Khóa luận Phân tích tình hình tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Công Thương An Giang giai đoạn 2006 - 2008

Cùng với sự lớn mạnh của NHCT.VN, NHCT.AG cũng ngày càng phát triển và tự khẳng định mình trong nền kinh tế địa phương. Là NHTM mục đích kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà NHCT.AG còn chú trọng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế trong vài năm qua ngân hàng đã giúp người dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nâng cao đời sống người dân và tạo diện mạo mới cho nền kinh tế tỉnh nhà. Trong những năm qua nền kinh tế An Giang đang chuyển mình mạnh mẽ. Nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở vất, mua sắm tài sản cố định, đổi mới kỹ thuật công nghệ là hết sức cần thiết và cấp bách. NHCT.AG đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của tỉnh. Cụ thể, dư nợ cho vay ngắn hạn của ngân hàng qua các năm 2006 – 2008 đều tăng. NHCT.AG đã tạo được lòng tin đối với khách hàng nên nguồn vốn huy động từ nền kinh tế cũng tăng dần trong giai đoạn 2006 – 2008. Bên cạnh những kết quả đạt được ngân hàng còn gặp phải một số khó khăn như: nguồn vốn huy động chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho vay, nên phải nhận thêm vốn từ NHCT.VN, nợ quá hạn vẫn còn phát sinh. Thị phần của ngân hàng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2006 – 2008 do ngày càng nhiều ngân hàng đi vào hoạt động trên địa bàn đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt.

pdf68 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 820 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích tình hình tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng Công Thương An Giang giai đoạn 2006 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g. Sang năm 2008 doanh số thu nợ ngắn hạn của ngành công nghiệp giảm nhưng với tỷ trọng nhỏ, không đáng kể. Thương mại – dịch vụ có doanh số thu nợ ngắn hạn vào năm 2006 là 401.117 triệu đồng đến năm 2007 là 594.689 triệu đồng tăng 48,3% so với năm 2006. Sang năm 2008 doanh số thu nợ ngắn hạn là 797.585 triệu đồng tăng 34,1% so với năm 2007 (bảng 4.2.9). Giai đoạn 2006 – 2008 doanh số thu nợ ngắn hạn của ngành thương mại – dịch vụ đều tăng cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng trong lĩnh vực này được nâng cao. Cho thấy xu hướng cho vay ngắn hạn thương mại – dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu cho vay ngắn hạn theo ngành của ngân hàng là đúng đắn. Thương mại – dịch vụ góp phần làm tăng kết quả hoạt động của ngân hàng trong những năm vừa qua. ™ Xây dựng + khác: Doanh số thu nợ ngắn hạn của ngành xây dựng tăng từ 2006 – 2008, doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2006 là 32.082 triệu đồng đến năm 2007 doanh số thu nợ ngắn hạn của ngành này là 74.160 triệu đồng, tăng 131,2% so với năm 2006. Sang năm 2008 doanh số thu nợ ngắn hạn là 78.193 triệu đồng, tăng 5,4% (bảng 4.2.9). Kết quả có được như vậy ngoài yếu tố từ cán bộ tín dụng và khách hàng còn có yếu tố khác đó là doanh số cho vay ngắn hạn tăng trong giai đoạn 2006 – 2008 (bảng 4.2.1 trang 23) làm cho doanh số thu nợ ngắn hạn tăng. Ngược lại với ngành xây dựng, doanh số thu nợ ngắn hạn của những ngành nghề khác (vay tiêu dùng, vay tín chấp,...) lại giảm trong giai đoạn 2006 – 2008. Năm 2007 giảm 54,7% so với năm 2006. Năm 2008 giảm 17,3% so với năm 2007 (bảng 4.2.9 trang 38). Doanh số thu nợ ngắn hạn giảm do năm 2007 doanh số cho vay ngắn hạn giảm 14,8% so với năm 2006 (bảng 4.2.3 trang 26). Đến năm 2008 doanh số cho vay ngắn hạn tăng 25,4% so với năm 2007 (bảng 4.2.3 trang 26) nhưng doanh số thu nợ ngắn hạn lại giảm do người vay gặp nhiều khó khăn khi tình hình kinh tế xã hội biến động. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 40 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Những ngành khác nhau có những biến động khác nhau, có ngành doanh số thu nợ ngắn hạn tăng có ngành doanh số thu nợ ngắn hạn lại giảm nhưng xét về tổng thể doanh số thu nợ ngắn hạn của ngân hàng tăng trong giai đoạn 2006 – 2008. Nhìn chung doanh số thu nợ ngắn hạn của NHCT.AG có chuyển biến tốt trong giai đoạn 2006 – 2008. Doanh số thu nợ ngắn hạn tăng dần qua các năm, chứng tỏ công tác thu nợ được ngân hàng quan tâm đặc biệt, thường xuyên. Cũng cho thấy cán bộ tín dụng có khả năng phân tích, thẩm định khách hàng khi cho vay, luôn theo dõi và rà soát những món vay khi đến hạn để nhắc nhở khách hàng trả nợ. Doanh số thu nợ ngắn hạn ngày càng tăng cho thấy ngân hàng cẩn thận hơn trong việc lựa chọn khách hàng cũng như các ngành nghề kinh doanh của khách hàng để quyết định cấp tín dụng. Tuy nhiên, nếu so sánh tốc độ tăng của doanh số thu nợ ngắn hạn với tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn cho thấy năm 2007 doanh số cho vay ngắn hạn tăng 42% so với năm 2006 (bảng 4.2.1 trang 23) trong khi doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2007 chỉ tăng 38% so với năm 2006 (bảng 4.2.7 trang 35). Năm 2008 doanh số cho vay ngắn hạn tăng 28,7% so với năm 2007, doanh số thu nợ ngắn hạn cũng chỉ tăng 28,8% so với năm 2007. Điều này cho thấy doanh số thu nợ ngắn hạn tăng một phần bởi vì doanh số cho vay ngắn hạn tăng, đồng thời cũng cho thấy công tác thu nợ trong giai đoạn 2007 – 2008 chưa biến đổi nhiều, vẫn ở mức độ hiệu quả như trước. Mặt khác, trong tổng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thì cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, cho vay ngắn hạn thời gian thu hồi vốn ngắn, tránh được rủi ro nên việc thu nợ được thuận lợi hơn. Cho vay trung, dài hạn thời gian thu hồi nợ dài thường từ 03 năm trở lên mà trong nền kinh tế hiện nay có nhiều yếu tố cạnh tranh như: thị trường, biến động giá cả,... thì các doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức, rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Những yếu tố không thuận lợi đó làm cho khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng khó khăn hơn, tăng khả năng rủi ro cho hoạt động của ngân hàng nếu cấp tín dụng trung và dài hạn. Nhưng nếu chỉ dựa vào cho vay ngắn hạn mà bỏ qua những món vay trung, dài hạn thì ngân hàng rất dễ mất khách hàng, dễ mất thị phần trong khi ngày càng nhiều NHTM được thành lập và đi vào hoạt động trên địa bàn tỉnh An Giang. Trong hướng hoạt động sau này ngân hàng nên chú trọng vào cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân vì đây là những đối tượng thường vay với số tiền không lớn nên việc trả nợ cho ngân hàng cũng dễ dàng hơn. 4.2.4. Nợ quá hạn ngắn hạn Khi đánh giá chất lượng tín dụng chỉ tiêu thông thường được sử dụng là nợ quá hạn, ngân hàng nào có nợ quá hạn cao thì chất lượng tín dụng thấp, ngược lại ngân hàng nào có nợ quá hạn thấp thì chất lượng tín dụng cao. Lợi nhuận càng lớn rủi ro càng cao đó là quy tắc trong kinh doanh. Tín dụng ngắn hạn đem về cho ngân hàng lợi nhuận cao và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng thu nhập tuy nhiên tín dụng ngắn hạn cũng là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vấn đề nợ quá hạn luôn là mối quan tâm của các cán bộ tín dụng và cả những nhà lãnh đạo trong ngân hàng. Việc thẩm định các món vay đã khó, việc thu nợ và lãi lại càng khó khăn hơn. Phần lớn những khách hàng vay tiền đều trả nợ đúng kỳ hạn, tuy nhiên vẫn có một số khách hàng không trả nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ vì nhiều lý do. Làm thế nào để nợ quá hạn phát sinh đến mức thấp nhất luôn là mục tiêu trong hoạt động của ngân hàng. Dưới đây là tình hình nợ quá hạn ngắn hạn của NHCT.AG xét theo đối tượng khách hàng, theo địa bàn và theo ngành nghề. