Qua sự phân tích, trình bày trên, có thể nhận thấy rằng: bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng là yêu cầu thật sự cấp bách, không chỉ đối với Việt Nam mà nó mang tính chất toần cầu. Nhưng tại Việt Nam, bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật trong thời gian qua chưa thực sự được coi trọng. Vì vậy đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận lại toàn bộ vấn đề này, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, khi đứng trước yêu cầu đổi mới và hội nhập hiện nay.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (sau đây được viết tắt là NĐ121/2004) thì: “vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi phạm các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Nghị định này phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
Như vậy, mọi cá nhân, tổ chức khi có hành vi vi phạm hành chính trong bảo vệ môi trường thì đều sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hành chính do các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này áp dụng mà không phụ thuộc vào việc người vi phạm đã gây thiệt hại hay chưa? Vì vậy để buộc một cá nhân hay tổ chức phải gánh chịu trách nhiệm hành chính, điều quan trọng trước hết là phải xác định được có hành vi vi phạm hành chính xảy ra hay không? Trong bảo vệ môi trường không khí cũng sẽ áp dụng tương tự căn cứ và nguyên tắc xác định trách nhiệm này cho chủ thể vi phạm.
Trước đây, trách nhiệm hành chính trong bảo vệ môi trường không khí được áp dụng căn cứ theo quy định cụ thể tại Nghị định số 26/1996/NĐ-CP về xử phạt trong lĩnh vực bảo vệ môi trường với quy định về hành vi vi phạm hành chính trong bảo vệ môi trường không khí đó là: “thải khói, bụi, khí độc quá giới hạn cho phép, thải mùi hôi thối gây hại vào không khí”.
Đến NĐ 121/2004 thay thế NĐ 26/1996 thì đã có 2 điều quy định về 2 hành vi vi phạm hành chính trong bảo vệ môi trường không khí như sau: vi phạm các quy định về thải khí, bụi (Điều 11), vi phạm quy định về ô nhiễm không khí (Điều 22). Theo NĐ này, trách nhiệm hành chính được xác định và áp dụng cho các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong bảo vệ môi trường không khí được rõ ràng và cụ thể hơn:
Theo Điều 11- NĐ 121/2004, khi tổ chức hay cá nhân nào có hành vi vi phạm các quy định về thải khí, bụi thì sẽ phải gánh chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ vi phạm gây ra. Cụ thể: phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng–500.000 đồng đối với một trong các hành vi thải khí, bụi vượt TCMT cho phép vào môi trường và thải mùi hôi thối, mùi khó chịu trực tiếp vào môi trường không qua thiết bị hạn chế ô nhiễm môi trường. Qua đây nhận thấy: bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào có hành vi trên sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hành chính, kể cả khi hành vi ấy chưa gây thiệt hại trên thực tế. Nhưng nếu họ có hành vi thải khí, bụi vuợt tiêu chuẩn cho phép từ 2 lần trở lên thì sẽ bị phạt nặng hơn, với mức phạt tiền từ 2.000.000 đồng-5.000.000 đồng; và sẽ bị phạt từ 15.000.000 đồng-30.000.000 đồng đối với hành vi thải khí thải, bụi thải có chứa chất nguy hại vượt tiêu chuẩn cho phép; phạt tiền từ 60.000.000 đồng-70.000.000 đồng đối với hành vi thải khí thải, bụi thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt mức chp phép. Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi vi phạm mà các tổ chức, cá nhân còn có thể phải gánh chịu hình thức xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đạt TCMT (từ 90-180 ngày hoặc không thời hạn) và buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm đó.
Tại Điều 22-NĐ121/2004 đã quy định cụ thể về trường hợp vi phạm quy định về ô nhiễm không khí như sau: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí nhưng trong trường hợp chất gây ô nhiễm có chứa chất thải nguy hai gây hậu quả xấu đến con người và thiên nhiên; phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm này trong trường hợp chất gây ô nhiễm có chứa chất phóng xạ gây ô nhiễm xạ môi trường vượt mức cho phép. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân đó còn buộc phải khắc phục hậu qủa do hành vi vi phạm đó của mình gây ra.
Như vậy, NĐ121/2004 đã tách một số quy định tại NĐ26/1996 về vi phạm hành chính trong bảo vệ môi trường không khí thành hai điều cụ thể. Căn cứ theo NĐ121/2004 thì trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm ngày càng tăng nặng hơn và cụ thể hơn trong từng hành vi, trường hợp vi phạm. Việc áp dụng trách nhiệm hành chính trong bảo vệ môi trường không khí được tiến hành bởi các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền như: thanh tra viên, chánh thanh tra chuyên ngành của Cục môi trường và các Sở Tài nguyên và Môi trường ở các địa phương, chủ tịch UBND các cấp theo trình tự, thủ tục luật định.
Thứ hai: Trách nhiệm dân sự
Cơ sở pháp lý để áp dụng trách nhiệm dân sự đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí là: Điều 268-Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 quy định về nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc bảo vệ môi trường, điều 628-BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường; Điều 7 và Điều 52 Luật bảo vệ môi trường 1993. Theo các quy định này thì: người nào có hành vi phá hoại, gây tổn hại đến môi trường, không tuân theo sự huy động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có sự cố môi trường, không thực hiện quy định đánh giá tác động môi trường, vi phạm các quy định khác của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức hay cộng đồng sẽ phải gánh chịu trách nhiệm dân sự. Như vậy, trách nhiệm dân sự chỉ đặt ra khi chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí có lỗi và gây thiệt hại trên thực tế, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xảy ra; trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực môi trường nói chung và trong bảo vệ môi trường không khí nói riêng được áp dụng chủ yếu dưới hình thức bồi thường thiệt hại.
