Khóa luận Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 4 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI - TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 4 1. Khiếu nại – tố cáo và khiếu nại – tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 4 1.1. Khái niệm chung về KN - TC 4 1.2. Khiếu nại - Tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 5 1.3. Đặc điểm của KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai 6 1.4. Những nguyên nhân dẫn tới KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 11 2. Giải quyết khiếu nại tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai 13 2.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai 13 2.1.1. Khái niệm 13 2.1.2. Đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai 14 2.2. Ý nghĩa, mục đích của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai 17 2.3. Các nguyên tắc cơ bản của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai 18 2.3.1. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp luật 18 2.3.2. Nguyên tắc dân chủ và công khai 18 2.3.3. Tôn trọng sự thật khách quan, thận trọng và vô tư 19 2.3.4. Kết hợp giải quyết KN - TC về đất đai với việc giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về đất đai 20 2.3.5. Giải quyết kịp thời, nhanh chóng, ngăn chặn và loại trừ các hành vi vi phạm pháp luật đất đai 20 CHƯƠNG II 21 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 21 1. Khiếu nại tố cáo là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận 21 1.1. Khiếu nại, tố cáo là một trong các quyền dân chủ cơ bản của công dân 21 1.2. Quyền và nghĩa vụ của công dân và người sử dụng đất khi thực hiện KN - TC 23 1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại 23 1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại 24 1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo 25 1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo 25 2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 26 2.1. Thẩm quyền giải quyết Khiếu nại 26 2.2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo 27 3.1. Tổ chức tiếp dân và tiếp nhận đơn thư KN - TC 28 3.2. Thụ lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo: 28 3.3. Giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo 29 3.4. Thi hành quyết định giải quyết KN - TC 31 4. Thực hiện quản lý Nhà nước và giám sát đối với công tác giải quyết khiều nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 32 4.1. Quản lý nhà nước về giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai 32 4.2. Thực hiện giám sát đối với công tác giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 33 CHƯƠNG III 35 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN 35 PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC 35 GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 35 1. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay 35 1.1. Những thành tựu đã đạt được 35 1.2. Những mặt tồn tại chưa làm được 38 2. Một số kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 41 2.1. Nguyên nhân của thực trạng trên 41 2.2. Một vài kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở nước ta trong thời gian tới 44 2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 44 2.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai 45 2.2.3. Tăng cường sự giám sát của Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng nhân dân đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai 47 2.2.4. Thực hiện tốt công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở cấp cơ sở 48 2.2.5. Thực hiện tốt đối thoại giữa người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại 49 2.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giải quyết KN - TC về đất đai 49 2.2.7. Thành lập cơ quan tài phán nhà nước về đất đai hoặc hệ thống Toà án đất đai 50 KẾT LUẬN 53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

doc57 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì cơ quan nhà nước phải bố trí nơi tiếp công dân thuận tiện, đảm bảo các điều kiện để công dân đến trình bày KN - TC được dễ dàng. Cán bộ tiếp dân phải chủ động lắng nghe sự việc, rồi hướng dẫn người đến KN - TC viết lại thành đơn, hoặc ghi lại nội dung vụ việc theo quy định của pháp luật, có chữ ký của người KN - TC. Nếu người KN - TC có các giấy tờ kèm theo thì phải tiếp nhận. 3.2. Thụ lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo: Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn thư KN - TC thuộc thẩm quyền, người giải quyết KN - TC phải thụ lý đơn để giải quyết. - Đối với đơn thư khiếu nại, đơn sẽ không được thụ lý nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại điều 32 của Luật KN - TC: +) Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan trực tiếp tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; +) Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp; +) Người đại diện không hợp pháp; +) Thời hiệu khiếu nại, thời hiệu khiếu nại tiếp đã hết; +) Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; +) Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án, quyết định của Tòa án; - Đối với đơn, thư tố cáo, nếu đơn, thư không thuộc thẩm quyền của mình thì cơ quan tiếp nhận phải chuyển cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo khi họ có yêu cầu. 3.3. Giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo - Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Trong trường hợp phức tạp thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày. Đối với vùng sâu, xa thì thời hạn này là 45 ngày, đối với những việc phức tạp có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết, đối với vụ việc phức tạp thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày. Ở vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Đối với những vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không quá 70 ngày. Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết, đối với vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 90 ngày. - Trong thời hạn đó, người có thẩm quyền phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ: nghiên cứu đơn; gặp đương sự để điều tra xác minh sự việc; viết báo cáo kết quả xác minh; hoàn chỉnh hồ sơ rồi mở hội nghị để xét giải quyết vấn đề khiếu tố. Nghiên cứu hồ sơ: Là việc đầu tiên mà người giải quyết KN - TC cần phải thực hiện. Việc nghiên cứu hồ sơ là nhằm tìm ra bản chất của vấn đề, của mâu thuẫn, phán đoán nguyên nhân, đồng thời có thể chuẩn bị được các tài liệu, văn bản pháp luật làm cơ sở để giải quyết những vấn đề mà đương sự yêu cầu. Gặp gỡ đương sự để làm rõ sự việc: Để việc giải quyết KN - TC không trở nên phiến diện hoặc mang quan điểm chủ quan của người giải quyết, người giải quyết KN - TC phải tổ chức gặp gỡ các đương sự để làm rõ sự việc. Theo quy định của Luật KN - TC không những phải gặp gỡ các đương sự, người giải quyết KN - TC còn cần phải tổ chức đối thoại trực tiếp giữa các bên để có thể làm rõ nội dung của khiếu nại, yêu cầu khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Khi gặp gỡ đương sự phải tạo ra không khí thoải mái, để các đương sự cảm thấy tin tưởng và chế độ chính sách của Nhà nước. Sau khi gặp gỡ các đương sự cần tiến hành tiếp xúc với cơ quan, tổ chức nơi phát sinh sự việc để nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn về quá trình diễn biến của sự việc đồng thời thu thập tài liệu để lập hồ sơ giải quyết KN - TC. Điều tra, xác minh sự việc và tiến hành kiểm tra lại các chứng lý trong hồ sơ: Trong giai đoạn này trên cơ sở những tài liệu, chứng lý đã thu thập được người giải quyết khiếu tố sẽ tiến hành điều tra xác minh để làm rõ sự việc. Trong quá trình điều tra, xác minh, yêu cầu phải khách quan, thận trọng vô tư, nhanh chóng kịp thời và phải tuân theo quy định của pháp luật đất đai cũng như các quy định của pháp luật KN - TC. Viết báo cáo kết quả xác minh, hoàn chỉnh hồ sơ: Báo cáo phải gồm những nội dung cơ bản là: giới thiệu và khái quát sự việc; nếu kết quả của sự việc đã xác minh; và nêu nhận xét, kiến nghị biên pháp giải quyết đối với hai bên. Mở hội nghị để giải quyết khiếu tố: Cơ quan địa chính các cấp có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp mình mở hội nghị xét giải quyết KN - TC đối với những đơn, thư khiếu tố về đất đai, về thẩm quyền của Ủy ban nhân dân. Nếu đơn khiếu tố thuộc thẩm quyền xét giải quyết của thủ trưởng cơ quan thì sau khi điều tra xong, cơ quan thanh tra của ngành ở các cấp giúp thủ trưởng cơ quan mình mở hội nghị xét giải quyết KN - TC. - Hoạt động giải quyết khiếu nại lần hai tại cơ quan hành chính được tiến hành như đối với giải quyết lần đầu. - Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo nếu phát hiện thấy có dấu hiệu phạm tội thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận, giải quyết tố cáo phải thông báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để giải quyết theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự (Điều 71, Luật KN - TC) 3.4. Thi hành quyết định giải quyết KN - TC Đây là giai đoạn kết thúc thủ tục giải quyết KN - TC nếu nó được tiến hành bình thường, khi mà các chủ thể tham gia quan hệ tuân thủ nghiêm chỉnh yêu cầu của pháp luật, quyết định giải quyết ban hành hợp pháp, hợp lý và không bị khiếu nại. Sau khi được ban hành, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được gửi cho người KN - TC, người bị KN - TC, cá nhân, tổ chức, cơ quan hữu quan, cơ quan Thanh tra, và Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp. Để đảm bảo cho quyết định giải quyết KN – TC được thực hiện, trong trường hợp quyết định đã có hiệu lực mà không được thi hành thì thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định được áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với quyết định giải quyết tố cáo, người giải quyết có thể thông báo cho người tố cáo kết quả giải quyết nếu họ có yêu cầu. ● Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý hoặc hết thời hạn do pháp luật quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền tiếp tục khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án nhân dân. Đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, nếu người khiếu nại không đồng ý hoặc kể từ ngày hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân. Đối với vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày. Trường hợp bất khả kháng mà người khiếu nại không thực hiện được việc khởi kiện theo quy định của pháp luật thì thời gian xảy ra bất khả kháng không tính vào thời hạn trên. Tuy nhiên ở đây cần chú ý tới điểm không thống nhất giữa Luật KN - TC và Luật đất đai trong quy định về quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo Luật KN - TC mọi quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo lần hai đều được khởi kiện ra Toà (Điều 46), trong khi đó theo quy định tại Điều 138, khoản 2, điểm a của Luật đất đai thì, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng, nghĩa là người khiếu nại phải thi hành quyết định này mà không được khởi kiện ra Toà. Sự bất nhất này giữa Luật KN - TC và