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 41 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh 4.2.4.1. Nợ quá hạn ngắn hạn theo đối tượng khách hàng Bảng 4.2.10. Nợ quá hạn ngắn hạn theo đối tượng khách hàng ĐVT: Triệu đồng 2006/2007 2007/2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền % Số tiền % Doanh nghiệp 2.537 0 1.491 -2.537 -100 1.491 0 Cá nhân 9 1.977 1.270 1.968 21.866,7 -707 -35,8 Tổng 2.546 1.977 2.761 -569 -22,3 784 39,7 Nguồn: Phòng khách hàng cá nhân của Vietinbank An Giang Nhìn chung nợ quá hạn ngắn hạn của NHCT.AG trong giai đoạn 2006 – 2008 có biến động. Năm 2006 nợ quá hạn ngắn hạn là 2.546 triệu đồng, đến năm 2007 nợ quá hạn ngắn hạn giảm còn 1.977 triệu đồng giảm 22,3% so với năm 2006. Sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng lại tăng lên 2.761 triệu đồng tăng 39,7% so với năm 2007 (bảng 4.2.10). ™ Khách hàng doanh nghiệp: Nợ quá hạn ngắn hạn có biến động, năm 2006 nợ quá hạn ngắn hạn là 2.537 triệu đồng đến năm 2007 không còn nợ quá hạn ngắn hạn, đã giảm 100% so với năm 2006. Nhưng sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn lại tăng lên 1.491 triệu đồng. Năm 2007 nợ quá hạn ngắn hạn của khách hàng doanh nghiệp giảm mạnh do các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, trả nợ cho ngân hàng đúng kỳ hạn. Năm 2008 hoạt động của các doanh nghiệp khó khăn hơn, do tình trạng lạm phát, giá cả tăng cao, cúp điện thường xuyên,... đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ảnh hưởng gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính, nối tiếp là sự suy thoái toàn cầu, đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong tỉnh vào khó khăn dẫn đến quan hệ tín dụng với ngân hàng bị ảnh hưởng nhất định cụ thể, doanh số cho vay ngắn hạn của khách hàng doanh nghiệp vào năm 2008 tăng với tốc độ 39,2% (bảng 4.2.1 trang 23) còn tốc độ tăng của doanh số thu nợ ngắn hạn vào năm 2008 là 35,2% (bảng 4.2.7 trang 35). Mặt khác, vào những tháng đầu năm ngân hàng đã hạn chế trong việc cấp tín dụng, những tháng cuối năm các khoản tín dụng được tăng nhiều hơn. Nhưng sự khôi phục này chỉ có tác động sau đó, ít nhất là 06 tháng thế nên các doanh nghiệp vẫn chưa khôi phục để trả nợ cho ngân hàng đúng kỳ hạn. ™ Khách hàng cá nhân: Nợ quá hạn ngắn hạn đối với khách hàng cá nhân có sự biến động hoàn toàn khác với khách hàng doanh nghiệp. Năm 2006 nợ quá hạn ngắn hạn là 9 triệu đồng đến năm 2007 là 1.977 triệu đồng tăng 1.968 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 21.866,7%. Sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn giảm còn 1.270 triệu đồng giảm 35,8% so với năm 2007 (bảng 4.2.10). Nợ quá hạn ngắn hạn tăng vào năm 2007 là do khách hàng vay vốn đã cố tình không trả nợ vay, khách hàng đã sử dụng vốn sai mục đích làm cho việc sử dụng vốn không hiệu quả gây khó khăn cho ngân hàng. Mặt khác, những khoản nợ quá hạn này đã tồn tại khá lâu nhưng ngân hàng chưa kiên quyết trong quá trình xử lý nên chưa thu hồi SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 42 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 43 được. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh,... đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng. Năm 2008 NHCT.AG hạn chế tăng trưởng nóng tín dụng, cùng với tình hình lạm phát ngân hàng đã hạn chế cấp những khoản tín dụng tiêu dùng, góp phần làm cho nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng giảm xuống. Sự chênh lệch giữa tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn và tốc độ tăng của doanh số thu nợ ngắn hạn cũng là nhân tố làm cho nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng biến động. Năm 2007 tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn đối với khách hàng cá nhân là 126,3% (bảng 4.2.1 trang 23) trong khi đó tốc độ tăng của doanh số thu nợ ngắn hạn là 57,7% (bảng 4.2.7 trang 35) dẫn đến nợ quá hạn ngắn hạn của năm 2007 cao hơn năm 2006. Năm 2008 tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn đối với khách hàng cá nhân là 18,6% (bảng 4.2.1 trang 23) trong khi đó doanh số thu nợ ngắn hạn tăng 19,1% (bảng 4.2.7 trang 35) do đó nợ quá hạn ngắn hạn của năm 2008 thấp hơn nợ quá hạn ngắn hạn của năm 2007. 4.2.4.2. Nợ quá hạn ngắn hạn theo địa bàn Bảng 4.2.11. Nợ quá hạn ngắn hạn theo địa bàn ĐVT: Triệu đồng 2006/2007 2007/2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền % Số tiền % Long Xuyên 2.544 1.758 2.622 -786 -30,9 864 49,1 Các huyện khác 2 219 139 217 10.850 -80 -36,5 Tổng 2.546 1.977 2.761 -569 -22,3 784 39,7 Nguồn: Phòng khách hàng cá nhân của Vietinbank An Giang Doanh số cho vay ngắn hạn và doanh số thu nợ ngắn hạn của Long Xuyên chiếm tỷ trọng cao hơn các huyện khác. Nợ quá hạn ngắn hạn của Long Xuyên cũng lớn hơn so với các huyện khác. Long Xuyên là địa bàn đem lại cho NHCT.AG nguồn thu nhập lớn thế nhưng tại đây cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Biểu đồ 4.2.8. Nợ quá hạn ngắn hạn theo địa bàn 95,088,999,9 5,0 11,1 0,1 2.761 1.977 2.546 0 20 40 60 80 100 120 2006 2007 2008 Năm % 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 Triệu đồng Long Xuyên Các huyện khác Tổng Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh ™ Long Xuyên: Dựa vào biểu đồ 4.2.8 cho thấy nợ quá hạn ngắn hạn của Long Xuyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng. Nợ quá hạn ngắn hạn của địa bàn Long Xuyên chiếm khoảng 88 – 95% trong tổng nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng trong giai đoạn 2006 – 2008. Cụ thể năm 2006 nợ quá hạn ngắn hạn chiếm 99,9%, năm 2007 chiếm 88,9% và chiếm 95% vào năm 2008 so với tổng nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng. Sự biến động nợ quá hạn ngắn hạn của Long Xuyên có chiều hướng giống như biến động nợ quá hạn ngắn hạn theo đối tượng khách hàng doanh nghiệp giảm vào năm 2007 sau đó tăng vào năm 2008. Năm 2006 nợ quá hạn ngắn hạn của Long Xuyên là 2.544 triệu đồng, năm 2007 là 1.758 triệu đồng giảm 30,9% so với năm 2006. Sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn là 2.622 triệu đồng tăng 49,1% so với năm 2007. Nợ quá hạn ngắn hạn năm 2007 giảm do ngân hàng đã cố gắng trong việc động viên khách hàng trả nợ bằng cách dùng nguồn vốn khác hay tự xử lý tài sản đảm bảo để trả nợ. Sang năm 2008 do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp, công ty,... đều thấp có khi thua lỗ nên nguồn vốn không đủ để trả nợ cho ngân hàng. Vì ở Long Xuyên tập trung rất nhiều doanh nghiệp, công ty. ™ Các huyện khác: Sự biến động nợ quá hạn ngắn hạn ở các huyện khác cũng giống như sự biến động nợ quá hạn ngắn hạn đối với khách hàng cá nhân. Ở các huyện chủ yếu cho vay hộ gia đình sản xuất nhỏ lẻ và cho vay tiêu dùng nên nợ quá hạn ngắn hạn biến động không nhiều như địa bàn Long Xuyên. Nợ quá hạn ngắn hạn của các huyện chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng. Nợ quá hạn ngắn hạn ở các huyện vào năm 2006 là 2 triệu đến năm 2007 là 219 triệu đồng tăng 108,5% so với 2006. Sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn là 139 triệu giảm 36,2% so với năm 2007. Tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn ở các huyện khác vào năm 2007 là 43,1% (bảng 4.2.2 trang 25) trong khi tốc độ tăng của doanh số thu nợ ngắn hạn là 10,5% (bảng 4.2.8 trang 37) làm cho nợ quá hạn ngắn hạn tăng trong năm 2007. Năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn giảm thể hiện chất lượng tín dụng ở các huyện tăng lên. 4.2.4.3. Nợ quá hạn ngắn hạn theo ngành Bảng 4.2.12. Nợ quá hạn ngắn hạn theo ngành ĐVT: Triệu đồng 2006/2007 2007/2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền % Số tiền % Nông nghiệp 969 0 398 -969 -100 398 0 Công nghiệp 0 0 811 0 0 811 0 Xây dựng 0 0 1.500 0 0 1.500 0 TM – DV 1.389 1.977 7 588 42,3 -1.970 -99,6 Khác 188 0 45 -188 -100 45 0 Tổng 2.546 1.977 2.761 -569 -22,3 784 39,7 Nguồn: Phòng khách hàng cá nhân của Vietinbank An Giang SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 44 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 45 Biểu đồ 4.2.9. Nợ quá hạn ngắn hạn theo ngành NHCT.AG đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của tỉnh An Giang, góp phần thực hiện tốt 3 chương trình lớn của tỉnh đề ra: “khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư”. Chất lượng tín dụng của NHCT.AG có sự khác biệt giữa các ngành. Dựa vào bảng số liệu 4.2.12 cho thấy nợ quá hạn ngắn hạn của NHCT.AG tập trung nhiều nhất là ngành thương mại – dịch vụ và ngành xây dựng trong giai đoạn 2006 – 2008. ™ Nông nghiệp: Nợ quá hạn ngắn hạn vào năm 2006 là 969 triệu đồng đến năm 2007 đã giảm 100%, không còn nợ quá hạn ngắn hạn nhưng sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn tăng lên 398 triệu đồng. Năm 2007 nông nghiệp không có nợ quá hạn ngắn hạn do nông nghiệp An Giang có những thành tựu đáng kể, đặc biệt là thành công lớn trong nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là cá tra, cá basa. Diện tích nuôi trồng ngày càng tăng, thị trường xuất khẩu tương đối thuận lợi. Giá lương thực tăng cao nên các hộ nông dân, các hộ chăn nuôi thủy sản đã trả được nợ cho ngân hàng. Năm 2008 nông nghiệp An Giang đối mặt với nhiều khó khăn, diễn biến phức tạp của dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa, người chăn nuôi gặp khó khăn do giá con giống, giá thức ăn đầu vào tăng cao,... Giá cá tra nguyên liệu thiếu ổn định, giảm dưới mức giá thành trong thời gian dài trong khi giá nguyên liệu đầu vào tăng cao. Việc tiếp cận vốn ngân hàng gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của chính sách điều tiết vĩ mô nền kinh tế về lãi suất, chống lạm phát làm cho người chăn nuôi gặp khó khăn, thua lỗ. 2008 14 % 29 %54 % 3 %0 % Nông nghiệp Công nghiệp Xây dựng TM-DV Khác 2007 100 % 2006 38 % 7 % 0 %0 %55 % Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Những biến động của giá cả thị trường với tình trạng giá lúa, giá cá tăng giảm trong thời gian dài đã tác động đến đời sống của người dân đã làm tăng nợ quá hạn ngắn hạn của ngân hàng. ™ Thương mại – dịch vụ: Trong giai đoạn 2006 – 2008 nợ quá hạn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất là năm 2007 nợ quá hạn ngắn hạn là 1.977 triệu đồng tăng 42,3% so với năm 2006. Sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn đã giảm đáng kể chỉ còn 7 triệu đồng giảm 99,6% so với năm 2007. Năm 2007 chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tình trạng lạm phát làm cho thương mại – dịch vụ cũng chịu ảnh hưởng. Giá xăng dầu tăng là một trong những nguyên nhân làm cho giá các mặt hàng và dịch vụ tăng lên làm cho việc trả nợ ngân hàng khó khăn. Sang năm 2008 thương mại – dịch vụ vẫn chịu những biến động tiêu cực nhưng nhìn chung nợ quá hạn ngắn hạn đã giảm. Nguyên nhân do những tháng đầu năm tình hình kinh tế phát triển thuận lợi, mạng lưới kinh doanh phát triển mạnh không chỉ ở thành thị mà cả những khu vực nông thôn. Xuất khẩu được thuận lợi do giá cả và nhu cầu thị trường thế giới tăng mạnh. Doanh số cho vay ngắn hạn của thương mại – dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay ngắn hạn nhưng tình trạng nợ quá hạn ngắn hạn đã giảm cho thấy những chính sách tín dụng của NHCT.AG đặc biệt quan tâm trong vấn đề nợ quá hạn. ™ Công nghiệp – xây dựng: Nợ quá hạn ngắn hạn chỉ xuất hiện vào năm 2008 đối với ngành công nghiệp là 811 triệu đồng. Xây dựng cũng có phát sinh nợ quá hạn ngắn hạn vào năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn là 1.500 triệu đồng tăng 100% so với 2 năm trước. Do sự tăng giá của nguyên, nhiên liệu đầu vào như xăng, dầu, sắt, thép đã làm cho chi phí đầu vào của nhiều ngành công nghiệp tăng cao, nhiều công trình xây dựng chậm lại do điều chỉnh giá vật tư. Do đó nợ quá hạn ngắn hạn của hai ngành này đều tăng vào năm 2008. 4.3. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn gắn liền với hoạt động tín dụng. Nên việc nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTM có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó quyết định sự tăng trưởng hoạt động tín dụng, đảm bảo hoạt động của NHTM được an toàn, hiệu quả góp phần phát triển kinh tế. Với ý nghĩa đó cần phải đánh giá chất lượng tín dụng, tìm ra nguyên nhân, giải pháp để chất lượng tín dụng được cải thiện ngày càng tốt hơn. Chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu để các NHTM hoạt động, chất lượng cao đồng nghĩa hoạt động của ngân hàng tạo ra nhiều lợi nhuận. Chất lượng tín dụng là phạm trù rất trừu tượng, bao hàm nhiều nội dung trong đó nội dung lượng hóa nhất là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Bên cạnh đó vẫn còn một số chỉ tiêu giúp cho việc đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 46 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Bảng 4.3.1. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Chênh lệch Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 06/07 07/08 Dư nợ NH / Tổng nguồn vốn 80 % 78 % 80 % -2 % 2 % Dư nợ NH / Vốn huy động 153 % 135 % 118 % -18 % -17 % Hệ số thu nợ NH 96 % 93 % 93 % -3 % 0 % Nợ quá hạn NH / Tổng dư nợ NH 0,46 % 0,30 % 0,34 % -0,17 % 0,04 % Vòng quay vốn tín dụng NH (lần) 1,85 2,49 2,63 0,64 0,14 4.3.1. Dư nợ ngắn hạn trên tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này cho biết tín dụng ngắn hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Chỉ tiêu này quá lớn, quá nhỏ cũng không tốt đối với ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này quá lớn ngân hàng đầu tư vào tín dụng ngắn hạn gần như toàn bộ vốn của ngân hàng như vậy rủi ro tín dụng sẽ cao khi khách hàng không có khả năng thanh toán. Nếu chỉ tiêu này quá nhỏ ngân hàng không chỉ đầu tư nguồn vốn vào tín dụng ngắn hạn mà còn đa dạng hóa các hoạt động của mình bằng các hoạt động khác như đầu tư dài hạn,... Số liệu tại chi nhánh cho thấy tỷ lệ này chiếm khoảng 78 - 80%, chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng tập trung nhiều vào tín dụng ngắn hạn. Cụ thể năm 2006 dư nợ ngắn hạn chiếm 80%, năm 2007 chiếm 78%, năm 2008 chiếm 80% trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Năm 2007 dư nợ ngắn hạn trên tổng nguồn vốn giảm so với năm 2006, do tốc độ tăng của dư nợ ngắn hạn 21,3% (bảng 4.2.4 trang 29) thấp hơn tốc độ tăng của nguồn vốn 25% (bảng 4.1.1 trang 19). Như vậy, ngoài đầu tư cho tín dụng ngắn hạn, ngân hàng còn mở rộng cho vay trung, dài hạn,... Doanh số cho vay trung, dài hạn năm 2007 tăng tăng do ngân hàng đã đầu tư cho các dự án nâng cấp và mở rộng các nhà máy nước, dự án phát triển hệ thống điện nông thôn của các doanh nghiệp kinh doanh điện nước trong tỉnh, theo chủ trương phát triển điện nước nông thôn của tỉnh An Giang. Sang năm 2008 tỷ số này tăng hơn 2% so với năm 2007. Năm 2008 tốc độ tăng của dư nợ ngắn hạn 22,3% (bảng 4.2.4 trang 29) lớn hơn tốc độ tăng của nguồn vốn 20% (bảng 4.1.1 trang 19) làm cho tỷ số này tăng lên. 4.3.2. Dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động Dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động giúp ta so sánh được khả năng cho vay ngắn hạn và khả năng huy động vốn của ngân hàng. Hay nói cách khác chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động tại ngân hàng vào công tác cấp tín dụng ngắn hạn. Chỉ tiêu này quá lớn hay quá nhỏ cũng không tốt cho ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này quá lớn cho thấy dư nợ cho vay ngắn hạn lớn hơn nguồn vốn huy động. Nếu chỉ tiêu này thấp cho thấy nguồn vốn huy động tại ngân hàng không được sử dụng đúng mức, lượng vốn nhàn rỗi trong ngân hàng nhiều sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động tại ngân hàng có biến động như sau: SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 47 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Giai đoạn năm 2006 – 2008 dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động cao nhất là năm 2006 là 153%. Đến năm 2007 chỉ là 135% đã giảm 18% so với năm 2006. Sang năm 2008 dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động lại tiếp tục giảm, tỷ số này là 118% giảm 17% so với năm 2007. Năm 2006 dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động là 153% tức là dư nợ ngắn hạn gấp 1,53 lần vốn huy động. Cho thấy ngoài nguồn vốn huy động, ngân hàng phải nhận thêm vốn hỗ trợ từ ngân hàng tuyến trên mới có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngắn hạn của khách hàng. Vốn huy động của ngân hàng năm 2006 là 360.281 triệu đồng (bảng 4.1.2 trang 21) trong khi đó dư nợ ngắn hạn vào năm 2006 là 551.668 triệu đồng (bảng 4.2.4 trang 29) do đó vốn huy động của ngân hàng chỉ đáp ứng được 65% nhu cầu cho vay ngắn hạn. Năm 2007 dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động của ngân hàng giảm 18% so với năm trước. Dư nợ ngắn hạn gấp 1,35 lần vốn huy động của ngân hàng. Vốn huy động và dư nợ ngắn hạn đều tăng vào năm 2007, nhưng tốc độ tăng của dư nợ ngắn hạn 21,3% (bảng 4.2.4 trang 29) thấp hơn tốc độ tăng của vốn huy động 37% (bảng 4.1.2 trang 21) làm cho dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động giảm. Cho thấy năm 2007 ngân hàng đã thực hiện nhiều chính sách huy động vốn có hiệu quả, làm nguồn vốn huy động tăng hơn năm trước. Năm 2008 dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động giảm so với năm 2007 giảm 17%. Dư nợ ngắn hạn năm 2008 tăng 22,3% (bảng 4.2.4 trang 29) so với năm 2007 còn vốn huy động tăng 40% (bảng 4.1.2 trang 21) so với năm 2007. Tốc độ tăng của dư nợ thấp hơn tốc độ tăng của nguồn vốn huy động làm cho dư nợ ngắn hạn trên vốn huy động giảm, nguồn vốn huy động của ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay ngắn hạn. Dư nợ cho vay ngắn hạn có tăng nhưng không nhiều so với tốc độ tăng của vốn huy động do năm 2008 có nhiều biến động kinh tế, chính sách không tăng trưởng nóng tín dụng của ngân hàng làm ảnh hưởng đến dư nợ ngắn hạn. Bên cạnh đó gần đây có nhiều NHTMCP hoạt động trên địa bàn làm cho thị phần cho vay ngắn hạn của ngân hàng bị chia nhỏ ra. Từ thực trạng cho thấy khả năng huy động vốn tại chỗ của ngân hàng còn thấp, không đáp ứng đủ vốn đầu tư cho hoạt động tín dụng ngắn hạn mà còn dựa vào nguồn vốn điều hòa từ NHCT.VN. Như thế sẽ gây khó khăn cho NHCT.AG trong việc quyết định những món vay lớn do phải xin vốn từ NHCT.VN. Mặt khác, sự phụ thuộc vào nguồn vốn hỗ trợ từ ngân hàng tuyến trên làm cho NHCT.AG khó chủ động về nguồn vốn bởi vì nguồn vốn hỗ trợ còn tùy thuộc vào thời điểm và khả năng của ngân hàng cấp trên. 4.3.3. Hệ số thu nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thu hồi nợ với khả năng cho vay của ngân hàng. Hay nói cách khác trong 100 đồng cho vay ngân hàng sẽ thu được bao nhiêu đồng nợ. Dựa vào số liệu thực tế tại ngân hàng cho thấy hệ số thu nợ ngắn hạn của ngân hàng giảm trong giai đoạn 2006 – 2008. Hệ số thu nợ ngắn hạn cao nhất là năm 2006 là 96% sau đó giảm còn 93% vào năm 2007 và năm 2008. Năm 2006 hệ số thu nợ ngắn hạn của ngân hàng là 96% cho thấy cứ trong 100 đồng cho vay ngắn hạn ngân hàng thu được 96 đồng nợ, khả năng thu hồi nợ vào năm 2006 có hiệu quả. Cho thấy vấn đề thu nợ của ngân hàng có những chính sách thích hợp. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 48 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Năm 2007 và 2008 hệ số thu nợ ngắn hạn giảm so với năm trước trong 2 năm này hệ số thu nợ ngắn hạn đều là 93%. Năm 2007 hệ số thu nợ ngắn hạn giảm do ngân hàng không tập trung vào cho vay ngắn hạn một cách tối đa mà còn cho vay trung, dài hạn đối với những dự án triển điện nông thôn của tỉnh, cho nên thời gian thu hồi vốn ít nhất là 3 năm sau. Từ đó, làm cho hệ số thu nợ ngắn hạn của ngân hàng năm 2007 giảm. Thêm một yếu tố khác nữa là tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn vào năm 2007 là 42% (bảng 4.2.1 trang 23), trong khi đó tốc độ tăng của thu nợ ngắn hạn thấp hơn, chỉ là 38% (bảng 4.2.7 trang 35). Sang năm 2008 tốc độ tăng của doanh số cho vay ngắn hạn là 28,7% (bảng 4.2.1 trang 23) và tốc độ tăng của thu nợ ngắn hạn là 28,8% (bảng 4.2.7 trang 35) nên hệ số thu nợ ngắn hạn của ngân hàng không biến động. Những biến động của nền kinh tế ít nhiều cũng ảnh hưởng đến công tác thu nợ của ngân hàng. Ngân hàng đã duy trì được hệ số thu nợ ngắn hạn như năm 2007 cho thấy công tác thu nợ của ngân hàng được xem là khả quan, hiệu quả. 4.3.4. Nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn Nợ quá hạn phát sinh ngoài ý muốn của người đi vay lẫn người cho vay. Nếu phấn đấu đưa nợ quá hạn về con số không là điều không thể thực hiện. Ngân hàng chỉ có thể hạn chế đến mức thấp nhất, ở một mức giới hạn an toàn cho ngân hàng. Chỉ tiêu nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng. Qua bảng số liệu 4.3.1 cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn của ngân hàng có biến động từ 2006 – 2008. Năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn là 0,46%. Các ngành nghề mà ngân hàng Công Thương cho vay có nợ quá hạn ngắn hạn thấp, chỉ có ngành thương mại – dịch vụ có nợ quá hạn ngắn hạn cao là do một số cơ sở kinh doanh không hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến không thể trả nợ cho ngân hàng. Năm 2007 tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn là 0,3% giảm 0,16% so với năm trước. Trong năm nợ quá hạn ngắn hạn ngân hàng đã giảm 22,3% so với năm 2006 (bảng 4.2.10 trang 42) trong khi dư nợ ngắn hạn tăng 21,3% (bảng 4.2.4 trang 29) từ đó làm cho tỷ lệ này giảm. Chi nhánh đã thực hiện nhiều biện pháp để thu nợ nên nợ quá hạn có chuyển biến tốt. Năm 2008 tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn tăng hơn so với năm 2007 tăng 0,04%, tỷ lệ này là 0,34%. Năm 2008 tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn tăng do tốc độ tăng của nợ quá hạn ngắn hạn 39,7% (bảng 4.2.10 trang 42) lớn hơn tốc độ tăng của tổng dư nợ ngắn hạn 22,3% (bảng 4.2.4 trang 29). Mặc dù năm 2008 để hạn chế rủi ro NHCT.AG đã thực hiện phân tích đánh giá khách hàng, hạn chế cho vay đối với ngành xây dựng, kinh doanh bất động sản, đã phân tán rủi ro không cho vay quá nhiều vào một khách hàng,... nên tốc độ tăng dư nợ ngắn hạn không cao, thế nhưng ảnh hưởng của những biến động tiêu cực trong nền kinh tế làm cho nợ quá hạn ngắn hạn gia tăng với tốc độ cao. Trong những năm qua tuy đứng trước nhiều thử thách, tình hình nông nghiệp tăng trưởng không ổn định với những thiên tai, dịch bệnh đã ảnh hưởng đến sản xuất nhưng bộ phận tín dụng đã không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt công tác thu nợ và xử lý những khoản nợ có vấn đề. Đây là sự cố gắng rất lớn của NHCT.AG trong hoạt động của ngân hàng cũng như trong hoạt động tín dụng ngắn hạn. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 49 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Nhìn chung chất lượng tín dụng của NHCT.AG khá tốt, tuy tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn có tăng ở năm 2008 nhưng tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn của ngân hàng vẫn ở mức thấp, thấp hơn nhiều so với mức 5% trên tổng dư nợ ngắn hạn mà ngân hàng Nhà Nước Việt Nam quy định. Dư nợ ngắn hạn của ngân hàng có sự tăng trưởng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ thấp hơn 1%, cho thấy Chi nhánh đã có sự kiểm soát tốt đồng vốn cho vay. 4.3.5. Vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn Vòng quay vốn tín dụng thể hiện tốc độ luân chuyển vốn tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu vòng quay vốn tín dụng lớn nói lên sự luân chuyển vốn tín dụng nhanh, chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại vòng quay vốn tín dụng thấp cho thấy tốc độ luân chuyển vốn chậm, chất lượng tín dụng chưa tốt, thu nợ kém. Dựa vào bảng số liệu 4.3.1 cho thấy vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn của ngân hàng qua các năm ngày càng nhanh hơn tức là khả năng thu hồi vốn cao, rủi ro ít hơn và chất lượng tín dụng được nâng cao hơn. Đó là do cho vay ngắn hạn có tốc độ chu chuyển vốn nhanh. Năm 2006 vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn là 1,85 lần, sang năm 2007 là 2,49 lần và 2,63 lần vào năm 2008. NHCT.AG có tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao, đồng vốn luân chuyển nhanh, thời gian thu hồi vốn ngắn. Do đó hạn chế được rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. 4.4. Những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn 4.4.2. Những tồn tại Không một doanh nghiệp nào mà trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà không gặp những khó khăn và vướng mắc, nằm ngoài ý muốn của Ban điều hành. Cũng như hoạt động của khối doanh nghiệp, hoạt động của NHCT.AG trong quá trình hoạt động vẫn còn tồn tại những yếu tố không thuận lợi, tác động tiêu cực đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Dưới đây là một số tồn tại của ngân hàng đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Chi nhánh: Mặc dù nợ quá hạn ngắn hạn đã được Ban giám đốc ngân hàng hạn chế đến mức thấp nhất thế nhưng nợ quá hạn ngắn hạn vẫn phát sinh và có xu hướng chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác. Cụ thể năm 2006 và năm 2007 nợ quá hạn ngắn hạn tập trung nhiều nhất ở ngành thương mại – dịch vụ nhưng sang năm 2008 nợ quá hạn ngắn hạn tập trung nhiều nhất ở ngành xây dựng. Chi nhánh NHCT.AG có đội ngũ cán bộ tín dụng ít, chỉ với 19 cán bộ tín dụng trong tổng số 105 cán bộ nhân viên. Nhưng phải xử lý một số dư lớn. Đặc biệt tại hội sở chỉ có 9 cán bộ tín dụng nhưng phải quản lý từ 500 đến 600 tỷ đồng dư nợ ngắn hạn, như vậy bình quân một cán bộ tín dụng quản lý từ 55 đến 66 tỷ đồng dư nợ ngắn hạn. Do đó đã gây nên tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng cho nên việc thẩm định, kiểm tra quá trình sử dụng vốn, cũng như quản lý khách hàng chưa chặt chẽ. Do đó, dễ phát sinh nợ quá hạn ngoài tầm kiểm soát của cán bộ tín dụng. Trong hoạt động tín dụng của NHCT.AG chưa có chương trình phân loại nợ tự động mà chỉ dựa vào thao tác thủ công của cán bộ tín dụng nên việc phân loại nợ còn mang tính chủ quan, do đó cũng gây khó khăn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 50 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Mặc dù ngân hàng đã rất cố gắng trong việc huy động nguồn vốn tại chỗ nhưng do đặc thù của một tỉnh nông nghiệp nên nguồn vốn huy động tại chỗ không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay. 4.4.3. Nguyên nhân ảnh hưởng chất lượng tín dụng Sự hoạt động hiệu quả của ngân hàng gắn liền với sự hưng thịnh của nền kinh tế, mọi biến động của kinh tế - xã hội đều có tác động nhanh chóng đến ngân hàng. Vì vậy, hoạt động của ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó, để đưa ra những giải nâng cao chất lượng tín dụng thì phải tìm ra nguyên nhân, tìm ra những yếu tố tác động đến chất lượng tín dụng. Dưới đây là những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHCT.AG. 4.4.2.1. Nguyên nhân chủ quan Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả. Nguyên nhân một phần do hạn chế về trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng bao gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Khách hàng doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu mà ngân hàng cho vay là ngành thủy sản và điện nước. Tuy các doanh nghiệp này có quy mô lớn nhưng hiệu quả hoạt động kinh doanh không cao như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên có rủi ro cao. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực phát triển năng động trong nền kinh tế thị trường và đang có xu hướng phát triển đáng kể. Tuy mức độ rủi ro của từng bộ phận cá biệt trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có thể cao, nhưng do mỗi đối tượng nhỏ và tính hệ thống thấp cho nên xét về tổng thể rủi ro được phân tán và khả năng xảy ra rủi ro ở quy mô thấp. Một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh đó là yếu tố con người. Cán bộ tín dụng của Chi nhánh có khoảng 95% trình độ đại học, đa số còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm. Có những ngành nghề kinh doanh của khách hàng, cán bộ tín dụng chưa thật sự am hiểu. Do đó, khó khăn trong vấn đề xác định tính khả thi về phương án kinh doanh của khách hàng cũng như càng không thể tư vấn cho khách hàng để hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. Công tác kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng chưa đảm bảo còn mang tính sơ sài, thiếu tính nghiệp vụ và chưa đánh giá được khả năng thu hồi của những khoản vay. 4.4.2.2. Nguyên nhân khách quan Có nhiều nguyên nhân khách quan nằm ngoài hệ thống của ngân hàng tác động làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trong đó có một số nguyên nhân sau: Nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền kinh tế An Giang nói riêng còn lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm, may gia công,...) vốn rất nhạy cảm với những rủi ro của thời tiết và biến động giá cả của thế giới nên dễ bị ảnh hưởng khi thị trường biến động xấu. Về điều kiện vay vốn, thực tế rất khó để tìm kiếm những doanh nghiệp có đủ điều kiện, như vậy có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp muốn vay mà không được. Nếu nới lỏng điều kiện cho vay thì rất dễ ảnh hưởng đến ngân hàng khả năng gánh chịu rủi ro cao. Khi cho vay khách hàng doanh nghiệp để xác định khả năng tài chính khách SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 51 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh hàng chủ yếu dựa vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nếu báo cáo tài chính thiếu trung thực thì việc đánh giá của cán bộ tín dụng chỉ là hình thức. Có nhiều trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích nhưng cũng không trả được nợ cho ngân hàng. Trường hợp rủi ro phát sinh do khách hàng kinh doanh không hiệu quả dẫn đến thua lỗ. Việc thua lỗ vì sản phẩm của họ không cạnh tranh lại các sản phẩm khác, dần dần bị mất thị phần. Bên cạnh những khách hàng vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, tuy nhiên cũng có một số khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích làm kết quả hoạt động kinh doanh không hiệu quả, không trả nợ cho ngân hàng được. Hiện nay các NHTMCP trên địa bàn có nhiều sản phẩm huy động vốn hấp dẫn, lãi suất huy động cao, công nghệ thanh toán nhanh chóng, thực hiện quảng cáo, tiếp thị chăm sóc khách hàng rất tốt do đó đã thu hút lượng vốn lớn từ các ngân hàng thương mại Nhà Nước chuyển sang. 4.5. Một giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ngắn hạn Qua phân tích về thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn và đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCT.AG giai đoạn 2006 – 2008 đã cho thấy những kết quả đạt được về huy động vốn, cho vay, hoạt động kinh doanh và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Từ nguyên nhân, tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Chi nhánh đòi hỏi phải có những giải pháp cơ bản, đồng bộ để nâng cao chất lượng tín dụng. Có như vậy NHCT.AG mới có thể phát triển một cách an toàn, hiệu quả. Với những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng, khóa luận xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời hạn chế những rủi ro trong hoạt động tín dụng như sau: 4.5.1. Giải pháp tăng trưởng nguồn vốn huy động Trong điều kiện hiện nay, vốn huy động của ngân hàng chỉ đáp ứng khoảng 65% đến 80% nhu cầu đầu tư cho tín dụng ngắn hạn, phần còn lại ngân hàng phải nhận vốn điều hòa từ Trung ương. Do đó, việc tăng cường nguồn vốn huy động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động của ngân hàng nhằm chủ động trong đầu tư tín dụng. Để đảm bảo cho hoạt động cho vay cũng như đảm bảo tính thanh khoản NHCT.AG cần áp dụng các biện pháp tăng cường nguồn vốn huy động sau: Phải có những bộ phận tìm hiểu thị trường để nắm bắt nhu cầu của khách hàng ở những địa phương để từ đó có những sản phẩm huy động vốn phù hợp với nhu cầu thị trường. Có chính sách lãi suất huy động vốn linh hoạt theo nhiều kỳ hạn để đáp ứng được nhiều nhu cầu của khách hàng. Phát triển mạnh các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt: ATM, trả lương cho nhân viên qua tài khoản của các cơ quan ban ngành. Để thu hút thêm nguồn vốn có chi phí thấp. Đối với những khách hàng có nguồn tiền gửi lớn