Trong NĐ 26/1996 có quy định tại Điều 2 về bồi thường thiệt hại về môi trường do vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường nhưng đến NĐ121/2004 thì không còn quy định trực tiếp về vấn đề này. Căn cứ vào Điều 2-NĐ 26/1996 và Điều 628 BLDS thì nguyên tắc giải quyết theo trách nhiệm dân sự như sau: trách nhiệm dân sự với những thiệt hại dưới 1.000.000 đồng được giải quyết trên nguyên tắc thoả thuận giữa các bên hoặc do cơ quan có thẩm quyền quyết định; những thiệt hại có giá trị từ trên 1.000.000 đồng được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Thứ ba: Trách nhiệm kỷ luật
Theo Điều 51- Luật bảo vệ môi trường thì: “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, bao che cho người vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường” thì sẽ bị xử lý kỷ luật.
Như vậy, trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với các cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí. Trách nhiệm kỷ luật được áp dụng độc lập với trách nhiệm bồi thường thiệt hại và áp dụng chủ yếu đối với cá nhân đã lợi dụng chức cụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí. Việc áp dụng trách nhiệm kỷ luật được thực hiện bởi cơ quan hoặc tổ chức nơi có người vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí dưới các hình thức như: khiển trách, cảnh cáo, thuyên chuyển công tác và buộc thôi việc.
Thứ tư: Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do Toà án (và chỉ có Toà án) áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí gây hậu quả nghiêm trọng. Căn cứ pháp lý để áp dụng trách nhiệm hình sự là: Điều 50, 51 Luật bảo vệ môi trường 1993 và Điều 182- Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999 (BLHS).
Tại Khoản 1- Điều 182-BLHS 1999 quy định: “Người nào thải vào không khí các loại khói, bụi, chất độc hoặc các yếu tố độc hại khác; phát bức xạ quá tiêu chuẩn cho phép, đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.
Theo quy định này các hành vi sau sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Hành vi thải các loại khói, bụi, chất độc vượt quá tiêu chuẩn cho phép vào môi trường không khí.
Hành vi phát bức xạ, phóng xạ vượt quá tiêu chuẩn cho phép vào môi trường không khí .
Nhưng cả 2 loại hành vi này đều đã bị xử phạt hành chính mà vẫn cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khung hình phạt được quy định từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 182- BLHS tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm của cá nhân và hậu quả nguy hại mà hành vi vi phạm đó mang lại cho xã hội.
Như vậy chỉ xử lý hình sự đối với tội gây ô nhiễm không khí khi đồng thời phải có 3 yếu tố là: đã bị xử phạt hành chính kèm theo quyết định thực hiện các biện pháp khắc phục, cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả theo quyết định của cơ quan đã xử phạt hành chính và gây hậu quả nghiêm trọng.
Tóm lai, việc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí một mặt buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do hành vi vi phạm pháp luật gây ra, mặt khác ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật từ phía người khác. Vì vậy việc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi vi phạm trong bảo vệ môi trường không khí có vai trò, vị trí hết sức quan trọng nhằm đảm bảo trật tự cho các quy tắc xử sự chung mà pháp luật bảo vệ môi trường không khí đã quy định cho các chủ thể, qua đó đảm bảo cho công tác bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật đạt hiệu quả cao.
Trên đây là những nội dung chủ yếu của pháp luật bảo vệ môi trường không khí tại Việt Nam hiện nay. Qua đó cho thấy: các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng như các quy định cụ thể về điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước chưa nhiều và chưa thật đầy đủ, hoàn thiện. Vì vậy hiệu quả điều chỉnh trên thực tế của các quy định chưa cao nên công tác bảo vệ môi trường không khí tại Việt Nam chưa thật sự đạt hiệu quả. Cần sớm tìm các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật trong bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng và giúp cho pháp luật bảo vệ môi trường không khí phát huy được tốt vai trò của mình trên thực tế là yêu cầu thật sự cần thiết.
Chương III: Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam và một số giải pháp hoàn thiện
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Do nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường bằng pháp luật nên trong hơn mười năm qua Nhà nước ta đã rất quan tâm đến lĩnh vực pháp luật môi trường, trong đó có pháp luật bảo vệ môi trường không khí. Mặc dù là một lĩnh vực mới của hệ thống pháp luật Việt Nam nhưng pháp luật về bảo vệ môi trường đã có sự phát triển nhanh trong thời gian gần đây, chỉ tính từ khi Luật bảo vệ môi trường được thông qua (ngày 27/12/1993) đến nay, Nhà nước ta đã ban hành được trên 200 văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoặc có liên quan đến bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, pháp luật bảo vệ môi trường không khí lại là một bộ phận còn khá nhiều thiếu sót và hạn chế trong hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam hiện nay. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết bởi một số lý do sau:
3.1.1. Mức độ và nguy cơ ô nhiễm
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận vai trò của môi trường không khí đối với sự tồn tại và phát triển của con người thế nhưng môi trường không khí đã và đang ngày càng bị ô nhiễm do chính hành vi của con người tác động đến bất chấp những quy luật của tự nhiên, nhất là đối với những nước kém phát triển - nơi mà yêu cầu phát triển kinh tế được đặt cao hơn nhu cầu được sống trong môi trường trong lành. Không chỉ riêng đối với Việt Nam mà cả các nước trên thế giới đều đang phải đối mặt với những thách thức mà ô nhiễm không khí đặt ra, vì vậy ô nhiễm không khí đã trở thành yêu cầu cấp thiết đòi hỏi sớm được giải quyết.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra mạnh mẽ với mục tiêu phấn đấu đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Với mục tiêu ấy, trong những năm vừa qua và trong những năm tới sẽ tạo ra cho nền kinh tế nước ta, đặc biệt là quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá bước phát triển nhanh chóng. Nhưng cũng chính sự phát triển đó sẽ đồng thời tạo ra những bất lợi rất lớn cho môi trường không khí. Đó là việc môi trường không khí sẽ phải tiếp nhận một lượng khí thải lớn hơn hiện tại nhiều lần. Như thế khả năng tự đồng hoá của môi trường không khí sẽ ngày càng giảm sút và môi trường không khí sẽ ngày càng bị ô nhiễm nặng nề hơn. Các chuyên gia môi trường của Việt Nam đã dự báo, vào năm 2020 mức độ ô nhiễm môi trường không khí do ảnh hưởng của hoạt động công nghiệp sẽ có thể tăng lên gấp 4 đến 5 lần hiện nay, đặc biệt là tại các khu đô thi, khu công nghiệp và các vùng trọng điểm kinh tế.
