Qua phân tích cấu trúc tài chính của Công ty, ta thấy cân bằng tài chính dài hạn của Công ty có chuyển biến theo xu hướng tích cực hơn. Với vốn lưu động ròng luôn đạt giá trị dương, như vậy không chỉ có tài sản cố định của Công ty được tài trợ bằng nguồn dài hạn mà còn tài trợ 1 phần tài sản ngắn hạn, tuy nhiên vấn đề này cũng không tốt khi mà Công ty dùng nguồn vay dài hạn để đầu tư cho tài sản ngắn hạn, chính vì vậy việc sử dụng vốn của Công ty chưa cao, gây lãng phí trong việc sủ dụng vốn của mình. Tuy nhiên, tài sản cố định của Công ty qua 3 năm lại có xu hướng giảm xuống và chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu tài sản của Công ty. Điều này có ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của Công ty vì với lĩnh vực của mình thì Công ty cần rất nhiều tài sản cố định để nhằm phục vụ tốt nhất cho quá trình kinh doanh của mình.
Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật, là yếu tố chính thể hiện năng lực sản xuất của Công ty. Mặt khác, giá trị còn lại của tài sản cố định thể hiện một lượng vốn đang đầu tư vào sản xuất kinh doanh luôn đòi hỏi phải được sử dụng với hiệu quả cao. Thể hiện của đòi hỏi này là tài sản cố định phải được bố trí với cơ cấu hợp lý, thời gian hoạt động cũng như năng lực của tài sản cố định phải được huy động tới mức tối đa nhằm không ngừng tăng sản lượng, tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm góp phần tăng sức cạnh tranh để đạt mục tiêu doanh thu và lợi nhuận của Công ty.
Những vấn đề đặt ra về tài sản cố định là như vậy, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp quản lý tài sản cố định, trong đó phân tích tài sản cố định cũng là biện pháp quan trọng. Qua phân tích sẽ chỉ ra những ưu điểm và tồn tại trong trang bị và sử dụng tài sản cố định của Công ty.
Mặt khác, ta thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định là mục đích của việc trang bị tài sản cố định trong các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định chính là kết quả của việc cải tiến tổ chức lao động và tổ chức sản xuất, hoàn chỉnh kết cấu tài sản cố định, hoàn thiện những khâu yếu hoặc lạc hậu của quy trình công nghệ, đồng thời sử dụng có hiệu quả tài sản cố định hiện có là biện pháp tốt nhất sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
77 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2162 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích cấu trúc tài chính và hiệu quả hoạt động tại công ty cổ phần xây dựng công trình 512, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là lợi nhuận trước thuế năm 2006
TS1 là tài sản bình quân năm 2006
D0 là doanh thu thuần năm 2005
LN0 là lợi nhuận trước thuế năm 2005
TS0 là tài sản bình quân năm 2005
Ta có chỉ tiêu phân tích: ROA = * * 100 (%)
Theo bảng số liệu trên, ta có:
ROA1 = 0,1361
ROA0 = 0,3032
Đối tượng phân tích: rROA = ROA1 – ROA0
= 0,1361 – 0,3032 = - 0,1671
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời tài sản:
+ Ảnh hưởng của nhân tố Hiệu suất sử dụng tài sản (HTS):
∆ROA(HTS) = (- ) * * 100 (%)
= (0,3247 – 0,5135) * 0,5904 = - 0,1115%
+ Ảnh hưởng của nhân tố khả năng sinh lời từ doanh thu (Kdt):
∆ROA(Kdt) = ( - ) * * 100 (%)
= (0,4191 – 0,5904) * 0,3247 = - 0,0556%
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng:
∆ROA = ∆ROA(HTS) + ∆ROA(Kdt)
= (- 0,1115%) + (- 0,0556%) = - 0,1671%
Qua phân tích trên ta thấy khả năng sinh lời tài sản của Công ty giảm là do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Hiệu suất sử dụng tài sản và Khả năng sinh lời từ doanh thu. Hiệu suất sử dụng tài sản giảm 0,1115% làm cho khả năng sinh lời tài sản giảm 0,1115% so với năm 2005, khả năng sinh lời từ doanh thu giảm 0,0556% kéo theo khả năng sinh lời tài sản cũng giảm tương ứng 0,0556%. Như đã phân tích ở phần Hiệu suất sử dụng tài sản ta thấy, hiệu suất sử dụng tài sản năm 2006 giảm hơn so với năm 2005. Nguyên nhân là do các máy móc, thiết bị của Công ty đã được sử dụng nhiều lần, đã cũ nhưng vẫn chưa được đầu tư mua sắm mới nên phần nào đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Công ty. Vì vậy, Công ty cần phải xem xét việc đầu tư, mua sắm các máy móc thiết bị thật sự cần thiết. Bên cạnh đó, cũng phải sử dụng tài sản đúng mức, đúng mục đích đạt được hiệu quả và là hiệu quả của quá trình quản lý và sản xuất của Công ty.
Năm 2005 khi doanh thu được tạo ra là 100 đồng thì mức lợi nhuận tương ứng là 0,5904 đồng nhưng con số này lại giảm đi trong năm 2006 chi còn 0,4191 đồng. Qua đó có thể thấy khả năng sinh lời từ doanh thu của năm 2006 thấp hơn so với năm 2005. Nguyên nhân là do doanh thu ở năm 2006 giảm 15.481.044.233 đồng trong khi đó lợi nhuận giảm 133.282.696 đồng đó là do xây dựng các công trình bị hao hụt mất mát nhiều hơn, đồng thời do Công ty muốn rút ngắn thời gian thi công các công trình vì vậy đòi hỏi phải có một lượng chi phí rất lớn, ngoài ra còn nhiều công trình trong năm chưa hoàn thành bàn giao nên làm cho doanh thu trong năm giảm xuống kéo theo lợi nhuận cũng giảm theo. Như vậy, Công ty cần có biện pháp nâng cao doanh thu đồng thời tiết kiệm chi phí thì khả năng sinh lời tài sản sẽ tăng.
Phân tích khả năng sinh lời kinh tế của tài sản (RE):
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của tài sản phản ánh một cách tổng hợp hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả về lợi nhuận còn chịu tác động bỡi cấu trúc nguồn vốn của Doanh nghiệp. Công ty CPXDCT 512 là đơn vị có chính sách tài trợ chủ yếu là đi vay ngắn hạn. Vì vậy, để thấy rõ thật sự hiệu quả hoạt động của hoạt động thuần kinh tế ở Công ty, ta sử dụng chỉ tiêu Tỷ suất sinh lời kinh tế.
ĐVT: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
1. Lợi nhuận trước thuế
235.741.881
102.459.185
2. Chi phí lãi vay
334.738.194
221.572.433
3. Tổng TS bình quân
77.752.196.019
75.293.782.782,5
4. LNTT và Lãi vay
570.480.075
324.032.218
5. RE [(5)=(4)/(3)*100]
0,7337
0,4304
Qua số liệu trên ta thấy Tỷ suất sinh lời kinh tế của năm 2005 là 0,7337% trong khi đó, Tỷ suất sinh lời kinh tế của năm 2006 là 0,4304% tức là giảm 0,3033% so với năm 2005. Qua số liệu ta còn thấy tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản cao hơn so với tỷ suất sinh lời của tài sản. Điều này chứng tỏ nếu loại trừ cấu trúc nguồn vốn (cụ thể là lãi vay phải trả) thì có thể thấy khả năng sinh lời kinh tế của tài sản là tốt. Đối với Công ty việc sử dụng vốn vay lớn trong trường hợp này là làm hiệu quả tài chính bị giảm đi và rủi ro của Công ty sẽ tăng lên. Vì vậy, nếu Công ty vay vốn (chủ yếu là vay ngắn hạn) để đầu tư vào tài sản cố định thì 100 đồng vốn vay Công ty phải trả lãi 1 đồng, trong khi đó tỷ suất sinh lời kinh tế của Công ty cao nhất mới chỉ 0,7337 đồng. Do đó, Công ty không nên sử dụng đến nguồn vốn vay này để tăng hiệu quả của Công ty mà nên sử dụng nguộn vốn chủ sở hữu.
