Khóa luận Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt Nam hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG 3 MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH 3 HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN 3 1. Khái quát chung về hoạt động môi giới chứng khoán 3 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động môi giới chứng khoán 3 1.1.1. Sự cần thiết khách quan của hoạt động môi giới chứng khoán trên thị trường chứng khoán 3 1.1.2. Khái niệm hoạt động môi giới chứng khoán 6 1.2. Chức năng cơ bản của hoạt động mua bán chứng khoán 11 1.2.1. Chức năng thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán 11 1.2.2. Chức năng cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng 12 1.2.3. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp khách hàng thực hiện các giao dịch theo yêu cầu và lợi ích của họ 14 1.3. Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán 18 1.3.1. Giảm chi phí giao dịch 18 1.3.2. Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường 21 1.3.3. Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán với việc cải thiện môi trường kinh doanh 22 2. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán 26 2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán 26 2.1.1. Khái niệm 26 2.1.2. Đặc điểm của pháp luật môi giới chứng khoán 27 2.2. Cấu trúc pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán 27 CHƯƠNG II 29 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 29 PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 29 1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 29 1.1. Pháp luật quy định về chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán 29 1.2. Pháp luật quy định về nhân viên thực hiện môi giới chứng khoán 37 1.3. Nhà đầu tư 39 1.4. Pháp luật về thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán 40 1.5. Đánh giá về pháp luật hiện hành 42 2. Những đánh giá về thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua – nguyên nhân của thực trạng và những bài học kinh nghiệm được rút ra 49 2.1. Thực trạng 49 2.1.1. Hoạt động môi giới chứng khoán chưa đáp ứng được yêu cầu là nghiệp vụ cơ bản của một công ty chứng khoán 49 2.1.2. Số lượng và chất lượng nhân viên chứng khoán chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường 50 2.1.3. Nhà đầu tư chưa được tôn trọng đúng mức khi đến với các công ty chứng khoán 51 2.1.4. Đạo đức nghề nghiệp không được tuân thủ, thực hiện giao dịch tuỳ tiện gây thiệt hại cho nhà đầu tư 52 2.1.5. Dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán chưa đáp ứng yêu cầu là một dịch vụ hỗ trợ nghiệp vụ môi giới chứng khoán 53 2.2. Nguyên nhân của thực trạng 55 2.2.1. Do thị trường chứng khoán nước ta còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực; chưa hình thành được văn hoá kinh doanh chứng khoán 55 2.2.2. Do hệ tư tưởng bao cấp còn sót lại trong các doanh nghiệp 56 2.2.3. Do pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán chưa thật sự đầy đủ và đồng bộ 57 2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thực trạng trên 59 2.3.1. Ban hành các qui phạm pháp luật có tính chặt chẽ hơn 59 2.3.2. Giám sát chặt chẽ hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán trên thị trường 59 2.3.3. Xây dựng cơ sở vật chất làm nền tảng cho sự phát triển của trường 60 2.3.4. Học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới 61 2.3.5. Bài học từ sự đổ vỡ của các thị trường tài chính thế giới 62 3. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật môi giới chứng khoán hiện 63 KẾT LUẬN 69

doc72 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chọn lựa tổ chức thay mặt mình sử dụng đồng tiền. Hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển, môi giới chứng khoán là một nghề được trọng vọng trong xã hội, các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp được pháp luật qui định chặt chẽ cũng như do sự hình thành của tập quán buôn bán chứng khoán nhiều thế kỉ. c, Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán chưa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh trên thị trường OTC. Hầu hết các chế định của pháp luật môi giới chứng khoán mới dừng lại việc điều chỉnh hoạt động chứng khoán trên thị trường tập trung. Vấn đề điều chỉnh của pháp luật đối với thị trường OTC và thị trường thứ ba hầu như bỏ ngỏ. Hoạt động môi giới chứng khoán thực tế ở nước ta hiện nay mang tính chất “chợ đen” nhiều hơn là một thị trường bậc cao có tổ chức chặt chẽ và công khai. Những người môi giới trên thị trường OTC thực chất là những người có thông tin mà không phải là có chuyên môn về nghiệp vụ chứng khoán.Thị trường OTC là một loại thị trường phi tập trung, tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao dịch, mà dựa vào hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin không cần phải qua quầy giao dịch (over the counter). Do vậy để tồn tại một thị trường OTC đúng tiêu chuẩn đòi hỏi cơ sở vật chất cao có thể đáp ứng được việc buôn bán chứng khoán chỉ có sự liên hệ giữa các công ty chứng khoán với nhau, đồng thời phải có một cơ chế pháp luật có khả năng điều chỉnh thị trường này hiệu quả vì việc giao dịch không qua quầy chủ yếu dựa vào hệ thống internet rất khó kiểm soát, dễ gây rủi ro cho nhà đầu tư (Ví dụ như kiểm chứng thông tin chứng khoán và công ty niêm yết để bảo vệ nhà đầu tư, rủi ro về lộ thông tin mật mã giao dịch, tài khoản chứng khoán; dễ dàng thực hiện các giao dịch lừa đảo hay tội phạm trên internet…). Đây là các khó khăn mà pháp luật môi giới chứng khoán trên thị trường OTC phải giải quyết để bảo vệ nhà đầu tư. Dáng dấp của thị trường OTC mới chỉ hình thành ở Việt Nam. Hầu hết các niêm yết trên thị trường OTC ở Việt Nam là các công ty không đủ điều kiện niêm yết tại SGDCK. Việc buôn bán cổ phiếu của các công ty này hầu hết là giữa những người có thông tin mà không hề qua các công ty môi giới chứng khoán và không có một cơ chế tạo giá đúng tiêu chuẩn. Mặc dù các qui định về môi giới chứng khoán là những qui định điều chỉnh chung của thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung song các qui định này trên thực tế mới chỉ điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán trên sàn giao dịch. Hơn nữa, pháp luật môi giới chứng khoán chưa có qui định về một cơ chế tạo giá cũng như các tổ chức (nhà môi giới) có vai trò tương tự như các chuyên gia sàn giao dịch với vai trò khớp lệnh để tiến hành tạo giá cho thương vụ mua bán chứng khoán (nhà tạo giá), hơn thế, pháp luật cũng chưa có một qui định riêng biệt nào điều chỉnh thị trường OTC mặc dù đây là một thị trường hết sức phức tạp. Có thể nói pháp luật môi giới chứng khoán Việt Nam đang để thị trường OTC hoạt động theo xu hướng thị trường tự do hơn là một thị trường OTC của một thị trường chứng khoán đã phát triển. Khi thị trường chứng khoán Việt Nam mới thành lập thì việc bỏ ngỏ như thế này của pháp luật có