Đứng trước nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí như vây, việc tìm kiếm và áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng ô nhiễm là hết sức cấp thiết. Yêu cầu đó có thể được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp pháp lý phải luôn giữ vị trí trọng yếu. Tuy vậy, hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay lại tồn tại khá nhiều thiếu sót và bất cập nên khó có thể đảm đương được hết vai trò đó của mình, nó đòi hỏi phải được nhìn nhận, xây dựng và hoàn thiện cho phù hợp hơn trong tình hình mới.
Như vậy, mức độ và nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí diễn ra trên bình diện rộng và ngày càng trầm trọng đã và đang là yếu tố cơ bản chi phối sự cần thiết và yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay.
3.1.2. Tình hình thực thi pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Sau khi Luật bảo vệ môi trường được thông qua, nhiều văn bản dưới luật về hướng dẫn thi hành luật đã được ban hành tạo nên một khuôn khổ pháp luật chung cho hoạt động bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay. Nhưng bảo vệ môi trường không khí lại là vấn đề được quan tâm muộn ở Việt Nam nên đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam có thể được đánh giá là thiếu sót và bất cập nhất so với pháp luật trong bảo vệ các thành phần khác của môi trường và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo vệ môi trường không khí đã cho thấy hiệu quả thực thi các quy định này chưa cao. Thực trạng này sở dĩ tồn tại là do sự chi phối của rất nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau, bao gồm các yếu tố chủ quan, khách quan, liên quan đến bản thân các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cũng như môi trường thực hiện các quy định pháp luật đó.
Điều kiện chung đảm bảo cho hiệu quả điều chỉnh của pháp luật bảo vệ môi trường không khí là các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội. ở Việt Nam, đây là các điều kiện tương đối ổn định và tạo điều kiện cho việc thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí. Chúng ta có sự quan tâm, thống nhất quản lý và lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, thể hiện trong các quy định của pháp luật, các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về công tác bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng.
Trên cơ sở thực tế thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể đưa ra đánh giá như sau:
- Trong những năm qua, nhiều ngành, lĩnh vực, và nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chú trọng đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường không khí; đã ra nhiều Nghị quyết và Quyết định quan trọng về bảo vệ môi trường không khí nói chung và việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nói riêng;
- Đã triển khai hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra về tình hình môi trường không khí, suy thoái và ô nhiễm môi trường không khí ở địa phương;
- Các cấp chính quyền địa phương đã có sự quan tâm thực hiện và tuyên truyền thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí và các quy định có liên quan;
Nhìn chung, trong những năm qua công tác bảo vệ môi trường không khí tại các địa phương và trên cả nước đã có được một bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí trên thực tế cũng đã gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc; hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ môi trường không khí cũng chưa thực sự cao, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường không khí. Điều đó là do hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam còn khá nhiều bất cập do bảo vệ môi trường không khí được quan tâm tại Việt Nam khá muộn và chưa thực sự đúng mực. Vì vậy việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí được đặt ra là thực sự cần thiết.
3.1.3. Việc Việt Nam tham gia các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường không khí
Khi môi trường đã trở thành vấn đề có tính toàn cầu thì nó tạo cơ sở, tiền đề cho các quan hệ hợp tác giữa các nước để cùng giải quyết những vấn đề đó. Một trong những biện pháp hữu hiệu để thực hiện yêu cầu bảo vệ môi trường có tính toàn cầu đó là: các nước đã tiến hành ký kết hoặc tham gia các cam kết chung, các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Các Điều ước này nhằm bảo vệ các thành phần khác nhau của môi trường, trong đó có môi trường không khí. Cùng với việc nâng cao nhận thức về yêu cầu bảo vệ môi trường không khí và tiến trình hội nhập quốc tế, việc Việt Nam tham gia các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường không khí là thật sự cần thiết.
Đến nay Việt Nam đã tham gia một số Điều ước quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có một số Điều ước quan trọng được kể đến như sau:
- Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn - Viên ngày 23/03/1985: Việt Nam tham gia Công ước này vào năm 1994. Mục đích của Công ước là nhằm hạn chế sự phát thải các chất khí có hại tới tầng ôzôn nhằm bảo vệ sức khoẻ của con người trước những ảnh hưởng có hại do sự biến đổi tầng ôzôn. Nội dung chính của Công ước là: các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp để bảo vệ sức khỏe con người và môi trường chống lại những ảnh hưởng có hại phát sinh hoặc dễ phát sinh từ những hoạt động của con người; các quốc gia phải hợp tác trong lĩnh vực pháp lý, khoa học và kỹ thuật nhằm hạn chế sử dụng một số chất khí nhất định...
- Công ước khung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc (UNFCCC): được chấp nhận vào ngày 09/05/1992 tại trụ sở của Liên Hợp Quốc ở New York, là cơ sở pháp lý để cộng đồng thế giới đối phó với những diễn biến tiêu cực của biến đổi khí hậu. Việt Nam đã ký kết Công ước này vào ngày 11/06/1992 và phê chuẩn ngày 16/11/1994. Mục đích của Công ước là nhằm đạt được sự ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể, ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu; nhằm bảo vệ hệ thống khí hậu cho thế hệ hôm nay và mai sau của nhân loại. Khi tham gia Công ước này, các quốc gia phải có trách nhiệm: hình thành các chính sách quốc gia và các biện pháp tương ứng nhằm làm giảm việc khí hậu thay đổi bất lợi bằng cách hạn chế các chất khí có thể gây ra hiệu ứng nhà kính; hợp tác giữa các quốc gia nhằm ứng phó với sự tác động của thay đổi khí hậu, trao đổi thông tin, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ...
