hiện nay 46 1. Hiệu quả của DNNN - một bức tranh màu xám 47 2. Kém hiệu quả của DNNN - những nguyên nhân 52 3. DNNN trong bối cảnh hội nhập - Thách thức mới đối với kinh tế Việt Nam 61 Chương III: Những giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN ở Việt Nam 65 I. Về tư tưởng 65 1. Cần tăng cường hoạt động tuyên truyền phổ biến các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại DNNN. 65 2. Công tác vận động tư tưởng đối với người lao động ở các DNNN sắp xếp lại hiện nay. 66 3. Công tác tư tưởng trong việc đào tạo, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ chốt của DNNN. 68 II. Về tổ chức quản lý 68 1. Những tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định thành lập, thẩm định DNNN. 68 2. Một số kiến nghị về tổ chức mô hình DNNN quy mô lớn 73 3. Những đề xuất và kiến nghị nhằm thúc đẩy cổ phần hoá DNNN. 77 4. Kiến nghị về thực hiện bán, khoán, cho thuê DNNN 83 5. Kiến nghị về sửa đổi quy trình thực hiện giải thể DNNN 84 6. Kiến nghị về sắp xếp doanh nghiệp công ích 86 III. Về thị trường vốn, công nghệ, lao động hỗ trợ các DNNN thực hiện đổi mới, sắp xếp lại. 87 1. Giải pháp mở rộng thị trường cho DNNN 87 2. Giải pháp về huy động vốn đầu tư khuyến khích DNNN thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. 88 3. Giải pháp về đào tạo, lao động việc làm 91 IV. Các giải pháp khác 91 1. Quy chế giám sát tài chính đối với doanh nghiệp 91 2. Đổi mới công tác đào tạo, bố trí cán bộ quản lý DNNN 94 3. Đổi mới và phát huy hiệu quả các mối quan hệ phối hợp quản lý trong nội bộ DNNN. 95 4. Phát triển DNNN cần phải đặt trong mối tương quan với phát triển doanh nghiệp dân doanh. 95 Kết luận 97 Danh mục tài liệu tham khảo 98

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN TOT NGHIEP.doc
Tài liệu liên quan