thể chấp nhận nhưng việc hoàn thiện pháp luật để phát triển thị trường tự do theo đúng hướng để xây dựng một thị trường chứng khoán bậc cao là yêu cầu cần đáp ứng trong tương lai gần. d, Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán chưa có các qui định cũng như chế tài đầy đủ đối với các vi phạm trong hoạt động chứng khoán. Mặc dù có ưu điểm là điều chỉnh khá tập trung và chi tiết trên tinh thần hạn chế tối đa các văn bản hướng dẫn thi hành, song Luật chứng khoán 2006, cụ thể là pháp luật chứng khoán còn có nhược điểm là chưa qui định một cách đầy đủ các qui định về các vi phạm trong hoạt động môi giới chứng khoán cũng như có các chế tài đủ nghiêm khắc để xử lý các vi phạm trong hoạt động môi giới chứng khoán . Thứ nhất, như tất cả các ngành luật khác, chủ thể chỉ có thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật chứng khoán là cá nhân. Do vậy, có khá nhiều các hành vi phi phạm pháp luật gây thiệt hại nghiêm trọng nhưng chỉ đựơc coi là vi phạm hành chính và xử lý bằng các biện pháp của pháp luật hành chính như cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức phạt nghiêm khắc để chủ thể vi phạm không tái diễn. Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán chưa tách bạch hẳn chế độ trách nhiệm của người hành nghề chứng khoán của công ty chứng khoán với công ty. Các qui định như thế này rất khó khăn cho người xét xử cũng như không tách bạch được trách nhiệm của người thực tế vi phạm sẽ không áp dụng được chế tài đúng đắn và đủ nghiêm khắc. Ví dụ “công ty chứng khoán và người hành nghề chứng khoán của công ty lợi dụng chức trách, nhiệm vụ để mượn tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng, cầm cố sử dụng tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng uỷ thác thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền và tịch thu các khoản thu trái pháp luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật (Điều 125, khoản 3). Thứ ba, không thấy pháp luật có những qui định riêng biệt và cụ thể cho các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp chứng khoán gây thiệt hại cho khách hàng. Qui định về trách nhiệm nghề nghiệp của công ty chứng khoán và nhân viên chứng khoán được qui định tại điều 125 khoản 2 “Công ty chứng khoán không thực hiện đúng qui định của luật này về quản lý tài sản tiền, chứng khoán của khách hàng; không duy trì bảo đảm mức vốn khả dụng theo qui định; đầu tư hoặc tham gia vốn vượt quá mức qui định; làm trái lệnh của người đầu tư; không thực hiện chế độ bảo mật thông tin của khách hàng thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động”. Qui định này chỉ qui định về chế độ trách nhiệm của công ty chứng khoán, còn trách nhiệm của các nhân viên chứng khoán khi phục vụ giao dịch cho khách hàng rất dễ xảy ra do sai sót hay thiếu trách nhiệm lại không được qui định. 2. Những đánh giá về thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua – nguyên nhân của thực trạng và những bài học kinh nghiệm được rút ra 2.1. Thực trạng 2.1.1. Hoạt động môi giới chứng khoán chưa đáp ứng được yêu cầu là nghiệp vụ cơ bản của một công ty chứng khoán Nhìn lại hoạt động của thị trường chứng khoán 2006 có một kết quả hết sức đáng mừng là tổng lượng tiền lưu thông qua kênh chứng khoán đạt xấp xỉ 220 000 tỷ VNĐ, con số lớn hơn rất nhiều so với kế hoạch đến tận 2010. Mặc dù lượng vốn lưu thông lớn như vậy song tổng kết hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán năm 2006 lại không tương xứng với con số trên. Theo tổng kết, doanh thu của các công ty chứng khoán Việt Nam năm 2006 (tạp chí chứng khoán) thì doanh thu của các công ty này lại nằm chủ yếu ở hoạt động tự doanh chứng khoán (trên 30%) còn doanh thu từ hoạt động môi giới chứng khoán chỉ đạt rất khiêm tốn (khoảng 3.5% tổng doanh thu). Con số này không tương xứng với nghiệp vụ sơ bản của một công ty chứng khoán là nghiệp vụ môi giới chứng khoán, kết quả vốn lưu thông trên kênh chứng khoán cũng như tình hình thị trường chứng khoán trong năm 2006 khi các nhà đầu tư đổ xô vào đầu tư chứng khoán khiến thị trường nóng liên tục đặc biệt vào cuối năm, chỉ số VNINDEX đạt trên 1000 điểm. Vì sao có sự mâu thuẫn này? Đây chủ yếu là nguyên nhân kinh tế. Mặc dù lượng vốn lưu thông trên thị trường chứng khoán đạt mức cao như vậy nhưng phần lớn diễn ra ở thị trường sơ cấp. Phần lớn chứng khoán được phát hành của các công ty niêm yết được các nhà đầu tư tổ chức mua (công ty chứng khoán, ngân hàng…). Họ là những nhà đầu tư chuyên nghiệp đầu tư vào chứng khoán với mục đích là một cổ đông góp vốn lâu dài chứ không phải là một nhà đầu cơ chứng khoán ngắn hạn để hưởng chênh lệch giá. Đây là một trong những nguyên nhân khiến hàng hoá chứng khoán đặc biệt là của những công ty lớn luôn khan hiếm trên thị trường sơ cấp khiến thị trường nóng lên liên tục. Nguyên nhân thứ hai của hiện tượng này là mặc dù số lượng nhà đầu tư riêng lẻ muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán là rất lớn song số lượng các công ty môi giới chứng khoán mà đặc biệt là số lượng nhân viên môi giới chứng khoán quá mỏng để đáp ứng yêu cầu đặt lệnh cho nhà đầu tư. Kết quả là một lượng lớn khách hàng đã không được phục vụ. Hơn thế, con số 35% doanh thu từ hoạt động tự doanh chứng khoán chứng tỏ các công ty chứng khoán trong buổi đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, khi việc mua được chứng khoán của các công ty lớn (hầu hết các công ty niêm yết trong thời gian gần đây là những công ty nhà nước chuyển sang cổ phần hoá và thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng) cho chính mình đem đến cơ hội lợi nhuận cao hơn (nhờ việc các công ty này có quyền tự doanh chứng khoán) khiến các công ty chứng khoán không chú ý nhiều đến nghiệp vụ môi giới chứng khoán cũng như việc tăng cường lượng nhân viên môi giới chứng khoán phục vụ khách hàng (do phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước) khiến tình trạng số lượng nhà đầu tư đến đặt lệnh ở một công ty chứng khoán luôn quá tải so với lượng nhân viên chứng khoán có thể phục vụ. Việc không mở rộng kinh doanh trong trường hợp này của một công ty chứng khoán liệu có phải là một hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp? 2.1.2. Số lượng và chất lượng nhân viên chứng khoán chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường Theo con số thống kê hiện tại đến đầu năm 2007, số lượng nhân viên chứng khoán có chứng chỉ hành nghề chứng khoán là trên 300 người (bản tin thị trường chứng khoán – kênh VTC1) trong số hàng ngàn nhân viên làm việc cho các công ty chứng khoán Con số này thực sự không đáp ứng được nhu cầu đặt lệnh của số lượng nhà đầu tư trong những tháng gần đây. Không xét đến chất lượng của những nhân viên đã được cấp chứng chỉ hành nghề, chỉ xem xét đến số lượng chiếm phần lớn các nhân viên trong các công ty chứng khoán Những người này phần lớn chưa qua một lớp đào tạo nghiệp vụ chứng khoán