Luật đất đai đã gây ra khó khăn không nhỏ cho người sử dụng đất trong việc yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. ● Sau khi có quyết định giải quyết tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền, nếu có căn cứ cho rằng việc giải quyết là không đúng hoặc hết thời hạn pháp luật quy định mà tố cáo không được giải quyết thì người tố cáo có quyền tố cáo với cơ quan cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố cáo. 4. Thực hiện quản lý Nhà nước và giám sát đối với công tác giải quyết khiều nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 4.1. Quản lý nhà nước về giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai Quản lý công tác giải quyết KN - TC là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nươc về đất đai nói riêng. Việc quản lý sẽ đảm bảo cho hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo diễn ra đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao, bảo đảm được quyền KN - TC của người sử dụng đất. Quản lý nhà nước đối với công tác giải quyết KN - TC bao gồm những nội dung cụ thể là: Ban hành các văn bản pháp luật, quy chế, điều lệ giải quyết KN - TC; Tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định về KN - TC; Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về KN - TC; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác giải quyết KN - TC, công tác tiếp dân; Tổng hợp tình hình KN - TC và việc giải quyết KN - TC; Tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết KN - TC; Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác giải quyết KN - TC trong lĩnh vực đất đai trên phạm vi cả nước; Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại tố cao thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Còn các Bộ, đặc biệt là Bộ tài nguyên môi trường, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp v.v…sẽ thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa phương mà mình quản lý. 4.2. Thực hiện giám sát đối với công tác giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai Giám sát hoạt động giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cùng các thiết chế chính trị, chính trị xã hội khác ngoài hệ thống cơ quan nhà nước theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động ban hành và thực hiện các quy định pháp luật về giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai bằng những phương thức nhất định. Hoạt động giám sát có thể thực hiện dưới hai hình thức là giám sát mang tính quyền lực nhà nước và giám sát không mang tính quyền lực nhà nước. Giám sát mang tính quyền lực nhà nước là giám sát của Quốc hôi và Hội đồng nhân dân các cấp, theo những nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước là giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, giám sát của các thiết chế chính trị, chính trị xã hội khác và giám sát của quần chúng nhân dân. Thực hiện tốt hoạt động giám sát đối với công tác giải quyết KN - TC, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát mang tính quyền lực và giám sát không mang tính quyền lực nhà nước sẽ đảm bảo được các yếu tố pháp chế trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết KN - TC nói chung, giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật; cải cách hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đất đai; bảo đảm được quyền KN - TC của công dân và của người sử dụng đất; góp phần xây dụng một nhà nước dân chủ, thực sự của dân, do dân, vì dân. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 1. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay 1.1. Những thành tựu đã đạt được Năm 2003, Luật đất đai mới được ban hành, năm 2004 và 2005 Luật KN - TC được sửa đổi bổ sung với nhiều quy định mới phù hợp với tình hình thực tế. Thêm vào đó là sự lãnh chỉ đạo sát xao của Đảng và Nhà nước, nên trong thời gian qua, công tác giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta nói chung, cũng như trong từng địa phương nói riêng đã đạt được những kết quả khả quan. * Thực hiện quy định mới của pháp luật, công tác tiếp dân tới KN - TC về đất đai đã được đề cao Các cơ quan có thẩm quyền đã tổ chức các địa điểm tiếp dân thuận lợi, với đội ngũ cán bộ tiếp dân có chuyên môn, nhiệt tình để giải đáp các thắc mắc cũng như tiếp nhận và giải quyết các đơn thư KN - TC về đất đai của người dân. Từ đó đã mang lại sự thoải mái cho người dân khi tới KN - TC, tạo được sự tin tưởng của người dân vào sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tới tâm tư nguyện vọng của người dân. * Trong thời gian gần đây, công tác giải quyết KN - TC về đất đai ngày càng đạt được những kết quả khả quan. Lượng đơn thư KN - TC ngày càng tăng lên nhưng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đã luôn cố gắng nỗ lực để có thể tiếp nhận và giải quyết sao cho thỏa đáng. Theo số liệu từ Bộ tài nguyên môi trường: Năm 2003 Bộ đã tiếp nhận 5112 đơn thư KN - TC về đất đai, trong đó đã giải quyết triệt để được 920 vụ việc. Năm 2004 Bộ đã tiếp nhận 8236 đơn thư KN - TC về đất đai, trong đó đã giải quyết triệt để là 1482 vụ việc. Trong năm 2005, cả nước có 17.840 đơn thư KN - TC về đất đai, trong đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đã giải quyết dứt điểm được 2953 vụ việc. Qua công tác giải quyết KN - TC chúng ta đã thu về cho Nhà nước nhiều diện tích đất đai bị sử dụng, lấn chiếm trái phép, sử dụng trái mục đích, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều người sử dụng đất, thu về cho Nhà nước hàng ngìn tỷ đồng. Cũng qua công tác giải quyết