Khóa luận Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới

Nâng cao năng lực cạnh tranh: Xây dựng đề án nâng cao năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia, xây dựng đồng bộ chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, và chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở phân tích khả năng của ngành, lĩnh vực, các Bộ quản lý Nhà nước đối với ngành và hiệp hội ngành hàng lựa chọn một số doanh nghiệp điển hình để phân tích khả năng cạnh tranh, làm cơ sở cho các doanh nghiệp trong ngành tự phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Cụ thể: Một là, từng doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế sao sánh đã có và tạo ra lợi thế so sánh mới cho mình. Để nâng cao cạnh tranh, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, nước ta còn có một lợi thế quan trọng. Đó là giá nhân công lao động rẻ so với nhiều nước trong khu vực nhất là so với các thành viên phát triển. Công lao động ở nước ta giá chỉ bằng một nửa của họ, thậm chí có ngành còn thấp hơn, trước hết chúng ta tận dụng cao nhất khả năng này trong cạnh tranh với các doanh nghiệp thành viên WTO khác. Mặt khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật có trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế trí thức cần đến. Do vậy, đông và rẻ không còn là lợi thế của ta. Cần phải tự tạo ra lợi thế mới, lợi thế mới này mỗi doanh nghiệp phải tự tìm và tạo ra cho mình từ chính những nguồn lực của mình. Hai là, biết kết hợp tự mình nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp khác trong hệ thống. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng để có thể thắng trong cạnh tranh, thay vì mạnh ai đấy làm. Mỗi doanh nghiệp đều phải nỗ lực tiến nhanh hơn đồng đội, đó là yêu cầu của cạnh tranh nhưng cũng sẵn sàng hợp tác với đồng đội lúc cần thiết do yêu cầu của hợp tác cạnh tranh. Làm được điều đó, chúng ta tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác. Cạnh tranh để có sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất. Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ thương mại. hiện nay, nước ta đã có một số mặt hàng có sức cạnh tranh ở thị trường một số nước trên thế giới như: Gạo, cà phê, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ Song, còn nhiều mặt hàng khác tuy còn có thế mạnh sản xuất nhưng chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu, do đó chưa cạnh tranh được thị trường thế giới, nhất là thị trường các thành viên WTO có nền công nghiệp tiên tiến, đông dân cư và có sức tiêu thụ lớn. Để hàng hoá và dịch vụ trên có sức cạnh tranh cao ở thị trường WTO, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, tăng cường các biện pháp quản lý để đạt mục tiêu chất lượng cao, giá thành hạ và tương đối ổn định, thương hiệu rõ ràng, hấp dẫn, dễ nhớ để thu hút đông đảo người tiêu dùng. Từ thực tế cho thấy doanh nghiệp nào chọn hướng đầu tư đúng và biết cách quảng bá thương hiệu, chiếm được niềm tin khách hàng thi đó là sức mạnh của doanh nghiệp để cạnh tranh ở thị trường nội địa và thị trường quốc tế.

doc90 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
W tại Ninh Thủy có số vốn gần 4 tỷ USD. Đồng thời, Sumitomo cũng sẽ đầu tư 196 triệu USD cho dự án cảng trung chuyển contai ner tại Đầm Môn. Posco (Hàn Quốc) đã đề nghị được thuê 720 ha tại Vân Phong để xây dựng NM thép liên hợp có công suất dự kiến giai đoạn 1 khoảng 4 triệu tấn/năm và giai đoạn 2 là 8 triệu tấn/năm. Vốn đầu tư tương ứng cho giai đoạn 1 và 2 của dự án này là 4 tỷ USD và 7,2 tỷ USD. Trước đó, Posco cũng đã khởi công xây dựng NM cán thép ở BR-VT với tổng vốn 1,2 tỷ USD. Nhiều tập đoàn kinh tế từ Trung Đông, Mỹ, Châu Âu cũng đang khảo sát và bày tỏ ý định đầu tư lớn vào các dự án xây dựng cảng, công nghiệp... Vậy thì sự tăng trưởng ngoạn mục cả về lượng và chất của dòng vốn đầu tư vào các khu vực, ngành sản xuất có lợi thế gần biển đã thể hiện điều gì? Câu trả lời là: Điều đó không chỉ ghi nhận lợi thế địa lý, tiềm năng phát triển kinh tế biển của VN. Mà trên hết, đó là thể hiện cụ thể sự tin tưởng của các nhà đầu tư với những chuyển biến tích cực của VN trong xây dựng tầm nhìn chiến lược và chương trình cụ thể nhằm phát triển nền kinh tế biển bền vững, hiệu quả. 2.4.2. Lợi thế về chính trị - văn hoá - xã hội 2.4.2.1. Lợi thế về chính trị Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh phát triển, quan hệ đối ngoại được mở rộng tạo lợi thế cho Việt Nam khi gia nhập WTO. Cải cách hành chính có nhiều bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường một bước, dân chủ trong xã hội tiếp tục đườc phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Tiềm lực quốc phòng an ninh, được tăng cường, đời sống vật chất, tinh thần và trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang được cải thiện. Các tuyến phòng thủ thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Viếc kết hợp giữ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh được đảm bảo tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đã phát hiện và ngăn chặn nhiều âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, kiềm chế được tội phạm hình sự, sử lý nghiêm tội tham nhũng. Hoạt động đối ngoại không ngừng được mở rộng cả trong quan hệ nhà nước và trong quan hệ nhân dân. Đạt được kết quả quan trọng trong việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại đã góp phần giữ vững ổn định chính trị tạo môi trường hoà bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước chính là nhờ Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn. Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng với tinh thần tiếp tục đổi mới đã được cụ thể hoá phù hợp với thực tiễn trong các nghị quyết của Trung ương và được thể chế hoá theo hướng xây dựng đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có sự nỗ lực phấn đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự chỉ đạo, điều hành có hiệu quả của Chính phủ, sự năng động và quyết tâm của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp khắc phục khó khăn để hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005. Cùng với kết quả đầu tư của nhiều năm qua, cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước. 2.4.2.2. Lợi thế về văn hoá - xã hội Văn hoá xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát triển con người được nâng lên. Cụ thể, trong 5 năm 2001 - 2005, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước thu hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90%việc làm mới. Xuất khẩu lao động và chuyên gia bằng 2,3 lần so với 5 năm trước. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%/năm, thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80,65%. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng (năm 2000) lên trên 10 triệu đồng (năm 2005) tăng 12,1%/năm và chỉ số phát triển con người được nâng lên. Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, đã thu được nhiều kết quả tốt thông qua việc trợ giúp điều kiện sản xuất, tạo việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở. Tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, động viên các ngành, các cấp, các đoàn thể quần chúng và các tầng lớp dân cư tham gia. Đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 7% (kế hoạch là 10%). Theo đánh giá của liên hợp quốc, Việt Nam đã về đích trước 10 năm so với mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng. Hoạt động y tế dự phòng phát triển mạnh hơn, một số dịch bệnh mới như viêm phổi cấp (SARS) được ngăn chặn vă khắc phục nhanh. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở củng cố và phát triển, hầu hết các xã, phường trong cả nước đều có trạm y tế, trên 65% trạm có bác sĩ. Một số cơ sở y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến. Sản xuất thuốc trong nước đã chiếm khoảng 45% thị phần thuốc chữa bệnh. Hoạt động văn hoá, thông tin phát triển đa dạng hơn, góp phần nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân, làm tăng hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến pháp luật. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phát triển sâu rộng. Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình đổi mới về nội dung, tăng quy mô, mở rộng phạm vi tới vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và ra nước ngoài. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội phát triển hơn. Nhiều địa phương có những giải pháp tốt về phòng chống ma tuý, tệ nạn mại dâm và ngăn chặn các hoạt động văn hoá không lành mạnh. Các hình thức cai nghiện, quản lý người cai sau nghiện có hiệu quả. 2.4.3. Lợi thế về con người Nước ta có lực lượng lao động tương đối đông đảo và ngày càng tăng so với số dân hiện nay vào khoảng 82 triệu người, số người trong độ tuổi lao động là gần 49 triệu người, chiếm gần 61% tổng số dân. Trong đó, tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động cao: Năm 2002 có gần 41 triệu người, chiếm 84% tổng số người trong độ tuổi lao động có hoạt động kinh tế. Điều đó cho thấy lợi thế về nguồn lao động dồi dào đã được khai thác tốt. Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn nhân lực Việt Nam tương đối trẻ: Năm 2002, nhóm lực lượng lao động trẻ có 19,4 triệu người, chiếm gần 50% tổng lực lượng lao động trong cả nước. Tỷ lệ lao động trẻ cao trong tổng lực lượng lao động cũng đã được khai thác như là một lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam vì bên cạnh ưu thế về thể chất , lao động trẻ là lớp người có học thức, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, dễ dàng tiếp thu các kỹ thuật và kiến thức mới. Trong những năm qua, những lợi thế so sánh khác như: Giá cả sức lao động tương đối rẻ, trình độ học vấn trung bình tương đối cao, đã được chúng ta tận dụng tương đối tốt phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. 2.4.4. Lợi thế về môi trường đầu tư 2.4.4.1. Lợi thế về môi trường kinh tế Từ một nước có nền kinh tế thị trường hoạt động theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa nhưng với những chính sách phù hợp Việt Nam đã và đang từng bước cải thiện môi trường kinh doanh đầu tư. Điều này được phản ánh qua mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 8 năm trở lại đây. Tất cả các khu vực kinh tế đều tăng trưởng với tốc độ nhanh so với năm trước, tổng vốn đẩu tư tiếp tục tăng cao (21 tỷ USD) chiếm 28,9% GDP. Trong đó đầu tư tư nhân chiếm hơn 32% tổng vốn và được khẳng định là có tốc độ phát triển nhanh nhất tăng 28% so với năm trước. Đầu tư của khu vực tư nhân có hiệu quả cao hơn so với khu vực nhà nước đã giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm. Vốn đầu tư tăng ở khu vực này là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy tiềm lực trong nước đang tăng lên và khẳng định các chính sách của Việt Nam nhằm cải thiện môi trường kinh doanh đang dần phát huy hiệu quả. Vốn FDI năm nay cũng tăng gần 40%, đạt 5,8 tỷ USD mức cao nhất trong 10 năm (trong đó đầu tư mới là 4 tỷ USD, đầu tư bổ sung là 1,9 tỷ USD). Chỉ xét riêng tổng vốn đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng cụ thể là: Bảng 14: Phân bổ nguồn vốn Chỉ tiêu Tổng vốn (nghìn tỷ đồng ) Cơ cấu (%) Vốn đầu tư thuộc khu vực nhà nước Vốn ngân sách nhà nước Vốn tín dụng đầu tư của nhà nước Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước 528 219,9 130,2 178,2 54,1 22,5 13,3 18,3 Vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư 259,3 26,6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 161,9 16,6 Nguồn khác 26,4 2,7 Tổng đầu tư xã hội 976 100 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam Cơ cấu đầu tư có sự dịch chuyển theo hướng tích cực có sự tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế, đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 70,9% tổng mức vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2005, trong đó: Ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 13,1%, công nghiệp và xây dựng chiếm 43,8%, giao thông bưu điện chiếm 13,9% còn lại lĩnh vực xã hội chiếm 25,6%. Do điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu tư nên quy mô mở rộng đầu tư ở các vùng đều tăng. Tỷ trọng đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa cao hơn so với thời kỳ 1996 - 2000: Tỷ trọng vốn đầu tư vùng núi phía bắc chiếm 8,3% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội (1996 - 2000 là 7,6%), vùng Bắc Trung Bộ là 8% (1996 - 2000 là 7,7%), vùng Duyên Hải miền trung là 12,4% (1996 - 2000 là 11,6%), vùng Tây Nguyên là 5,3% (1996 -2000 là 4,8%). Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng, công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đã có nhiều đổi mới, tạo quyền chủ động nhiều hơn cho các địa phương và chủ đầu tư. Các chính sách quản lý đầu tư được cải tiến theo hướng tăng cường công tác giám sát, giảm sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, phân cấp triệt để cho các Bộ ngành và địa phương về thẩm quyền quyết định, tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư. Tăng cường trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc quyết định, tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của công trình. Bên cạnh nguồn vốn trong nước, giai đoạn 2001 - 2005 việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài như vốn ODA và FDI vẫn được chú trọng và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Nguồn vốn ODA được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Nguồn vốn ODA góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật. Cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các dự án ODA nhiều cán bộ Việt Nam đã được đào tạo lại nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Các hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm đẩy mạnh tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 81,3%, lĩnh vực dịch vụ chiếm 13,3% còn lại là lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Vùng đồng bằng Nam Bộ chiếm 68%, vùng đồng bằng Sông Hồng chiếm 17%, vùng Trung Du và miền núi phía Bắc chiếm 4% việc cấp mới và bổ sung vốn trong giai đoạn 2001 -2005 tăng nhanh ước đạt 17,9 tỷ USD. Vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với khoảng 12,6 tỷ USD chiếm 70,5% tổng vốn cấp mới, lĩnh vực dịch vụ khoảng 3,36 tỷ USD chiếm 18,8%, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp khoảng 1,9 tỷ USD chiếm 10,7%. Tuy nhiên điểm nổi bật về đầu tư trong giai đoạn 2001 - 2005 là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực tư nhân. Do tác động tích cực của Luật doanh nghiệp từ năm 2001 đến năm 2004 đã có khoảng hơn 106 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 198,2 nghìn tỷ đồng, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 21,8% về số lượng và tăng 44,1% về vốn đăng ký. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới từ năm 2001 - 2004 bằng 2,6 lần so với giai đoạn 1991 - 1999 theo Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty với số vốn đăng ký gấp 7,6 lần. Như vậy trong 5 năm 2001 - 2005 có trên 500 nghìn doanh nghiệp đăng ký với số vốn trên 305 nghìn tỷ đồng đồng thời khu vực kinh tế quốc doanh đã tạo thêm 1,5 triệu việc làm mới. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước liên tục tăng và vượt cao hơn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân năm 2001 chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến năm 2005 tăng 27,8%. Doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp tích cực và kim ngạch xuất khẩu nhất là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản,.. và đã đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn thu ngân sách nhà nước. Với 99% doanh nghiệp tư nhân là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm trong nước, 31% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% khối lượng vận chuyển hàng hoá và tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi có khả năng tiếp nhận phần lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước góp phần ổn định xã hội và tăng thu nhập cho người lao động. Nhờ huy động tốt các nguồn lực khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh cho phép dành một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư cho các công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương. Đầu tư chuyển đổi mạnh theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành từng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đầu tư có chiều sâu đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp. Trong những năm qua, để cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam tiếp tục duy trì tổng vốn đầu tư cho ngành giao thông vận tải và bưu điện ở mức 14% vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn ngân sách. Tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn đặc biệt là ở các vùng núi biên giới. Bên cạnh đó việc chú trọng đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn như triển khai chương trình giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao đặc biệt là thuỷ sản để cải thiện các ngành nông lâm, ngư nghiệp. Có thể nhận thấy rằng, năm 2007 đã khởi đầu cho một làn sóng FDI mới sau khi Việt Nam trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO trong điều kiện nền kinh tế đang hội tụ những điều kiện thuận lợi. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được nền kinh tế vĩ mô vững chắc (tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm cao và sự phân hoá giàu nghèo thấp). 2.4.4.2. Lợi thế về môi trường chính trị - văn hoá - xã hội. Môi trường chính trị - văn hoá - xã hội của Việt Nam ổn định và là một quốc gia yên bình, ít thiên tai, bạo loạn và chi phí nhân công lại thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam, đang xem là một nhân tố quan trọng trong chiến lược “Trung Quốc +1” của các công ty xuyên quốc gia. Nhật Bản đang xếp Việt Nam nằm trong số 3 thị trường đầu tư hàng đầu của họ và một số lượng lớn các đầu tư của Nhật Bản đã và đang chuyển dần hoạt động sản xuất sang Việt Nam. Cho đến nay Việt Nam hiện đã thu hút được hơn 50,5 tỷ USD vốn trong các dự án FDI vẫn còn có hiệu lực trong đó 60,8% nguồn vốn đến từ Châu Á, Singapore, Nhật Bản,… Cơ cấu FDI được định hướng chủ yếu vào các ngành công nghiệp xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam do nguồn nhân công và tài nguyên dồi dào. Tuy nhiên hiện có dấu hiệu gia tăng FDI vào các lĩnh vực dịch vụ, điều này phản ánh môi trường kinh tế thông thoáng hơn và sức mua trong nước ngày càng tăng. Ngành công nghiệp kỹ thuật cao cũng đang tìm đường đến Việt Nam, khởi đầu bằng việc phát triển Internet xây dựng nhà máy sản xuất chip và linh kiện máy vi tính đầu tiên trị giá 605 triệu USD. Hiện tại có hơn 3.000 doanh nghiệp FDI hoạt động rất tốt tại Việt Nam và trong năm 2005 khu vực này đạt doanh thu 21 tỷ USD (tăng 16,7%), tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 13,3 tỷ USD đóng góp quan trọng trong tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và chiếm một phần đáng kể trong các ngành công nghiệp then chốt. CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 3.1 Định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới Những bước đi quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đều được sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường". Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt gia nhập tổ chức thương mại thế giới trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện phát huy mọi lợi thế của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. + Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường" + Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. + Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. + Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia. Tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. + Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của các quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hoà bình" đối với nước ta. Như vậy, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đã hình thành qua một thời gian dài với những tiến bộ phù hợp với tình hình của đất nước và từng bước phát huy ảnh hưởng tích cực của nó đối với nền kinh tế đất nước và thể hiện nhận thức sâu sắc của Nhà nước ta trước vận hội của đất nước trong xu thế toàn cầu hoá. 3.2. Các giải pháp để phát huy lợi thế khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới 3.2.1. Giải pháp vĩ mô 3.2.1.1 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Giải pháp hoàn thiện pháp luật thương mại dịch vụ. Khẩn trương xây dựng, ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành về thương mại dịch vụ theo hướng tiếp cận dần với các chuẩn mực của GATS. Hiện nay, một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng mới có các văn bản dưới luật, chưa có các văn bản luật do Quốc hội ban hành để điều chỉnh. Vì vậy, cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng và ban hành mới các đạo luật về các dịch vụ này, như: Luật kinh doanh bất động sản; Luật kinh doanh dịch vụ viễn thông; Luật cung ứng các dịch vụ phân phối; Luật kinh doanh dịch vụ du lịch và lữ hành; Luật bưu chính - viễn thông (thay thế Pháp lệnh bưu chính - viễn thông hiện hành)… tránh trường hợp luật có hiệu lực, nhưng vì chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên không thể triển khai thực hiện trong cuộc sống được, mà phải chờ đợi. Đối với dịch vụ bảo hiểm, ra soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật về dịch vụ bảo hiểm và đối chiếu với những quy định quốc tế (cụ thể là các nguyên tắc và quy định của GATS). Trên cơ sở đó, từng bước sửa đổi , bổ sung, thậm chí ban hành mới các văn bản luật và dưới luật điều chỉnh dịch vụ bảo hiểm theo hướng vẫn giữ được định hướng chính trị, bản sắc văn hoá dân tộc mà vẫn có thể tương thích với các quy định bắt buộc của GATS khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Ngay trước mắt chưa thể sửa đổi, bổ sung Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 vì luật này có hiệu lực từ tháng 4 - 2001. Tuy nhiên, nước ta cần xây dựng lộ trình cam kết mở cửa thị trường về dịch vụ bảo hiểm, dựa vào đó để ban hành các văn bản dưới luật chứa đựng những quy định tương ứng về mở cửa dần dịch vụ bảo hiểm. Ví dụ: Từng bước cho phép các công ty bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động sâu rộng hơn trên thị trường bảo hiểm nước ta. Đến năm 2010 xoá bỏ hạn chế việc mở chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc. Đến năm 2015 xoá bỏ các hạn chế về đối tượng khách hàng, phạm vi kinh doanh của doang nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với dịch vụ tài chính, công việc trước mắt hiện nay là nước ta cần xoá bỏ các chính sách trái với các nguyên tắc của GATS, trái với cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ tài chính. Ví dụ: Chính sách về quản lý ngoại hối, trong điều kiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam còn thấp thì việc kiểm soát và quản lý ngoại hối là yêu cầu bứt buộc. Tuy nhiên, trong quản lý cũng cần phân loại, tách biệt giữa những biện pháp mang tính chất thận trọng nhằm bảo đảm dự trữ ngoại hối với những biện pháp gây cản trở thượng mại. Loại bỏ dần chính sách thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đây xem là hạn chế lớn của môi trường đầu tư Việt Nam. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, rõ ràng và minh bạch các hệ thống pháp luật về dịch vụ tài chính. Loại bỏ tình trạng mâu thuẫn lẫn nhau trong các văn bản. Chẳng hạn như luật doanh nghiệp quy định trường hợp thành lập công ty kiểm toán cần tối thiểu 1 kiểm toán viên, nhưng trong Nghị định 07/CP về kiểm toán độc lập thì quy định tối thiểu là 5 kiểm toán viên. Hoặc đã ban hành luật nhưng lại thiếu các văn bản hướng dẫn gây tình trạng thiếu đồng bộ, những tác động không tốt tới hiệu quả thực thi luật. Ví dụ: Khi quy định các loại hình công ty bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm (Điều 59.3) đã chỉ rõ bao gồm cả các tổ chức bảo hiểm tương hỗ, nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể, nên cho tới nay vẫn chưa có một tổ chức bảo hiểm nào tương hỗ đi vào hoạt động. Điều đó đã hạn chế sự đa dạng hoá các loại hình công ty bảo hiểm ở Việt Nam. Đối với dịch vụ ngân hàng, ngay trước mắt chưa thể sửa đổi, bổ sung Luật ngân hàng Nhà nước vì luật này mới sửa đổi tháng 6/2003. Tuy nhiên, để gia nhập GATT/WTO cũng như việc thực hiện các quy định về dịch vụ bảo hiểm của GATT/WTO sau khi gia nhập, nước ta cần thiết xây dựng lộ trình cam kết mở của thị trường về dịch vụ ngân hàng, nên chúng ta phải sửa đổi Luật ngân hàng Nhà nước và Luật tổ chức tín dụng theo hướng bảo đảm sự bình đẳng chi các chủ thể khai thác dịch vụ ngân hàng, tính minh bạch rõ ràng của pháp luật, thể hiện được các hình thức cung cấp các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam. Các điều kiện đặt ra cho phép việc cấp phép đặt chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, thành lập ngân hàng liên doanh, thành lập các tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như vốn pháp định, thời hạn đã hoạt động kinh doanh cho đến thời điểm xin phép, yêu cầu phát triển kinh tế thị trường tài chính Việt Nam… cần được loại bỏ dần và đến năm 2015 thì loại bỏ hoàn toàn. Đến đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam cũng như ngoại tệ từ dân cư. Trước mắt, cần loại bỏ sự khác biệt về mức phí cấp phép mở chi nhánh. Văn phòng đại diện của ngân hàng liên doanh, của