Hội nghị các bên của Công ước lần thứ nhất (COP1) tổ chức tại Beclin, CHLB Đức (05/1995) đã thảo luận và thấy cần phải có những cam kết mạnh mẽ và cụ thể hơn của các nước phát triển trong việc thực hiện mục tiêu của Công ước UNFCCC. Với mục tiêu trên, Nghị định thư Kyoto được thông qua tại Hội nghị COP3 tại Kyoto, Nhật Bản (12/1997). Nghị định thư (KB) đưa ra 3 cơ chế mềm dẻo cho phép các nước phát triển thực hiện cam kết giảm phát thải nhà kính của họ; đó là: cơ chế đồng thực hiện (JI), cơ chế buôn bán quyền phát thải (IET) và cơ chế phát triển sạch (CDM). Việt Nam đã ký KB ngày 03/12/1998, phê chuẩn ngày 25/09/2002 và đến ngày 16/02/2005 vừa qua, Nghị đinh thư đã bắt đầu có hiệu lực tại Việt nam.
Khi tham gia vào các Điều ước quốc tế đó, Việt Nam cũng như các thành viên của Điều ước đều được hưởng những quyền nhất định nhưng cũng đồng thời phải gánh vác những nghĩa vụ pháp lý cơ bản trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí không chỉ trong phạm vi quốc gia mình mà còn trên phương diện quốc tế. Để có thể đảm đương được các nghĩa vụ đặt ra cho mình, Việt Nam phải thực hiện nhiều biện pháp, phải tạo ra một cơ sở pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh cho việc thực thi các cam kết quốc tế đó; mục đích và các cam kết tại các Điều ước quốc tế đó phải được tiến hành nội luật hoá và trở thành một trong những mục đích và nhiệm vụ của pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí hoàn chỉnh, đồng bộ nhằm ngăn ngừa một cách hiệu quả những tác động bất lợi mà con người có thể gây cho môi trường không khí, đặc biệt là trong các hoạt động công nghiệp. Nhưng với một hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí còn nhiều bất cập và thiếu sót như hiện nay của Việt Nam thì sẽ khó có thể đảm đương được các yêu cầu, nghĩa vụ đó. Vì vậy, yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí là thực sự cần thiết.
3.2. Những yêu cầu cơ bản đối với hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của Việt nam
Trước sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam như trên, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng trong tình hình hiện nay là:
Thứ nhất: phải phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội. Điều đó có nghĩa là pháp luật về môi trường không khí phải lấy các yêu cầu khách quan của phát triển xã hội làm xuất phát điểm, tránh mọi yêu cầu duy ý chí.
Yêu cầu phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội đòi hỏi pháp luật về môi trường không khí phải được xây dựng căn cứ vào nhu cầu của thực tiễn khách quan. Tiêu chí để xác định nội dung khách quan của pháp luật về môi trường không khí là khả năng sử dụng hợp lý tối ưu môi trường không khí nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá và đáp ứng quyền được sống trong một môi trường trong lành của con người, đảm bảo sự cân bằng giữa các lợi ích của các chủ thể trong xã hội. Việc cân đối các lợi ích trên tuỳ thuộc từng giai đoạn cụ thể, nhưng bảo đảm sự cân đối về mọi mặt là yêu cầu khách quan. Đáp ứng được yêu cầu này sẽ đáp ứng được nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc phát triển bền vững.
Thứ hai: phải đảm bảo yêu cầu về tính thống nhất, tính đồng bộ.
Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí phải là một hệ thống thống nhất gồm các bộ phận hợp thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và với các bộ phận khác của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và với các ngành luật khác có liên quan. Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí vừa là một bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói chung, vừa phải có tính độc lập trong việc điều chỉnh đối tượng của mình.
Bên cạnh yêu cầu về tính thống nhất, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cũng phải đáp ứng yêu cầu về tính đồng bộ; điều này thể hiện ở việc mỗi quy phạm pháp luật về môi trường không khí vừa phải thể hiện chính xác nội dung điều chỉnh của nó, vừa phải cân đối, đồng bộ với các quy phạm pháp luật khác.
Thứ ba: phải có tính khả thi.
Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí có thể được xây dựng ở những cấp độ khác nhau, cho những giai đoạn khác nhau, nhưng ở mọi thời kỳ, pháp luật đó phải được xây dựng căn cứ vào các điều kiện thực tế của xã hội (đã có và sẽ có), và khả năng huy động lực lượng vật chất cũng như tinh thần để thực hiện các quy định đã đề ra.
Trên đây là những yêu cầu đặt ra không chỉ khi tiến hành xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí mà nó cũng là của chung rất nhiều các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Để đáp ứng được yêu cầu đó, đòi hỏi phải có những giải pháp hoàn thiện một cách hợp lý, ta có thể tham khảo một số giải pháp cho sự hoàn thiện đó dưới đây.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam trong thời gian tới
Qua việc phân tích, trình bày những nội dung cơ bản và những lý do của sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam trên, ta nhận thấy pháp luật bảo vệ môi trường không khí là bộ phận pháp luật còn nhiều hạn chế và thiếu sót, vì vậy việc đề ra những định hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện nó là cần thiết để có thể đề ra được một giải pháp tốt hơn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí, từ đó mới giúp tạo ra một cơ chế bảo đảm cho việc bảo vệ môi trường không khí đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng của Việt nam.