KN - TC đã kịp thời phát hiện nhiều vụ tham nhũng, lợi dụng chức quyền trong quản lý đất đai để mưu lợi cá nhân của một số cán bộ công chức có thẩm quyền, từ đó có biện pháp xử lý, truy cứu trách nhiệm kịp thời. Trong năm năm từ 2001 đến 2005 qua giải quyết KN - TC đã phát hiện và xử lý 1.334 cán bộ các cấp do tham nhũng vụ lợi về đất đai. Những kết quả ấy đã góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động sử dụng đất cũng như quản lý nhà nước về đất đai, giữ vững trật tự, ổn định xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác giải quyết KN - TC về đất đai đạt hiệu quả khả quan nhất là ở các thành phố lớn, đặc biệt ở Thành Phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội, vì ở những nơi này, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan có thẩm quyền rất chú trọng tới công tác tiếp dân và giải quyết những thắc mắc, kiến nghị cũng như các KN - TC của người dân. Theo số liệu từ Ủy ban thành phố Hà Nội, năm 2006 toàn thành phố đã tiếp nhận 2.916 đơn thư KN - TC, trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã giải quyết được 2.153 vụ việc, đạt tỷ lệ 74%, trong số đó, 80 % là KN - TC về đất đai. Qua giải quyết đã thu về cho Nhà nước 1.147m đất đai bị lấn chiếm, sử dụng trái phép và khoảng 5,6 tỷ đồng. Ngoài ra còn trả lại 700m2 đất, 316m2 nhà, khôi phục quyền lợi kinh tế của người dân hơn 1,3 tỷ đồng, xử lý kỷ luật 69 cán bộ vi phạm pháp luật đất. Những kết quả đó đã góp phần vào giữ vững trật tự an ninh trong toàn thành phố. * Chúng ta thường xuyên tổ chức các đợt, đoàn thanh tra xuống các địa phương để kiểm tra, thanh tra hoạt động thực thi pháp luật đất đai ở các địa phương, nhất là ở các cấp cơ sở. Qua công tác này chúng ta đã phát hiện ra được nhiều hạn chế, sai sót của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong thực thi Luật đất đai, cũng như trong giải quyết KN - TC về đất đai. Từ đó chúng ta đã đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết KN - TC về đất đai. Đặc biệt, các đoàn thanh tra, kiểm tra này cũng đã tiếp nhận và giải quyết nhiều đơn thư KN - TC của nhân dân, giải tỏa được nhiều thắc mắc, bức xúc của nhân dân. Từ đó càng củng cố được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. * Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền, nhất là các Bộ, các Ủy ban nhân dân, các Sở tài nguyên môi trường, đặc biệt là ở các tỉnh thành phố lớn, đã công bố nhiều số điện thoại nóng, nhiều số fax, nhiều trang web để nhân dân ta có thể phản ánh những thắc mắc, những khiếu nại và nhất là có thể kịp thời tố cáo những vi phạm pháp luật nói chung, những vi phạm pháp luật đất đai nói riêng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để có thể nhanh chóng kịp thời xử lý. Hiện nay vẫn chưa có một con số thống kê cụ thể về những KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai đã được giải quyết và xử lý kịp thời thông qua các kênh thông tin nóng này. Nhưng rõ ràng, những phương thức này đã tỏ ra rất thuận tiện cho nhân dân, cũng như cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong giải quyết KN - TC, hạn chế được tình trạng KN - TC cáo sai (trước kia, nhiều trường hợp do chưa hiểu rõ chủ chương chính sách của Nhà nước mà KN - TC, nay nhờ có các kênh thông tin này, những vướng mắc, băn khoăn ấy đã được giải đáp kịp thời, nên nhân dân không KN - TC sai, tràn lan nữa), từ đó đã tiết kiệm được nhiều thời gian cũng như tiền của của Nhà nước cũng như của nhân dân. 1.2. Những mặt tồn tại chưa làm được Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong những năm qua, công tác giải quyết KN - TC của nước ta vẫn có nhiều tồn tại, chưa làm được, gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, cũng như cho hoạt động sử dụng đất của các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình, gây mất niềm tin trong không ít bộ phận nhân dân. * Mặt hạn chế lớn nhất mà ta dễ dàng nhận thấy trong công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở nước ta trong thời gian qua là số lượng các vụ KN - TC về đất đai ngày càng tăng và số lượng các vụ KN - TC chưa giải quyết được, còn tồn đọng chiếm tỷ lớn. Theo số liệu từ Bộ tài nguyên môi trường, từ năm 2003 đến tháng 8 năm 2006 Bộ đã tiếp nhận 30.978 đơn thư KN - TC về đất đai. Cụ thể: Năm Tiếp nhận 2003 5112 2004 8236 2005 10.500 Tám tháng đầu năm 2006 7130 Trong số đó chỉ có khoảng gần 20% là đã được giải quyết dứt điểm, có quyết định giải quyết cuối cùng, còn lại hơn 80% mới chỉ có quyết định giải quyết lần đầu hoặc chưa được giải quyết. Cũng theo thông tin từ bộ này, năm 2005, cả nước có tới 17.840 đơn thư KN - TC về đất đai, trong đó chỉ có khoảng 16,61% là đã được giải quyết dứt điểm hoặc có quyết định giải quyết cuối cùng, còn lại 83,89% là chưa được giải quyết hoặc mới chỉ có quyết định giải quyết lần đầu. Các số liệu trên đẫ chứng tỏ công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở nước ta trong thời gian qua vẫn chưa được làm tốt ở cả cơ quan hành chính lẫn cơ quan tư pháp. * Mặt chưa làm được thứ hai cũng gây ra không ít bức xúc trong thời gian qua đó là tình trạng KN - TC vượt cấp còn diễn ra tràn lan. Khiếu nại, tố cáo vượt cấp là tình trạng người KN - TC gửi đơn thư hoặc đến KN - TC trực tiếp với cơ quan nhà nước cấp trên mà không thông qua giải quyết KN - TC ở các cơ quan tổ chức, cá nhân đã ra quyết định, đã thực hiện hành vi hành chính bị KN - TC hoặc cơ quan có thẩm quyền cấp cơ sở; hoặc có tiến hành KN - TC với các cơ quan đó nhưng vẫn tiếp tục KN - TC với cơ quan cấp