nào nhưng vẫn là những nhân viên chính thức tư vấn, thực hiện việc mua bán chứng khoán cho khách hàng. Trong một thị trường phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro như thị trường chứng khoán thì chất lượng dịch vụ được cung cấp bởi những nhân viên không có chuyên môn như thế sẽ gây thiệt hại như thế nào cho khách hàng? Việc nhân viên chứng khoán không đủ tiêu chuẩn trong tình trạng hiện nay luật pháp có thể chưa can thiệp được hết vì các công ty chứng khoán có thể đăng kí họ dưới những vị trí làm việc khác. Nhưng một nguyên nhân của tình trạng thiếu nghiêm trọng những nhân viên có nghiệp vụ được đào tạo cơ bản là do thị trường chứng khoán của nước ta mới thực sự bắt đầu đi vào hoạt động, số lượng nhân viên chứng khoán được đào tạo mới có ở mức khiêm tốn và không thể đáp ứng nhu cầu thị trường ngay một lúc. Hiện tại trung tâm đào tạo chứng khoán thuộc UBCKNN đang liên tục mở các lớp nghiệp vụ chứng khoán với ba chuyên môn cơ bản là lớp chứng khoán cơ bản, lớp luật chứng khoán và lớp phân tích chứng khoán. Với những nỗ lực của cả phía nhà nước và các cá nhân, tình trạng nhân viên của các công ty chứng khoán vừa thiếu vừa không có chuyên môn sẽ có thể được cải thiện để đáp ứng nhu cầu thị trường, phục vụ tốt nhất các nghiệp vụ cho nhà đầu tư. 2.1.3. Nhà đầu tư chưa được tôn trọng đúng mức khi đến với các công ty chứng khoán Thứ nhất, nhà đầu tư bị phân biệt đối xử khi đến đặt lệnh tại các công ty chứng khoán Nguyên tắc công bằng bình đẳng giữa các nhà đầu tư không được nhiều công ty chứng khoán thực hiện. Trong trường hợp này những nhà đầu tư riêng lẻ thường là người bị chịu thiệt thòi. Việc phân biệt đối xử thể hiện trong việc các công ty chứng khoán thường ưu tiên thi hành lệnh của những nhà đầu tư lớn trước các nhà đầu tư nhỏ không kể ai là người có yêu cầu đăt lệnh trước. Cá biệt có công ty chứng khoán còn chỉ thực hiện lệnh cho một số nhà đầu tư có số giá trị đặt lệnh ở một mức tối thiểu, những nhà đầu tư không đạt con số này sẽ không được phục vụ. Trường hợp này là của công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương, khi giao dịch qua internet, công ty chứng khoán này chỉ thực hiện lệnh cho những khách hàng mua chứng khoán có giá trị từ 20 triệu đồng trở nên. Công ty này có giải thích là do số lượng khách hàng đặt mua qua mạng quá tải nên công ty phải đặt ra yêu cầu này để hạn chế số lượng khách hàng. Lý do này là hoàn toàn không thoả đáng với qui định mang tính nguyên tắc là công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa các nhà đầu tư (điều 4 luật chứng khoán 2006). Như vậy, nếu thực hiện đúng theo pháp luật thì các công ty chứng khoán phải đảm bảo thực hiện lệnh cho khách hàng kí hợp đồng trước không kể đến giá trị chứng khoán mà họ đặt mua chứ không phải là các qui định cá biệt mang tính chất phân biệt đối xử như trong trường hợp kể trên. Thứ hai, nhà đầu tư không được tiếp đón đúng mức khi đến các công ty chứng khoán đặt lệnh. Trong thời điểm chứng khoán là một kênh đầu tư thời thượng thu hút đông đảo các nhà đầu tư, người mua kẻ bán tranh nhau đặt lệnh; ai chậm chân thì người đó là người chịu thiệt; Số lượng các công ty chứng khoán cũng như nhân viên chứng khoán còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu thì hiện tượng “cửa quyền” doanh nghiệp vốn tiềm tàng nay xảy ra. Với tư tưởng nhà đầu tư là người cần mình, nhân viên chứng khoán tại nhiều công ty chứng khoán đã không thực hiện đúng vai trò của một nhân viên môi giới chứng khoán Tình trạng để khách chờ đợi đặt lệnh mà không biết lúc nào sẽ được phục vụ, không hướng dẫn khách hàng các thủ tục cần thiết để đặt lệnh, thậm chí nhiều trường hợp quát tháo khách hàng, …xảy ra ở nhiều công ty chứng khoán Khách hàng có thể rất khó chịu với tình trạng này, song thực tế họ không dễ dàng chuyển sang mở tài khoản chứng khoán tại một công ty chứng khoán khác vì họ biết chắc đây là tình trạng chung của các công ty chứng khoán Việt Nam, khi văn hoá và đạo đức nghề chứng khoán chưa được hình thành và coi trọng. Đây là một hình ảnh xấu của thị trường chứng khoán Việt Nam, là một phần tàn dư của chế độ quan liêu bao cấp cần phải loại bỏ để thu hút các nhà đầu tư cũng như tạo hình ảnh về một thị trường chứng khoán bậc cao của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế. 2.1.4. Đạo đức nghề nghiệp không được tuân thủ, thực hiện giao dịch tuỳ tiện gây thiệt hại cho nhà đầu tư Đây là vấn đề hết sức bức xúc của các nhà đầu tư. Tình trạng nhân viên chứng khoán không thực hiện lệnh cho khách hàng mặc dù họ đã đăng kí hay thực hiện không đúng lệnh gây thiệt hại cho nhà đầu tư không phải là hiếm ở các công ty chứng khoán Thực trạng này đã được phản ánh nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều khách hàng phàn nàn rằng, khi họ đến giao dịch, lệnh đã được chuyển đến bàn nhân viên môi giới từ rất lâu, tưởng rằng đã thực hiện được lệnh nhưng cuối phiên không thấy kết quả thì được nhân viên môi giới giải thích là do lệnh đặt quá lớn nên họ đã không thực hiện kịp. Với tình hình giá chứng khoán luôn thay đổi như hiện nay, việc thực hiện lệnh sai thời điểm có thể đã gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư, thì việc chuyển lệnh tới một phiên giao dịch kế tiếp như vậy thiệt hại sẽ là khó tính toán. Hoặc một số khách hàng khi đặt mua một lượng chứng khoán A với khối lượng mua nhất định thì đã bị các nhân viên của công ty chứng khoán vì những lỗi kĩ thuật đã thực hiện sai lệnh, kết quả là nhà đầu tư bị thiệt hại, con số lên hàng trăm triệu đồng; nhiều công ty chứng khoán còn không hướng dẫn khách thủ tục lấy cuống phiếu đặt lệnh, đến khi không thực hiện được lệnh hay thực hiện sai khách hàng không có chứng cứ so sánh để đòi công ty chứng khoán bồi thường. Nhà đầu tư bị thiệt hại rõ ràng nhưng không biết kêu ai vì bằng chứng thực hiện lệnh họ nắm giữ. Vấn đề còn tồn tại trong những trường hợp như thế này là các công ty chứng khoán đã không cung cấp đầy đủ các thủ tục cần thiết trong một giao dịch cho mọi khách hàng của mình,(đây là một nghĩa vụ của các công ty chứng khoán đối với khách hàng vì họ là người cung cấp dịch vụ), và vấn đề cần đặc biệt chú trọng quan tâm để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cho những nhân viên môi giới chứng khoán bởi việc thực hiện đúng giao dịch cho khách hàng là một trong những yêu cầu đạo đức đầu tiên của những người môi giới chứng khoán . 