Kết luận:
Qua các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh tổng hợp ta thấy:
+ Tuy Công ty đã cố gắng trong việc nâng cao dần tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu nhưng hiệu quả hoạt động của Công ty là tương đối thấp (chỉ đạt 0,4191 đồng lợi nhuận trước thuế trên 100 đồng doanh thu của các hoạt động)
+ Qui mô của Công ty là tương đối lớn với tài sản hơn 73 tỷ đồng, tuy vậy khả năng sinh lời từ tài sản là thấp. Điều này chứng tỏ Công ty chưa khai thác hết tiềm năng tài sản.
+ Qui mô hoạt động với tính năng động cao, chứng tỏ Công ty đang trong tư thế phát triển. Nhưng quá trình sinh lời thấp cho thấy Công ty chưa khai thác hết được tiềm năng của mình. Chính vì vậy trong thời gian sắp đến Công ty cần phải có biện pháp khai thác mọi khả năng sẵn có của mình để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
3. Phân tích hiệu quả tài chính của Công ty:
Hiệu quả tài chính được các nhà đầu tư quan tâm, đó là thái độ gìn giữ và phát triển nguồn vốn chủ sở hữu. Do vậy nghiên cứu hiệu quả tài chính của Công ty để nhằm đánh giá sự tăng trưởng của Công ty so với tổng số vốn mà Công ty thực có, đó là khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu.
3.1 Phân tích khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE):
Khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu của Công ty được thể hiện qua bảng sau:
ĐVT: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
1. Lợi nhuận sau thuế
212.168.593
92.213.266
2. VCSH bình quân
6.789.669.992
6.857.841.429
3. Tỷ suất LNST/VCSH bq
3,1207%
1,3446%
Qua số liệu trên ta thấy năm 2005 khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu đạt 3,1207% nhưng sang năm 2006 khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu của Công ty chi đạt 1,3446% giảm đi 1,7761% so với năm 2005. Để hiểu rõ nguyên nhân làm cho khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu giảm ta phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu
Gọi LN1 là lợi nhuận sau thuế năm 2006
D1 là doanh thu thuần năm 2006
TS1 là tài sản bình quân năm 2006
V1 là vốn chủ sở hữu bình quân năm 2006
LN0 là lợi nhuận sau thuế năm 2005
D0 là doanh thu thuần năm 2005
TS0 là tài sản bình quân năm 2005
V0 là vốn chủ sở hữu bình quân năm 2005
Ta có chỉ tiêu phân tích : ROE = * * * 100 (%)
Đối tượng phân tích: ∆ROE = ROE1 – ROE0
= 1,3446 – 3,1207 = - 1,7761
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu:
+ Ảnh hưởng của nhân tố khả năng sinh lời từ doanh thu:
∆ROE(Kdt) = ( - ) * * * 100 (%)
=(-)***100%
= (0,0038 - 0,0053) * 0,5135 * 11,4364 = - 0,887%
+ Ảnh hưởng của nhân tố hiệu suất sử dụng tài sản:
∆ROE(HTS) = ( - ) * * * 100 (%)
=(-)***100%
= (0,3247 - 0,5135) * 0,0038 * 11,4364 = - 0,8266%
+ Ảnh hưởng của nhân tố cân bằng tài chính:
∆ROE(CT) = ( - ) * * * 100 (%)
=(-)***100%
= (10,9792 - 11,4364 ) * 0,0038 * 0,3247 = - 0,0625%
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng:
∆ROE = ∆ROE(Kdt) + ∆ROE(HTS) + ∆ROE(CT)
= (- 0,887%) + (- 0,8266%) + (- 0,0625%) = - 1,7761%
Như vậy, khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu giảm là do ảnh hưởng của 3 nhân tố: khả năng sinh lời doanh thu, hiệu suất sử dụng tài sản và cân bằng tài chính giảm làm cho khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu năm 2006 giảm 1,7761 đồng so với năm 2005. Lợi nhuận sau thuế ở năm 2006 chỉ đạt 92.213.266 đồng tức giảm 119.955.327 đồng so với năm 2005 là do doanh thu trong năm giảm, việc khai thác sử dụng tài sản ở Công ty kém hiệu quả nên làm cho lợi nhuận trong năm giảm xuống. Bên cạnh đó, cấu trúc tài chính thay đổi cũng làm cho khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu giảm 0,0625 đồng so với năm 2005. Qua đó ta thấy tính tự chủ của Công ty đã giảm đi, hệ số nợ của Công ty tăng. Công ty chưa phát huy hết tối đa sức mạnh của đòn bẩy tài chính. Có thể thấy chỉ tiêu ROE của Công ty chịu sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Nó phụ thuộc trực tiếp vào quyết định của nhà quản lý thông qua các chính sách như: chính sách tiêu thụ, chính sách tài chính, chính sách sản xuất.
Khả năng thanh toán lãi vay (KNTTLV):
Hệ số thanh toán lãi vay cho biết khả năng thanh toán của Công ty và mức độ an toàn có thể có đối với nhà cung cấp tín dụng.
ĐVT: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
1. Lợi nhuận trước thuế
235.741.881
102.459.185
2. Chi phí lãi vay
334.738.194
221.572.433
3. KNTTLV [(3)=((1)+(2))/(2)]
1,704
1,462
Năm 2005 hệ số này là 1,704 có nghĩa là cứ 1 đồng lãi vay sẽ được đảm bảo bằng 1,704 đồng lợi nhuận tức là 1,704 đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay mà Công ty thu được thì phải trả 1 đồng lãi vay, sang năm 2006 hệ số này giảm chỉ còn 1,462. Như vậy khả năng thanh toán lãi vay của Công ty có xu hướng giảm. Ta thấy KNTTLV > 1 điều này chứng tỏ Công ty sử dụng vốn vay có hiệu quả. Lợi nhuận tạo ra từ vốn vay được sử dụng để trả nợ và tạo phần tích luỹ.
Tóm lại, hiệu quả tài chính của Công ty nhìn chung là chưa tốt bỡi vì tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu của Công ty thấp và có xu hướng giảm. Hơn nữa, với tình hình khoản nợ như hiện nay việc vay thêm đã làm cho hiệu quả tài chính của Công ty giảm và rủi ro của Công ty tăng lên.
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CẤU TRÚC TÀI CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
I. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính và hiệu quả hoạt động tại Công ty Cổ phần Xây dựng công trình 512:
1. Những thuận lợi :
- Là đơn vị kinh tế trực thuộc Tổng công ty xây dựng công trình Giao thông 5, công ty có được sự bảo trợ của Tổng công ty trong việc huy động vốn trong quá trình kinh doanh , đầu tư các dự án lớn được Tổng công ty duyệt.
- Công ty có nhiều mối quan hệ với các công ty trong nước, tạo được mối quan hệ khách hàng tốt, học hỏi được nhiều mối quan hệ trong sản xuất, công ty đã tạo được uy tín trong xây dựng nên ngày càng được khách hàng biết đến và tin tưởng. Công ty cũng xây dựng được nhiều mối quan hệ trong kinh doanh với khách hàng, đặc biệt bộ máy quản lý chặt chẽ, với tinh thần làm việc cao độ của nhân viên giúp cho hoạt động của công ty đi vào nề nếp và luôn có tinh thần trách nhiệm với khách hàng.
- Thành phố Đà Nẵng là một thành phố đang trên đường hội nhập và phát triển, do đó việc xây dựng các cơ sở hạ tầng là một điều cấp bách. Và đây chính là cơ hội thuận lợi cho công ty xây dựng các công trình có quy mô lớn.
