UBND tỉnh cần quan tâm đến công tác qui hoạch mời gọi các nhà đầu tư, xây
dựng các khu kinh tế tập trung, định hướng phát triển kinh tế phù hợp với thực tế thị
trường. Để tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân trong tỉnh An Giang để họ có thu
nhập ổn định mà có thể tiếp xúc với tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang. Làm cho
Ngân hàng có nhiều khách hàng tiêu dùng để mở rộng thị phần tiêu dùng trong tỉnh An
Giang.
Đề nghị UBND tỉnh cần tính toán lại cho phù hợp hơn để đưa mức quy định về giá
trị đất, nhà ở cho sát với giá thị trường. Điều này không những giúp cho Ngân hàng có
cơ sở đầu tư, mà người dân cũng có cơ hội vay được nhiều vốn hơn, không phải đi vay
bên ngoài với lãi suất cao mang lại hiệu quả đầu tư cao hơn cho người dân. Đặc biệt khi
giá trị tài sản được tính đúng, tính đủ sẽ giúp tăng thêm nguồn thu đáng kể hằng năm
cho nhà nước.
Đề nghị các phòng chuyên đề quan tâm, hỗ trợ Ngân hàng trong việc tháo gỡ
vướng mắc từ cơ sở kịp thời hơn.
Đề nghị UBND chỉ đạo các ngành, các cấp tích cực phối hợp với ngân hàng trong
việc xử lý nợ, thu hồi nợ. Đồng thời chỉ đạo các cơ quan pháp luật xử lý mạnh những
trường hợp đã khởi kiện; đối với trường hợp Toà đã xử, án đã có hiệu lực chỉ đạo cơ
quan thi hành án thi hành triệt để.
85 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 873 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đây cho thấy, Ngân hàng
sử dụng vốn huy động chưa hiệu quả và đang ở mức tương đối thấp, đặc biệt là năm
2007. Nguyên nhân thứ nhất làm cho vòng quay vốn tín dụng giảm vào năm 2007 là do
cán bộ công nhân viên chức đi vay để tiêu dùng không trả nợ đúng hạn, một phần do
cán bộ tín dụng nắm bắt và phân tích tình hình kinh tế - xã hội còn hạn chế. Thứ hai là
do có những món vay phương tiện và nhà ở thì thời hạn món vay thường là năm năm
nên việc thu hồi nợ không giống như cho vay ngắn hạn thường là một năm nên việc thu
nợ không như mong muốn. Cho nên làm cho vòng quay vốn giảm. Nhưng đến năm
2008 tăng lên do nguyên nhân thứ nhất là ngân hàng khắc phục được yếu kém trong quá
trình thu nợ và huy động vốn. Đồng thời quyết tâm thực hiện thu nợ đúng chỉ tiêu đã đề
ra. Thứ hai là do tốc độ tăng của doanh số thu nợ nhanh hơn tốc độ tăng của dư nợ bình
quân. Vòng quay vốn tín dụng ngày càng nhanh biểu hiện sự tích cực sử dụng vốn của
Ngân hàng. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đang hoạt động có hiệu quả.
d) Dư nợ trên vốn huy động.
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu đồng vốn huy động tham gia vào dư nợ, nó còn
thể hiên khả năng huy động vốn tại địa phương của ngân hàng. Nếu chỉ số này càng lớn
thì vốn huy động của ngân hàng chưa tốt. Nếu chỉ số này của ngân hàng nhỏ thì ngân
hàng sử dụng vốn huy động chưa hiệu quả.
Qua bảng số liệu cho thấy, chỉ số này tại Ngân hàng năm 2006 là 0,29 lần, năm
2007 giảm còn 0,24 lần (giảm 0,05 lần so với năm 2006), sang năm 2008 chỉ số này
giảm còn 0,12 lần (giảm 0,12 lần so với năm 2008).
Chỉ số này tại Ngân hàng cho thấy sử dụng vốn huy động chưa hiệu quả. Nguyên
nhân thứ nhất làm chỉ số dư nợ trên vốn huy động giảm là do hai năm gần đây ngân
hàng huy động lãi suất cao cho nên vốn huy động cũng cao. Trong khi vốn huy động
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 54
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
cao thì ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp để tiến hành cho vay bằng cách đa dạng hóa
phương thức cho vay và sản phẩm cho vay. Nhưng lai nghịch lý là số lượng người vay
lại tăng ít, số tiền vay có tăng lên nhưng không đáng kể và một số người không dám vay
nhiều loại hình mới của ngân hàng bởi một nguyên nhân đó là lãi suất cho vay quá cao.
Chính những yếu tố trên đã làm cho dư nợ trên vốn huy động giảm. Thứ hai do nguồn
vốn huy động của Ngân hàng mỗi năm đều tăng lên cao, trong khi đó dư nợ thì có tăng
nhẹ vào năm 2007 và lại giảm vào 2008 cho nên đã làm cho dư nợ trên vốn huy động
giảm.
4.1.6. Đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng.
Ngân hàng được ví như huyết mạch của nền kinh tế, sự hoạt động của hệ thống
ngân hàng là điều kiện cần thiết để nền kinh tế được vận hành một cách ổn định, đồng
bộ. Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, ngân hàng luôn coi trọng sự thành đạt của khách
hàng là sự thành đạt của ngân hàng. Do đó, trong quá trình đầu tư của mình ngân hàng
luôn nắm bắt đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn, tình hình tài chính, nguồn thu của khách
hàng trong địa bàn. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng, ta không ngừng ở
việc xem xét về hiệu quả hoạt động tín dụng đối với ngân hàng mà còn phải đánh giá
hiệu quả hoạt đông tín dụng trên phương diện khách hàng về các khía cạnh: Đồng vốn
tín dụng sẽ có tác dụng như thế nào đối với việc sản xuất kinh doanh của khách hàng?
Khách hàng sử dụng vốn có đúng mục đích không?...Mặc khác, xem xét đánh giá nguồn
vốn mà ngân hàng đã đáp ứng được bao nhiêu so với nhu cầu vốn của khách hàng.
Hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng và sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Hoạt động tín dụng
không chỉ đơn thuần là tạo ra lợi nhuận của ngân hàng mà còn đóng vai trò to lớn đối
với đời sống người dân, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả chung của nền
kinh tế, xã hội. Với nền kinh tế thị trường như hiện nay, nếu người đi vay không tiếp
cận được nguồn vốn vay ngân hàng mà vay trên thị trường tự do với lãi suất cao sẽ dẫn
đến tình trạng sử dụng không hiệu quả nguồn vốn vay do lợi nhuận tạo ra chỉ để bù đắp
cho số tiền lãi nặng nề từ món vay đó. Khi nguồn tín dụng ngân hàng được cung cấp
đầy đủ với lãi suất hợp lý làm cho người vay vốn yên tâm sản xuất và tái mở rộng sản
xuất, sử dụng vốn vay đúng theo mục đích vay, qua đó góp phần phát triển đời sống
kinh tế xã hội.
4.2. Các yếu tố ảnh hưởng.
4.2.1. Yếu tố nội tại.
Mặc dù có lợi thế về vị trí nhưng vẫn có sự cạnh tranh rất lớn với các ngân hàng
khác trên cùng địa bàn, chủ yếu là cạnh tranh về lãi suất. Khách hàng luôn có tâm lý
thích gởi tiền với lãi suất cao và ngược lại thích vay tiền với lãi suất thấp, chính vì thế
ngân hàng có lãi suất cho vay thấp sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với những ngân hàng
có lãi suất cao hơn.
Cán bộ tín dụng đơn vị phải trình duyệt hồ sơ vay lên cấp trên xem xét sau đó mới
đưa ra quyết định cuối cùng là có cho vay hay không, làm cho người vay phải đi lại
nhiều lần mất thời gian và tốn kém.