phải có những chính sách ưu đãi như: tặng quà, tặng thiệp cho khách hàng vào những ngày lễ lớn, tết cổ truyền Đa dạng hóa các hình thức huy động như tiết kiệm dự thưởng, mở tài khoản cá nhân,... SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 52 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh Thường xuyên theo dõi những sản phẩm, lãi suất huy động vốn của các ngân hàng trên cùng địa bàn để có những chính sách thích hợp thu hút khách hàng. 4.5.2. Giải pháp thu hút khách hàng Chi nhánh cần thực hiện tốt công tác chăm sóc khách hàng, chính sách phục vụ khách hàng cũng như chiến lược phát triển khách hàng để thu hút những khách hàng kinh doanh có hiệu quả đến quan hệ với ngân hàng. NHCT.AG cần thực hiện tốt chính sách thu hút khách hàng như: Quan tâm và giữ khách hàng truyền thống có quan hệ tốt với ngân hàng, đặc biệt khách hàng có tình hình tài chính ổn định, hoạt động có hiệu quả, đang quan hệ với ngân hàng. Tìm kiếm những khách hàng mới, làm ăn có hiệu quả, vay vốn đảm bảo. Bên cạnh đó, đối với những khách hàng làm ăn không hiệu quả ngân hàng nên khéo léo trong việc giảm dần dư nợ hiện tại, cho vay trên cơ sở phân tích kỹ những phương án kinh doanh, đảm bảo tính khả thi, nguồn trả nợ chắc chắn, tăng tài sản đảm bảo để hạn chế rủi ro. Tìm hiểu nguyên nhân của những khách hàng không quan hệ với ngân hàng mà chuyển sang giao dịch với ngân hàng khác để có những biện pháp khắc phục và thu hút lại lượng khách hàng này. 4.5.3. Giải pháp về nhân sự Một trong những đặc thù của ngành ngân hàng là các sản phẩm có tính vô hình, nên con người là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của ngân hàng. Đặc biệt đối với hoạt động tín dụng thì cán bộ tín dụng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng cũng như hạn chế những rủi ro trong hoạt động tín dụng. NHCT.AG cần chú ý trong việc tổ chức cán bộ như sau: Cán bộ tín dụng phải là người có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, trung thực và có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Cán bộ tín dụng phải có những kiến thức chuyên môn cao bên cạnh đó phải am hiểu tình hình kinh tế xã hội, am hiểu thị trường, kiến thức pháp luật. Cán bộ tín dụng phải có kiến thức sâu rộng trong các ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh để có thể thẩm định khách hàng khi cho vay một cách chính xác nhất. Cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên thái độ, tác phong của cán bộ tín dụng rất quan trọng. Cán bộ tín dụng phải có thái độ niềm nở, chân thật,... với khách hàng. Kiên quyết loại bỏ những cán bộ không có tính trung thực, đạo đức nghề nghiệp và luân chuyển cán bộ khi không phù hợp với trình độ chuyên môn. 4.5.4. Giải pháp hạn chế phát sinh nợ quá hạn Tín dụng là hoạt động chịu nhiều tác động từ tình hình kinh tế - xã hội. Mọi biến động của kinh tế, chính trị đều ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Do đó, hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro nằm ngoài khả năng kiểm soát của Ban lãnh đạo. Nợ quá hạn luôn là mối quan tâm của những nhà lãnh đạo trong ngân hàng, mặc dù đã có sự cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất nợ quá hạn nhưng nợ quá hạn vẫn phát sinh tại ngân hàng. Bởi lẽ không có một quy trình, chính sách tín dụng nào mà không phát SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 53 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 54 sinh nợ quá hạn vì có những yếu tố khách quan, những rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng không thể đoán trước được. Thông qua những số liệu tại chi nhánh cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng khá tốt nhưng vẫn phát sinh nợ quá hạn. Dưới đây là một số giải pháp để hạn chế, nâng cao hiệu quả xử lý nợ quá hạn: Trước khi cho vay phải hiểu rõ về khả năng tài chính khách hàng, phân tích ngành nghề kinh doanh của khách hàng xem có khả thi không, có khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng không. Thực hiện việc kiểm tra sau khi cho vay như xem khách hàng sử dụng vốn vay có sai mục đích không, nếu có xem ngành nghề mà khách hàng kinh doanh có khả năng trả nợ không, nếu không phải có những biện pháp xử lý kịp thời. Khi ngân hàng cho vay không muốn dựa vào tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Vì bằng cách này phải tốn nhiều thời gian và thủ tục để thanh lý tài sản đảm bảo tiền vay. Thế nhưng tài sản đảm bảo khi vay là một phương pháp hạn chế thiệt hại cho ngân hàng khi món vay không thu hồi được. Vì vậy, xác định chính xác giá trị tài sản đảm bảo tiền vay giữ vai trò quan trọng. Cán bộ tín dụng phải liên hệ thường xuyên với phòng kế toán để kiểm tra tình hình trả lãi vay, vốn gốc của khách hàng. Từ đó xác định được những món vay sắp đến hạn để cán bộ tín dụng sẽ có những biện pháp nhắc nhở, thông báo với khách hàng. 4.5.5. Giải pháp để thu hồi nợ Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh cũng muốn thu hút nhiều khách hàng. Hoạt động của ngân hàng cũng vậy muốn có hiệu quả cao trong quá trình hoạt động phải thu hút nhiều khách hàng, tín dụng phải có chất lượng. Khi cấp tín dụng cho khách hàng làm sao những khoản tín dụng đó thu hồi được đúng kỳ hạn không phải là vấn đề đơn giản. Một số giải pháp để thu hồi nợ NHCT.AG nên quan tâm: Ngân hàng cần bám sát đường lối chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh để có hướng đầu tư tín dụng phù hợp. Để đưa ra những quyết định cho vay đúng đắn, xử lý thu hồi nợ kịp thời, giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. Ngân hàng phải thường xuyên nắm chính xác, kịp thời và đầy đủ các thông tin về khách hàng vay vốn thông qua trung tâm tín dụng (CIC) để biết về thông tin khách hàng mới, khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Từ đó ngân hàng có những quyết định tín dụng phù hợp. Thường xuyên tiến hành phân tích báo cáo tài chính của khách hàng. Thông qua các báo cáo tài chính định kỳ, đột xuất mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng. Đặc biệt khách hàng có uy cơ phá sản, mất khả năng thanh toán,... Trên đây là những biện pháp có thể áp dụng để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mỗi giải pháp có tác dụng riêng vì vậy để các giải pháp này phát huy hiệu quả cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp trên. Tuy nhiên, khi rủi ro thật sự xảy ra thì phải tìm hiểu rõ nguyên nhân để có những giải pháp phù hợp. Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ # " 5.1. Kết luận Cùng với sự lớn mạnh của NHCT.VN, NHCT.AG cũng ngày càng phát triển và tự khẳng định mình trong nền kinh tế địa phương. Là NHTM mục đích kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà NHCT.AG còn chú trọng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế trong vài năm qua ngân hàng đã giúp người dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nâng cao đời sống người dân và tạo diện mạo mới cho nền kinh tế tỉnh nhà. Trong những năm qua nền kinh tế An Giang đang chuyển mình mạnh mẽ. Nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở vất, mua sắm tài sản cố định, đổi mới kỹ thuật công nghệ là hết sức cần thiết và cấp bách. NHCT.AG đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của tỉnh. Cụ thể, dư nợ cho vay ngắn hạn của ngân hàng qua các năm 2006 – 2008 đều tăng. NHCT.AG đã tạo được lòng tin đối với khách hàng nên nguồn vốn huy động từ nền kinh tế cũng tăng dần trong giai đoạn 2006 – 2008. Bên cạnh những kết quả đạt được ngân hàng còn gặp phải một số khó khăn như: nguồn vốn huy động chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho vay, nên phải nhận thêm vốn từ NHCT.VN, nợ quá hạn vẫn còn phát sinh. Thị phần của ngân hàng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2006 – 2008 do ngày càng nhiều ngân hàng đi vào hoạt động trên địa bàn đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt. Về công tác huy động vốn: Tuy nguồn vốn huy động có tăng qua 3 năm nhưng vốn huy động còn thấp so với nhu cầu vốn đầu tư cho tín dụng ngắn hạn. Ngân hàng cần sử dụng nhiều biện pháp để tăng nguồn vốn huy động, từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng chủ động trong nguồn vốn. Về công tác cho vay: Có thể nói chất lượng tín dụng của ngân hàng ngày càng được nâng cao thông qua doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ ngắn hạn đều tăng tuy nhiên vẫn còn phát sinh nợ quá hạn. Thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn ngắn hạn trên tổng dư nợ ngắn hạn cho thấy chất lượng tín dụng tại ngân hàng đã được cải thiện. Tỷ lệ này giảm từ 2006 – 2008, tỷ lệ này là 0,46% vào năm 2006, năm 2007 là 0,30% và 0,34% vào năm 2008. Các hoạt động khác: Hầu hết nguồn vốn của ngân hàng đã đầu tư cho công tác tín dụng. Tín dụng ngắn hạn chiếm khoảng 80% trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Các hoạt động khác chưa được chú trọng mở rộng chủ yếu chỉ là hoạt động cho vay truyền thống. Ngân hàng đạt được những kết quả khả quan như trên là nhờ vào sự chỉ đạo, quan tâm sâu sắc của Ban lãnh đạo cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên tất cả vì sự phát triển bền vững của ngân hàng. Bên cạnh đó, NHCT.AG còn được sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính quyền và nhiều ban ngành, đoàn thể địa phương đã tạo chỗ dựa cho ngân hàng hoạt động kinh doanh được thuận lợi. SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 55 Phân tích tín dụng ngắn hạn tại NHCT AG GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Vạn Hạnh SVTH: Bùi Thị Kim Bằng Trang 56 5.2. Kiến nghị Khi nền kinh tế hội nhập sẽ gây nên áp lực cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng với nhau. Không chỉ cạnh tranh với các ngân hàng trong nước mà còn có những ngân hàng nước ngoài mạnh về vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý cao. Chính vì thế để tồn tại và phát triển tự bản thân ngân hàng phải cố gắng vươn lên khắc phục những tồn tại yếu kém và thúc đẩy ngân hàng ngày càng phát triển. Qua phân tích và tìm hiểu quá trình hoạt động tín dụng tại ngân hàng, tuy hoạt động tín dụng của ngân hàng có chất lượng tương đối nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không ít khó khăn ảnh hưởng đến tiến trình phát triển. Để hạn chế rủi ro tín dụng của NHCT.AG, khóa luận xin đưa ra một số kiến nghị sau: Bất kỳ ngành nghề kinh doanh nào cũng đòi hỏi phải có sự thỏa mãn giữa cung và cầu. Do vậy, muốn thu hút ngày càng nhiều khách hàng ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược chiêu thị, quảng cáo các sản phẩm của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động phải tạo được lòng tin đối với khách hàng. Chú ý nhiều hơn vào khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đây là lượng khách hàng với số lượng lớn và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Không tập trung cho vay vào một số khách hàng với số tiền quá lớn mà phải phân tán nhiều ngành nghề, nhiều đối tượng khách hàng. Như vậy, sẽ hạn chế rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần hiểu biết về các ngành nghề kinh doanh của khách hàng để có thể đánh giá chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Từ đó, có những quyết định cho vay đúng đắn hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Cán bộ tín dụng có những am hiếu về tình hình kinh tế - xã hội, những thủ tục, chế độ của ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh. Tăng cường công tác tiếp thị đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để tăng nguồn ngoại tệ cho ngân hàng. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, chủ động tìm kiếm khách hàng và thực hiện các chính sách đối với khách hàng là tổ chức kinh tế để thu hút khách hàng mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng nhằm mục đích tạo nguồn vốn tiền gửi và thu phí dịch vụ. Ngân hàng cần quan tâm vào những khách hàng tại sao không quan hệ với ngân hàng mà chuyển sang giao dịch với ngân hàng khác, để có hướng giải quyết thích hợp. Mở rộng nhiều phòng giao dịch ở các huyện nhằm thu hút nhiều khách hàng, góp phần tăng thị phần cho ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng còn tập trung nhiều vào công tác vay, các dịch vụ ngân hàng khác chưa phát triển, ngân hàng cần khai thác các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Như vậy mới tăng khả năng cạnh tranh với các NHTMCP trên địa bàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Minh Kiều. 2009. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. TP Hồ Chí Minh: NXB Thống kê. 2. Nguyễn Thị Mùi. 2005. Nghiệp Vụ Ngân Hàng Thương Mại. Học viện Tài Chính Hà Nội: NXB Tài Chính. 3. NHNN Việt Nam. 2005. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005. Hà Nội. 4. NHNN Việt Nam. 2007. Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007. Hà Nội. 5. Lâm Hồng Bảo Chinh. 2008. Phân tích tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng công thương An Giang. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Kế toán doanh nghiệp. Khoa Kinh tế, Đại Học An Giang. 6. Trương Thị Lan Vi. 2008. Thực trạng rủi ro tín dụng trong cho vay chăn nuôi cá tra- basa tại ngân hàng Công Thương chi nhánh An Giang. Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế. Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1126.pdf
Tài liệu liên quan