2. Những khó khăn :
- Trong những năm gần đây do có sự khủng hoảng của nền kinh tế thị trường cũng như ảnh hưởng đến thị trường xây dựng nói chung và đến công ty nói riêng. Thêm vào đó là sự ra đời, phát triển của các công ty xây dựng trên thị trường ngày càng qui mô, mạng lưới phân bố khắp nơi. Do đó, đòi hỏi công ty phải linh hoạt trong quá trình sản xuất kinh doanh không ngừng đổi mới, hoàn thiện mình hơn nữa để tăng sức cạnh tranh.
- Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty còn thấp chủ yếu là dựa vào vốn vay nên công ty phải chịu thanh toán số nợ lãi và gốc tương đối lớn.
- Sự phân chia thị trường đối với từng loại hạng mục công trình mà các công ty có nguồn tài trợ về vốn sẽ giữ vị trí độc quyền. Có những loại nguyên vật liệu mà trong nước chưa sản xuất được phải dùng nguyên vật liẹu ngoại nhập nên giá cả phụ thuộc vào sự biến động của tỷ giá tiền đồng / đồng dollar mà công ty chưa có chức năng kinh doanh tiền tệ nên chưa chủ động trong thanh toán.
- Phạm vi ảnh hưởng của một công trình quá rộng nên việc nắm bắt và phản ánh chưa kịp thời cho bộ phận kế hoạch. Việc điều phối trong xây dựng các công trình chưa thống nhất nên dẫn đến tình trạng sử dụng và tồn kho nguyên vật liệu chưa hợp lý.
- Địa bàn Miền Trung là nơi thường xuyên diễn ra các trận mưa to và lũ lụt mà đặc điểm của hoạt động xây lắp là hoạt động ngoài trời nên việc thi công các công trình gặp nhiều khó khăn.
II. Tổ chức công tác phân tích tại công ty :
Phân tích tài chính là một đòi hỏi cấp thiết nhằm cung cấp thông tin về tình hình tài chính của Công ty cho cấp quản trị doanh nghiệp. Từ công tác phân tích này nhà quản trị sẽ biết được trạng thái Cân bằng tài chính và hiệu quả hoạt động hiện tại, từ đó có thể có các giải pháp huy động khác nhau để cải thiện tình hình tài chính của Công ty nhằm giúp cho Công ty có được trạng thái cân bằng tài chính tối ưu. Đặc biệt, đối với Công ty khi có địa bàn hoạt động rộng khắp trong cả nước thì Phân tích tài chính là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại đơn vị thì công tác phân tích của Công ty trong những năm qua chưa được chú trọng. Điều này đã làm cho nhà quản lý Công ty khó có thể biết được Công ty có trạng thái cân bằng tài chính hay không? Và hiệu quả hoạt động của Công ty như thế nào? Cũng như những biện pháp nhằm góp phần gia tăng vốn chủ sở hữu, tăng tỷ trọng tài sản.
Từ cơ sở lý thuyết ta thấy trong bộ máy quản lý thường không có những bộ phận chức năng chuyên làm tất cả các vấn đề về phân tích . Trong điều kiện đó một mặt cần kết hợp chức năng từng bộ phận để phân công trách nhiệm từng phòng, ban, bộ phận thực hiện từng công việc hoặc phần hành phân tích.
Kiểm nghiệm từ lý luận đến thực tế hoạt động tại Công ty thì thực sự trong những năm qua Công ty vẫn chưa tổ chức công tác phân tích. Ngoài các chức năng, nhiệm vụ các phòng ban của Công ty đã được xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ như vậy, theo em Công ty có thể bổ sung thêm một số nhiệm vụ để có thể hoàn thiện bộ máy tổ chức trong Công ty.
- Phòng Tài chính có nhiệm vụ phân tích các vấn đề về vốn như kế hoạch tài chính, dự toán chi phí, tình hình huy động và sử dụng vốn, đánh giá tình hình tài chính.
- Phòng kế hoạch kinh doanh có nhiệm vụ thông tin nhanh các chỉ tiêu tiến độ và chất lượng công việc hàng ngày tại các phân xưởng, đội … và từ các đơn vị kinh doanh báo lên Công ty.
- Ban lao động tiền lương có nhiệm vụ phân tích toàn bộ các vấn đề tương ứng về lao động, việc làm.
- Phòng kỹ thuật có nhiệm vụ phân tích các vấn đề về vật tư, thiết bị của Công ty .
Trình tư tiến hành công tác phân tich gồm 4 bước:
1 Lập kế hoạch phân tích :
Đây là bước quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng, thời hạn và tác dụng của phân tích. Trong kế hoạch phân tích phải xây dựng nội dung, phạm vi, thời gian tiến hành phân tích, phân công trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân và các bộ phận chức năng.
Về nội dung phân tích cần xác định rõ các vấn đề cần phân tích.
Phạm vi phân tích là toàn bộ tình hình tài chính của Công ty. Thời gian ấn định trong kế hoạch phân tích bao gồm cả thời gian chuẩn bị và thời gian tiến hành phân tích.
Việc xác định nội dung, yêu cầu phân tích (thường thể hiện qua chỉ tiêu phân tích) là điểm xuất phát quan trọng trong quá trình phân tích.
Công tác thu thập tài liệu phân tích phải đáp ứng các yêu cầu của từng cấp độ, để qua đó lựa chọn kỹ thuật phân tích phù hợp và báo cáo cho cấp quản lý kịp thời để ra quyết định.
2. Thu thập và xử lý dữ liệu:
Để phục vụ cho mục đích phân tích, cần phải tiến hành thu thập và xử lý tài liệu phân tích. Việc thu thập và xử lý tài liệu là phụ thuộc vào yêu cầu, nội dung và phạm vi của công tác phân tích. Tài liệu dùng làm công tác phân tích của Công ty bao gồm:
+ Bảng cân đối kế toán : bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính của Doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Nó được lập trên cơ sở những thứ mà doanh nghiệp có (tài sản), và những thứ mà doanh nghiệp nợ (nguồn vốn) theo nguyên tắc cân đối (tài sản bằng nguồn vốn). Đây là 1 báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp, nó được đánh giá tổng quát quy mô tính chất hoạt động và trình độ sủ dụng các nguồn lực, là cơ sở để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, trợ giúp quá trình phân tích và quyết định.
+ Báo cáo kết quả kinh doanh : trợ giúp cho các nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có thể xác định kết quả kinh doanh lỗ hay lãi.
+ Các nguồn thông tin khác : Phân tích tình hình tài chính của Công ty không chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các báo cáo khác như : Bảng chi tiết lãi lỗ tiêu thụ về sản xuất, tình hình tăng giảm tài sản cố định và các tài liệu khác về giá trị sản xuất và số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Bên cạnh đó khi phân tích hiệu quả hoạt động của Công ty ta cần phải có số liệu về chi phí lãi vay, chi phí bất biến và khả biến trong các khoản mục các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Tất cả những số liệu trên muốn có được thì cần xem chi tiết trên các sổ kế toán chi tiết tại Công ty.
Để đảm bảo tính hữu ích của các tài liệu phân tích, cần tiến hành kiểm tra các tài liệu trước khi tiến hành phân tích :
- Kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu (trình tự lập, ban hành, người lập, cấp có thẩm quyền ký duyệt)
- Kiểm tra tính chính xác của nội dung và phương pháp tính các chỉ tiêu.
- Kiểm tra cách đánh giá đối với các chỉ tiêu giá trị.
- Kiểm tra mối liên hệ giữa các tài liệu.
Việc kiểm tra tài liệu không chỉ giới hạn ở tài liệu trực tiếp, tài liệu gốc mà cả các tài liệu khác có liên quan.
Sau khi thu thập và kiểm tra, các tài liệu cần được chỉnh lí. Chỉnh lí tài liệu cần được tiến hành theo các hướng sau :
Các bảng biểu thị việc hoàn thành kế hoạch, dự toán.