3.3.1. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường không khí
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường về không khí
Tiêu chuẩn môi trường không khí là công cụ hết sức quan trọng và hữu hiệu trong việc quản lý và bảo vệ môi trường không khí. Hiện nay theo QĐ35/2002/QĐ-BKHCNMT thì Việt Nam gồm 12 TCMT về không khí thuộc danh mục bắt buộc thực hiện. Trong đó, về thực chất chỉ gồm có hai loại tiêu chuẩn môi trường không khí chủ yếu là: tiêu chuẩn chất lượng không khí và tiêu chuẩn thải khí, nhưng đến nay pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam nói chung và pháp luật TCMT Việt Nam nói riêng lại chưa có quy định rõ sự phân biệt TCMT thành tiêu chuẩn chất lượng môi trường và tiêu chuẩn thải. Vì vậy, trước hết cần phải có sự quy định rõ sự phân biệt này để tạo cơ sở cho việc xây dựng hiện trạng TCMT Việt Nam được chính xác; vấn đề này đã được đưa ra xem xét trong dự thảo Luật bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, trong hệ thống TCMT không khí Việt Nam hiện hành cũng đã đặt ra các yêu cầu phải hoàn thiện cho phù hợp hơn theo hướng sau:
* Đối với các tiêu chuẩn về thải khí cần được xem xét sửa đổi, hoàn thiện theo những hướng sau:
- Cần điều chỉnh lại một số mức phát thải cho phù hợp với thực tế hiện nay có tính đến nhu cầu nâng cao chất lượng môi trường 5-10 năm tới.
- Nghiên cứu để có thể quy định chi tiết mức phát thải cho các loại lĩnh vực công nghiệp khác nhau, có tính đến đặc điểm công nghệ của nhiên liệu đầu vào. Các TCVN 1995 và TCVN 2001 là tiêu chuẩn áp dụng chung cho mọi ngành công nghiệp, trong khi các nhà máy nhiệt điện của nước ta là loại hình công nghiệp đặc thù, vì vậy có thể được bổ sung trong TCVN 2001 sửa đổi hoặc được nghiên cứu, xây dựng thành tiêu chuẩn riêng.
- Nghiên cứu quy định hợp lý hơn hệ số quy mô nguồn thải (KQ) về tiêu chí phân cấp quy mô và giá trị cụ thể của hệ số.
* Đối với tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí:
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí được đặt ra trước hết là do yêu cầu của quản lý chất lượng môi trường không khí xung quanh đối với những vị trí địa lý cụ thể mà ở đó các hoạt động phát triển đang diễn ra. Chất lượng môi trường xung quanh ở những nơi khác nhau, những vùng khác nhau sẽ có những đòi hỏi khác nhau. Do vậy tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí cũng sẽ không giống nhau khi áp dụng ở các vùng khác nhau. Nhưng tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh ở Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc quy định áp dụng chung cho mọi vùng lãnh thổ. Vì vậy, cần phải xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể hơn về chất lượng môi trường không khí xung quanh cho các vùng khác nhau như: chất lượng môi trường không khí khu dân cư, chất lượng môi trường không khí khu công nghiệp...
* Cần sớm có văn bản quy định đối tượng của tiêu chuẩn môi trường không khí, nội dung và thủ tục nghiên cứu xây dựng, thẩm quyền ban hành, thẩm quyền quy định hiệu lực của tiêu chuẩn và lộ trình áp dụng tiêu chuẩn.
3.3.1.2. Hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí PGS.TS Phạm Hữu Nghị, Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật bảo vệ môi trường, Hội nghị môi trường toàn quốc năm 2005.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường không khí, trước mắt sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ môi trường. Tiếp tục kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức bộ máy, bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng từ trung ương đến cơ sở theo hướng sau:
- Cần quy định rõ trách nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường với tư cách là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đồng thời cần thể hiện rõ sự phân công trách nhiệm cho từng Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, có như vậy thì các bộ mới thấy rõ trách nhiệm của mình trong hoạt động bảo vệ môi trường - đây chính là cơ chế hữu hiệu nhằm ngăn chặn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ về những vấn đề liên ngành như vấn đề môi trường.
- Nên quy định rõ sự phân cấp trách nhiệm cho chính quyền các cấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ví dụ: chính quyền các cấp cần được phân cấp trong việc quyết định áp dụng tiêu chuẩn môi trường đối với một số khu vực đặc thù và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch bảo vệ môi trường của địa phương; phân cấp về phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của địa phương; phân cấp trong việc định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường... Và một điều rất quan trọng là việc phân cấp về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn phải gắn liền với việc phân cấp về nguồn nhân lực, vật lực.
Như vậy, để quản lý môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng, cần phải sớm có quy định hoàn thiện hơn về việc phân đinh, phân cấp rõ trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Tuy vậy, nếu chỉ tập trung vào nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường về hình thức mà không chú ý đến việc đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn làm công tác này thì khó có thể đạt đựơc kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, việc tăng cường năng lực của bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy trực tiếp thi hành pháp luật bảo vệ môi trường, trong đó có bảo vệ môi trường không khí cũng là một vấn đề cấp thiết.
3.3.2. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí
Các tổ chức, cá nhân để tồn tại và phát triển đã tác động mạnh mẽ đến môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng theo nhiều chiều hướng ngày càng bất lợi cho môi trường. Để bảo vệ môi trường không khí thì chỉ riêng các cơ quan quản lý nhà nước không thôi là không thể mà nó cần phải có sự tự giác, nỗ lực của các cá nhân, tổ chức có hoạt động tác động đến môi trường đó. Để góp phần định hướng hành vi cho các cá nhân, tổ chức đó, pháp luật bảo vệ môi trường không khí cần thiết phải hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các chủ thể đó, có như vậy mới nâng cao hiệu qủa của công tác bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật.