Thủ tục cho vay tiêu dùng thì đòi hỏi nhiều chứng từ, chứng nhận, giấy tờ hợp lệ
phải qua nhiều lần công chứng, làm tốn kém về chi phí công chứng và đi lại cho khách
hàng.
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 55
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
Ngân hàng chưa liên kết với các doanh nghiệp bán xe hơi, xe hon da, trang thiết
bị vật dụng trong gia đình nhằm để mở rộng thị trường về lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
4.2.2. Yếu tố bên ngoài
Do tâm lý của khách hàng xưa nay vẫn hay đi vay mượn từ người thân hoặc những
người cho vay mà họ quen biết được chứ không thích vay ở ngân hàng. Chính điều này
đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm tăng dư nợ của đơn vị.
Lãi suất cho vay của ngân hàng tăng lên đột làm cho người vay khó khăn trong
việc trả nợ và ngân hàng khó khăn trong thu nợ vì khách hàng cho rằng hợp đồng thỏa
thuận với lãi suất ghi trên hợp đồng thì họ sẽ trả với lãi suất đó.
Một số trường hợp khách hàng có tài sản thế chấp đảm bảo nhưng lại không có
nguồn thu hoặc nguồn thu không đảm bảo cho cân đối thu chi nên không có khả năng
trả nợ, vì thế không được cho vay.
Khách hàng thích vay tiêu dùng những Ngân hàng mới thành lập như Ngân hàng
An Bình, Ngân hàng Việt Á.Họ cho rằng những Ngân hàng mới thành lập sẽ cho vay
dễ dàng hơn và cho vay với số tiền lớn hơn vì Ngân hàng mới thành lập muốn tìm thị
phần khách hàng ở địa bàn Thành Phố Long Xuyên.
Một số khách hàng không có thiện chí trả nợ, chiếm dụng vốn vay. Do không tính
được hiệu quả của đồng vốn vay mang lại từ đó họ chưa có kế hoạch trả nợ hợp lý dẫn
đến nợ xấu của ngân hàng tăng.
4.3. Tác động của các yếu tố ảnh hưởng.
4.3.1. Đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với ngân hàng thương mại, cũng như các doanh
nghiệp khác, không có năng lực cạnh tranh cao đồng nghĩa với việc họ mất khách hàng,
không huy động được vốn, ứ động vốnVì vậy, với mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận,
nhưng muốn duy trì chỉ tiêu lợi nhuận hoặc muốn nâng cao lợi nhuận trong tương lai,
điều tất yếu đối với ngân hàng là phải mở rộng thị phần. Đối với một ngân hàng thương
mại như đơn vị đây thì một khi ngân hàng đã duy trì được, nâng cao được thị phần, có
nghĩa ngân hàng đã khẳng định vị thế của mình trước khách hàng, đối thủ cạnh tranh,
nhằm nâng cao chất lượng họat động kinh doanh của ngân hàng.
Do thủ tục rườm rà, qua nhiều cơ quan nên khách hàng có cảm giác ngán ngại khi
tiến hành làm hồ sơ vay.
Hiện nay các Ngân hàng có những văn bản qui định mới có hơi khác so với văn
bản củ cho nên làm cho nhiều cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong cho vay cụ thể đó là
điều kiện cho vay, quy trình thực hiện, thủ tục giấy tờ phù hợp với từng loại sản phẩm
và đối tượng, là khách hàng cá nhân và hộ gia đình vay để tiêu dùng.
Người vay sử dụng nguồn vốn sai mục đích, do bị nghỉ việc, bị tai nạn lao động,
bi cơ quan xa thảy hoặc rủi ro trong đời sống như ốm đau, tai nạn hoặc bị chết, do người
đại diện đi trả đã chiếm dụng tiền của người vay, người vay không có thiện chí trả nợ.
Thu nhập hàng tháng không ổn định, thường xuyên thay đổi công việc nên khi gặp khó
khăn sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
4.3.2. Đối với người đi vay.
Khi cá nhân vay vốn gặp phải các nguy cơ sau thường không có khả năng trả nợ
cho Ngân hàng đầy đủ cả vốn lẫn lãi:
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 56
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
Thu nhập hàng tháng không ổn định, thường xuyên thay đổi công việc nên khi gặp
khó khăn sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
Bị tai nạn lao động: trong quá trình làm việc có thể họ bị tai nạn làm giảm hoặc
mất đi khả năng lao động, từ đó thu nhập cũng giảm hoặc không còn thu nhập để trả nợ.
Sử dụng vốn sai mục đích: Rủi ro này xuất hiện một phần là do nguyên nhân chủ
quan từ phía khách hàng khi họ tự ý chuyển mục đích vay, cố ý sử dụng vốn vay sai
mục đích không theo hợp đồng tín dụng đã ký hoặc do Ngân hàng không có sự theo dõi,
giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để phát hiện kịp thời những
trường hợp nhằm tránh thất thoát cho Ngân hàng.
Do không tính được hiệu quả của đồng vốn vay mang lại từ đó họ chưa có kế
hoạch trả nợ hợp lý từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của người tiêu dùng, làm tăng
thêm những món nợ thay vì đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt từ món vay.
Do trình độ dân trí chưa cao nên khách hàng chưa tính đến sự thuận tiện và đảm
bảo khi vay vốn tại ngân hàng trong khi lãi suất cho vay của ngân hàng rất thấp so với
lãi suất cho vay của cá nhân bên ngoài.
Một số cơ quan, doanh nghiệp chưa tạo điều kiện cho nhân viên vay vốn ngân
hàng. Họ ngại xác nhận nguồn thu nhập, không cung cấp thông tin về khách hàngCó
cơ quan tuy đã xác nhận nhưng không có trách nhiệm trong việc đôn đốc hay can thiệp
khi nhân viên của mình không trả nợ ngân hàng.
Với xu thế phát triển kinh tế như hiện nay thì xu hướng khách hàng sẽ đến với
ngân hàng ngày càng nhiều hơn vì sự an toàn và uy tín của ngân hàng cũng như sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng không chỉ trong nước mà cả ngân hàng
ngoài quốc doanh. Khi đó không những khách hàng được lợi mà ngân hàng cũng được
phát triển thêm.
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 57
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
CHƯƠNG 5
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CHO VAY TIÊU DÙNG
--------KÖJ--------
5.1. Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động cho vay
tiêu dùng.
5.1.1. Về bản thân ngân hàng.
Việc kiểm tra giám sát sau khi cho vay có thực hiện nhưng chưa được quan tâm
đúng mức.
Công nghệ thông tin tuy được cải tiến và nâng cấp nhưng vẫn chưa thành thạo
trong việc sử dụng nên thường hay gặp khó khăn trong sử dụng.
Ngân hàng còn nhiều món vay nhỏ có giá trị thấp vì địa bàn rộng khi cho vay các
món vay nhỏ phải đi thẩm định xa tốn nhiều chi phí trong khi lãi cho vay ít cho nên lợi
nhuận không cao.
So với các ngân hàng khác trên đại bàn thành phố long xuyên thì thủ tục cho vay
tiêu dùng của các ngân hàng nông nghiệp chậm thay đổi. Đó là thời gian làm thủ tục cho
vay tiêu dùng còn chậm so với Ngân hàng Đông Á và một số ngân hàng khác
Nhìn chung, nguồn nhân lực về Marketing còn non trẻ và khan hiếm. Bên cạnh đó,
các ngân hàng vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán
bộ nghiệp vụ chuyên sâu về Marketing. Chính điều này đã làm cho nội dung Marketing
của một số Chi nhánh ngân hàng nghèo nàn, kém tính hấp dẫn, không có tính chuyên
nghiệp, chưa thực sự mang tính hiện đại và hội nhập.