Các bảng biểu thị động thái của các chỉ tiêu
-Các bảng cơ cấu phân chia các chỉ tiêu tổng hợp thành các chỉ tiêu cá biệt thành phần
- Các bảng liên hợp, kết hợp các bộ phận của các bảng khác nhau hoàn thành kế hoạch và động thái, động thái và cơ bản… Những bảng này được sử dụng rộng rãi trong phân tích kinh tế
3. Tiến hành công tác phân tích :
Công tác phân tích được tiến hành theo trình tự sau :
-Xác định đối tương phân tich : trên cơ sở mục đích và yêu cầu của phân tích mà xác định các đối tượng phân tích cụ thể. Xây dựng các chỉ tiêu kinh tế phù hợp biểu thị được tính chất và đặc điểm của đối tượng phân tích. Đánh giá mức độ biến động của chỉ tiêu cần phân tích thông qua so sánh giá trị của chỉ tiêu giữa kỳ phân tích và kỳ gốc.
+ Phân tích các chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài sản của Công ty.
+ Phân tích các chỉ tiêu phản ánh cấu trúc nguồn vốn
+ Phân tích cân bằng tài chính
+ Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty.
+ Phân tích hiệu quả hoạt động tài chính của Công ty.
+ Phân tích khả năng thanh toán
-Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng phân tích, sử dụng các phương pháp thích hợp để xác định chiều hướng và định lượng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố.
4. Viết báo cáo phân tích :
Đây thực chất là bảng tổng hợp những đánh giá cơ bản cùng những tài liệu chọn lọc để minh hoạ rút ta từ phân tích. Báo cáo phải bao gồm các kết luận về những ưu, khuyết điểm trong công tác quản lý của Công ty, những nguyên nhân cơ bản đã tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các kết quả kinh tế và cuối cùng là những biện pháp cần thiết để cải tiến công tác cũng như để động viên, khai thác khả năng tiềm tàng còn chưa được tính đến trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Trên cơ sở những kết quả của phân tích, người quản lý sẽ đề ra các quyết định quản lý. Những kết quả của phân tích thể hiện ở việc đánh giá rõ thực trạng hoạt động của đơn vị, dự toán và dự báo tiềm năng, triển vọng tương lai trên cơ sở phân tích những số liệu quá khứ. Một kết quả phân tích chính xác sẽ đưa đến quyết định hợp lý và hiệu quả cho hoạt động của Công ty.
III. Đánh giá chung về tình hình tài chính của Công ty :
Qua 3 năm, tình hình tài chính của Công ty đã có những chuyển biến phức tích cực, thể hiện qua các chỉ tiêu đã phân tích ở phần II sau :
- Khoản mục tiền và tương đương tiền có xu hướng gia tăng, thể hiện khả năng thanh toán tức thời của Công ty đang được cải thiện.
- Tuy đầu tư Ngắn hạn trong 3 năm qua chưa được chú trọng nhưng đầu tư Tài chính dài hạn tại Công ty vẫn được duy trì, đây là 1 biện pháp để góp phần làm tăng thu nhập cho Công ty mặc dù giá trị đầu tư chưa thật lớn trong cơ cấu tài sản của Công ty, nhưng cũng cho thấy được được sự linh hoạt của Công ty trong việc thấy được lợi ích từ đầu tư ra bên ngoài.
- Vốn chủ của Công ty 3 năm qua đã có những cải thiện hơ, thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của Công ty cũng được thay đổi theo tỷ lệ thuận, do đó mà Công ty cần cố gắng nổ lực hơn nữa để gia tăng nguồn này nhằm sử dụng trong thời gian dài.
Đó là những thế mạnh của Công ty được thể hiện trên Báo cáo tài chính, tuy nhiên bên cạnh đó Công ty còn gặp nhiều bất cập như :
- Với lĩnh vực hoạt động của Công ty là xây dựng cơ bản nhưng tỷ trọng TSCĐ còn rất thấp trong cơ cấu tài sản của Công ty.
- Khoản phải thu mặc dù có giảm đi nhưng vẫn chiến tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nguồn vốn của Công ty. Với nguồn vốn này lớn do đó Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề thanh toán ở tương lai gần, có thể thấy Công ty chưa thật sự chú trọng, quan tâm đến khoản phải thu dài hạn hay ngắn hạn vào hoạt động nào là hợp lý, trong khi đó thì với hình thức hoạt động của mình Công ty cần rất nhiều nguồn dài hạn để có thể phục vụ tốt hơn cho quá trình kinh doanh của mình.
- Nguồn tài trợ cho Công ty chủ yếu là đi vay, đặc biệt là nguồn nợ Ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Công ty. Với nguồn vốn này lớn do đó Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề thanh toán ở tương lai gần, có thể thấy Công ty chưa thật sự chú trọng, quan tâm đến khoản phải thu dài hạn hay ngắn hạn vào hoạt động nào là hợp lý, trong khi đó với hình thức hoạt động của mình Công ty cần rất nhiều nguồn dài hạn để có thể phục vụ tốt hơn cho quá trình kinh doanh của mình.
Nguyên nhân của sự bất hợplý này là do nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn hạn hẹp, nguồn tín dụng thương mại qua nhiều năm là các khoản vay ngắn hạn. Do đó, tính ổn định của nguồn vốn chưa cao, lại phải chịu áp lực thanh toán nặng nề.
IV. Một số biện pháp nhằm thiết lập Cấu trúc tài chính hơp lý và nâng cao Hiệu quả hoạt động tại Công ty Cổ phần xây dựng công trình 512 :
Biện pháp quản lý và tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. Ở các Doanh nghiệp, tổng số vốn lưu động và tính chất sử dụng của nó có quan hệ chặt chẽ với những chỉ tiêu công tác cơ bản của Doanh nghiệp. Nếu Doanh nghiệp đảm bảo đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất, ra sức tiết kiệm vốn, phân bổ hợp lý vốn trên các giai đoạn luân chuyển, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn thì với số vốn ít nhất có thể đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động tức là rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong lĩnh vực dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông từ đó mà giảm bớt lượng vốn lưu động bị chiếm dùng, tiết kiệm vốn lưu động trong luân chuyển.
Thông qua việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, Công ty có thể giảm bớt số vốn lưu động chiếm dung nhưng vẫn đảm bảo được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh như cũ: có thể với số vốn như cũ nhưng Công ty mở rộng được quy mô sản xuất kinh doanh mà không cần tăng thêm vốn.
Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động còn có ảnh hưởng tích cực đối với việc hạ thấp giá thành và chi phí lưu thông, tạo điều kiện cho Công ty có đủ vốn thoả mãn nhu cầu sản xuất và hoàn thành nghĩa vụ nộp các khoản phải nộp cho Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong nước.
Muốn tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động cần phải thực hiện các biện pháp sau:
- Tăng tốc độ luân chuyển vốn trong khâu dự trữ sản xuất bằng cách: chọn điểm cung cấp hợp lý để rút ngắn số ngày hàng đi trên đường, số ngày cung cấp cách nhau, căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động đã xác định và tình hình cung cấp vật tư tổ chứchợp lý việc mua sắm, dự trữ vật liệu nhằm rút bớt số lượng dự trữ luân chuyển thường ngày, kịp thời phát hiện và giải quyết những vật tư ứ đọng để giảm vốn ở khâu này.
- Áp dụng công nghệ hiện đại để rút ngắn chu kỳ sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, để giảm vốn lưu động.
- Tăng tốc độ luân chuyển vốn trong khâu lưu thông bằng cách nâng cao chất lượng công trình. Đồng thời theo dõi tình hình thanh toán nhằm rút ngắn số ngày xuất vận và thanh toán để thu tiền kịp thời, tăng nhanh tốc độ luân chuyển ở khâu này. Cụ thể:
1.1 Biện pháp quản lý vốn bằng tiền :
Vốn bằng tiền là một trong những chỉ tiêu cấu thành của vốn lưu động, bản thân luôn chứa đựng hai mặt đó là tính sinh lời và rủi ro. Nó ngày càng chiếm nhiều công sức và thời gian của các nhà quản trị, các Giám đốc tài chính. Nói rộng ra sự tồn vong của Công ty ngày một lệ thuộc rất nhiều vào tiền tệ. Cụ thể là kiểm soát tình hình lưu chuyển tiền tại Công ty.