tổ chức tín dụng phi ngân hàng (theo Nghị định số 13/1999/NĐ-CP) để không còn phân biệt đối xử quốc gia về mức phí này. Bên cạnh đó cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới một số văn bản về nghiệp vụ ngân hàng có liên quan như: Sửa đổi Pháp lệnh kế toán, bổ sung những quy định mới về lập chứng từ kế toán, hoạch định theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chứng từ ngân hàng điện tử, chữ ký điện tử… để tiến tới công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, công nhận tính pháp luật của các văn bản điện tử ở các hợp đồng thương mại… Đối với dịch vụ viễn thông, Pháp lệnh bưu chính - viễn thông được Quốc hội thông qua ngày 25/ 5/ 2002, trong đó đã thể hiện những quan điểm lớn của Đảng và Chính phủ nêu trong Nghị quyết 07/NQ-TW của Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương 3, khoá IX là: “Đảm bảo chủ quyền, phát huy nội lực, thể hiện thiện chí mở cửa, hội nhập”. Vì vậy, trước mắt cần tiến hành xây dựng mới những văn bản dưới luật phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, tăng cường tính minh bạch và công khai của các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông theo hướng loại bỏ độc quyền kinh doanh. 3.2.1.2 Cải cách hành chính Sắp xếp lại các cơ quan nhà nước theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, kém hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp thương mại, các lực lượng quản lý thị trường. Cơ cấu lại bộ máy chính phủ theo hướng giảm dần các mối phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm dần cấp phó, bỏ các cấp trung gian, giảm bộ phận phục vụ trong cơ quan hành chính, chuyển sang hình thức hợp đồng dịch vụ, phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với việc hướng dẫn thực hiện thanh tra của cấp trên. Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù hợp, nghiên cứu việc giảm bớt hội đồng nhân dân cấp quận ở đô thị. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính để loại bỏ các loại giấy tờ, thủ tục giấy tờ không cần thiết, công bố công khai. Minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý, quy trình tác nghiệp, người chiụ trách nhiệm và thời hạn giải quyết công việc của các cơ quan nhà nước, các đơn vị cung cấp dịch vụ công để các doanh nghiệp và người dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện, cải cách thủ tục, cơ chế trong lĩnh vực thuế, hải quan, đẩy mạnh thực hiện chương trình và lộ trình thực hiện hải quan, điện tử. Ban hành hệ thống phân cấp mới theo một đề án tổng thể của chính phủ bảo đảm tính hệ thống, sự tương thích trong các lĩnh vực, ban hành cơ chế kiểm tra việc thực hiện phân cấp, gắn phân cấp với công tác kiểm tra, giám sát. Xây dựng cơ chế thẩm vấn đối với các đối tượng được quản lý, các doanh nghiệp trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật theo nguyên tắc công khai, minh bạch của WTO. Hoàn thiện tiêu chuẩn công thức theo yêu cầu hội nhập, đào tạo, xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp và hiện đại, hoàn thiện pháp luật về công chức, trong đó chú trọng việc tăng quyền hạn cho người đứng đầu đơn vị. Loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân và doanh nghiệp, những người không đủ năng lực và thiếu trách nhiềm khi thực thi công vụ. Kiện toàn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, tăng cường cán bộ am hiểu về kinh tế và thương mại quốc tế, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao, phát huy vai trò chủ động của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong việc phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan trong nước để phát triển thị trường, xuất khẩu, xúc tiến du lịch và thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong các vụ tranh chấp thương mại. Tổ chức cơ quan đại diện của Việt Nam tại WTO đủ số lượng, nâng cao chất lượng để phối hợp với các cơ quan trong nước, hoạt động hiệu quả và tham gia đàm phán đa phương và song phương với các đối tác trong WTO. Tiến hành đánh giá lại vai trò và hiệu quả của uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế sau khi gia nhập WTO, xây dựng đề án về cơ chế và tổ chức phối hợp liên ngành trong đàm phán quốc tế về hợp tác song phương, đa phương bảo đảm hiệu quả, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. 3.2.1.3. Tuyên truyền quảng bá về định chế WTO Nhà nước cần tổ chức, nghiên cứu quán triệt Nghị quyết làm cho cán bộ, công chức, viên chức và toàn dân nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức đặt ra khi Việt Nam là thành viên của WTO, phát huy ý chí tự lực tự cường huy động nội lực, tận dụng tối đa lợi thế của Việt Nam, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Đại hội lần thứ X của đảng đã đề ra đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Sử dụng đa dạng các kênh thông tin và phương tiện truyền thông, các lớp tập huấn để phổ biến các định chế, cũng như nội dung các cam kết cụ thể cho các đối tượng có liên quan: Cơ quan nhà nước, chủ thể sản xuất, kinh doanh, hiệp hội ngành nghề nhằn nâng cao hiểu biết về nội dung các cam kết cũng như các công việc phải làm. Định hướng thông tin phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời chấn chỉnh thông tin sai lệch về tác động của WTO. Sử dụng các phương tiện truyền thông để hỗ trợ các doanh nghiệp nắm vững chính sách phát triển kinh tế xã hội của nuớc ta và các quy tắc , luật lệ của WTO. Ngoài ra nhà nước cần sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, sách báo, tuyên truyền qua các hội thảo, các chương trình giáo dục trong nhà trường… nhằm giới thiệu rộng rãi các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cho mọi người dân trong cả nước. Tập huấn cho các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư, bảo đảm quy trình thẩm định đầu tư và cấp giấy chứng nhận theo đúng các cam kết quốc tế của Việt Nam. 3.2.1.4. Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực Cải cách chương trình giáo dục, đào tạo, cách dạy và học phải được coi là yêu cầu bức xúc và có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ nhiệm vụ đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo. Hệ thống đào tạo phải đáp ứng được mục tiêu phát triển con người toàn diện. Theo nghĩa đó bên cạnh các môn học cơ bản, các chương trình giáo dục, đào tạo cần dành một tỷ lệ thích đáng cho các môn học cung cấp các loại tri thức mang tính công cụ tối thiểu của thời đại, các kỹ năng phản ứng với thị trường lao động. Đặc biệt, cần chú trọng hơn nữa giáo dục thể lực cho học sinh, sinh viên coi đó là bộ phận cấu thành không thể thiếu trong chương trình giáo dục -đào tạo ở tất cả các cấp bậc học. Cách dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, xử lý thông tin và tri thức cũng như phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề. Cụ thể hơn nữa, cần xem xét và giảm bớt phần lý thuyết, tăng phần thực tiễn trong bậc giáo dục phổ thông. Đối với giáo dục đại học hoặc trên đại học: Để làm tăng năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng với công việc sau khi ra trường của sinh viên, việc gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, giữa lý thuyết với thực hành cần được hết sức chú trọng. Năng lực cạnh tranh và hội nhập của đội ngũ lao động Việt Nam chỉ có thể được nâng cao một khi khoảng cách hiện tại giữa các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động và nhu cầu thực tế của thị trường lao động được thu hẹp. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, hoạt động đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật, bao gồm cả bồi dưỡng, nâng cao tay nghề (đào tạo lại) và đào tạo ngành mới phải được hết sức chú trọng. Để có thể thu hẹp dần khoảng cách giữa các hoạt động đào tạo, bồ dưỡng tay nghề với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, những biện pháp nên được xem xét lại. Xác định rõ ràng (theo tín hiệu thị trường) các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ và kỹ năng cần thiết để có thể quy hoạch lại hệ thống đào tạo nghề theo hướng đồng bộ từ cơ cấu ngành đến cơ cấu vùng, địa phương, giúp xử lý hài hoà quan hệ đào tạo với các ngành công nghệ cao (thông tin, bưu chính viễn thông, cơ - điện tử, dầu khí,…) với các ngành sử dụng nhiều lao động (may mặc, giày da, chế biến nông sản,…) hoặc giữa đào tạo nghề cho thành thị, với đào tạo nghề cho nông thôn. Tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định chặt chẽ. Các cơ sở dạy nghề được đăng ký chính thức và các loại văn bản chứng chỉ do họ cấp phải được các cơ quan quản lý Nhà nước công nhận. Có sự phối hợp chặt chẽ trong khi hoạch định chính sách đào tạo bồi dưỡng và chính sách điều chỉnh cơ cấu, nhất là cấp địa phương. Việc hợp tác, phối hợp giữa các bên tham gia thị trường lao động (các xí nghiệp có nhu cầu về lao động, về tay nghề mới của người lao động, cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) có thể làm cho hoạt động đào tạo xích gần hơn với những như cầu thực tế của các xí nghiệp về lao động và các loại ngành nghề. Kết hợp đào tạo kiến thức và kỹ năng cơ bản ở các trường dạy nghề, các trường THCN và cao đẳng với việc nâng cao kỹ năng nghề nghiệp tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Huy động các chuyên gia làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung đào tạo đại học và giáo dục nghề. Nâng cao và đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học Bổ sung, sửa đổi, ban hành các chính sách đối với người quản lý, người dạy và người học nghề, xây dựng ban hành hệ thống danh mục nghề và các tiêu chuẩn kỹ năng nghề thông qua các giáo trình chuẩn. Kết hợp giáo dục đào tạo với các biện pháp kinh tế và hành chính để nâng cao đạo đức, kỷ luật lao động công nghiệp. Nâng cao thể lực người lao động Đổi mới hệ thống y tế, tăng cường chăm sóc sức khoẻ cộng đồng là một trong những hướng chủ yếu để nâng cao chất lượng lao động. Một số giải pháp trước mắt là: Xây dựng mạng lưới y tế đến tận cấp thôn, đảm bảo để 100% xã có trạm xá, củng cố và nâng cao mạng lưới y tế ở nông thôn. Tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ. Trong đó ưu tiên cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, cho các biện pháp phòng bệnh, nhất là các bệnh dịch như sốt rét, bại liệt, bướu cổ. Các chương trình cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm đã thu hút sự tham gia của các khu vực tư nhân vào lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ người lao động. Mở rộng hoạt động đào tạo cán bộ y tế, đặc biệt là đào tạo y tá và cán bộ y tế cho các vùng nông thôn miền núi. Tăng cường giáo dục thể lực trong trường lớp, cơ sở đào tạo: Nâng cao chất lượng và tăng thời lượng cho giáo dục thể lực, đặc biệt ngay từ bậc trung học phổ thông. Phát huy tiềm năng hiện có và tăng cường năng lực cho đội ngũ “lao động chất xám” Hiện nay ở nước ta việc áp dụng các công cụ khuyến khích thích hợp đối với lao động chất xám, kể cả lao động KHCN và lao động quản lý, có thể giúp phát huy mạnh hơn nữa các tiềm năng của lao động chất xám, làm tăng khả năng cạnh tranh của loại lao động này trên thị trường lao động. Để đạt được mục tiêu này, các biện pháp có thể được xem xét là: Khuyến khích (cả bằng vật chất lẫn tinh thần) sự sáng tạo của cá nhân và tập thể các nhà KHCN, các nhà quản lý kinh doanh bằng cách tạo điều kiện tố về cuộc sống và làm việc cho lực lượng này trên tinh thần trọng dụng nhân tài. Áp dụng các hình thức biểu dương, tôn vinh các nhà khoa học có thành tích và chuyên gia hàng đầu. Khuyến khích và trân trọng những tìm tòi khám phá khoa học, những kiến nghị giải pháp về các vấn đề của tự nhiên, kỹ thuật cũng như kinh tế - xã hội khác nhau. Trang bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ cho các phòng thí nghiệm, một số viện nghiên cứu trọng điểm, một số bộ môn ở các trường đại học ở mức tiên tiến trong khu vực. Tăng dần trang thiết bị và nâng cấp các thư viện cho các trường đại học, các viện nghiên cứu. Việc tạo lập thị trường cho các sản phẩm, dịch vụ của lao động KHCN và quản lý cũng là một trong những yếu tố có thể làm tăng tính cạnh tranh của phạm trù lao động này. Tính chất thị trường trong các chính sách và biện pháp quản lý hoạt động lao động chất xám cần được thể hiện sao cho các sản phẩm của hoạt động công nghệ, nghiên cứu cũng như triển khai, được trao đổi như hàng hoá. Việc hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả cũng là một vấn đề cấp bách cần sớm được giải quyết. Sự thiếu hoàn chỉnh của hệ thống này đã và đang là rào cản trở lớn đối với sáng tạo Khoa học Công nghệ. 3.2.1.5. Đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư Ban hành các cơ chế, chính sách nhằm đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư và hình thức