Cũng cần phải nói tới những chi phí mà một ngân hàng được phép chi cho hoạt
động Marketing. Chi phí của ngân hàng cho hoạt động Marketing phải nằm trong giới
hạn chi phí tiếp thị do Bộ Tài chính quy định. Thực tế tỷ lệ này là quá thấp so với thông
lệ quốc tế. Trong khi đó hoạt động chi quảng cáo của ngân hàng vẫn còn mang tính chất
là quan hệ với cơ quan báo chí chứ chưa hoàn toàn vì mục tiêu kinh doanh đạt hiệu quả.
Ngân hàng ít đầu tư việc quảng cáo các sản phẩm cho vay tiều dùng đối cán bộ
viên chức và các người buôn bán ở trong Thành Phố Long Xuyên.
5.1.2. Về bản thân người đi vay.
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích ảnh hưởng rất lớn đến công tác thu hồi nợ
của ngân hàng.
Một số khách hàng chưa có trách nhiệm về những món nợ của mình.
Khách hàng không có thiện chí trả nợ, muốn chiếm dụng vốn.
Khách hàng đi vay chưa nắm rõ thủ tuc vay và thường hay thiếu hóa đơn, chứng
từ, quyền sử dụng tài sản nên làm mất thời gian của người vay và cả nhân viên ngân
hàng.
Thiếu trung thực trong vay vốn, như sử dụng vốn sai mục đích xin vay cố ý lừa
đảo, chiếm dụng vốn không trả nợ cho Ngân hàng.
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 58
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
Do tình hình biến động kinh tế làm nhiều doanh nghiệp khó khăn dẫn đến thất
nghiệp hoặc bị tai nạn lao động, bi cơ quan xa thảy hoặc rủi ro trong đời sống như ốm
đau, tai nạn hoặc bị chết.
Thu nhập hàng tháng không ổn định, thường xuyên thay đổi công việc nên khi gặp
khó khăn sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
Sử dụng vốn sai mục đích: Rủi ro này xuất hiện một phần là do nguyên nhân chủ
quan từ phía khách hàng khi họ tự ý chuyển mục đích vay, cố ý sử dụng vốn vay sai
mục đích không theo hợp đồng tín dụng đã ký hoặc do Ngân hàng không có sự theo dõi,
giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để phát hiện kịp thời những
trường hợp nhằm tránh thất thoát cho Ngân hàng.
5.1.3. Về môi trường pháp lý.
Thủ tục cho vay tiêu dùng còn nhiều ràng buộc và phức tạp.
Muốn thay đổi thủ tục cho vay tiêu dùng được đơn giản hơn thì phải thông qua
Ban lãnh đạo của NHNo An Giang xét duyệt.
Chất lượng tín dụng đánh giá chưa chính xác và chưa có cơ sở nào để đánh giá
chất lượng tín dụng chính xác.
Đối với tài sản đảm bảo: Đến nay Ngân hàng chưa thể chủ động xử lý tài sản (đặc
biệt là bất động sản) nếu không có ý kiến chấp thuận của chủ tài sản và các cơ quan
chức năng có liên quan, mặc dù trong hợp đồng thế chấp, cầm cố qua công chứng có
xác nhận rõ "trường hợp người vi phạm các cam kết trong hợp đồng tín dụng ngân hàng
được xử lý tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ gốc, lãi và các chi phí có liên quan.
Nếu khách hàng thuộc diện nhóm 2 đến nhóm 5 thì ngân hàng sẽ tiến hành xử lý rủi ro
món vay đó nhưng thời gian để xử lý tài sản đó rất lâu làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và
hoạt động của ngân hàng.
5.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng.
5.2.1. Lựa chọn khách hàng cho vay.
Không lựa chọn đúng thị trường mục tiêu là yếu tố quan trọng chung nhất làm cho
nợ vay trở nên xấu đi. Thị trường mục tiêu được phân khúc bởi tính an toàn đối với các
khoản cho vay, dư nợ, ngành nghề kinh doanh, thời hạnđã được xác định ở mô hình.
Khi thị trường đã được phân khúc Ngân hàng phải lựa chọn thành công thị trường mục
tiêu cho mình. Và lúc bấy giờ, việc xem xét rủi ro tín dụng sẽ đóng vai trò vô cùng quan
trọng.
Việc tập trung vào thị trường mục tiêu phải dựa trên cơ sở đánh giá khách hàng và
chiến lược của Ngân hàng. Chẳng hạn, trong thời gian hiện nay, Ngân hàng tiếp tục phát
triển thị trường tiêu dùngĐây là các ngành có chất lượng tín dụng tốt thời gian qua và
có khả năng phát triển trong thời gian tới.
Chủ động phân loại khách hàng vay vốn ở tất cả thành phần kinh tế để đáp ứng
chế độ ưu tiên, ưu đãi hoặc kiên quyết từ chối cho vay nếu họ không tạo được niềm tin
của Ngân hàng. Quan tâm đúng mức việc tiếp cận khách hàng, chọn lọc khách hàng có
thu nhập ổn định, có nghề nghiệp ổn định, có tài sản đảm ít bị rủi ro về giảm giá, có
phương thức và phương án trả nợ hiệu quả thì Ngân hàng sẽ cho vay đối với khách hàng
đó nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả vốn tín dụng.
Ngân hàng nên giảm việc cho vay các món vay nhỏ có giá trị thấp vì địa bàn rộng
khi cho vay các món vay nhỏ phải đi thẩm định xa tốn nhiều chi phí trong khi lãi cho
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 59
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
vay ít, cần tập trung vào các món vay lớn có giá trị cao. Ngân hàng có thể đa dạng hoá
hình thức cho vay như thực hiện hình thức tín dụng bao thanh toán. Khi kinh tế ngày
càng phát triển thì hình thức tín dụng này rất cần thiết.
Đối với cán bộ công nhân viên, cá nhân khi vay thì cần tiến hành xác minh chính
xác về: thu nhập của người vay. Tuy nhiên, ở đây Ngân hàng không nên đặt nặng về vấn
đề tài sản thế chấp vì đây chỉ là yếu tố phòng ngừa rủi ro mà nên xem xét về thu nhập.
Không phải từ thu nhập lương của nhà nước, lương của cơ quan đang làm mà phải xem
nguồn thu lợi từ bên ngoài của khách hàng khi đi vay như thu nhập từ công ty riêng, cổ
phiếu đang giữ, cho thuê nhà, đất.. Đây là yếu tố đảm bảo nguồn trả nợ của khách
hàng.
5.2.2. Đơn giản hơn nữa quy trình thủ tục cho vay.
Thủ tục cho vay tiêu dùng cần được tiến hành nhanh chóng với thời gian tiếp
nhận, duyệt cho vay và giải ngân trong vòng 2 ngày làm việc nếu hồ sơ đầy đủ và hợp
lệ, đặc biệt đối với khách hàng là cá nhân để họ có thể dễ dàng tiếp cận vốn vay. Nhưng
vẫn đảm bảo cho vay theo đúng quy trình chỉ đạo của Trung ương.
Ngân hàng cũng cần xây dựng phong cách phục vụ khách hàng tốt hơn, nhằm tăng
số lượng khách hàng đến vay qua ngân hàng.
Nếu có thể Ngân hàng cần đơn giản hoá các thủ tục chẳng hạn như khách hàng
quen thì không cần làm lại hợp đồng tín dụng chỉ cần bổ sung vào hợp đồng cũ để cán
bộ tín dụng có nhiều thời gian cho quá trình tiềm kiếm khách hàng.
Việc quyết định cho vay phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ tín dụng, trưởng
phòng tín dụng, giám đốc hoặc người ủy quyền quyết định để có những quyết định
nhanh chóng và dứt khoát nhằm hạn chế mọi biểu hiện tiêu cực nhằm ảnh hưởng đến uy
tín ngân hàng.