2.1.5. Dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán chưa đáp ứng yêu cầu là một dịch vụ hỗ trợ nghiệp vụ môi giới chứng khoán Trong các nghiệp vụ một công ty chứng khoán được thực hiện thì nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán mang tính ít chuyên nghiệp nhất mặc dù nghiệp vụ này thật sự cần thiết cho số lượng đáng kể các nhà đầu tư. Hiện nay số lượng người quan tâm và đầu tư vào chứng khoán ngày càng tăng và phần lớn là các nhà đầu tư nhỏ lẻ (có thể tổng lượng chứng khoán nắm giữ phải là đa số). Trong số họ, không phải ai cũng thật sự hiểu biết về thị trường chứng khoán cũng như có đầy đủ thông tin và kiến thức, đặc biệt là khả năng phân tích chứng khoán để có thể ra một quyết định đầu tư đúng đắn. Họ cần sự hỗ trợ cho quyết định đầu tư của mình. Pháp luật cho phép các công ty chứng khoán là tổ chức được thực hiện nghiệp vụ này. Tuy nhiên hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán mà các công ty chứng khoán cung cấp thực tế chưa thật sự là một nghiệp vụ tư vấn chứng khoán đúng nghĩa và đầy đủ cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Nghiệp vụ này mới chỉ dừng lại chủ yếu ở chỗ giải đáp các thắc mắc cơ bản về thị trường chứng khoán, trình tự đặt lệnh hay trình tự thực hiện lệnh mua bán từ công ty chứng khoán đến SGDCK hoặc giải đáp các thông tin về công ty niêm yết, chứng khoán niêm yết, thông tin xu hướng thị trường hay các chỉ số chứng khoán…mang tính chất cung cấp thông tin nhiều hơn là tư vấn đầu tư. Cái mà các nhà đầu tư muốn nhà tư vấn cho lời khuyên là những phân tích cụ thể về tình hình thị trường để từ đó có thể ra một quyết định đầu tư đúng đắn thì phần lớn các công ty chứng khoán chưa đáp ứng được yêu cầu này. Nằm trong tình trạng chung với nghiệp vụ môi giới chứng khoán, số lượng nhân viên thực hiện nghiệp vụ tư vấn cũng hầu hết là những người có chuyên môn không đầy đủ và phần lớn họ đảm nhận cả vai trò của một nhân viên môi giới. Đặc biệt thiếu trong các công ty chứng khoán là nhân viên phân tích kĩ thuật. Đây là loại nhân viên có vai trò then chốt trong chất lượng tư vấn mà công ty chứng khoán cung cấp. Những người này không trực tiếp đứng ra tư vấn, nhưng họ có vai trò nghiên cứu thị trường, đưa ra những phân tích khoa học và dự báo xu hướng thị trường để có thể ra quyết định đầu tư vào loại chứng khoán nào và vào thời điểm nào là hợp lý cho nhà đầu tư. Hầu hết các công ty chứng khoán chưa đặt đúng vai trò của nhân viên phân tích kĩ thuật nên trong các công ty chứng khoán họ không chỉ là một nhà phân tích chứng khoán đơn thuần mà còn kiêm nhiệm một vài vị trí làm việc khác. Việc không tập trung vào chuyên môn như thế này dẫn đến kết quả là hoạt động phân tích kĩ thuật không được chú trọng như là một nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động tư vấn chứng khoán, và chất lượng thông tin tư vấn chưa thật sự làm các nhà đầu tư tin tưởng. Theo con số thống kê năm 2005, doanh thu từ hoạt động tư vấn đầu tư đạt 3.4%. Đây chưa phải con số mà những nhà quản lý mong đợi. Nó cũng chưa phản ánh được tiềm lực của các công ty chứng khoán trong lĩnh vực này khi mà các nhà đầu tư riêng lẻ tăng mạnh và rất nhiều người trong số này cần lời khuyên tài chính từ những người có chuyên môn. 2.2. Nguyên nhân của thực trạng 2.2.1. Do thị trường chứng khoán nước ta còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực; chưa hình thành được văn hoá kinh doanh chứng khoán Tính từ thời điểm thị trường chứng khoán tập trung được chính thức thành lập là vào tháng 7 năm 2000. Từ đó đến nay mới là gần 7 năm. Con số này thực sự nhỏ bé so với con số hàng trăm năm của nhiều nước trên thế giới. Do vậy những khó khăn và yếu kém ban đầu là khó có thể tránh. Trong hoàn cảnh thị trường chứng khoán thế giới đã phát triển ở mức độ cao và hoàn thiện, chúng ta chỉ có thể tập trung phát triển thị trường chứng khoán của mình theo xu hướng hiện đại và ngày càng đuổi kịp các nước trên thế giới chứ không thể xây dựng thị trường chứng khoán theo những bước căn bản và sơ khai nhất. Việc phải xây dựng thị trường chứng khoán bậc cao trên một nền tảng cơ sở hạ tầng của một nước đang phát triển gây ra những khó khăn đáng kể. Để có thể xây dựng thị trường chứng khoán bậc cao đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kĩ thuật phát triển, đặc biệt là công nghệ thông tin, cũng như một trình độ quản lý tổ chức cao. Những đòi hỏi này chúng ta chưa thể đáp ứng trong một sớm một chiều. Hiện nay trong bảng xếp hạng thế giới, Việt Nam đang nằm trong 20% các nước kém phát triển nhất về khoa học kĩ thuật. Việt Nam cũng mới chỉ có một phần mềm duy nhất được Microsoft đưa vào danh sách các phần mềm đưa vào phát triển. Đây chỉ là các con số tương đối nhưng nó cũng đã chứng minh một điều là chúng ta đang thật sự tụt hậu so với các nước về khoa học kĩ thuật. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cả về cơ sở vật chất lẫn nhân lực sử dụng. Một số doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư xây dựng công nghệ nhưng nguồn nhân lực lại chưa khai thác hết tiện ích và tính năng trong kinh doanh của hệ thống máy móc đã được lắp đặt, và con số các doanh nghiệp có chi phí đầu tư vào cơ sở vật chất công nghệ ở mức cao là không nhiều. Các công ty chứng khoán không nằm ngoài tình trạng chung này. Không cần so sánh với những nước đã thật sự phát triển, hiện tại các doanh nghiệp này cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước. Một nguyên nhân của thực trạng trên là chúng ta chưa có văn hoá riêng của lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Để hình thành được khái niệm văn hoá phải trải qua một quá trình lâu dài, và con số 7 năm chưa phải là một con số lớn. Trong buổi đầu của thị trường chứng khoán các nước phát triển bây giờ hiện tượng tranh mua tranh bán, chụp giật lừa đảo, vi phạm hợp đồng tràn lan…cũng là những hiện tượng phổ biến. Trải qua hàng trăm năm phát triển, nhiều qui tắc, tập quán, thói quen trong kinh doanh chứng khoán mới hình thành và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Các qui tắc này lại không giống hoàn toàn với trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế, nó không được tập hợp vào một qui chế chung của các nứơc tham gia kí kết (bởi thị trường chứng khoán tâp trung chỉ tiến hành các giao dịch trong phạm vi của nó), cũng không thể học hỏi một cách hoàn toàn sao chép bởi mỗi nứơc có cách tổ chức thị trường chứng khoán không giống nhau, các qui định pháp luật điều chỉnh khác nhau. Các tập quán này hình thành và phát triển qua quá trình phát triển thị trường chứng khoán ở mỗi quốc gia. Chúng ta đang trong quá trình này nên những tồn tại trong thị trường chứng khoán là điều không tránh khỏi. 2.2.2. Do hệ tư tưởng bao cấp còn sót lại trong các doanh nghiệp Mặc dù hiện tượng quan liêu cửa quyền thường được nhắc đến gắn liền với các cơ quan hành chính và đặc biệt trong những năm nước ta còn giữ chế độ bao cấp, nhưng do ảnh hưởng của chế độ này rất lớn với đa số người dân Việt Nam, nó vẫn tồn tại như là một phần văn hoá và sẽ lại gây ảnh hưởng khi có cơ hội. Nhiều người vẫn nhớ cảnh người ta xếp hàng dài để mua được một mặt hàng nào đấy. Hàng hoá thì thiếu thốn như vậy song các doanh nghiệp lại không chủ động sản xuất, mọi thứ đều theo chỉ tiêu và do nhà nước lo. Người làm doanh nghiệp không phải lo sản xuất cái gì, bao nhiêu, lỗ lãi thế nào vì hàng hoá của họ dù tốt