Việc quản lý tốt khoản mục vốn bằng tiền nhằm mục đích xác định một cách chính xác lượng tiền thích hợp phát sinh trong quá trình kinh doanh của Công ty nhằm tránh rủi ro và nhàn rỗi của chúng, có thể xác định về khả năng thanh toán tức thời mà Công ty đạt được để từ đó mà có kế hoạch chi tiêu cho phù hợp.
Với những mục đích đã nêu ở trên thì vấn đề đặt ra đối với Công ty là cần bao nhiêu vốn bằng tiền là vừa đủ. Muốn vậy Công ty cần phải dự toán chính xác kế hoạch thu - chi tiền tệ cho từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh và với mức độ nào thì cần bao nhiêu tiền vào thời điểm nào.
ĐVT:đồng
Chỉ tiêu
Đầu năm 2006
Cuối năm 2006
Vốn bằng tiền
3.007.882.135
4.715.016.046
Qua chỉ tiêu này ta thấy lượng tiền tại Công ty có xu hướng tăng lên nhưng điều này cũng cho thấy dù tiền của Công ty có tăng lên nhưng khả năng thanh toán tức thời của Công ty vẫn thấp chỉ đạt 9.08% vào cuối năm do đó Công ty cần phải dự toán lại lượng tiền cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình.
Vì vậy, để có thể cải thiện tình hình như hiện nay và cho những năm tới, theo em Công ty có thể xem xét 1 số biện pháp như sau:
- Tăng thêm tiền để đảm bảo an toàn cho luồng tiền phát sinh.
- Việc dự trữ tiền để trang trải cho nhà cung cấp nhằm được hưởng những khoản chiét khấu thì Công ty cũng cần phải xem xét giữa chi phí nhận được và chi phí trong khi đi vay tiền.
Để có thể tiết kiệm chi phí sử dụng vốn, Công ty có thể tăng cường tìm kiếm nhà cung cấp theo phương thức trả chậm hoặc các khoản chiếm dụng đúng luật khác.
1.2 Quản lý khoản phải thu để hướng đến Cân bằng tài chính trong ngắn hạn :
Khoản phải thu là một phần tài sản trong vốn lưư độn của Công ty và tình hình biến động của khoản phải thu có liên quan đến nhu cầu vốn lưư động ròng, khi khoản phải thu giảm thì nó sẽ làm cho nhu cầu vốn lưu động ròng giảm, từ đó cân bằng tài chính được cải thiện. Cho nên việc quản lý tốt công tác thu hồi nợ là một giải pháp rất cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưư động. Do đó, để quản lý tốt khoản phải thu ta đi xây dựng 1 số biện pháp như sau :
1.2.1 Một số biện pháp thu hồi công nợ:
Từ kết quả tìm hiểu và phân tích ở phần II, ta thấy khoản phải thu trong đó chủ yếu là khoản phải thu khách hàng mặc dù có xu hướng giảm trong 3 năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Công ty :
CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH KỲ HẠN THU TIỀN CỦA CÔNG TY
ĐVT:đồng
Chỉ tiêu KPTKH
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
1. DTT bán chịu BH&CCDV
32.455.863.840
23.880.680.424
19.032.834.073
2.VAT đầu ra tương ứng (10%)
3.245.586.384
2.388.068.042
1.903.283.467
3. Khoản PTKH bình quân
28.168.272.132
21.456.757.548,5
4. Số vòng quay KPTKH (vòng)
0,93
0,98
5. Số ngày vòng quay KPTKH (vòng)
387
367
Số vòng quay khoản phải thu khách hàng qua 2 năm có chiều hướng đi lên từ năm 2005 với 387 ngày thì số vòng quay khách hàng quay được 0,93 vòng. Sang đến cuối năm 2006 thì với 367 ngày quay được 0,98 vòng. Điều này cho thấy tuy tốc độ hoán chuyển thành tiền của Công ty có tăng nhưng vẫn thấp. Nó thể hiện vốn cuả Công ty bị chiếm dụng, bị ứ đọng , có thể xem đây là nguồn vốn bị đông cứng của Công ty do đó mà sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.
Vì vậy, Công ty cần phải có những biện pháp để có thể thúc đẩy công tác thu hồi nợ. Khi mà khoản phải thu khách hàng này thu hồi được nợ thì nó sẽ trang trải được một phần cho những khoản nợ ngắn hạn phát sinh trong quá trình kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ và cải thiện cân bằng tài chính trong ngắn hạn và ngân quỹ ròng qua 3 năm luôn mang giá trị âm. Chính vì vậy, đôn đốc thu hồi nợ là nhiệm vụ cấp thiết nhất hiện nay để có thể đưa Công ty đạt trạng thái Cân bằng tài chính trong ngắn hạn.
Để giúp Công ty có thể nhanh chóng thu hồi các khoản khách hàng nợ, hạn chế việc phát sinh các chi phí không cần thiết, Công ty có thể xem xét một số biện pháp sau:
- Phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài Công ty, thường xuyên đôn đốc để thu hồi đúng hạn.
- Có biện pháp ngăn ngừa rủi ro không được thanh toán, lựa chọn khách hàng, giới hạn giá trị tín dụng, yêu cầu đặt cọc, tạm ứng hay trả trước một phần giá trị công trình.
- Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng, nếu vượt thời gian thanh toán theo hợp đồng thì Công ty được thu lãi suất tương ứng như lãi suất quá hạn của Ngân hàng.
- Công ty có thể tổ chức một bộ phận chuyên đánh giá khách hàng trước khi nhận thầu công trình và theo dõi thu hồi nợ. Do hoạt động mang tính chuyên nghiệp và trải qua kinh nghiệm nên hiệu suất thu hồi nợ dần dần có thể được nâng cao trong khi chi phí thu hồi nợ có thể giảm. Ngoài ra Công ty có thể sử dụng dịch vụ bao thanh toán trong trường hợp địa bàn thu hồi nợ quá rộng hoặc số lượng khách hàng lớn khiến cho chi phí thu hồi nợ riêng lẽ quá cao. Đây là nghiệp vụ mà theo đó Công ty sẽ bán lại những khoản phải thu cho một Công ty chuyên môn hoá việc thu hồi nợ nên sau khi mua lại các khoản nợ, Công ty mua nợ có thể nâng cao được hiệu suất thu hồi nợ và giảm chi phí thu hồi nợ nhờ lợi thế về quy mô. Như vậy, Công ty khỏi bận tâm đến việc thu hồi nợ mà chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc quyết định có sử dụng dịch vụ bao thanh toán hay không liên quan đến việc so sánh giữa việc thu hồi nguyên giá một khoản phải thu ngay ở hiện tại một số tiền bằng nguyên giá khoản phải thu trừ đi chi phí bao thanh toán.
Trong cơ cấu doanh thu thì ngoài khối lượng xây lắp đã nghiệm thu thì còn có những sản phẩm xây lắp mà Công ty làm ra như: đá, thép, bê tông nhựa,... và những sản phẩm này chiếm một tỷ trọng chưa lớn trong cơ cấu doanh thu. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển và hiện nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng mới được thành lập, ta có thể coi đây là lượng khách hàng tiềm năng trong tương lai của Công ty, vì vậy Công ty cần phải xây dựng chính sách bán hàng cho lượng khách hàng này.
Để thu hút lượng khách hàng này và kích thích họ trả tiền sớm hơn thời định, theo em Công ty cần phải xây dựng và áp dụng chính sách chiết khấu trong bán hàng. Thông qua 1 tỷ lệ chiết khấu phù hợp, Công ty sẽ rút ngắn được thời gian thu hồi nợ, qua đó sẽ giảm được việc đi vay ngắn hạn Ngân hàng, giúp cho Công ty chủ động trong việc hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều kiện để khách hành chấp nhận chiết khấu là lợi nhuận thu được từ chiết khấu lớn hơn chi phí cơ hội đối với số vốn dư thừa của khách hàng và cơ sở để Công ty đưa ra mức chiết khấu là chi phí chiết khấu bỏ ra nhỏ hơn chi phí cơ hội của Công ty.