5.2.3. Chọn giải pháp tối ưu để thu hồi nợ.
Phương án giản nợ: Giãn nợ là việc hoãn lại các khoản nợ phải trả và áp dụng thời
gian đáo hạn mới (kéo dài hơn) đối với khoản nợ được hoãn. Giãn nợ là một biện pháp
giúp đỡ người vay nợ thoát khỏi gánh nặng nợ trước mắt bằng cách hoãn đòi nợ và
trong nhiều trường hợp nghĩa vụ trả nợ cũng sẽ được chủ nợ giảm bớt.
Đối với khoản nợ quá hạn, Ngân hàng cho phép người vay gia hạn thêm thời gian
nhất định phù hợp với khách hàng nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng khắc phục khó
khăn trước mắt, trước thời gian được gia hạn thì khách hàng phải trình bày hoặc thông
báo cho cán bộ tín dụng một phương án để trả lãi và vốn gốc. Nếu sau khi gia hạn,
khách hàng không có đủ khả năng trả nợ cho Ngân hàng thì lúc này mới chuyển hồ sơ
qua tòa án để phát mãi tài sản.
Phương án xiết nợ: Thực hiện phương án này có thể sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực
nếu thực hiện đồng loạt. Hầu hết các con nợ không tự nguyện bàn giao tài sản cho Ngân
hàng để xử lý, vì thế Ngân hàng thường nhờ đến các cơ quan pháp luật xử lý tài sản, với
nhiều thủ tục phức tạp và tốn kém. Trường hợp xiết nợ đối với khách hàng:
Đối với những khách hàng không có khả năng trả nợ và không có phương án để
trả nợ thì ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi phối hợp với khách hàng bán tài sản có
đảm bảo cho khách hàng thứ 3 với mức giá thỏa thuận giữa khách hàng có tài sản đảm
bảo với khách hàng thứ 3 có ý định muốn mua. Nếu khách hàng có tài sản đảm bảo vẫn
không chịu bán tài sản đảm bảo của mình theo đề nghị của cán bộ tín dụng trong thời
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 60
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
nhất định thì ngân hàng phải tiến hành thanh toán khoản nợ đó bằng cách dùng pháp
luật để giải quyết.
Đối với tài sản đảm bảo mà có dấu hiệu xuống cấp hoặc giảm giá do ành hưởng
của thời tiết và biến động kinh tế thị trường thì ngân hàng phải tiến hành xử lý ngay.
Nếu không xử lý ngay mà giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn giá trị món vay thì sẽ ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng và cả nhân viên ngân hàng vì nếu giá trị thu về thấp
hơn giá trị cho vay thì nhân viên sẽ bị kiểm điểm.
Trường hợp khách hàng lừa đảo, cố tình lẫn tránh, sử dụng vốn sai mục đích, mất
khả năng trả nợ, lúc này ngân hàng cần nhanh chóng phong tỏa tài sản, tiến hành khởi
kiện ra tòa và tập trung hồ sơ liên hệ với các ban ngành liên quan, phát mãi tài sản để
thu hồi nợ gốc và lãi.
5.2.4. Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ xấu.
Ngân hàng cần tăng cường xử lý nợ xấu tồn đọng và nâng cao chất lượng tín dụng,
vì vậy Ngân hàng cần phải:
Nâng cao trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng, đặc biệt là thẩm định tư cách
của khách hàng. Vì điều này có ảnh hưởng rất lớn đến thiện chí hoàn trả tiền vay của
khách hàng. Kiểm tra chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp thời có
biện pháp xử lý nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích.
Khi khách hàng có dấu hiệu phát sinh nợ xấu, phải tìm hiểu nguyên nhân để có
giải pháp thích hợp.
Để khuyến khích cán bộ thu hồi nợ quá hạn Ngân hàng nên có chính sách cho cán
bộ hưởng phần trăm giá trị nợ quá hạn thu hồi được.
Ngân hàng nên tiến hành phân loại khách hàng theo khả năng tài chính hoặc theo
đạo đức tín dụng để kịp thời có những chính sách ưu đãi đối với các khách hàng được
đánh giá là tốt và tiếp tục thực hiện phương châm “không cho vay đối với khách hàng
trể hạn vốn và lãi”.
Ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa cho vay cán bộ công nhân viên. Vì cho vay tín
chấp đối với cán bộ công nhân viên, hồ sơ thủ tục cho vay nên đơn giản, quá trình trả nợ
vay cũng đơn giản hơn nhất là khi mà hiện nay Ngân hàng đã tham gia thanh toán tiền
lương qua thẻ ATM cho một số đơn vị khi đó nếu đến ngày trả tiền thì Ngân hàng tự
động trích tài khoản của khách hàng để thu tiền.
Ngân hàng nên bổ sung thêm nguồn nhân lực nhất là nguồn lực cán bộ tín dụng.
Ngân hàng nên giao 2 cán bộ tín dụng phụ trách một địa bàn trong đó một cán bộ
chuyên thực hiện công tác thẩm định, kiểm tra quá trình khách hàng sử dụng vốn vay,
thu hồi nợ, một cán bộ chuyên làm công tác ở văn phòng tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn,
hoàn thành thủ tục hồ sơ vay vốn cho khách hàng như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của
mỗi người, công việc được giải quyết nhanh hơn, cán bộ làm công tác thẩm định sẽ nắm
rõ địa bàn hơn. Nếu như một cán bộ tín dụng phụ trách một địa bàn như ở Ngân hàng
hiện nay thì có gặp nhiều phiền hà khi cán bộ này đi thẩm định nếu có khách hàng đến
liên hệ công việc, khách hàng sẽ mất nhiều thời gian chờ đợi.
Thường xuyên gọi điện thoại thăm hỏi và vận động nhắc nhở đối với những khách
hàng không có thiện chí trả nợ.
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 61
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
Cán bộ tín dụng cần giải thích cho khách hàng hiểu rằng nếu họ không trả lãi đúng
thời gian thì sẽ chuyển món nợ đó sang nợ quá hạn và số tiền lãi họ phải đóng sẽ cao
hơn.
Có thái độ cương quyết xử lý đối với những khách hàng cố tình không trả nợ.
Nắm vững và theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, giám sát
chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách đúng mục đích hay không, quản lý vốn vay đầu tư
có chặt chẽ và hiệu quả hay không, đồng thời phải đánh giá được khả năng trả nợ của
khách hàng nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và có biện pháp thu hồi vốn kịp thời
nhằm hạn chế rủi ro khách hàng mất khả năng thanh toán.
5.2.5. Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng cho vay tiêu dùng.
Ngay sau khi có hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về việc chấp thuận cho các
tổ chức tín dụng thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với cho vay tiêu dùng, lập tức các
ngân hàng thương mại cổ phần vừa và nhỏ đã nhanh chóng tung ra những gói sản phẩm
với nhiều ưu đãi dành cho khách hàng.
Nhiều “rào cản” đối với lĩnh vực này đã được phá bỏ, các Ngân hàng đẩy mạnh
việc tái triển khai cho vay với nhiều sản phẩm như cho vay mua nhà, mua ôtô, xây dựng
và sửa chữa nhà cửa
Do đó để theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thì NNHo An Giang cần đẩy phải
mạnh đa dạng hóa sản phẩm cho vay tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu của xả hôi: như cho
vay mua nhà, xây dựng nhà, sửa chữa nhà ở, mua xe gắn máy, mua ô tô, sửa xe cơ giới,
cho vay du học, cho vay mua xe, mua máy tính bàn, mua laptop, cho vay tín chấp đối
với sinh viên, cho vay cán bộ công viên chức, mua sắm vật dụng gia đình, làm kinh tế
hộ gia đình, thanh toán học phí, đi du lịch, chữa bệnh, ma chay, cưới hỏi và các nhu
cầu thiết yếu khác trong cuộc sống. Đối tượng và điều kiện vay là người Việt Nam có
thu nhập ổn định, bảo đảm khả năng trả nợ ngân hàng. Có tài sản thế chấp cầm cố (nhà
đất, sổ tiết kiệm) dùng để bảo đảm thuộc sở hữu của người vay hoặc được thân nhân
có tài sản thế chấp bảo lãnh. Có mục đích sử dụng vốn phục vụ cho tiêu dùng hợp pháp.