3.3.2.1. Cần phải quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác, sử dụng môi trường không khí
Như đã đề cập thì hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam hiện nay còn rất nhiều thiếu sót, tản mạn và chồng chéo, phần lớn là các quy định chung cho bảo vệ môi trường; và các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Vì vậy, để có thể đảm bảo cho yêu cầu bảo vệ môi trường không khí được thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì cần phải có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân.
Theo đó, các tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng môi trường không khí sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định, ví dụ như: phải lập kế hoạch, phương án phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường không khí trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình hoạt động của mình; phải xử lý khí thải trước khi thải vào môi trường không khí và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về TCMT không khí của Việt Nam; đối với các chủ dự án, chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc và theo đúng các quy định về trình tự, yêu cầu về kỹ thuật trong quá trình đánh giá tác động môi trường của dự án...
3.3.2.2. Cần phải quy định trách nhiệm tự giám sát tại nguồn là một trách nhiệm cơ bản của các tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Vũ Thị Duyên Thuỷ, Luận văn thạc sĩ luật học, pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam- thực trạng và hướng hoàn thiện, Trường ĐHLuật Hà nội, 2001.
Tự giám sát tại nguồn của các cơ sở được hiểu là chương trình giám sát chất thải ngay tại nguồn chất thải của một cơ sở nào đó do chính cơ sở tự tiến hành. Chương trình này được thực hiện thông qua ba công đoạn là: tự giám sát, tự báo cáo và tự lưu giữ số liệu.
Quy định trách nhiệm tự giám sát tại nguồn là một trách nhiệm cơ bản của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các cơ sở công nghiệp sẽ góp phần đảm bảo cho công tác bảo vệ môi trường không khí có hiệu quả hơn. Điều này được lý giải bởi các lý do sau:
- Tự giám sát tại nguồn là một biện pháp ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí của các cơ sở: các dữ liệu thu được từ chương trình tự giám sát của các cơ sở giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí.
- Thông qua việc thực hiện tự giám sát, nhận thức của các cơ sở trong bảo vệ môi trường không khí cũng như trách nhiệm của mình trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cũng được nâng cao.
- Tự giám sát tại nguồn góp phần giảm bớt gánh nặng công việc cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường; cụ thể là: thông qua tự giám sát tại nguồn, trách nhiệm giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các tổ chức môi trường về khí thải đã được chuyển bớt cho các doanh nghiệp thực hiện.
Theo các quy định hiện hành, việc các cơ sở phải tự thực hiện quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng là một hình thức thực hiện tự giám sát tại nguồn. Tuy nhiên, biện pháp này chưa được thực hiện một cách đầy đủ nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, cần phải quy định tự giám sát tại nguồn là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các cơ sở có nguồn thải, mà trong bảo vệ môi trường không khí thì đó là nguồn thải khí sẽ càng cần thiết và quan trọng hơn khi mà Nghị định thư Kyoto mà Việt Nam tham gia đã bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 16.02.2005 vừa qua.
3.3.2.3. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí
Trách nhiệm pháp lý mà pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam áp dụng cho các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí bao gồm 4 loại trách nhiệm sau: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự. Qua thực tế áp dụng có một số loại trách nhiệm này đã và đang nảy sinh các thiếu sót cần hoàn thiện như sau:
- Về trách nhiệm hành chính: mặc dù NĐ 26/1996/NĐ-CP đã được thay thế bằng NĐ121/2004/NĐ-CP và đã nâng mức xử phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí lên cao hơn NĐ 26 với mức cao nhất là 70.000.000 đồng áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm nhưng có thể nói mức xử phạt này vẫn là còn thấp so với những gì mà nhiều doanh nghiệp thu lại được từ khoản đáng lẽ ra doanh nghiệp đó phải đầu tư cho công nghệ xử lý khí thải. Vì vậy có ý kiến cho rằng nên quy định mức xử phạt này cho từng loại hình doanh nghiệp với từng chất khí thải khác nhau và tính theo hàm lượng các chất gây ô nhiễm; mức thu này có thể được đặt ra cao hơn nữa vì có như vậy mới có thể răn đe các chủ thể khi cố tình vi phạm và chịu chấp nhận nộp phạt.
- Về trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thường thiệt hại: nói theo cách nói của Bộ trưởng Mai ái Trực: “Luật Dân sự và Luật bảo vệ môi trường đang nhường nhau vấn đề này” Nguồn: http//:www.nea.gov, Quy định bồi thường thiệt hại về môi trường sẽ chặt chẽ hơn.
. Hiện nay trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường không khí chỉ được quy định chung chung tại 2 điều: Điều 826 - BLDS và điều 30 - Luật bảo vệ môi trường. Vì vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho môi trường không khí đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. Việc hoàn thiện các quy định này là cần thiết khi tiến hành sửa đổi Luật bảo vệ môi trường và vấn đề này cũng đã được đưa vào dự thảo sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, hy vọng rằng khi được thông qua thì mâu thuẫn trên sẽ được giải quyết.
- Về trách nhiệm hình sự: Tại Điều 182 Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định trách nhiệm hình sự cho chủ thể vi phạm là các cá nhân còn không áp dụng cho các chủ thể là tổ chức. Như vậy, chủ thể tội phạm theo quy định này thì trên thực tế không phổ biến trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí. Phần lớn, các chủ thể có hành vi đó lại là các doanh nghiệp mà trách nhiệm hình sự lại không áp dụng đối với chủ thể này, ví dụ: một doanh nghiệp A thải khí độc hại vào môi trường không khí, đã bị xử phạt hành chính nhưng cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng. Trường hợp này thì trách nhiệm hình sự đặt ra đối với chủ thể nào? Vì vậy đã đến lúc chúng ta phải vượt qua cách tiếp cận truyền thống “tổ chức không thể chịu trách nhiệm hình sự”. Trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng cần phải được áp dụng đối với cả các tổ chức; có như vậy thì mới đảm bảo xử lý triệt để các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của các doanh nghiệp, tạo ra sự bình đẳng giữa các chủ thể vi phạm là cá nhân và tổ chức; qua đó còn góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường không khí của chủ thể (cá nhân, tổ chức).