trên, kể cả khi đã có quyết định giải quyết cuối cùng, thậm chí có trường hợp còn lên tận các cơ quan tổ chức ở Trung ương để tiến hành KN - TC. Hiện tượng KN - TC vượt cấp diễn ra một phần là do kiến thức về pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do người dân không tin tưởng vào thực lực, vào trình độ và khả năng của các cán bộ giải quyết KN - TC về đất đai của nước ta, nhất là các cán bộ ở cấp cơ sở. * Các quyết định giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai có tính thực thi chưa cao. Như đã trình bày ở trên, trong số lượng đơn thư khổng lồ mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong giải quyết KN - TC về đất đai đã nhận được, chỉ có khoảng gần 20% là đã có quyết định giải quyết cuối cùng, nhưng một thực tế là hiện nay, tính thực thi của các quyết định này rất thấp. Giải quyết KN - TC về đất đai là một công việc rất phức tạp, đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian của các cấp các ngành và kết quả của nó được thể hiện qua các quyết định giải quyết KN - TC. Trong đó quyết định giải quyết cuối cùng là quyết định có hiệu lực pháp luật mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải có trách nhiệm thi hành.Tuy nhiên, trên thực tế, khi thực hiện thì giá trị hiệu lực của các quyết định này không được đảm bảo. Có nhiều quyết định đã được ban hành hàng chục năm mà vẫn không được thực thi. Có nhiều vụ KN - TC mặc dù đã có quyết định giải quyết cuối cùng mà người KN - TC hoặc vì không hiểu hoặc vì không đồng tình vẫn tiếp tục KN - TC lên cơ quan cấp trên, làm cho KN - TC cứ tiếp tục kéo dài, có khi tới ba, bốn chục năm, gây phức tạp tình hình và ảnh hưởng tới sự nghiêm minh của pháp luật, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất. * Một tình trạng gây không ít bức xúc trong công tác giải quyết KN - TC về đất đai hiện nay là hiện tượng KN - TC đông người diễn ra ngày càng phức tạp, gây ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống kinh tế, chính trị của cộng đồng dân cư. Tình trạng khiếu kiện đông người tập trung vào các nội dung như đòi đất đưa vào hợp tác xã, đất cho mượn, đất cũ, đòi đất thổ cư, đòi đất dòng họ…đặc biệt là khiếu nại về bồi thường tái định cư, giải phóng mặt bằng. Năm 2005, cả nước ta xảy ra khoảng 18.000 vụ KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai, trong đó số lượng các vụ KN - TC về đền bù giải phóng mặt bằng là khoảng 70%. Những vụ KN - TC về đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư thường tập trung rất đông người, nhiều khi người KN - TC còn kéo nhau tới nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo ở Trung ương để yêu cầu giải quyết. Hiện tượng đó không những gây ra thiệt hại không nhỏ về tiền và của cho Nhà nước cũng như người sử dụng đất mà còn gây ra những làn sóng dư luận xã hội không tốt, gây mất trật tự, an ninh xã hội, gây mất niềm tin của nhân dân vào các chủ chương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. * Ngoài những thực trạng nói trên, thì những mặt còn tồn tại sau cũng góp phần không nhỏ làm giảm tính thực thi của pháp luật về giải quyết KN - TC về đất đai, làm giảm hiệu quả của công tác này: - Mặc dù pháp luật đã có những quy định về phân định thẩm quyền giữa cơ quan hành chính nhà nước và hệ thống cơ quan tư pháp, nhưng trên thực tế, hai cơ quan này vẫn chưa có sự phân công trách nhiệm rõ ràng. Có nhiều đơn thư khiếu nại tố cáo gửi đến cơ quan hành chính, thì cơ quan hành chính lại chuyển sang cơ quan tư pháp, đến cơ quan tư pháp thì cơ quan tư pháp lại chuyển sang cơ quan hành chính, khiến cho người có đơn không biết đi đâu để giải quyết sau một thời gian rất dài chạy đi chạy lại theo chỉ dẫn của các cơ quan có trách nhiệm tiếp đơn. - Theo quy định của Hiến pháp thì hệ thống cơ quan tư pháp có thẩm quyền độc lập với hệ thống cơ quan hành chính, nhưng trên thực tế thì không phải như vậy. Trong giải quyết các vụ án hành chính, tòa án nhân dân cấp tỉnh rất ít khi để cho các quyết định, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân các cấp bị thua kiện. - Trong quá trình giải quyết KN - TC về đất đai, các nguyên tắc tuân theo pháp luật, nhanh chóng, kịp thời, dân chủ, công khai…không phải bao giờ cũng được đảm bảo. 2. Một số kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai 2.1. Nguyên nhân của thực trạng trên * Trong thời gian qua, công tác giải quyết KN - TC về đất đai của nước ta đạt được những kết quả khả quan là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất: Có sự chỉ đạo kịp thời sáng suốt của Đảng: Trong thời gian qua, Đảng ra đã ban hành một số Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản lãnh chỉ đạo công tác giải quyết KN - TC nói chung và giải quyết KN - TC về đất đai nói riêng, điển hình là Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 6/3/2002 của Ban bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong công tác giải quyết KN - TC hiện nay. Nội dung chủ yếu của Chỉ thị là chỉ đạo việc tăng cường trách nhiệm của Bí thư cấp ủy và đồng chí Bí thư trong công tác giải quyết KN - TC…Những chủ chương, đường lối của Đảng đã kịp thời định hướng cho công tác giải quyết KN - TC nhất là giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Thứ hai: Hệ thống pháp luật về giải quyết KN - TC về đất đai ngày càng được hoàn thiện. Thứ ba: Trình độ của cán bộ giải quyết KN - TC ngày càng tăng lên. Thứ tư: Bước đầu đã có những phương thức mới hiện đại để nhân dân thực hiện việc KN - TC và để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện giải quyết KN - TC. Thời gian qua, ở một số tỉnh thành, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội, Ủy ban các cấp, các cơ quan quản lý chuyên ngành về đất đai đã công bố nhiều số điện thoại, số fax nóng cũng như nhiều trang web để nhân dân có thể kịp thời phản ánh những thắc mắc, kiến nghị, khiếu nại của mình đồng thời tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật đất đai. * Không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được, nhưng công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở nước ta vẫn còn rất nhiều mặt chưa làm được, như đã trình bày ở trên, vậy những nguyên nhân là do đâu? Thứ nhất chúng ta phải kể đến sự chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật: - Luật KN - TC và Luật đất đai của nước ta mặc dù đã trải qua nhiều lần bổ sung sửa đổi, nhưng đến nay hai Luật này vẫn có nhiều điểm chưa thống nhất về nội dung giải quyết KN - TC. Theo quy định của Luật KN - TC thì không có quyết định hành chính giải quyết KN - TC cuối cùng, mà mọi KN - TC đều có thể được khởi kiện ra tòa (Điều 46), nhưng theo quy định của Luật đất đai năm 2003, Điều 138, khoản a thì sau khi có quyết định giải quyết KNC lần đầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện mà người KN - TC không đồng ý hoặc hết thời hạn pháp luật quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có thể khiếu nại tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện ra tòa, trong trường hợp khiếu nại tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thì quyết định giải quyết đó là quyết định cuối cùng và người khiếu nại không được tiếp tục khởi kiện ra tòa. Quy định về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng có sự không rõ ràng, thiếu thống nhất giữa hai luật này. Theo quy định của Luật KN - TC, những khiếu nại do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì người khiếu nại có thể tiếp tục khiếu nại lên Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan quản lý chuyên ngành thuộc Chính phủ. Trong khi đó Điều 138, khoản 2, điểm b Luật đất đai quy định: “Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân”. Nghĩa là theo tinh thần của điều luật này, phải chăng người khiếu nại không được tiếp tục khiếu nại vơi cơ quan có thẩm quyền cấp trên mà chỉ có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân? - Hiện nay một số khái niệm pháp luật cần thiết trong giải quyết KN - TC về đất đai vẫn chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể. Ví dụ một người có quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền giao cho nhà ở thuộc diện nhà vắng chủ, sau nhiều năm nay chủ cũ trở về và muốn đòi lại nhà. Trường hợp này là khiếu nại quyết định hành chính giao đất trước kia hay là giải quyết tranh chấp đất đai giữa chủ cũ và chủ hiện tại? - Vẫn còn thiếu những hướng dẫn cụ thể về phân định thẩm giải quyết KN - TC về đất đai quyền giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành chính, giữa cơ quan quản lý chuyên ngành và thanh tra Chính phủ. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người KN - TC phải chạy đi chạy lại giữa cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp mà vụ việc KN - TC vẫn không được giải quyết như đã nói ở trên. - Thiếu một cơ chế tổ chức thực thi các quyết định giải quyết KN - TC về đất đai đã có hiệu lực thi hành. Trên thực tế, khi các quyết định giải quyết KN - TC về đất đai được ban hành, rất ít khi nó được người có quyền và nghĩa vụ liên quan thi hành một cách tự nguyện, thường thì các cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền phải tổ chức động viên, thuyết phục nhiều lần để các bên đương sự thực thi. Nhưng đôi khi việc động viên thuyết phục cũng không đạt kết quả, khi đó cần có các biện pháp hành chính để cưỡng chế thi hành. Nhưng hiện nay cả Luật KN - TC cũng như Luật đất đai vẫn thiếu những quy định cụ thể về vấn đề này. Thứ hai: Việc quản lý đất đai chưa được làm tốt, việc thực thi Luật đất đai còn nhiều bất cập, quy hoạch sử dụng đất chua đủ, và chất lượng quy hoạch chưa cao, bộ máy quản lý hành chính trong đất đai vẫn chưa phục vụ tốt nhân dân. Chính những nguyên nhân đó đã dẫn tới khiếu nại, khiếu kiện về đất đai, dẫn tới tham nhũng lãng phí về đất đai. Thứ ba: Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết KN - TC vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Một phần do trình độ nhận thức của cán bộ giải quyết KN - TC, một phần là do tinh thần trách nhiệm của họ chưa cao, nên việc áp dụng pháp luật trong giải quyết KN - TC về đất đai trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Công tác tiếp dân vẫn chưa được làm tốt, trình tự thủ tục giải quyết thường không đúng với quy định của pháp luật, không thực hiện đúng các quy định về thời gian… Không những vậy, có nhiều trường hợp các quyết định giải quyết KN - TC về đất đai của Ủy ban nhân dân các cấp hoặc Tòa án đưa ra không phù hợp, thậm chí là trái pháp luật, người dân biết là giải quyết không đúng nhưng không biết đi đâu để tìm ra chân lý, từ đó dẫn tới sự thiếu tin tưởng của nhân dân vào các cơ quan có thẩm quyền của địa phương. Thứ tư: Kiến thức về pháp luật nói chung, về pháp luật KN - TC nói riêng của nhân dân ta còn thấp mà nhà nước chưa có nhiều chương trình phù hợp để hỗ trợ cho việc nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân. Chính điều đó đã dẫn đến nhiều trường hợp chỉ vì không hiểu biết hết chủ chương chính sách của Nhà nước mà dân ta mới KN - TC sai, KN - TC tràn lan, vượt cấp, tụ tập đông người… Và