Thời gian cho vay tối đa 7 năm; loại tiền vay là VNĐ, vàng, hoặc ngoại tệ.
Đồng thời lắng nghe ý kiến khách hàng để điều chỉnh kịp thời những bất cập trong
hoạt động tín dụng, giữ vững khách hàng truyền thống, từng bước chiếm lĩnh thị trường,
thị phần tín dụng trên địa bàn.
5.2.6. Đa dạng hóa phương thức cho vay.
Để đáp ứng được tính chất đặc thù, riêng có từng khách hàng, từng đối tượng vay
vốn, từng quá trình luân chuyển vốn cho khách hàng và Ngân hàng trong một thời kỳ.
Điều này không chỉ tăng khả năng canh trạnh mà còn nâng cao chất lượng và hiệu quả
vốn tín dụng, khẩn trương nghiên cứu và triển khai, tổ chức thực hiện “ thu nợ tay ba”.
Thực hiện song trùng hai cách thu nợ (gốc và lãi) đối với cho vay cán bộ viên chức nói
riêng, cho vay sinh hoạt nói chung.
5.2.7. Nâng cao chất lượng món vay.
Thẩm định chắc chắn những điều kiện vay vốn, phát huy vai trò tổ thẩm định gắn
với việc xếp loại khách hàng. Đảm bảo cho vay đúng cơ chế, chính sách tín dụng. Đẩy
mạnh công tác phòng ngừa từ xa như thường xuyên phân tích nợ, định kỳ tổ chức kiểm
tra chéo, đối chiếu nợ vay, kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời nợ xấu, tìm
nguyên nhân, đề ra giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó còn thực hiện tốt việc nắm bắt
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 62
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
thông tin, phản ánh của khách hàng, dư luận của địa phương về tác phong, lề lối làm
việc của cán bộ tín dụng.
Giữ quan hệ tốt với khách hàng cũ, cán bộ của tín dụng có thể bám sát khách
hàng, nắm bắt được tình hình thực tế của từng khách hàng, để thuận tiện cho công tác
thẩm định, quản lý, thu hồi vốn vay, nâng cao chất lượng tín dụng.
Triển khai kịp thời, có bài bản các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
định hướng kinh doanh của ngành tới tập thể cán bộ, xóa bỏ bao cấp trong điều hành,
duy trì thực hiện có hiệu quả năm công cụ điều hành: Kế hoạch, lãi suất, tài chính, kiểm
tra kiểm soát và thi đua.
5.2.8. Hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
* Đối với cán bộ tín dụng.
Các rủi ro tín dụng xảy ra là lỗi một phần thuộc về Ngân hàng mà người chịu lớn
nhất là cán bộ tín dụng vì cán bộ tín dụng là người trực tiếp thẩm định khách hàng và là
người kiểm tra quá trình sử dụng vốn của họ. Để hạn chế rủi ro tín dụng thì cán bộ tín
dụng cần:
Cán bộ tín dụng cần hiểu biết về ngành nghề và thu nhập của khách hàng để có thể
đánh giá chính xác tình hình của khách hàng, từ đó quyết định cho vay một cách phù
hợp và có thể giám sát khoản vay một cách dễ dàng.
Ngoài ra, Cán bộ tín dụng phải am hiểu sâu rộng về tình hình kinh tế xã hội, thủ
tục chế độ nguyên tắc của ngành. Điều này đã đòi hỏi Cán bộ tín dụng phải luôn luôn
nghiên cứu, học hỏi và được tập huấn nghiên cứu, nhằm trau dồi kiến thức, đúc kết kinh
nghiệm của bản thân góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ.
Để cán bộ tín dụng có thể am hiểu sâu về tình hình và đặc điểm kinh tế xã hội của
địa phương nơi mình phụ trách, Ngân hàng đã và đang thực hiện chuyên môn hóa cán
bộ tín dụng theo địa bàn. Việc này góp phần tạo mối quan hệ lâu dài, gắn bó giữa cán bộ
tín dụng với khách hàng và với chính quyền địa phương nó cũng góp phần hạn chế rủi
ro.
Cán bộ tín dụng không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nắm vững
và thực hiện đúng các quy định hiện hành mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực
công tác, nhất là khả năng phát hiện ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách
hàng.
Ngoài ra, các chỉ số dự báo trước khi cho vay như: giá vàng, tỷ giá, lạm phát và
các biến cố có thể dự đoán về kinh tế, chính trị, xã hội, các báo cáo nghiên cứu thị
trường, những diễn biến của nền kinh tế trong thời gian tới, cán bộ tín dụng cần có kiến
nghị cụ thể về sự cần thiết bổ sung những nhân tố trên, nhằm nâng cao vai trò, chất
lượng công tác tín dụng. Đối với các món vay dù lớn hay nhỏ, nhất là các lĩnh vực chịu
ảnh hưởng nhiều của thị trường, ngân hàng cần đẩy mạnh công tác thu nợ hơn nhằm thu
hồi nợ cũ và đồng thời thực hiện phân loại đánh giá khách hàng để tránh phát sinh nợ
quá hạn mới.
Trong thực hiện qui trình tín dụng, cán bộ tín dụng phải kiểm tra trước, trong và
sau khi cho vay. Trước khi cho vay cán bộ tín dụng cần kiển tra các điều kiện vay vốn
của khách hàng như hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, nhu cầu vay. Việc kiểm tra trong
khi cho vay giúp cán bộ tín dụng kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 63
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
đích hay không. Việc kiểm tra có thể định kỳ hay đột xuất để đảm bảo tính khách quan,
việc kiểm tra này giúp cán bộ tín dụng đánh giá được chính xác khách hàng.
Trong quá trình thẩm định cho vay, ngoài những thông tin và thủ tục theo đúng
quy định của nguyên tắc cho vay, các cán bộ tín dụng cần thu thập thêm các thông tin
bên ngoài để có thể hiểu thêm về khách hàng. Trong khi thu thập thông tin, các cán bộ
tín dụng cần tạo mối quan hệ vui vẻ, thân mật, tránh hình sự hóa vấn đề. Khi gặp những
tình huống khó giải quyết, cán bộ tín dụng cần xin ý kiến cấp trên để xử lý, không vì
tình cảm riêng hay thiên vị sẽ dẫn đến rủi ro và ảnh hưởng đến danh tiếng của Ngân
hàng.
Trong công tác thu nợ: các cán bộ tín dụng cần nhắc nhở và thông báo cho khách
hàng về số tiền lãi, số nợ gốc và kỳ hạn nợ. Ngân hàng nên khuyến khích khách hàng
chủ động đến Ngân hàng để trả nợ, như vậy sẽ ít tốn chi phí hơn cho Ngân hàng.
Trường hợp gặp phải rủi ro trong quá trình thu nợ, cán bộ tín dụng cần phối hợp với
chính quyền địa phương và các ngành chức năng để xử lý. Trường hợp có thể xét gia
hạn nợ cho khách hàng thì cán bộ tín dụng cần yêu cầu khách hàng hạn chế đến mức tối
thiểu thời gian gia hạn nợ và phải thực hiện cam kết bằng văn bản để làm căn cứ xử lý
nếu khách hàng vi phạm cam kết.