1.2.2 Quản lý khoản phải thu khách hàng :
Trong quá trình sản xuất kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau thường tồn tại một khoản vốn trong quá trình thanh toán đó là khoản phải thu và khoản phải trả, ở đây ta đề cập đến khoản phải thu. Khi phát sinh quan hệ thương mại mua bán theo hợp đồng đã ký kết thì không phải lúc nào Công ty cũng thu đủ và đúng hạn những khoản nợ đó. Do đó, để có thể quản lý tốt công tác thu hồi nợ của mình Công ty có thể lập Báo cáo nội bộ theo mẫu sau :
Chỉ tiêu
Đầu kỳ
Phát sinh trong kỳ
Cuối kỳ
Số nợ mất khả năng thanh toán
Tổng cộng
Nợ quá hạn
Tăng
Giảm
Tổng cộng
Nợ quá hạn
Khách hàng
Thông qua bảng báo cáo này, ta có thể biết được khoản nợ nào đã trả, khoản nợ nào chưa trả và khoản nợ nào đã quá hạn. Từ đó Công ty có căn cứ để lập kế hoạch xử lý đối với những khoản nợ quá hạn như : thực hiện chính sách tạm ứng, ngừng cung cấp hàng hoá cho họ. Khi họ chưa thanh toán xong nợ cũ, tiến hành các thủ tục pháp lý để tiến hành đòi nợ, có thể căn cứ vào những điều kiện ràng buộc giữa hai bên khi ký kết hợp đồng. Riêng đối với những khoản nợ đến hạn thì Công ty có thể gửi thư nhắc nhở khách hàng trả đúng nợ để nhằm tránh tình trạng khách hàng chai lỳ nợ.
Về nguyên tắc, thủ tục đòi nợ của Công ty phải vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, phải nhắc nhở khách hàng về các mối quan hệ giữa đôi bên bao giờ cũng có hiệu quả lâu bền. Con đường thông qua pháp luật là con đường cuối cùng và chấm dứt.
Và việc đòi nợ sẽ có tác dụng khi chi phí đòi nợ chưa vượt quá giá trị bằng tiền có thể thu hồi được từ các khoản nợ. Thời hạn quy định cho phép thủ tục đòi nợ sẽ ngắn nếu các khoản nợ nhỏ và dài nếu các khoản nợ lớn. Khi vượt quá thời hạn này thì sẽ được ghi vào khoản nợ khó đòi.
1.3 Các biện pháp quản lý và sử dụng hàng tồn kho
Đây là công việc khá quan trọng, bởi lẽ giá trị hàng tồn kho chiếm tỷ trọng tương đối lớn chỉ sau khoản phải thu. Mục tiêu chính của nhà quản lý hàng tồn kho là kiểm soát và đầu tư vào tồn kho như thế nào để sao cho có hiệu quả nhất và yếu tố quyết định đến tồn kho của Công ty là khối lượng xây lắp trong kỳ và thời gian hoàn thành khối lượng xây lắp.
Việc hàng tồn kho giảm sẽ làm cho lượng vốn lưu động tồn đọng ít, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, nhưng nếu lượng tồn kho nguyên vật liệu quá ít thì sẽ không đảm bảo cho quá trình thi công của Công ty. Đảm bảo nguyên vật liệu thi công có nghĩa là phải cung cấp nguyên vật liệu kịp thời đủ về số lượng và đúng về chủng loại, không thừa để tránh tình trạng ứ đọng vốn và không thiếu để dẫn đến phải ngừng thi công. Do đặc thù của ngành xây dựng mà quá trình thi công được tiến hành trên những địa điểm khác nhau, sản phẩm mang tính đơn chiếc... vì vậy, việc phân tích tình hình cung cấp nguyên vật liệu được tiến hành thích ứng theo từng công trình hoặc hạng mục công trình.
Việc xác định khối lượng và vật liệu mua vào nhiều hay ít ảnh hưởng đến việc thi công, cũng như tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty. Do đó, Công ty cũng cần phải thường xuyên tiến hành kiểm tra kế hoạch cung ứng vật liệu có phù hợp với nhu cầu sản xuất không? Nhu cầu mua nguyên vât liệu phụ thuộc vào khả năng sản xuất, sự dồi dào về nguyên vật liệu trên thi trường, khoảng cách từ nguồn cung ứng đến nơi thi công, dự toán và tình hình thực hiện khối lưọng xây lắp đối với từng công trình hay hạng mục công trình, và việc xác định này cần phải tính toán cho từng loại vật liệu.
Sau đó Công ty tiến hành so sánh khối lượng từng loại vật liệu mua vào giữa thực tế với dự toán, và kết quả so sánh này có thể dẫn đến một trong ba trường hợp:
Kg > 0: Vật liệu còn tồn kho, nếu quá lớn sẽ gây ứ đọng vốn.
Kg = 0: Vật liệu mua vào vừa đủ cho thi công.
Kg <0: Thiếu vật liệu cho thi công, điều này sẽ dẫn đến tình trạng ngừng thi công.
Do vậy, việc sử dụng vật liệu nhiều hay ít phụ thuộc vào kết quả thi công, nên ta cần phải so sánh đối chiếu giữa khối lượng thi công và khối lượng dự toán, từ đó mới đề ra việc cung ứng vật liệu cho thi công.
Tại Công ty, khi mà các xí nghiệp, đội xây lắp muốn ứng vật liệu để thi công thì kế toán cần phải xem xét, đối chiếu xem đội đó đã ứng vật liệu chưa, và tổng mức vật liệu phải hoặc bằng so với dự toán công trình mà đội đó nhận và nếu lớn hơn so với dự toán thì không cấp vật liệu cho đội thi công.
Ngoài ra để phân tích mức độ đảm bảo nguyên vật liệu cho thi công, ta cần sử dụng chỉ tiêu số ngày còn đủ vật liệu cho thi công (Nd)
Vc
Nđ =
Mt
Trong đó : Nđ Số ngày còn đủ vạt liệu cho thi công
Vc Số vật liệu hiện còn
Mt Mức tiêu hao vật liệu bình quân một ngày
Bằng cách so sánh khoảng cách giữa 2 lần cung cấp cách nhau với số ngày còn đủ vật liệu cho sản xuất, sẽ xác định và đánh giá một cách đúng đắn và chính xác ảnh hưởng của việc cung cấp vật liệu đến tình hình sản xuất và sử dụng vốn lưu động trong Công ty.
Bên cạnh đó, do quá trình sản xuất trong xây dựng cơ bản thường được tiến hành ngoài trời. Vì vậy, việc bảo quản và vận chuyển nguyên vật liệu ảnh hưởng lớn đến chi phí nguyên vật liệu tính vào giá thành sản phẩm xây lắp làm giá thành sản phẩm xây lắp tăng, giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
2. Xác định tỷ suất nợ phù hợp và xác định nguồn vốn :
Như ở phần II đã phân tích, ở Công ty hiện nay tỷ lệ nợ ngắn hạn chủ yếu là đi vay, với những nguồn này buộc Công ty phải thanh toán trong thời gian ngắn, mặt khác vốn chủ sở hữu trong Công ty có tăng nhưng chưa đủ để bù đắp các khoản nợ phải trả. Do đó, xác định 1 cơ cấu / 1 tỷ lệ nợ phù hợp là đòi hỏi cấp thiết.