dù xấu cũng được nhà nước bao tiêu và những con người phải đứng xếp hàng ngoài kia chấp nhận vì họ cần hàng hoá; có hàng để mua đã là tốt rồi, họ không có quyền lựa chọn không chỉ giữa các loại hàng hoá với nhau mà không có quyền lựa chọn mua hay không mua. Chứng khoán là một lĩnh vực mới mẻ và đang thu hút số lượng lớn nhà đầu tư tham gia thị trường, gần như những người có tiền đổ xô vào chứng khoán hơn bất kì hình thức đầu tư cổ điển khác như nhà đất, vàng, ngoại tệ hay tổ chức kinh doanh sản xuất. Số lượng người đầu tư lớn như vậy nhưng số công ty chứng khoán hiện tại chưa nhiều, lượng nhân viên chứng khoán có trình độ đếm trên đầu ngón tay ở mỗi doanh nghiệp không đủ để đáp ứng yêu cầu đặt lệnh cho khách hàng. Mặt khác, hiện tại hàng hoá trên thị trường chứng khoán lại chưa nhiều để đáp ứng nhu cầu đầu tư (cung chứng khoán thiếu), nhà nước phải tiến hành cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp để đưa vào niêm yết tăng nguồn cung cho thị trường. Trong tình trạng thị trường chứng khoán của chúng ta như vậy hiện nay, hiện tượng tranh mua tranh bán là điều khó tránh khỏi, ai nhanh hơn là người nắm được cơ hội. Nhà đầu tư lại cần các công ty chứng khoán mới có thể thực hiện được các giao dịch mua bán chứng khoán cho mình. Tất cả các yếu tố trên dẫn đến thực trạng là nhà đầu tư cần công ty chứng khoán hơn là công ty chứng khoán cần nhà đầu tư vì họ còn rất nhiều người để phục vụ, hoặc tự mình tự doanh chứng khoán cũng mang lại nguồn thu đáng kể hơn rất nhiều. Do vậy các ở các công ty chứng khoán xảy ra các hiện tượng như thực hiện chậm lệnh cho khách, bỏ sót, thực hiện sai lệnh, không có sự phục vụ chuyên nghiệp…thậm chí gây thiệt hại lớn cho khách hàng mà khách hàng không biết kêu ai khá phổ biến hiện nay. Đây là yếu tố tiêu cực chủ quan còn tồn tại trên thị trường chứng khoán cần phải sớm khắc phục bằng nhiều cơ chế trong đó cơ chế pháp luật là cơ chế khả thi để phát triển một thị trường chứng khoán lành mạnh và phát triển. 2.2.3. Do pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán chưa thật sự đầy đủ và đồng bộ Trước khi Luật chứng khoán 2006 có hiệu lực, các văn bản pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như hoạt động môi giới chứng khoán được ban hành rải rác, không tập trung và chưa hoàn toàn nhất quán. Luật chứng khoán 2006 được mong đợi là văn bản điều chỉnh chứng khoán và thị trường chứng khoán tương đối hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu hiện nay của thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển. Dù được xây dựng khá công phu, có sự tham khảo mô hình tổ chức thị trường cũng như pháp luật chứng khoán nhiều nước nhưng nhưng chúng ta cũng chưa xây dựng được một khung pháp luật chứng khoán và pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán thật sự có khả năng điều chỉnh được mọi vấn đề của thị trường. Những tồn tại mà pháp luật môi giới chứng khoán chưa điều chỉnh được đã được phân tích ở trên như là pháp luật môi giới chứng khoán chưa phù hợp với pháp luật , chưa qui định rõ vấn đề đạo đức trong kinh doanh chứng khoán, chưa có chế tài đủ mạnh để các tiêu cực hạn chế xảy ra ở mức thấp nhất…tất cả những tồn tại này là một nhân tố quan trọng trong các nhân tố tạo ra các thực trạng cần xoá bỏ nêu trên của thị trường chứng khoán Pháp luật là một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng, nó bị cơ sở hạ tầng chi phối. Kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên cơ sở sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nhưng đây chỉ là qui luật mang tính tương đối bởi trong xã hội, sự phát triển ở mỗi nước không giống nhau, kiến trúc thượng tầng pháp lý cũng có thể được các nước tham khảo và xây dựng để định hướng xây dựng cơ sở hạ tầng. Trên thực tế, pháp luật của chúng ta được xây dựng theo hướng này. Năm 1998, chính phủ ra nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng đến tận năm 2000 thị trường chứng khoán tập trung mới được chính thức hình thành với sự ra đời của TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh. Trên tinh thần này. Luật chứng khoán 2006 đã được xây dựng với các qui định khá mở để đáp ứng các yêu cầu hội nhập sau khi Việt Nam gia nhập WTO và tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển theo cơ chế thị trường đúng với bản chất của nó. Mặc dù các văn bản này chưa điều chỉnh được hết các tồn tại của thị trường chứng khoán song không thể phủ nhận những thành tựu của nó đã xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam như ngày hôm nay. 2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thực trạng trên 2.3.1. Ban hành các qui phạm pháp luật có tính chặt chẽ hơn Khi thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu trở nên sôi động vào cuối năm 2005 và đặc biệt vào năm 2006, khi các văn bản pháp luật chứng khoán được thông qua với các qui định mở tạo điều kiện thông thoáng cho thị trường chứng khoán phát triển. Một loạt các công ty chứng khoán được thành lập, tính đến thời điểm cuối năm 2006 đã có khoảng hơn năm mươi công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động. Tuy nhiên, mặc dù là một thiết chế tài chính trên thị trường song các qui định về công ty chứng khoán lại chưa thật sự chặt chẽ, không đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư khi là khách hàng của những tổ chức này. Đó là việc luật chứng khoán cho phép tư nhân thành lập và làm chủ công ty chứng khoán, việc thiếu cơ chế kiểm soát nội bộ. Chính các qui định này đã góp phần tạo ra các tiêu cực đã xuất hiện trên thị trường. Những tồn tại này cho chúng ta một bài học là cần phải xây dựng pháp luật đồng bộ, đầy đủ chặt chẽ và phù hợp sát với thị trường chứng khoán. Tuy nhiên đây là một việc khó đối với các nhà lập pháp Việt Nam vì pháp luật vừa có tính định hướng cho tương lai, vừa phù hợp được với trình độ phát triển của thị trường. Điều này cần một trình độ lập pháp tương đối cao, chúng ta cần học hỏi từ các nước đã phát triển về trình độ lập pháp cũng như những nước có mô hình thị trường chứng khoán thành công. 2.3.2. Giám sát chặt chẽ hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán trên thị trường Gần đây báo chí đăng tin nhiều về các phàn nàn của người đầu tư khi đặt lệnh mua bán chứng khoán tại các công ty chứng khoán. Nguyên nhân của thực trạng khách hàng bị phân biệt đối xử, bị người môi giới thực hiện lệnh sai hoặc không thực hiện lệnh… , trong đó đặc biệt phải kể đến là nguyên nhân các công ty chứng khoán cũng như những nhân viên của họ đang trở thành những kẻ “hành chính doanh nghiệp”. Mặc dù không có quyền lực nhà nước trong tay nhưng các công ty này lại có các điều kiện để hành động không vì lợi ích khách hàng như vậy. Trong khi chúng ta đang tiến hành cải cách hành chính, xoá bỏ tệ tham nhũng quan liêu nhũng nhiễu trong các thủ tục hành chính thì chúng ta lại bỏ quên vấn đề hành chính doanh nghiệp đã xuất hiện trong thời kì bao cấp và để nó sống lại trong điều kiện nền kinh tế hội nhập. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến hình ảnh của Việt Nam đối với quốc tế, ảnh hưởng đến quyền lợi nhà đầu tư và tốc độ phát triển của thị trường chứng khoán Do vậy chúng ta phải tăng cường giám sát và điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán nhiều hơn nữa để kiểm soát và hạn chế tình trạng này. Để làm được điều này, chúng ta cần có những qui định chế độ trách nhiệm của công ty chứng khoán và người môi giới cả về hành vi và chế tài xử phạt vi phạm cao hơn nữa. Đồng thời tăng cường sự hoạt động của Ban thanh tra chứng khoán giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán tránh tình trạng các công ty này lạm dụng tình hình thị trường còn chưa ổn định vì lợi ích của mình gây thiệt hại cho khách hàng mà khách hàng không biết kêu ai như hiện nay. 2.3.3. Xây dựng cơ sở vật chất làm nền tảng cho sự phát triển của trường Tình hình thị trường chứng khoán của chúng ta hiện nay đang rơi vào tình trạng cung không đủ cầu. Hàng hoá chứng khoán đã thiếu thốn nhưng người có thể trực tiếp mua bán cũng hết sức “thiếu thốn”. Số lượng công ty chứng khoán gần đây được thành lập rất nhiều song thực tế lại chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Thực chất của vấn đề này không chỉ ở chỗ chúng ta đang thiếu nhân viên chứng khoán vì đây là một nghề mới của thị trường mà còn do cơ sở vật chất, kĩ thuật công nghệ của chúng ta phần nào chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường bậc cao. Hơn nữa chất lượng thật sự của các nhân viên chứng khoán cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu trong vấn đề sử dụng công nghệ để thực hiện nghiệp vụ chuyên môn. Do vậy chúng ta khi xây dựng thị trường chứng khoán trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay, cần tập trung hơn nữa vào việc đầu tư công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực của thị trường chứng khoán chất lượng. Yêu cầu này không phải là những yêu cầu nhất thời mà nó ngày càng đòi hỏi cao hơn khi mà thị trường chứng khoán ngày càng phát triển cả về qui mô vốn lưu thông lẫn trình độ quản lý, trình độ cập nhật và áp dụng công nghệ của thế giới. Mặc dù đang xây dựng thị trường chứng khoán theo hướng hiện đại nhưng chúng ta chưa có sự chuẩn bị và đầu tư đầy đủ. Khắc phục tình trạng ùn tắc lệnh đặt của khách hàng và các tình trạng tiêu cực khác không chỉ là cho phép thành lập ồ ạt các công ty chứng khoán mà phải chú trọng đến các tiêu chuẩn kĩ thuật, các yêu cầu chuyên môn và mức độ áp dụng công nghệ theo những tiêu chuẩn bắt buộc. Cũng cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán Đây là bài học chúng ta có thể và cần phải áp dụng ngay từ ngày hôm nay để xây dựng được một thị trường chứng khoán phát triển và hiện đại như mục tiêu đã đặt ra. 2.3.4. Học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới Các vấn đề còn tồn tại trên thị trường chứng khoán và trong hoạt động môi giới chứng khoán của chúng ta không phải là vấn đề tất yếu mà hoàn toàn có thể khắc phục được. Những nước đã có thị trường chứng khoán phát triển lâu đời hơn chúng ta cũng đã gặp những bất cập tương tự trong giai đoạn phát triển của mình. Khi xây dựng thị trường chứng khoán tập trung, chúng ta đã đầu tư nghiên cứu mô hình và cách thức tổ chức quản lý thị trường chứng khoán của nhiều nước để xây dựng thị trường chứng khoán của mình. Việc học hỏi kinh nghiệm của các nứơc có thị trường chứng khoán phát triển và đặc biệt của của những nước có mô hình thị trường chứng khoán tương tự như chúng ta có ý nghĩa to lớn. Nhìn vào hoạt động đã qua của họ chúng ta biết mình cần làm những gì, cần tránh những gì, cần phát triển theo xu hướng như thế nào là phù hợp. Thị trường chứng khoán của chúng ta không hoàn toàn giống bất cứ một mô hình thị trường chứng khoán tập trung nào trên thế giới, song những bước phát triển của thị trường lại có tính qui luật. Do vậy, những thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán thế giới là một bài học lớn mà chúng ta phải nghiên cứu để áp dụng cho thị trường chứng khoán của mình. Sẽ là không tưởng nếu cho rằng việc học tập từ kinh nghiệm của thị trường chứng khoán các nước có thể loại trừ hoàn toàn những bất cập của thị trường. Nhưng nếu chúng ta áp dụng hợp lý những kinh nghiệm này thì những tồn tại nêu trên của thị trường chứng khoán sẽ không nhiều và phổ biến như hiện nay. 2.3.5. Bài học từ sự đổ vỡ của các thị trường tài chính thế giới Năm 1997, năm tồi tệ của thị trường tài chính Thái Lan và nhiều nước châu á. Từ sự khủng hoảng của thị trường tiền tệ khi đồng Bạt rớt giá thê thảm kéo theo sự đổ vỡ của cả thị trường tài chính. Nhiều ngân hàng và công ty chứng khoán phá sản, giá chứng khoán của các thiết chế này được tính bằng xu, người sở hữu những chứng khoán này cũng phá sản theo nó. Tuy nhiên trong cuộc khủng hoảng này có rất nhiều người được lợi. Một số nhà tỷ phú đã kiếm được hàng tỷ USD từ cuộc khủng hoảng này. Liệu có sự thao túng nào đã khiến cuộc khủng hoảng này xảy ra. Người ta cũng đang nghi ngờ liệư thị trường chứng khoán Việt Nam đang tiềm ẩn nguy cơ bong bóng chứng khoán. Tại sao trong một khoảng thời gian ngắn như vậy thị trường chứng khoán của chúng ta có thể huy động lượng vốn theo các tính toán khoa học căn cứ vào tình hình phát triển của thị trường cũng như lượng tiền trong xã hội thì con số ấy chỉ đạt được trong vài năm tới. Hiện tại lượng vốn chứng khoán huy động lên tới con số xấp xỉ 1/3 GDP, giá chứng khoán cũng tăng nhiều lần trong khoảng thời gian ngắn. Đây có phải là điều bất hợp lý không. Lượng tiền đầu tư vào chứng khoán đó lấy ở đâu ra khi mà lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế không thể có sự biến động lớn đến vậy. Liệu việc các ngân hàng, dù bị các hạn chế về đầu tư chứng khoán nhưng lại đang có xu hướng cho vay đầu tư chứng khoán đang bơm tiền vào thị trường này khiến thị trường nóng lên không thực chất; hay việc các nhà đầu tư đang chạy theo xu hướng ồ ạt bỏ tiền vào chứng khoán trong tình hình thị trường chưa thật sự phát triển đến vậy có đang tạo ra xu hướng tăng giá chứng khoán giả tạo. Liệu có phải đang có một bong bóng chứng khoán đang hình thành.. Trong các trường hợp như thế này thì những lời tư vấn chứng khoán của các nhà môi giới không còn mấy tác dụng với nhà đầu tư, họ đang bị xu thế và lợi ích kéo theo. Thậm chí các ngân hàng còn gia tăng lượng ngân quĩ cho vay đầu tư chứng khoán hay các công ty chứng khoán cũng không bỏ lỡ cơ hội mua bán chứng khoán tự doanh cho mình. Tất cả có thể đang ngày càng thổi phồng cái bong bóng giả tạo đó lên để chờ đợi nó đến vỡ tung. Hệ quả là không chỉ các nhà đầu tư là những người chịu thiệt hại đầu tiên mà chính những ngân hàng và các công ty chứng khoán cũng bị kéo theo sự sụp đổ này. Các cơ quan chức năng cần có sự nghiên cứu nghiêm túc vấn đề này để tránh nguy cơ khủng hoảng tài chính tiền tệ như đã từng xảy ra ở Thái Lan 3. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật môi giới chứng khoán hiện Hiện nay, Luật chứng đã có hiệu lực thi hành, tuy nhiên các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành và cụ thể hoá các quy định của luật chứng khoán. Cụ thể trong thời gian tới Chính phủ và Bộ Tài chính cần ban hành các văn bản pháp quy sau đây tạo ra khuôn khổ pháp lý đầy đủ đồng bộ điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán nhằm nâng cao quy mô, năng lực và chất lượng dịch vụ cung cấp của các công ty - Ban hành Quy tắc đạo đức nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán; Xây dựng và ban hành bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kinh doanh chứng khoán. - Quy chế kiểm soát nội bộ, giám sát tuân thủ trong công ty chứng khoán trên cơ sở đó các công ty chứng khoán hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự, Xây dựng các quy trình kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro. - Ban hành Quy chế cho phép công ty chứng khoán cho khách hàng thực hiện giao dịch vay tiền mua chứng khoán, bán khống chứng khoán; - Ban hành Điều lệ mẫu công ty chứng khoán; - Quy định yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất, công nghệ thông tin phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán (như về mặt bằng sàn giao dịch, hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống kho két bảo quản giấy tờ có giá của khách hàng, hệ thống an toàn, an ninh). - Tiêu chí quản lý, giám sát điều kiện cấp phép, an toàn tài chính công ty chứng khoán trên cơ sở đó để các công ty chứng khoán tăng cơ sở vật chất, nâng cao năng lực tài chính, mở rộng mạng lưới nghiệp vụ kinh doanh đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả. - Sửa đổi chế độ kế toán công ty chứng khoán nhằm đảm bảo quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán một cách minh bạch, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đầu tư. - Sửa đổi Thông tư hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với công ty chứng khoán; Thông tư về phí và lệ phí đối với lĩnh vực chứng khoán; Những giải pháp cụ thể: Thứ nhất, phải đưa tính phù hợp thành một nguyên tắc trong dịch vụ môi giới chứng khoán. Trong khuôn khổ pháp lý của thị trường chứng khoán tính phù hợp là một nghĩa vụ từ phía người môi giới, họ chỉ được khuyến nghị những chứng khoán nào phù hợp với nhu cầu của một khách hàng riêng biệt. Tính phù hợp áp đặt một trách nhiệm lên nhà môi giới phải tính ngưỡng rủi ro của khách hàng của mình khi đề xuất hoặc bán chứng khoán cho họ … theo học thuyết về tính phù hợp người môi giới có thể hoàn trách nhiệm của mình bằng cách thông báo cho khách hàng biết về những khía cạnh rủi ro của giao dịch theo một cách mà cho phép khách hàng tuỳ theo năng lực cá nhân của họ có thể so sánh những rủi ro này với ngưỡng của riêng mình,và do đó tự xác định lấy tính phù hợp. Nếu một khách hàng từ chối cung cấp thông tin cho người môi giới đủ để xác định ngưỡng rủi ro thì người môi giới không có trách nhiệm phải ngăn cản khách hàng khỏi việc mua những chứng khoán vượt qua ngưỡng rủi ro của họ. Thứ hai, Thắt chặt hơn những vấn đề về tuân thủ. Đơn xin mở tài khoản mới thì ngoài mẫu đơn thống nhất đã được quy định trong văn bản pháp luật. Tuy nhiên mỗi công ty chứng khoán đều có thể bổ sung những chi tiết mà công ty mình yêu cầu theo những tiêu chí quản lý riêng của công ty. Theo chúng tôi, trong mọi trường hợp cần lưu ý một số nội dung không thể thiếu trong mẫu đơn. Đó là địa chỉ nơi ở và nơi làm việc, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và thu nhập của khách hàng. Nghề nghiệp của khách hàng cần được biết nhằm hai mục đích: giúp người môi giới hiểu rõ hơn về mức độ am hiểu đầu tư của khách hàng và một số loại công việc cần có sự chấp thuận trước của thủ trưởng cơ quan. Chẳng hạn ở Mỹ các nhân viên ngân hàng và công ty bảo hiểm phải được ông chủ đồng ý mới được mở tài khoản bảo chứng với công ty chứng khoán. Tình trạng hôn nhân của khách hàng cũng cần được chỉ định rõ trong tờ khai cho dù không cần nêu tên người vợ hoặc chồng. Nhưng nếu vợ hoặc chồng làm việc trong một cơ quan nào đấy thì ghi rõ tên vì có một số giao dịch thuộc loại bị tổ chức đó cấm sẽ được thực hiện dưới tên người khác.Việc lưu giữ những thông tin này sẽ giúp tạo thuận lợi cho việc kiểm soát mỗi khi có xảy ra tình trạng lạm dụng. Thu nhập hàng năm và giá trị tài sản ròng của khách hàng cũng rất quan trọng. Cũng như việc làm, thu và tài sản ròng không phải là chỉ dẫn đáng tin cậy về sự hiểu biết và ngưỡng rủi ro mà khách hàng đem lại cho tài khoản song ngưỡng thực tế này giúp việc thiết lập thông tin cơ bản về tính phù hợp. Người môi giới phải nhập vào máy những thông tin này đúng như báo cáo của khách hàng. Không nên phỏng đoán hay ước tính thu nhập của khách hàng chỉ dựa trên diện mạo hay nghề nghiệp cụ thể, vì điều đó nhiều khi không chính xác. Mục tiêu đầu tư đây là một loại thông tin quan trọng nhất mà cũng thường bị lạm dụng nhất. Nếu không nắm được mục tiêu đầu tư của khách hàng thì sẽ không thể thực hiện được nguyên tắc tính phù hợp. Người môi giới không được tự điền vào mục này mà không hỏi ý kiến của khách hàng. Đôi khi người môi giới tự ghi vào một mục tiêu chung chung kiểu như “đầu cơ ” vì nghĩ rằng cách đó biện minh được cho tất cả các khuyến nghị của họ với khách hàng; Hoặc người môi giới không đặt ra câu hỏi về mục tiêu đầu tư, nên khách hàng cũng không biết rằng đó là một tiêu chí phải cung cấp trong tờ khai Với định hướng hoạt động của công ty chứng khoán trong chức năng môi giới là cung cấp dịch vụ đầy đủ và chịu trách nhiệm cá nhân về những khuyến nghị đảm bảo tính phù hợp thì chúng tôi cho rằng trong mọi trường hợp người môi giới phải nắm chắc mục tiêu đầu tư của khách hàng và theo sát mục tiêu đó. Hàng hoá trên thị trường càng phong phú thì việc đưa ra khuyến nghị mua hoặc bán cho người đầu tư phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp. Vì vậy cần bổ sung thêm nội dung này vào tờ khai mở tài khoản và hồ sơ lưu về khách hàng. Thứ ba, Thiết lập quy trình thống nhất về giám sát nội bộ Đây là một công việc quản lý công ty, công ty nào cũng có những quy định riêng về giám sát nội bộ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý những sai phạm. Những quy định này phải được hoàn thiện dần theo từng bước phát triển của thị trường. Từ kinh nghiệm rút ra ở thị trường chứng khoán phát triển chúng tôi đề xuất một khuôn khổ giám sát nội bộ trong giai đoạn đầu với những nội dung sau: i/- Kiểm tra đơn xin mở tài khoản mới: Người quản lý phải kiểm tra để bảo đảm rằng tất cả các mục trên tờ khai đề được ghi đầy đủ về nhân thân, nghề nghiệp, khả năng tài chính, mục tiêu đầu tư… Việc kiểm tra này nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc về tính phù hợp. ii/- Kiểm tra hoạt động trong ngày gồm kiểm