3.3.3. Thể chế bằng pháp luật một số công cụ kinh tế trong quản lý môi trường không khí
Trong điều kiện kinh tế thị trường nếu chỉ dùng các biện pháp hành chính, cưỡng chế thì rất khó đưa các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường vào cuộc sống. Vì vậy, cần sử dụng biện pháp có tính mềm dẻo hơn, để đảm bảo tính khả thi của pháp luật bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã chủ trương sử dụng các công cụ kinh tế. Sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường đem lại sự mềm dẻo, hiệu quả cho sự kiểm soát ô nhiễm, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường. Chính vì lý do này trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, một trong những giải pháp thực hiện chiến lược được đưa ra đó là “Đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường”. Đặc biệt ngày 15/11/2004 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra nghị quyết 41-NQ/TW về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”, trong 7 giải pháp đưa ra, giải pháp thứ tư khẳng định “áp dụng các biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường” là giải pháp phù hợp bối cảnh của kinh tế thị trường, đảm bảo nguyên tắc người gây ra thiệt hại và người được hưởng lợi từ môi trường phải trả tiền.
Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường bao gồm nhiều loại như: thuế môi trường, phí và lệ phí, nhãn môi trường, ký quỹ môi trường, giấy phép thải có thể chuyển nhượng... Trong bảo vệ môi trường không khí thì các công cụ kinh tế có vai trò quan trọng nhất đó là: phí thải hay còn gọi là phí xả thải, giấy phép thải có thể chuyển nhượng.
* Giấy phép thải có thể chuyển nhượng (hay gọi là cota gây ô nhiễm) :
Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải khí thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó, Nhà nước công nhận quyền của các nhà máy, xí nghiệp...được phép thải các chất khí thải gây ô nhiễm vào môi trường. Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác định cho các nguồn thải.
Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán côta gây ô nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với chi phí thấp nhất: mua côta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Nghĩa là những người gây ô nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn so với việc mua côta gây ô nhiễm thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm có mức chi phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn.
Như vậy sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá trình chuyển nhượng côta gây ô nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được chi phí đầu tư cho mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường không khí.
Mặc dù là công cụ được hình thành trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khá hoàn hảo, nhưng với việc tham gia Nghị định thư Kyoto, xét về bản chất chúng ta sẽ bán quyền phát thải cho các quốc gia khác trên cơ sở đầu tư tài chính của họ vào Việt Nam, đặc biệt là việc thực hiện cơ chế phát triển sạch (CDM). Chính vì vậy hoàn thiện các chính sách và các quy định pháp luật liên quan để tạo ra một khung pháp lý rõ ràng và chặt chẽ về quyền xả thải khí thải và sự mua bán chuyển nhượng giấy phép thải này sẽ là yếu tố cơ bản quyết định đến việc ngăn ngừa và hạn chế những tác động bất lợi đối với môi trường không khí từ các nguồn thải của các cơ sở công nghiệp.
* Phí ô nhiễm:
Loại phí này chủ yếu được tính theo lượng phát thải ra môi trường gây ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường hoặc từ sản lượng quy ra chất thải gây ô nhiễm. Đây là các khoản tiền phải trả cho việc thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường, được xác định dựa trên nồng độ, khối lượng và hàm lượng của các chất gây ô nhiễm thải vào môi trường. Như vậy, đây là các loại phí được đặt ra để kiểm soát ô nhiễm, bao gồm: phí xả thải, phí người sử dụng, phí sản phẩm... Việc áp dụng phí ô nhiễm trong bảo vệ môi trường không khí sẽ có tác dụng tích cực nhằm buộc các tổ chức, cá nhân giảm lượng khói, bụi, hóa chất độc hại thải vào bầu khí quyển. Đối với các cơ sở công nghiệp ở Việt Nam, phí ô nhiễm có thể sử dụng để bảo vệ môi trường không khí cần được luật hoá là phí xả thải chất thải khí (có thể gọi tắt là phí thải khí).
Hiện tại nếu gọi đúng nghĩa là phí khí thải chúng ta chưa có quy định nào riêng cho lĩnh vực thu phí này, tuy nhiên trong thực tiễn chúng ta cũng đã có những khoản phí liên quan đến vấn đề này, chẳng hạn trong quy định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí của nghị định 57/2002/NĐ-CP quy định các loại phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các nhiên liệu đốt, tiếng ồn sân bay..., thực tế chưa được thực thi ở Việt Nam. Liên quan đến phí khí thải, một Nghị định đáng chú ý cần xem xét đó là Nghị định 78/2000/NĐ-CP ban hành ngày 26/12/2000 về phí xăng dầu, theo Nghị định này căn cứ thu phí xăng dầu là số lượng xăng dầu xuất, bán tại Việt Nam, với mức thu:
- Xăng các loại, bao gồm xăng ôtô, xăng máy bay, xăng công nghiệp và các loại xăng khác là 500đông/lít.
- Dầu diezen là 300đồng/lít.
Các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng nộp phí xăng dầu có trách nhiệm đăng ký, kê khai thu, nộp phí xăng dầu vào Ngân sách Nhà nước. Số tiền phí xăng dầu nộp vào Kho bạc Nhà nước được điều tiết 100% về Ngân sách Trung ương. Như vậy, có thể nhận thấy nguồn thu phí này sử dụng cho mục đích cải thiện môi trường hay để bảo dưỡng đường bộ chưa được quy định cụ thể trong Nghị định, cho nên có quan điểm cho rằng thu phí môi trường qua xăng dầu cũng chưa chính xác.