Qua phân tích ta thấy nợ phải trả quá lớn so với khả năng tự có về tài chính của Công ty. Điều này cho thấy khả năng tự chủ của Công ty hiện nay không được tốt. Trong khi đó, Tỷ suất nợ dài hạn / Vốn chủ sở hữu chỉ bằng 0,2 chứng tỏ trong nguồn vốn thường xuyên chủ yếu được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, điều đó cũng cho thấy trong tổng nợ phải trả thì nợ ngắn hạn chiếm phần lớn giá trị. Do đó, việc duy trì một tỷ suất nợ như hiện nay sẽ gây khó khăn cho việc tiếp nhận các khoản vay tiếp theo của Công ty. Vì vậy, Công ty cần phải nhanh chóng điều chỉnh kịp thời để thiết lập 1 cấu trúc nợ cho phù hợp để cải thiện tình hình trên.
Vì vậy, Công ty có thể điều chỉnh các tỷ suất nợ như sau :
- Trước hết, ta cần so sánh giữa tổng nợ với vốn chủ sở hữu, thông thường tổng nợ không được vượt quá 2 lần vốn chủ sở hữu. Nếu tổng nợ vượt quá mức này Công ty sẽ bị lệ thuôc quá nhiều vào các chủ nợ và có nguy cơ mất quyền tự chủ của mình.
- Tiếp theo là Tỷ suất nợ dài hạn / Vốn chủ sở hữu, điều kiện để Công ty vẫn đảm bảo sự an toàn về mặt tài chính là tổng nợ dài hạn phải nhỏ hơn hoặc lớn nhất là bằng vốn chủ sở hữu. Hơn nữa, việc duy trì một tỷ suất nợ hợp lý sẽ có thể thu hút được các nhà đầu tư khác trong tương lai.
Sau khi đã xác định 2 chỉ tiêu trên, căn cứ vào dự án đầu tư trong năm tới, Công ty xây dựng chính sách huy động vốn cho hợp lý, đảm bảo chi phí sử dụng vốn thấp nhất.
Sau khi đã xác định được tỷ suất nợ phù hợp thì Công ty có thể xác định nguồn vốn tài trợ cho mình để Công ty có thể thuận tiện hơn trong quá trình kinh doanh của mình. Hai yếu tố cấu thành nên vốn của Công ty bao gồm: Vốn chủ sở hữu và nợ, mỗi bộ phận được cấu thành bỡi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, có rất nhiều phương thức huy động vốn khác nhau để Công ty có thể lựa chọn. Song chung quy chúng được biểu hiện cụ thể thành 2 nhóm chính đó là: Nguồn vốn nội bộ và nguồn vốn bên ngoài. Ở đây ta chỉ xét đến nguồn vốn nội bộ chứ với nguồn vốn bên ngoài thì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà Công ty cần phải hướng đến. Do đó, theo em hiện nay Công ty có thể huy động từ nguồn vốn nội bộ này vì nó có thể giảm được chi phí sử dụng vốn, giảm sự phụ thuộc từ bên ngoài.
3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định :
Qua phân tích cấu trúc tài chính của Công ty, ta thấy cân bằng tài chính dài hạn của Công ty có chuyển biến theo xu hướng tích cực hơn. Với vốn lưu động ròng luôn đạt giá trị dương, như vậy không chỉ có tài sản cố định của Công ty được tài trợ bằng nguồn dài hạn mà còn tài trợ 1 phần tài sản ngắn hạn, tuy nhiên vấn đề này cũng không tốt khi mà Công ty dùng nguồn vay dài hạn để đầu tư cho tài sản ngắn hạn, chính vì vậy việc sử dụng vốn của Công ty chưa cao, gây lãng phí trong việc sủ dụng vốn của mình. Tuy nhiên, tài sản cố định của Công ty qua 3 năm lại có xu hướng giảm xuống và chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu tài sản của Công ty. Điều này có ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của Công ty vì với lĩnh vực của mình thì Công ty cần rất nhiều tài sản cố định để nhằm phục vụ tốt nhất cho quá trình kinh doanh của mình.
Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật, là yếu tố chính thể hiện năng lực sản xuất của Công ty. Mặt khác, giá trị còn lại của tài sản cố định thể hiện một lượng vốn đang đầu tư vào sản xuất kinh doanh luôn đòi hỏi phải được sử dụng với hiệu quả cao. Thể hiện của đòi hỏi này là tài sản cố định phải được bố trí với cơ cấu hợp lý, thời gian hoạt động cũng như năng lực của tài sản cố định phải được huy động tới mức tối đa nhằm không ngừng tăng sản lượng, tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm góp phần tăng sức cạnh tranh để đạt mục tiêu doanh thu và lợi nhuận của Công ty.
Những vấn đề đặt ra về tài sản cố định là như vậy, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp quản lý tài sản cố định, trong đó phân tích tài sản cố định cũng là biện pháp quan trọng. Qua phân tích sẽ chỉ ra những ưu điểm và tồn tại trong trang bị và sử dụng tài sản cố định của Công ty.
Mặt khác, ta thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định là mục đích của việc trang bị tài sản cố định trong các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định chính là kết quả của việc cải tiến tổ chức lao động và tổ chức sản xuất, hoàn chỉnh kết cấu tài sản cố định, hoàn thiện những khâu yếu hoặc lạc hậu của quy trình công nghệ, đồng thời sử dụng có hiệu quả tài sản cố định hiện có là biện pháp tốt nhất sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
Việc phân tich tình hình sử dụng tài sản cố định qua chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định nhằm đánh giá tình trạng quản lý, sử dụng tài sản cố định của Công ty hiện nay là tốt hay xấu, có ảnh hưởng như thế nào đến cân bằng tài chính của Công ty. Từ đó tìm ra nguyên nhân có liên quan, làm cơ sở cho các biện pháp cải thiện công tác quản lý tài sản cố định đảm bảo hiệu suất sử dụng ngày càng cao.
DTTBH&CCDV + DTHĐTC + TN khác
Hiệu suất sử dụng =
TSCĐ Nguyên giá TSCĐ bình quân
Qua chỉ tiêu trên ta thấy, hiệu quả sử dụng tài sản cố định tăng dẫn đến doanh thu hoạt động kinh doanh tăng theo tỷ lệ thuận. Khi doanh thu hoạt động kinh doanh tăng thì nó sẽ làm cho lợi nhuận của Công ty cũng tăng lên. Chính sự tăng lên của lợi nhuận này sẽ là cơ sở cho viêc bổ sung thêm vốn chủ, là một yếu tố chính cấu thành nên nguồn vốn thường xuyên và làm nguồn vốn thường xuyên tăng lên. Từ đó cân bằng tài chính của Công ty ngày càng được cải thiện.
BẢNG TÍNH HIỆU SUẤT SỬ DỤNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
ĐVT:đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
1. DTT hoạt động kinh doanh
39.926.697.574
24.445.653.341
2. Nguyên giá TSCĐ bình quân
6.437.130.876
4.866.558.944,5
3. Hiệu suất sử dụng TSCĐ
6,2027%
5,02332%
Ta thấy trong 2 năm qua hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty có chiều hướng giảm. Bên cạnh đó, doanh thu thuần hoạt động kinh doanh của Công ty cũng giảm xuống. Đây là tín hiệu xấu đối với Công ty, Công ty sẽ gặp khó khăn trong việc bổ sung thêm vốn kinh doanh của mình cũng như việc trang bị các tài sản và các chi phí khác nói chung và tài sản cố định nói riêng.
Tuy nhiên, để có thể nhận xét chính xác về thực trạng tài sản cố định tại Công ty, trước hết ta đi đánh giá tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định tại Công ty năm 2005 thông qua chỉ tiêu hệ số hao mòn tài sản cố định.