đầu tư; tạo cơ chế đặc biệt để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm quản lý đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng. Ban hành quy định phân cấp đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung hơn để bảo đảm hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Xây dựng đề án điều chỉnh chiếm lượng tổng thể phát triển các ngành sản xuất hàng hoá, xây dựng hệ thống mã số về dịch vụ và chiến lược tổng thể phát triển các ngành dịch vụ, tiến hành điều chỉnh lại chiến lược phát triển các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh để định hướng đầu tư của doanh nghiệp. Ban hành các chính sách quản lý và khuyến khích phát triển các hình thức đầu tư gián tiếp để tạo khả năng đa dạng hoá nguồn đầu tư, gia tăng tính linh hoạt và khả năng kết nối của thị trường vốn nước ta với thị trường vốn quốc tế, bảo đảm an toàn và ổn định kinh tế vĩ mô. 3.2.1.6. Hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghiên cứu bổ xung các quy định của pháp luật khuyến khích các mô hình hợp tác xã, xác lập mối liên kết giữa các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, nuôi trông thuỷ sản, khai thác thuỷ sản với nhau và với các cơ sở chế biến, doanh nghiệp thương mại nhằm hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn gắn với việc quản lý quá trình tăng trưởng, quản lý chất lượng và cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể sản xuất. Nghiên cứu, xây dựng chính sách thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất gắn với việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành khác. Ban hành chính sách khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Ban hành chính sách khuyến khích nông dân mua cổ phần trong các cơ sở chế biến nông - hải sản, tạo ra đồng sở hữu của người sản xuất nguyên liệu trong các cơ sở chê biến, qua đó tăng thu nhập cho nông dân, bảo đảm chất lượng và sự ổn định trong việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất công nghiêp sử dụng người lao động chưa qua đào tạo để tạo thêm việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực lao động ở thành phố lớn, đồng thời ban hành chính sách thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở dạy nghề để chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn. Tiến hành công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn song song với việc thực hiện chính sách xã hội, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng đề án phát triển du lịch cộng đồng kết hợp với xoá đói, giảm nghèo và dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn. Xây dựng kho tàng, chợ đầu mối để mở rộng thị trường nông thôn, tăng khả năng điều tiết lộ hàng hoá lưu thông trên thị trường. Xây dựng và thực hiện các chương trình đồng bộ phát triển kinh tế xã hội ở những vùng khó khăn, vùng núi và vùng đồng bào dân tộc để hỗ trợ người dân ở các vùng này phát triển sản xuất, cải thiện điều kiện ăn, ở, đi lại… nâng mức hưởng thụ văn hoá, tiếp cận thông tin cho đồng bào nhằm hạn chế và tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với các vùng khác. 3.2.1.7. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường. Rà soát lại các tiêu chuẩn môi trường và điều chỉnh, bổ sung theo hướng tiếp cận dần với tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng và triển khai các đề án bảo vệ môi trường các lưu vực sông, bảo tồn biển và ven biển, nâng cao năng lực quan trắc môi trường, phát triển công nghệ môi trường và ngành công nghiệp môi trường. Nghiên cứu, ban hành chính sách nhằm đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, thành lập các hiệp hội về môi trường, xây dựng hệ thống thông tin và báo cáo môi trường, đẩy mạnh công tác truyền thông môi trường. 3.2.1.8. Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá dân tộc Xây dựng và áp dụng cơ chế cảnh báo sớm và có chế tài xử lý sự xâm nhập các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, làm phương hại đến sự phát triển của đát nước, giữ gìn truyền thống văn hoá và con người Việt Nam. Thiết lập cơ chế thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ văn hoá, đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, hỗ trợ đầu tư, tài trợ, đặt hàng phù hợp để phát triển văn hoá, bảo vệ sự đa dạng văn hoá của Việt Nam. Đẩy mạnh thực thi pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường thuận lợi nhât cho sự sáng tạo các giá trị tinh thần của xã hội. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống thông tin đại chúng, chú trọng phát triển mạng lưới truyền hình, xuất bản, phát hành sản phẩm văn hoá, tăng cưòng chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí, nâng cao hiệu quả và cải thiện chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin, sửa đổi, hoàn thiện Luật báo chí. 3.2.1.9. Bảo đảm an ninh - quốc phòng Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trong quá trình hội nhập. Xây dựng các phương án đấu tranh chống lại âm mưu diễn biến hoà bình, chuyển hoá của các lực lượng thù địch, bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, ổn định trật tự và an toàn xã hội trước những biến đổi nhanh, phức tạp của xu thế toàn cầu hoá vừa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế cũng như gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. 3.2.2. Giải pháp vi mô Để phát huy các lợi thế khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO mọi doanh nghiệp đều phải quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư cho khoa học công nghệ, hoạt động maketing, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào sản xuất - quản lý… Các bộ ngành cũng hết sức khuyến khích tạo điều kiện để phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp khuyến khích việc hợp tác trực tiếp các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài, nhằm tận dụng lợi thế của mỗi bên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để mở cửa thị trường. Trên thực tế, các giải pháp cho tiến trình này ở mỗi doanh nghiệp cũng như mỗi nhóm doanh nghiệp, mỗi nhóm ngành là có mức độ khác nhau. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua các chiến lược ứng phó của các nhóm ngành doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam như: Chế tạo, ngân hàng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải biển. Trước hết, các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành chế tạo có chiến lược đối ứng linh hoạt bằng cách điều chỉnh đáng kể chiến lược kinh doanh như đầu tư công nghệ, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin, tham gia vào các hiệp hội, đào tạo lao động và đầu tư Maketing. Đó là các chiến lược mà đa số các doanh nghiệp trong ngành chế tạo sử dụng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn đưa ra ý kiến sát nhập các doanh nghiệp lại để tăng quy mô kinh doanh hoặc chuyển hướng kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng lại có những giải pháp hết sức đặc trưng: Tiếp thu, chuyển giao các sản phẩm hoặc dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, tăng cường năng lực cạnh tranh trong các khâu như nguồn nhân lực, vốn, công nghệ thông tin, mạng lưới chi nhánh và cơ cấu quản trị công ty, có chiến lược khách hàng rõ ràng. Nâng cao năng lực cạnh tranh: Xây dựng đề án nâng cao năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia, xây dựng đồng bộ chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, và chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở phân tích khả năng của ngành, lĩnh vực, các Bộ quản lý Nhà nước đối với ngành và hiệp hội ngành hàng lựa chọn một số doanh nghiệp điển hình để phân tích khả năng cạnh tranh, làm cơ sở cho các doanh nghiệp trong ngành tự phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Cụ thể: Một là, từng doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế sao sánh đã có và tạo ra lợi thế so sánh mới cho mình. Để nâng cao cạnh tranh, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, nước ta còn có một lợi thế quan trọng. Đó là giá nhân công lao động rẻ so với nhiều nước trong khu vực nhất là so với các thành viên phát triển. Công lao động ở nước ta giá chỉ bằng một nửa của họ, thậm chí có ngành còn thấp hơn, trước hết chúng ta tận dụng cao nhất khả năng này trong cạnh tranh với các doanh nghiệp thành viên WTO khác. Mặt khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật có trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế trí thức cần đến. Do vậy, đông và rẻ không còn là lợi thế của ta. Cần phải tự tạo ra lợi thế mới, lợi thế mới này mỗi doanh nghiệp phải tự tìm và tạo ra cho mình từ chính những nguồn lực của mình. Hai là, biết kết hợp tự mình nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp khác trong hệ thống. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng để có thể thắng trong cạnh tranh, thay vì mạnh ai đấy làm. Mỗi doanh nghiệp đều phải nỗ lực tiến nhanh hơn đồng đội, đó là yêu cầu của cạnh tranh nhưng cũng sẵn sàng hợp tác với đồng đội lúc cần thiết do yêu cầu của hợp tác cạnh tranh. Làm được điều đó, chúng ta tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác. Cạnh tranh để có sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất. Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ thương mại. hiện nay, nước ta đã có một số mặt hàng có sức cạnh tranh ở thị trường một số nước trên thế giới như: Gạo, cà phê, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ… Song, còn nhiều mặt hàng khác tuy còn có thế mạnh sản xuất nhưng chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu,…do đó chưa cạnh tranh được thị trường thế giới, nhất là thị trường các thành viên WTO có nền công nghiệp tiên tiến, đông dân cư và có sức tiêu thụ lớn. Để hàng hoá và dịch vụ trên có sức cạnh tranh cao ở thị trường WTO, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, tăng cường các biện pháp quản lý để đạt mục tiêu chất lượng cao, giá thành hạ và tương đối ổn định, thương hiệu rõ ràng, hấp dẫn, dễ nhớ để thu hút đông đảo người tiêu dùng. Từ thực tế cho thấy doanh nghiệp nào chọn hướng đầu tư đúng và biết cách quảng bá thương hiệu, chiếm được niềm tin khách hàng thi đó là sức mạnh của doanh nghiệp để cạnh tranh ở thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Coi trọng phát triển những sản phẩm có thế mạnh và xây dựng được những thương hiệu mạnh, tổ chức phục vụ thuận tiện, văn minh cho người tiêu dùng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Kinh nghiệm cho thấy thương hiệu hàng hoá mạnh là một trong những giải phát cơ bản thực hiện cạnh tranh lành mạnh, giúp cho doanh nghiệp thắng lợi lớn. KẾT LUẬN Việc gia nhập WTO là một lợi thế nền kinh tế Việt Nam phát triển, hoà nhập với nền kinh tế chung của thế giới, từ đó dần nâng cao vị thế của kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ tạo lợi thế cho nền kinh tế tiếp cận với thị trường thế giới từ đó tạo điều kiện cho thương mại Việt Nam có được sân chơi bằng bình đẳng với các nước thành viên khác. Nhưng hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cho Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do địa vị kinh tế, đặc điểm xã hội - chính trị là một nước đang phát triển. Tuy nhiên với sự nỗ lực của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, tạo sự đồng thuận trong nhận thức ở tất cả các cấp về công cuộc đổi mới nói chung, về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đến việc tiếp tục đổi mới hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách, đổi mới hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Từ đó biến các lợi thế đó để hoàn thành mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Toàn cầu hoá và khu vực hoá. Cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, Trung tâm KHXH và NV Quốc gia - 2000. 2. Tự do hoá và toàn cầu hoá. Rút ra những kết luận đối với công cuộc phát triển, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW -2000. 3. PTS. Đỗ Đức Định. Các nền kinh tế đang phát triển trong tiến trình tham gia WTO. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới. Số 3 (59) 1999. 4. Phan Thị Thanh Hà, Hội nhập kinh tế quốc tế với việc điều chỉnh một số chính sách thương mại, tạp chí Kinh tế và dự báo - số 4/2000. 5. Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hoá & vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế trong các nước đang phát triển và chuyển đổi, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - số 5 (61) /1999. 6. “Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới” của NXB Lao động năm 2004 7. “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi gia nhập WTO” của Nhà xuất bản Lao động năm 2004.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT052.doc
Tài liệu liên quan