Trên cơ sở những phí ô nhiễm hiện nay chúng ta đã có, cơ quan hoạch định chính sách môi trường cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các loại phí này phù hợp với thực tiễn khách quan đảm bảo mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm và có nguồn thu cho quỹ môi trường. Tiếp tục xây dựng Nghị định thu phí khí thải, phí ô nhiễm do khí thải ô nhiễm gây ra. Bên cạnh đó cũng cần phải có các quy định cụ thể về nguyên tắc và mang tính định hướng đối với việc miễn giảm phí bảo vệ môi trường đối với tổ chức, cá nhân tự thu hồi chất thải khí phát sinh do hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình hoặc đã xử lý đạt theo đúng tiêu chuẩn môi trường không khí.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản đưa ra nhằm định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Ngoài những giải pháp trên còn có thể xem xét một số giải pháp khác như: khuyến khích việc xây dựng mô hình quản lý môi trường trong doanh nghiệp tiến tới đáp ứng tiêu chuẩn ISO 14000; nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cho người dân...
Kết luận
Qua sự phân tích, trình bày trên, có thể nhận thấy rằng: bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng là yêu cầu thật sự cấp bách, không chỉ đối với Việt Nam mà nó mang tính chất toần cầu. Nhưng tại Việt Nam, bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật trong thời gian qua chưa thực sự được coi trọng. Vì vậy đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận lại toàn bộ vấn đề này, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, khi đứng trước yêu cầu đổi mới và hội nhập hiện nay.
Trong khuôn khổ khoá luận tốt nghiệp, các vấn đề đựơc đề cập đến cho thấy:
- ô nhiễm môi trường không khí với những tác hại, ảnh hưởng của nó đã đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải giải quyết: yêu cầu bảo vệ môi trường không khí.
- Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường không khí, nó góp phần giảm thiểu, ngăn ngừa những tác động xấu của đối với những chủ thể có hoạt động tác động đến môi trường không khí. Qua đó nó còn nhằm giáo dục ý thức bảo vệ môi trường không khí của người dân, đồng thời cũng khuyến khích các chủ thể thực hiện những hành vi thân thiện hơn với môi trường không khí.
- Nêu ra những nội dung chủ yếu của pháp luật bảo vệ môi trường không khí hiện hành của Việt Nam. Từ thực trạng đó thấy rằng: pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam còn rất nhiều bất cập, thiếu sót và mang tính chất tản mạn, chồng chéo.
Trên cơ sở tìm hiểu nội dung chủ yếu và thực trạng của pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam đó, để có thể giải quyết được các yêu cầu, vấn đề đặt ra của việc ô nhiễm môi trường không khí mang lại, ta có thể xem xét và tìm hiểu một số giải pháp, định hướng hoàn thiện cho lĩnh vực này như sau:
- Cần hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường không khí, như: cần cụ thể và phân biệt rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, hoàn thiện các quy định về TCMT không khí...
- Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí: cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí, hoàn thiện các trách nhiệm pháp lý áp dụng cho các chủ thể vi phạm pháp luật môi trường không khí...
- Thể chế bằng pháp luật một số công cụ kinh tế trong quản lý môi trường không khí; những loại công cụ kinh tế cần được thể chế bằng pháp luật là: giấy phát thải được phép chuyển nhượng và phí phát thải.
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Văn bản pháp luật:
1. Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995.
2. Bộ luật hình sự của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999.
3. Luật tổ chức Chính phủ được Quốc hội thông qua ngày 25/12/2001.
4. Luật bảo vệ môi trường thông qua ngày 27/12/1993.
5. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, ngày 06/07/1995, sửa đổi và bổ sung ngày 02/07/2002.
6. Nghị định 175 CP ngày 08/10/1994, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường 1993.
7. Nghị định 26 CP, ngày 26/04/1996 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường; Nghị định 121 CP, ngày 12/05/2004 thay thế NĐ 26 CP.
8. Nghị định 91 CP, ngày 11/11/2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
9. Quyết định 45/2003/QĐ-TTg ngày 02/04/2003 về việc thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
10. Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT, ngày 25/06/2002 về việc ban hành tiêu chuẩn môi trường Việt nam.
11. Thông tư số 490-MTg ngày 29/04/1998 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
12. Công ước Viên về bảo vệ tầng ozôn 1985.
13. Công ước khung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc 1992.
14. Nghị định thư Kyoto 1997.
II. Các tài liệu chuyên ngành:
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2003, Hà Nội.
16. Bộ Tài nguyên và Môi trường, tài liệu của Hội nghị môi trường toàn quốc, Hà Nội 2005.
17. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường năm 2004, 2005, Hà Nội.
18. Cục bảo vệ môi trường, Tạp chí bảo vệ môi trường năm 2004, 2005, Hà Nội.
19. Tạp chí Con đường xanh năm 2004, 2005, Hà Nội.
20. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2004, 2005, Hà Nội.
21. Phạm Ngọc Đăng, Môi trường không khí, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội, 1997.
22. PGS.TS Hoàng Kim Cơ, Môi trường không khí, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1999.
23. PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, Kinh tế môi trường, NXB Xây dựng, 2002.
24. Trường đại học Luật Hà Nội(2003), Giáo trình Luật Môi trường, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001.
26. Lê Thế Phúc, Pháp luật về tiêu chuẩn môi trường Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
III. Các nguồn tài liệu khác:
27. website của Bộ Tài nguyên và Môi trường:
28. Website của Cục bảo vệ môi trường:
29. Cơ sở dữ liệu luật Việt nam:
Mục lục
lời cảm ơn
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo - PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, Viện Nhà nước và Pháp luật đã tận tình hướng dẫn em tiếp cận và nghiên cứu để hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Hà Nội, tháng 5 năm 2005
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Huyền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34168.doc