* Đối với lãnh đạo Ngân hàng.
Để hạn chế rủi ro tín dụng do nguyên nhân từ phía Ngân hàng cụ thể là do cán bộ
tín dụng, Ban lãnh đạo Ngân hàng phải thường xuyên thực hiện những công việc sau:
Tiến hành giao kế hoạch và thường xuyên nắm bắt tiến độ thu nợ và lãi của cán
bộ tín dụng.
Kiểm tra định kì hoặc đột xuất việc thực hiện kiểm tra sau khi cho vay của cán bộ
tín dụng đối với khách hàng.
Định kì thay đổi địa bàn quản lí đối với Cán bộ tín dụng để tránh trường hợp cán
bộ tín dụng có mối quan hệ quá thân với khách hàng sẽ dễ dẫn đến việc cán bộ tín dụng
vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Thu thập thông tin xác minh tư cách, phẩm chất, tác phong, chất lượng công tác
của cán bộ tín dụng.
Ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cấp chính quyền trước nhất là
các cơ quan chức năng tại địa phương của khách hàng vay vốn, sau đó là các cơ quan
luật pháp cấp cao để phối hợp xử lý kịp thời khi có rủi ro tín dụng xảy ra. Việc phối hợp
với chính quyền địa phương còn tạo điều kiện để Ngân hàng có thể thu thập những
thông tin về quá trình sử dụng vốn của khách hàng, giúp Ngân hàng có thể phân tích và
dự đoán, ngăn chặn rủi ro trước khi nó xảy ra để mang lại tính hiệu quả cho cả khách
hàng và Ngân hàng.
5.2.9. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing.
Lịch sử hình thành Marketing đã khẳng định: Marketing là sản phẩm của nền kinh
tế thị trường. Marketing đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong các doanh nghiệp
nói chung và trong các NHTM nói riêng. Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing
kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của ngành dịch vụ. Có thể hiểu: Marketing ngân hàng là
một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để đạt được mục tiêu đặt ra là thỏa
mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, về các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 64
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
hàng lựa chọn bằng các chính sách, các biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa
hóa lợi nhuận
Trên cơ sở học hỏi những kinh nghiệm từ các ngân hàng hiện đại trên thế giới,
NHNo Việt Nam nói chung và NHNo An Giang cần phải tiến hành hoàn thiện, điều
chỉnh phù hợp với hoạt động Marketing của ngân hàng mình, với tình hình thực tế của
nền kinh tế đất nước và hệ thống ngân hàng Việt Nam.
NHNo An Giang phải xác định con người là nhân tố quan trọng nhất trong việc
thực hiện mục tiêu phát triển các sản phẩm ngân hàng nói chung và phát triển các hoạt
động Marketing nói riêng. Do đó NHNo An Giang cần mở rộng và nâng cao công tác
đào tạo chuyên viên về Marketing ngân hàng. Ngân hàng có thể liên kết với trường đại
học An Giang Khoa Kinh tế-QTKD đưa nội dung Marketing ngân hàng vào giảng dạy
sâu hơn. Cùng với đó, các ngân hàng có thể tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm trong nội bộ ngân hàng, mời các chuyên gia Marketing giỏi về giảng dạy, cử
các bộ có kinh nghiệm về Marketing theo học những khóa đào tạo chuyên ngành
Marketing ngân hàng ở nước ngoài.
Ngân hàng xác định nhu cầu vốn trên địa bàn bằng cách dựa vào nhu cầu vốn
những năm qua để xác định nhu cầu vốn trong tương lại. Từ đó tăng cường các hoạt
động marketing để thu hút khách hàng, mở rộng phạm vi hoạt động, nâng cao khả năng
cạnh tranh trong cơ chế nền kinh tế thị thường.
Cung cách hoạt động Marketing của các Ngân hàng Việt Nam đang thay đổi từng
ngày, khách hàng ngày nay không cần phải lóc cóc chạy ra ngân hàng để gửi hoặc rút
tiền nữa, họ có thể trao đổi qua điện thoại, được tư vấn hỗ trợ nhiệt tình và thậm chí, chỉ
cần ngồi nhà để được phục vụ. Các khách hàng thường sử dụng dịch vụ ngân hàng sẽ
được hưởng các ưu đãi đặc biệt, các chương trình khuyến mại trúng thưởng các vật
phẩm rất giá trị như vàng ròng, xe ô tô, bốc thăm du lịch nước ngoàiDo đó ngân
hàng cần đẩy mạnh chương trình khuyến mãi.
5.2.10. Tăng cường hoạt động tiếp thị và thực hiện tốt chính sách khách
hàng.
Tăng cường chuyển tải thông tin tới đông đảo quần chúng nhằm giúp khách hàng
có được các thông tin cập nhật, hiểu biết cơ bản về dịch vụ ngân hàng, lợi ích của sản
phẩm và cách thức sử dụng. Các ngân hàng cần phân khúc thị trường để xác định cơ cấu
thị trường hợp lý và khách hàng mục tiêu, phân nhóm những khách hàng theo tiêu chí
phù hợp, từ đó giới thiệu sản phẩm và dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng cần thường xuyên cung cấp thông tin về tình hình tài
chính, năng lực và kết quả kinh doanh, giúp khách hàng có cách nhìn tổng thể về ngân
hàng và tăng lòng tin vào ngân hàng.
Các ngân hàng cần sớm hoàn thiện và triển khai mô hình tổ chức kinh doanh theo
định hướng khách hàng, chủ động tìm đến khách hàng, xác định được nhu cầu của từng
nhóm khách hàng, từ đó đưa ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp. Nâng cao chất lượng
dịch vụ, đơn giản hóa thủ tục trên cơ sở tận dụng tiện ích của công nghệ thông tin hiện
đại.
Đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển công nghệ ngân hàng để các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng tiếp cận nhanh hơn với khách hàng cũng như mang lại nhiều tiện ích hơn cho
khách hàng, phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng và tuân thủ các
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 65
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
nguyên tắc quốc tế, phát triển giao dịch trực tuyến và giao dịch từ xa với khách hàng, xử
lý một cửa tại trung tâm.
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 66
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
CHƯƠNG 6
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
6.1. Kết luận:
Thị trường tín dụng tiêu dùng thời gian gần đây đang diễn ra sự cạnh tranh sôi
động giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng đang phát triển mạnh ở
nước ta. Hiện nay, chỉ cần có đầy đủ giấy tờ pháp lý chứng minh được rằng bạn đang
làm việc chính thức cho một doanh nghiệp, một cơ quan, hay một tổ chức nào đó được
hưởng lương là có thể dễ dàng vay tiền cho mua sắm đồ cưới, mua xe máy, trang bị đồ
dùng đắt tiền trong nhà, thậm chí là mua xe hơi và mua nhà đất,... Những người khác
tuy không có bảng lương và quyết định tuyển dụng, nhưng có tài sản đảm bảo thì có thể
vay tiền cho con em đi du học, cho người thân đi chữa bệnh hay đi du lịch ở nước ngoài.
Tất cả các ngân hàng thương mại và định chế tài chính không phải là ngân hàng cũng
đang nhanh chóng nhảy vào thị trường tín dụng tiêu dùng đầy tiềm năng này.
Thị trường tín dụng tiêu dùng hình thành đã lâu nhưng kém phát triển
Trước đây, với hoạt động ngân hàng truyền thống ở nước ta, khách hàng chỉ có thể
vay vốn cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ. Khi vay vốn, nhìn chung,
khách hàng phải có dự án khả thi, thể hiện rõ đối tượng đầu tư vốn vào sản xuất kinh
doanh cái gì, sản phẩm và khả năng tiêu thụ ra sao, vòng quay vốn và thời hạn thu hồi
vốn như thế nào,... kèm theo tài sản đảm bảo tiền vay hoặc tín chấp, thì mới có thể vay
được vốn của Ngân hàng.