cũng chính vì không hiểu mà nhiều trường hợp đã có quyết định giải quyết KN - TC cuối cùng hoàn toàn đúng pháp luật mà người dân vẫn cứ khiếu nại tố cáo, hoặc không chịu thi hành quyết ấy khi nó đã có hiệu lực. 2.2. Một vài kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở nước ta trong thời gian tới 2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - Trong thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục có những sửa đổi, bổ sung đối với Luật đất đai và Luật KN - TC để thống nhất hóa hai Luật này. Đặc biệt là các quy định về quyết định hành chính giải quyết KN - TC cuối cùng và quyền khởi kiện ra Tòa sau khi đã có quyết định giải quyết lần hai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Cần có các hướng dẫn cụ thể về các khái niệm quan trọng trong giải quyết KN - TC về đất đai. - Cần tiếp tục ban hành các văn bản cụ thể về phân định thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân và Ủy ban nhân dân các cẩp trong giải quyết KN - TC về đất đai để tránh tình trạng “đá bóng qua, đá bóng lại” giữa các cơ quan này, gây phiền hà, khó khăn cho nhân dân khi thực hiện quyền KN - TC của mình. - Bổ sung các quy định cụ thể về cơ chế tổ chức thực thi các quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo, nhất là các quyết định giải quyết cuối cùng cũng như ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định ấy. Thực trạng kém hiệu lực của các quyết định giải quyết KN - TC về đất đai, nhất là các quyết định giải quyết cuối cùng ở nước ta trong thời gian vừa qua là do nhiều nguyên nhân: văn bản của quyết định có nội dụng chung chung, không rõ ràng, chưa đầy đủ các yếu tố thi hành; ý thức chấp hành, thực thi các quyết định giải quyết KN - TC còn yếu kém, chưa nghiêm túc; không giao cho các cá nhân có thẩm quyền đôn đốc, thực hiện hoặc đã giao nhưng tổ chức cá nhân có thẩm quyền không tiến hành đôn đốc kiểm tra việc thực hiện…nhưng trong đó nguyên nhân chủ yếu vẫn là còn thiếu các quy định và các hướng dẫn cụ thể về một cơ chế thực thi, về các biện pháp cưỡng chế thi hành các quyết định này. 2.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai Trong thời gian qua, Đảng ta luôn có sự lãnh chỉ đạo kịp thời đối với các hoạt động hành pháp nói chung cũng như đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai nói riêng. Sự lãnh đạo đó đã góp phần vô cùng to lớn trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, đảm bảo quyền KN - TC của công dân, của người sử dụng đất, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay cần phải tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai bởi những nguyên nhân sau: - Trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và không ngừng mở của hội nhập với thế giới như hiện nay, đặc biệt là từ tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức gia nhập WTO, thì việc tiếp tục khẳng định định hướng Xã hội chủ nghĩa và củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là hết sức quan trọng. Bởi vậy, công tác giải quyết KN - TC nói chung, giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai nói riêng cần tiếp tục được chú trọng. - Sự lãnh, chỉ đạo công tác giải quyết KN - TC nói chung, KN - TC về đất đai nói riêng của một số cấp Ủy đảng còn bất cập, chưa ngang tầm với trách nhiệm chính trị của Đảng. - Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đang tạo ra nhiều thuận lợi những cũng tiềm ẩn không ít khó khăn, thử thách đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta. Tình hình KN - TC, nhất là KN - TC về đất đai mặc dù có nhiều chuyển bién, nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây ra tình hình KN - TC phức tạp đe dọa sự ổn định của chính trị xã hội. Do đó trong bối cảnh hiện nay phải tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. - Công tác giải quyết KN - TC đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai có mối quan hệ chặt chẽ với sự ổn định của chính trị xã hội. Hạn chế và giải quyết tốt, có hiệu quả KN - TC là nhân tố đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội, ngược lại sự ổn định chính trị xã hội là tiền đề, cơ sở để hạn chế KN - TC. Chính bởi những nguyên nhân đó mà trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai, cần thực hiện những giải pháp sau: - Các cấp Ủy đảng phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các Chỉ thị của Đảng về lãnh, chỉ đạo công tác giải quyết KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai đặc biệt là Chỉ thị số 09/CT/TW ngày 6/3/2002 của Ban bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo hiện nay. - Các cấp Ủy Đảng phải nắm chắc tình hình giải quyết KN - TC về đất đai xảy ra trên địa bàn để chỉ đạo giải quyết kịp thời theo đúng quy định của pháp luật, - Tăng cường lãnh đạo các thiết chế chính trị xã hội trong việc giám sát hoạt động giải quyết KN - TC về đất đai. 2.2.3. Tăng cường sự giám sát của Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng nhân dân đối với công tác giải quyết KN - TC về đất đai Giám sát hoạt động giải quyết KN - TC về đất đai là việc cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tư pháp, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận và các thiết chế chính trị xã hội khác ngoài hệ thống cơ quan hành chính nhà nước theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động ban hành và thực hiện pháp luật KN - TC của cơ quan hành chính nhà nước theo những phương thức nhất định. Sở dĩ phải tăng cường sự giám sát của Nhà nước và của các đoàn thể quần chúng nhân dân đối với