tra các phiếu lệnh đã thực hiện và kiểm tra sổ cái ghi lại những hoạt động giao dịch trong ngày hôm trước. Kiểm tra các phiếu lệnh đã thực hiện nhằm phát hiện các vấn đề: + Các phiếu lệnh có chứa đủ thông tin cần thiết không? + Phân loại những phiếu lệnh được uỷ thác tuỳ ý xử lý các lệnh do gợi ý và không do gợi ý làm cơ sở để tra cứu khi phát sinh tranh chấp. + Các phiếu lệnh có dấu hiệu tẩy xoá sửa chữa. Kiểm tra sổ cái để phát hiện những vấn đề: + Các giao dịch lớn bất thường và xác định lý do của chúng + Mức độ tập trung vào một chứng khoán nhất định trong khuyến nghị của nhân viên môi giới cho nhiều khách hàng để xem tính phù hợp có được bảo đảm không? + Mức độ tập trung giao dịch của một khách hàng vào một hàng hoá cá biệt tình huống này chứa đựng rủi ro cho phía khách hàng, có thể cho phía công ty môi giới tuỳ theo loại chứng khoán được giao dịch. + Các giao dịch trong ngày gồm mua và bán cùng một loại chứng khoán trong cùng một phiên giao dịch. kiểu giao dịch này mang tính đầu cơ cao không thích hợp với hầu hết các nhà đầu tư và người môi giới không nên gợi ý giao dịch này cho khách hàng. iii/ Kiểm tra giao dịch của nhân viên công ty: các công ty có thể cấm hoặc hạn chế giao dịch của các nhân viên công ty theo những mức độ khác nhau và vì thế cần phải kiểm tra để biết quy định này được tuân thủ như thế nào? iiii/ Kiểm tra sổ sách tài khoản: Nhà quản lý phải thường xuyên kiểm tra các sổ sách của nhân viên môi giới . Với những tài khoản bình thường thì chỉ cần kiểm tra theo từng quý, trong các tài khoản được tuỳ ý xử lý hay các tài khoản năng động cần được kiểm tra thường xuyên hơn. Việc kiểm tra này cho phép các nhà quản lý nhận diện được kiểu giao dịch của khách hàng và để có thêm thông tin cho những nhận định về tín phù hợp. nếu một giao dịch của khách hàng có vẻ vượt quá mức so với nguồn tài chính và kinh nghiệm của họ nhà quản lý nên liên lạc trực tiếp với khách hàng để thảo luận việc điều hành hoạt động của tài khoản. Thứ ba, Thiết lập quy trình thống nhất về giám sát nội bộ Cần phải xây dựng một chương trình riêng để đào tạo các nhà môi giới chứng khoán, đáp ứng được yêu cầu đặc thù của loại hình nghiệp vụ này để từng bước tiếp cận tới những chuẩn mực quốc tế. Phải tập trung xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu cho người hành nghề chứng khoán trong đó có cả các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của người môi giới chứng khoán làm cơ sở để mỗi người tự đánh giá mình và để khách hàng đánh giá. Chương trình đào tạo chuyên môn phải được xây dựng thống nhất theo chuẩn mực quốc tế theo từng nghiệp vụ chuyên sâu, tổ chức đào tạo, tổ chức thi sát hạch và cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán theo vị trí làm việc chuyên môn. Chương trình đào tạo tăng cường năng lực giám sát cho cán bộ UBCKNN chú trọng đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ giám sát cho lãnh đạo và chuyên viên các Ban giám sát của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và của Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán. Thứ tư, tăng cường công tác quản lý giám sát của các cơ quan quản lý công ty chứng khoán. Tăng cường công tác giám sát, thẩm định qua hồ sơ về điều kiện cấp phép kinh doanh chứng khoán của các tổ chức, cá nhân xin cấp phép. Giám sát trước khi cấp phép kinh doanh chứng khoán trên cơ sở thẩm định về trình độ, năng lực, kinh nghiệm làm việc của Tổng Giám đốc các công ty chứng khoán theo qui định pháp luật, đảm bảo công ty chứng khoán ra đời và triển khai hoạt động với việc cung cấp dịch vụ có chất lượng cho khách hàng, đảm bảo công ty chứng khoán có đủ năng lực về tài chính và nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có uy tín mới được triển khai và cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán. Nghiên cứu áp dụng việc giám sát công ty chứng khoán trong quá trình triển khai hoạt động trên cơ sở dựa vào các tiêu chí xác định rủi ro. Đây là mô hình giám sát tiên tiến hiện đang được các nước trong khu vực áp dụng thực hiện. Theo đó, việc giám sát công ty chứng khoán dựa trên cơ sở kết hợp việc tự đánh giá của công ty chứng khoán và việc giám sát của Sở giao dịch chứng khoán và giám sát của Uỷ ban chứng khoán. Mục tiêu của mô hình giám sát này là nhằm cung cấp cho công ty chứng khoán một cách tiếp cận toàn diện để xác định, quản lý, giám sát những rủi ro trọng yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. Trên cơ sở đánh giá sơ bộ rủi ro của công ty chứng khoán do chính công ty chứng khoán thực hiện sẽ làm minh bạch hoá việc giám sát cho cơ quan quản lý thị trường. Công tác giám sát, thanh tra công ty chứng khoán của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần được tổ chức lại theo hướng có Ban chuyên trách thực hiện việc giám sát tuân thủ đối với hoạt động của công ty chứng khoán và Ban cưỡng chế thực thi pháp luật (ban chuyên xử lý các vi phạm của công ty chứng khoán). Phân định phạm vi giám sát giữa các Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán với các đơn vị khác trong Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. KẾT LUẬN Hiện nay, khi việc huy động vốn thông qua kênh chứng khoán được coi là một trong những kênh huy động quan trọng và được đặc biệt chú trọng phát triển hoàn thiện thì chế định pháp luật cần quan tâm để điều chỉnh thị trường chứng khoán là chế định về hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán. Trong thời điểm hiện nay, khi mà xung đột lợi ích giữa người môi giới và khách hàng thực tế chưa được pháp luật hiện hành điều chỉnh hiệu quả cũng như hoạt động môi giới chứng khoán chưa thực hiện được vai trò là yếu tố thu hút nhà đầu tư bỏ tiền vào chứng khoán. Do vậy việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán hiện nay là cần thiết để tạo ra một khung pháp lý cho toàn bộ pháp luật chứng khoán. Những giái pháp hoàn thiện khung pháp lý đối với hoạt động môi giới chứng khoán theo phạm vi nghiên cứu của khoá luận này cần theo những hướng cơ bản sau: Ban hành thêm bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán, điều lệ mẫu với các công ty chứng khoán. Tăng cường cơ chế kiểm soát nội bộ, giám sát tuân thủ trong công ty chứng khoán cũng như kiểm soát của c ác cơ quan quản lý. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự trong công ty chứng khoán Nâng cao điều kiện cơ sở vật chất, năng lực tài chính của các công ty chứng khoán xin cấp phép. Đây mới chỉ là những nghiên cứu nhỏ trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp về đề tài pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán. Những nghiên cứu này chắc chắn chưa thể đầy đủ và hoàn thiện được. Đề tài này vẫn có thể nghiên cứu sâu hơn ở một cấp nghiên cứu khác. Điều này là hoàn toàn cần thiết vì môi giới chứng khoán là một trong những yểu tố quan trọng thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (64).DOC
Tài liệu liên quan