Hiện nay, trong xu hướng hội nhập quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần,
công ty tài chính,... đang cạnh tranh mạnh mẽ với nhau phát triển các sản phẩm tín dụng
tiêu dùng, thu hút khách hàng cá nhân. Đó là cho khách hàng vay tiền với mục đích tiêu
dùng chứ không phải đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ,... Đây là sản phẩm
tín dụng xuất hiện từ lâu trên thế giới và hiện nay đang phát triển rất mạnh, nhất là ở các
quốc gia có tiềm lực về kinh tế và cạnh tranh ngân hàng sôi động, nhưng mới phát triển
một số năm gần đây tại Việt Nam nói chung và tỉnh An Giang nói riêng..
Thực ra thì tín dụng tiêu dùng đã phát triển từ gần 10 năm qua ở nước ta, mà khởi
nguồn cũng như triển khai sớm, phát triển rộng chính là hệ thống NHNo Việt Nam nói
chung và chi nhánh NHNo nói riêng. Các chi nhánh NHNo huyện, thị xã ở tỉnh, nhất là
các huyện miền núi, vùng nông thôn triển khai cho vay tiêu dùng đối với giáo viên, cán
bộ, nhân viên và lực lượng vũ trang trên địa bàn. Ngân hàng và các trường học, đơn vị
lực lượng vũ trang và cơ quan trên địa bàn phối hợp cho vay trên cơ sở bảng lương và
có ý kiến của công đoàn cơ quan. Vốn ngân hàng cho giáo viên, cán bộ, nhân viên,...
vay được sử dụng để mua sắm xe máy làm phương tiện đi lại thiết yếu, sửa chữa nhà ở,
mua sắm ti vi, máy vi tính, và đồ dùng sinh hoạt khác. Phương thức trả góp hàng tháng
trên cơ sở trích một phần tiền lương. Với cách làm này, có nhiều chi nhánh NHNo đạt
dư nợ cho vay tiêu dùng tới 40 - 50% tổng dư nợ trên địa bàn, phủ kín nhu cầu vay tiêu
dùng tới tất cả các trường học, cơ quan, đơn vị trên địa bàn. Đặc biệt là đến nay sản
phẩm tín dụng tiêu dùng đã phát triển mạnh trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam nói
chung và các chi nhánh NHNo nói riêng, vì rủi ro tín dụng tiêu dùng rất thấp.
Trong những năm qua NHNo An Giang đã góp phần làm cho nền kinh tế của tỉnh
ngày càng phát triển hơn. Ngoài việc tạo ra lợi nhuận cho mình, công tác đầu tư tín
dụng của Ngân hàng còn hỗ trợ đắc lực cho các hộ gia đình và cá nhân trong mọi ngành
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 67
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
nghề kinh tế, góp phần cải thiện đời sống cho người dân. Nguồn vốn huy động của
Ngân hàng tuy chưa đạt được nhu cầu đầu tư tín dụng của Ngân hàng nhưng nhờ vào sự
điều tiết vốn Ngân hàng đảm bảo được nguồn vốn phục vụ tốt nhu cầu phát triển của xã
hội.
Tóm lại, khi xã hội ngày càng phát triển thì đời sống vật chất của con người ngày
càng được quan tâm, với xã hội hiện nay người ta không chỉ nghĩ đến việc ăn no, đủ
mặc mà ai cũng muốn được ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà sang, đi xe xịn đây cũng là nhu
cầu rất bình thường. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng đáp ứng được những
nhu cầu đó hay chỉ đáp ứng được một phần nào đó mà thôi, do đó họ phải tìm kiếm
thêm nguồn thu nhập khác hay phải đi vay mượn để thoả mãn nhu cầu của bản thân.
CBCNV, học sinh du học, những người buôn bán..là một trong những đối tượng đó,
nhu cầu về điều kiện cuộc sống, sinh hoạt và một số yếu tố khác của họ cũng rất cao,
nhưng không phải người nào cũng có khả năng đáp ứng được. Một số họ do không có
khả năng đáp ứng được nhu cầu của mình nên trong tương lai họ có nhu cầu đi vay, tỷ lệ
này chiếm rất lớn. Họ đi vay với nhiều mục đích khác nhau: du học, mua nhà, đất, xây
dựng, sửa chữa nhà, mua phương tiện đi lại, mua laptop, mua trang trí vật dụng trong
gia đình, đồ dùng trong gia đình.
Mặc dù có nhiều đối thủ cạnh tranh như: Ngân hàng Mỹ Xuyên, Ngân hàng Sài
Gòn Thương Tín, Ngân hàng An Bình, Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Á Châu, Ngân
hàng Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long... Nhưng NHNo An Giang vẫn hoạt
động ngày một hiệu quả hơn được thể hiện rất rõ qua lợi nhuận của ngân hàng qua 3
năm đều tăng và lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể là năm 2006 là 67.547
triệu đồng, năm 2007 tăng lên là 114.991 triệu đồng, năm 2008 đạt 117.558 triệu đồng.
Với những thành tựu đã đạt được trong những năm qua chúng ta có thể tin tưởng vào sự
phát triển của ngân hàng trong thời gian tới.
Ngân hàng đã thực hiện tốt vai trò trung gian của mình là bên cạnh tăng doanh số
cho vay, ngân hàng đã làm tốt công tác huy động vốn chủ yếu là vốn từ dân cư, giúp
người dân sử dụng và cất giữ nguồn vốn nhàn rỗi của mình một cách hiệu quả và ngân
hàng luôn xem trọng cơ hội đầu từ của khách hàng cho nên khi có cơ hội đầu tư thì ngân
hàng luôn nỗ lực hết mình để cung ứng vốn cho khách hàng đúng lúc, kịp thời cho các
đối tượng từ cho vay tiêu dùng đối với hộ gia đình và cá nhân. Điều đó có thể cho thấy
doanh số cho vay tiêu dùng tăng cao qua 3 năm gần đây là năm 2006 doanh số cho vay
tiêu dùng là 237.114 triệu đồng và năm 2007 là 286.011 triệu đồng và năm 2008 là
315.927 triệu đồng . Tổng thu nợ tiêu dùng của ngân hàng cũng tăng cao qua 3 năm gần
đây là năm 2006 là 227.503 triệu đồng và năm 2007 là 241.737 triệu đồng, năm 2008 là
356.912 triệu đồng. Sự tăng cao này chứng tỏ hoạt động của ngân hàng ngày một hiệu
quả và uy tín của ngân hàng cũng được nâng cao so với các đối thủ cạnh tranh trên cùng
địa bàn.
Tình hình nợ quá hạn của tiêu dùng nói chung là có chiều hướng giảm. Cụ thể nợ
quá hạn của tiêu dùng năm 2006 là 10.577 triệu đồng, năm 2007 là 5.609 triệu đồng
nhưng đến năm 2008 chỉ còn 3.193 triệu đồng. Đạt được như vậy là do Ngân hàng
thường xuyên theo dõi và áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn kịp thời nợ
quá hạn, không để nó vượt qua ngưỡng cho phép. Đồng thời cũng nhờ có sự chỉ đạo
chặt chẽ và kịp thời của Ban Giám Đốc cùng với sự nhiệt tình, chịu thương chịu khó
trong công việc của cán bộ tín dụng tại chi nhánh, cùng với đội ngũ nhân viên nhiệt
tình, năng nỗ và có phong cách văn minh, lịch sự của Ngân hàng, đã bám sát và vận
dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của địa phương; cùng với định hướng và giải
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 68
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
pháp của cấp trên, hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành và các cấp tại địa
phương.