Hao mòn là nhân tố cơ bản làm thay đổi hiện tranggj của tài sản cố định. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định sẽ hao mòn dần và đến một lúc nào đó sẽ không còn sử dụng được nữa. Mặt khác, quá tình hao mòn tài sản cố định diễn ra đồng thời với quá trình sản xuất , kinh doanh. Nghĩa là sản xuất cần khẩn trương bao nhiêu thì hao mòn càng nhanh bấy nhiêu. Bỡi vậy, việc phân tích tình trạng kỹ thuật tài sản cố định của tài sản cố định là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm đánh giá đúng mức tài sản cố định của Công ty đang sử dụng còn mới hay cũ hoặc mới, cũ ở mức nào, có biện pháp đúng đắn để tái sản xuất tài sản cố định. Từ cơ sở lý luận này ta có bảng đánh giá thực trạng tài sản cố định tại Công ty như sau:
BẢNG ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TSCĐ TẠI CÔNG TY
ĐVT: đồng
Chỉ tiêu
Số đầu năm
Số cuối năm
1. Nguyên giá TSCĐ
31.281.309.775
28.324.488.949
2. Tổng mức khấu hao TSCĐ
26.567.014.121
25.177.961.308
3. Hệ số hao mòn (%)
84,93
88,89
Qua bảng phân tích trên ta thấy, cơ cấu tài sản cố định của Công ty cũ và giá trị hao mòn chiếm phần lớn trong tổng giá trị tài sản cố định của Công ty. Vào đầu năm hệ số hao mòn đã là 84,93% nhưng đến cuối năm 2006 hệ số này không những không được cải thiện mà trái lại nó càng tăng lên với con số là 88,89%. Hệ số hao mòn tài sản cố định của Công ty quá cao chứng tỏ tài sản cố định của Công ty cũng ngày càng cũ đi. Mặc dù trong những năm qua Công ty cũng có những đầu tư tài sản cố định nhưng số đầu tư tương đối nhỏ trong khi tài sản cố định cũ đi càng nhiều. Ngoài ra, do trình độ tay nghề của công nhân sản xuất chưa nắm bắt kịp thời tốc độ làm việc của công nghệ mới. Do đó, một số máy móc chưa phát huy hiết hiệu quả năng suất của nó, dẫn đến tình trạng sử dụng tài sản cố định một cách lãng phí trong sản xuất. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản cố định tại Công ty.
Như vậy, qua vấn đề phân tích trên Công ty cần có những biện pháp như:
- Đối với những máy móc quá cũ, không còn phù hợp cho sản xuất, tức là những tài sản cố định đã khấu hao hết và không còn sử dụng được nữa thì Công ty nên có kế hoạch thanh lý hoặc nhượng bán tài sản cố định nhằm quay vòng vốn để có thể mua mới hoặc thuê tài chính để bù vào những tài sản cố định đã được thanh lý này. Với những tài sản cố định mới nó sẽ thúc đẩy nhanh quá trình kinh doanh của Công ty nhằm làm giảm thời gian thi công.
- Đồng thời với việc đầu tư mua sắm mới tài sản cố định thì Công ty cũng nên chú trọng công tác đào tạo cho công nhân để nâng cao tay nghề cho phù hợp với công nghệ mới. Có như vậy mới tận dụng và khai thác hết tiềm năng sản xuất, naang cao năng suất lao động.
Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến công tác quản lý tài sản cố định, thường xuyên bảo dưỡng định kỳ , cũng như sữa chữa kịp thời những hư hỏng để không làm giảm công suất làm việc của nó. Đồng thời phân công trách nhiệm của những người có liên quan nếu có sự mất mát.
4. Biện pháp giảm thấp chi phí kình doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động tại Công ty:
Chi phí kinh doanh là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Nếu chi phí kinh doanh càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng thấp. Vì vây, phấn đấu giảm chi phí kinh doanh là hết sức cần thiết.
Trước hết, bộ phận chi phí lớn nhất trong kinh doanh đó là giá vốn hàng bán bao gồm: giá mua xi măng, sắt thép, cát sạn, chi phí vận chuyển bốc xếp, chi phí sử dụnh máy thi công, chi phí chạy máy thi công…Đây là khoản chi phí mà Công ty cần hạ thấp để tăng lợi nhuận. Nhưng do đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp là nguyên vật liệu giao thẳng không nhập kho, đồng thời các công trình thi công có thời gian thi công dài trong thời gian thi công xây dựng chưa tạo ra sản phẩm nhưng sử dụng nhiều vật tư, nhân lực của xã hội. Do đó khi lập kế hoạch cần cân nhắc, thận trọng, nêu rõ các yêu cầu về vật tư, tiền vốn nhân công. Việc quản lý theo dõi quá trình sản xuất thi công phải chặt chẽ, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm, đảm bảo chất lượng thi công công trình, theo dõi chặt chẽ chi phí phát sinh để nâng cao hơn nữa lợi nhuận kinh doanh của Công ty trong năm tới. Tuy rằng, sự gia tăng doanh thu bao giờ cũng kéo theo sự gia tăng về các khoản chi phí phát sinh, nhưng Công ty cũng cần quan tâm đến vấn đề tiết kiệm giảm thiểu các khoản chi phí không cần thiết để đảm bảo tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu. Muốn làm được như vậy thì Công ty phải nổ lực hơn nữa trong việc quản lý tốt chi phí cụ thể là:
- Công ty nên duyệt các khoản chi phí hợp lý, tránh lãng phí các khoản chi phí không cần thiết. Cần tiết kiệm hơn chi phí văn phòng, chi phí dịch vụ mua ngoài…vì các khoản chi phí này chiểm tỷ trọng tương đối lớn trong chi phí quản lý doanh nghiệp nếu quản lý không tốt sẽ gây lãng phí vốn của Công ty.
- Để quản lý chi phí quản lý một cách có hiệu quả ta cần định mức từng loại chi phí quản lý bằng bao nhiêu phần trăm so với doanh thu. tức là phải quy định một đồng doanh thu thì chỉ được bao nhiêu đồng chi phí quản lý doanh nghiệp.
Định mức chi phí = Tỷ lệ % * Doanh thu
QLDN định mức hoạt động
Như vậy, sẽ kiểm soát được chi phí này. Nếu phát sinh vượt quá định mức cho phép sẽ đề nghị các phòng ban, cá nhân vi phạm chịu mức chi phí vượt định mức trên.
- Để đạt được kết quả mong muốn, vấn đề đặt ra cho Công ty là phải thực hiện doanh thu cho phù hợp với chi phí của toàn Công ty để đảm bảo một mức lợi nhuận mong muốn. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là tăng doanh thu, lợi nhuận và giảm chi phí kinh doanh mà còn phải chí trọng đến tốc độ tăng giảm của chúng để tăng hệ số vòng quay của tài sản và tỷ suất lợi nhuận của tài sản thì tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận trước thuế phải lớn hơn tốc độ tăng của tài sản.
Tóm lại, tất cả các vấn đề đã được đưa ra trên đây chủ yếu xoay quanh các yếu tố đầu ra (doanh thu, lợi nhuận) và các yếu tố đầu vào (chi phí quản lý, chi phí bán hàng, giá vốn…) của Công ty mà cụ thể là tối thiểu các chi phí đầu vào và tối thiểu các yếu tố đầu ra để nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong tương lai.
KẾT LUẬN
ef
Trong thời gian thực tập nhờ sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của Ths. Nguyễn Thị Hoài Thương cũng như các cô chú, anh, chị phòng kế toán của Công ty đã giúp em hoàn thành đề tài này. Tuy nhiên, với sự hạn chế về thời gian và trình độ nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự thông cảm và góp ý của thầy, cô cũng như các anh, chị phòng kế toán của Công ty.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần xây dựng công trình 512, bằng sự kết hợp giữa lý luận và thực tế đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm thiết lập cấu trúc tài chính hợp lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn giảng viên hướng dẫn và các cô chú, anh chi phòng kế toán của công ty đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Đà Nẵng, tháng 6- 2007
Sinh viên thưc hiện
Huỳnh thị Tuyết My
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phân tích hoạt động kinh doanh phần I - ThS. Ngô Hà Tấn
Phân tích hoạt động kinh doanh phần II - Đại học Đà Nẵng
Tài chính doanh nghiệp - ThS. Nguyễn Minh Kìều
Một số tài liệu khác
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18047.doc