Tóm lại, cùng với sự lớn mạnh của hệ thống NHNo Việt Nam, chi nhánh NHNo
An Giang ngày càng phát triển và giữ vững vai trò chủ đạo trên địa bàn An Giang. Uy
tín của ngân hàng ngày được nâng cao. Đó chính là nhờ sự phấn đấu của toàn thể
CBCNV, sự lãnh đạo đúng hướng của Ban Giám Đốc. Ngân hàng xứng đáng là bạn
đồng hành của mọi kinh tế, đặc biệt là hộ gia đình và cá nhân trong đó là cho vay đời
sống.
6.2. Kiến nghị:
6.2.1. Đối với NHNo An Giang.
Đẩy mạnh công tác tiếp thị sản phẩm cho vay tiêu dùng, tìm kiếm khách hàng
mới, chăm sóc khách hàng mới, đồng thời luôn giữ mối quan hệ tốt với khách hàng cũ.
Định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng, phát thư góp ý cho khách hàng để từ đó phát huy
ưu điểm, hạn chế khuyết điểm để nhằm phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung thu hồi nợ quá hạn cũ, hạn chế nợ quá hạn
mới phát sinh, phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan để thu hồi nợ quá hạn, xử
lý nợ tồn đọng. Thường xuyên chỉ đạo phân loại nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thích
hợp.
Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhân viên, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, thường xuyên đổi mới phong cách phục vụ, tận tụy vì
công việc, vì khách hàng.
Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa việc kiểm soát rủi ro tín dụng để tránh chất
lượng tín dụng có chuyển biến xấu hơn nữa trong thời gian tới.
Đa dạng hóa khách hàng vay vốn và sản phẩm tín dụng tiêu dùng.
Trong thời gian tới, thị trường tín dụng tiêu dùng ở An Giang tiếp tục phát triển
mạnh mẽ và cạnh tranh sôi động, với sự tham gia đông đảo của hầu hết các NHTM và
các quỹ tín dung. Những vấn đề đặt ra về môi trường pháp lý, về quản lý nhà nước.
Song về nghiệp vụ quản lý rủi ro của NHNo An Giang, định chế tài chính cung cấp dịch
vụ tín dụng tiêu dùng thì cần quan tâm. Trước tiên đó là dự báo xu hướng biến động của
thị trường nhà đất. Bởi vì thị trường này thường có tăng trưởng mạnh và đồng thời cũng
có suy giảm kéo dài, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Song,
NHNo An Giang cần xây dựng cho mình một tỷ lệ hợp lý để hạn chế, phòng ngừa rủi
ro. Thứ hai đó là mục đích sử dụng vốn vay tiêu dùng, có thực chất đầu tư đúng với nội
dung trong đơn xin vay vốn và trong hợp đồng tín dụng hay không. Bởi trong thực tế,
chắc chắn có khách hàng vay vốn tiêu dùng đầu tư cho chứng khoán hoặc lĩnh vực kinh
doanh khác có mức độ rủi ro cao hơn, nên cần quan tâm tới kiểm tra sử dụng vốn vay
của khách hàng.
Cần thành lập trang wed riêng cho NHNo An Giang để thuận lợi trong việc hướng
dẫn thủ tục cho vay, đăng tải những thông tin của ngân hàng.
6.2.2. Đối với chính quyền địa phương.
Do sự phiền hà trong quá trình thanh lý tài sản đảm bảo, tài sản bị giảm giá trị do
hao mòn khi được thanh lý. Một số trường hợp khi có người đồng ý mua tài sản nhưng
do chưa có quyết định đồng ý của toà án nên không bán được, đến khi tài sản được cấp
quyết định bán thì không có người mua, một số tài sản có thể bị bỏ cho đến khi không
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 69
“Phân tích tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang” GVHD:Nguyễn Xuân Vinh
SVTH: Phạm Quang Minh Trang 70
còn sử dụng được. Do đó toà án nên có những quyết định thông thoáng hơn trong việc
giải quyết tài sản đảm bảo để thu hồi nợ như Ngân hàng và khách hàng có thể tự thoả
thuận việc thanh lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ hoặc trong một khoảng thời gian sau
khi đến hạn trả nợ cho Ngân hàng mà khách hàng không có khả năng trả nợ và không
đưa ra được nguồn thu dự kiến có thể trả nợ cho Ngân hàng hoặc không đến để xin gia
hạn nợ thì Ngân hàng có quyền bán tài sản để thu hồi nợ.
UBND tỉnh cần quan tâm đến công tác qui hoạch mời gọi các nhà đầu tư, xây
dựng các khu kinh tế tập trung, định hướng phát triển kinh tế phù hợp với thực tế thị
trường. Để tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân trong tỉnh An Giang để họ có thu
nhập ổn định mà có thể tiếp xúc với tín dụng tiêu dùng tại NHNo An Giang. Làm cho
Ngân hàng có nhiều khách hàng tiêu dùng để mở rộng thị phần tiêu dùng trong tỉnh An
Giang.
Đề nghị UBND tỉnh cần tính toán lại cho phù hợp hơn để đưa mức quy định về giá
trị đất, nhà ở cho sát với giá thị trường. Điều này không những giúp cho Ngân hàng có
cơ sở đầu tư, mà người dân cũng có cơ hội vay được nhiều vốn hơn, không phải đi vay
bên ngoài với lãi suất cao mang lại hiệu quả đầu tư cao hơn cho người dân. Đặc biệt khi
giá trị tài sản được tính đúng, tính đủ sẽ giúp tăng thêm nguồn thu đáng kể hằng năm
cho nhà nước.
Đề nghị các phòng chuyên đề quan tâm, hỗ trợ Ngân hàng trong việc tháo gỡ
vướng mắc từ cơ sở kịp thời hơn.
Đề nghị UBND chỉ đạo các ngành, các cấp tích cực phối hợp với ngân hàng trong
việc xử lý nợ, thu hồi nợ. Đồng thời chỉ đạo các cơ quan pháp luật xử lý mạnh những
trường hợp đã khởi kiện; đối với trường hợp Toà đã xử, án đã có hiệu lực chỉ đạo cơ
quan thi hành án thi hành triệt để.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
--------KÖJ--------
1. PGS. TS. Nguyễn Đăng Dờn. 2005. Tín dụng ngân hàng. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nhà xuất bản Thống Kê.
2. GS.TS LÊ VĂN TƯ, 2004, Ngân hàng thương mại , Nxb Tài Chính,
3. Dương Thị Trúc Nhị. 2008. Phân tích hoạt động tín dụng tại NHNo Huyện Tam Nông.
Luận văn tốt nghiệp Cử nhân kinh tế. Đại Học An Giang.
4. Các báo cáo tài chính NHNo An Giang năm 2006,2007,2008
5. Các văn bản hướng dẫn hoạt động NHNo An Giang.
6. Trịnh Ngọc Lan (2006). "Vay tiêu dùng: Nhu cầu cao chưa được đáp ứng", Thị trường
tài chính tiền tệ, Số 11, Tr.23-24.
7. Quang Hưng (2007). "Mở rộng đối tượng CBCNV vay nợ bằng tín chấp", Báo Đầu tư
tài chính, Số 14, Tr.10.
8. TS. Nguyễn Đắc Hưng, Xuất bản ngày 08/01/2008, “Cạnh tranh phát triển thị trường
tín dụng tiêu dùng” Tạp chí ngân hàng (Số 23/2007).
9. Phan Dũng Khánh, ngày 21/08/2008, “Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt
Nam - Chi nhánh TpHCM”, Đăng trên báo TBKTSG số 35.
10. www.mof.gov.vn ( Trang web của Bộ Tài Chính)
11. www.sbv.gov.vn ( Trang web của Ngân hàng nhà nước Việt Nam )
12. ( Trang web của Tỉnh An Giang )
13. (Trang web của NHNo Việt Nam )
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1105.pdf