công tác giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai bởi những nguyên nhân sau: - Trong những năm qua các cán bộ ngành đặc biệt là các cán bộ địa phương đã ban hành nhiều quy phạm pháp luật về giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai không đúng thậm chí là trái với quy định của Luật đất đai, các Pháp lệnh, các Nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Việc đó không những vi phạm yêu cầu pháp chế trong xây dựng và thi hành pháp luật mà còn giảm hiệu lực của công tác giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của công dân, của người sử dụng đất. - Thông qua hoạt động giám sát, Nhà nước cũng như nhân dân sẽ xem xét, theo dõi, đánh giá được hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong giải quyết KN - TC về đất đai để từ đó có thể kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý, khắc phục kịp thời những yếu kém, sai sót, khó khăn. - Khiếu nại tố cáo là quyền tự do dân chủ của công dân, là công cụ pháp lý quan trọng để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là phương thức để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, là biểu hiện của nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Do đó viêc tăng cường giám sát hoạt động KN - TC là một trong những bảo đảm quan trọng để bảo vệ các quyền đó của công dân. Để tăng cường sự giám sát của Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng, nhân dân, giải pháp đưa ra là: - Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các Đại biểu quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải dành thời gian thích đáng, đầu tư nhiều công sức trí tuệ hơn nữa cho công tác giám sát đối với hoạt động giải quyết KN - TC về đất đai. - Hoàn thiện quy chế để tăng cường, nâng cao hiệu qủa giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc giám sát hoạt động giải quyết KN - TC về đất đai. - Đổi mới, hòan thiện cơ chế giám sát của các thiết chế chính trị xã hội khác, giám sát của các cơ quan báo chí, của các tổ chức xã hội, của nhân dân… 2.2.4. Thực hiện tốt công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở cấp cơ sở Giải quyết tốt KN - TC về đất đai ở cấp cơ sở là góp phần vào sự ổn định an ninh trật tự và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Không những vậy nếu các cấp cơ sở làm tốt công tác giả quyết KN - TC về đất đai thì còn hạn chế được tình trạng KN - TC tràn lan, vượt cấp lên trên. Hơn nữa, cấp cơ sở là cấp quản lý trực tiếp, gần dân nên dễ nắm bắt và hiểu được tâm tư nguyện vọng của nhân dân do đó có thể đưa ra những quyết định giải quyết phù hợp. Để thực hiện tốt công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở cấp cơ sở vấn đề đặt ra là: Thứ nhất, phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ giải quyết KN - TC về đất đai ở cấp xã. Để làm được điều đó cần chọn ra những người có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao và có bản lĩnh chính trị vững vàng rồi có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho họ. Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền ở cấp trên phải có sự quan tâm đầu tư hơn nữa cho công tác giải quyết KN - TC ở cấp cơ sở, đồng thời cũng cần có các biện pháp cần thiết để có thể kiểm tra, đôn đốc, kịp thời phát hiện những sai sót để có thể có những biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời. 2.2.5. Thực hiện tốt đối thoại giữa người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại Trong suốt thời gian qua, mỗi khi thụ lý, giải quyết đơn thư KN - TC của công dân, cán bộ giải quyết thường chủ yếu là ngiên cứu nội dung đơn sau đó mời đơn phương từng bên đến để tiến hành thẩm tra, xác minh kết luận vụ việc mà ít khi tổ chức đối thoại trực tiếp giữa các bên (do luật không bắt buộc) để qua đó phát hiện thêm những ẩn chứa phía sau đơn KN - TC cho nên việc giải quyết KN - TC thương tốn nhiều công sức, lại dẫn đến một số trường hợp quyết định giải quyết thiếu khách quan, chưa thấu tình đạt lý. Luật KN - TC năm 1998 sửa đổi bổ sung năm 2004, 2005 đã quy định đây là một trình tự bắt buộc. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức đối thoại trực tiếp trong giải quyết KN - TC nói chung cũng như giải quyết KN - TC về đất đai. 2.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giải quyết KN - TC về đất đai - Giải quyết KN - TC về đất đai đòi hỏi người tham gia giải quyết phải có chuyên môn nghiệp vụ, phải có trình độ kiến thức, am hiểu chủ chương, chính sách của Nhà nước để có thể giải thích, trả lời cho nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong đó cơ bản nhất là những kiến thức về chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, giải tỏa đất đai, tái định cư…vì đây là những kiến thức thường xuyên phải sử dụng đến trong quá trình giải quyết KN - TC. Luật KN - TC còn quy định “khi giải quyết KN - TC lần đầu người giải quyết phải đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại”, do đó người giải quyết KN - TC phải không ngừng nâng cao kiến thức pháp luật, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ thì mới có thể giải quyết KN - TC được hiệu quả, mới trả lời cho nhân dân một cách chính xác, rõ ràng những gì mà họ thắc mắc, từ đó mới khiến cho nhân dân tin tưởng vào kết quả giải quyết KN - TC, và không tiếp tục KN - TC lên cấp trên. - Thêm vào đó, từ khi đất nước ta bước vào cơ chế thị trường đến nay, các KN - TC về đất đai ngày càng tăng lên cả về số lượng và mức độ phức tạp, gay gắt của vụ việc. Bởi vậy, nếu người gìải quyết KN - TC về đất đai mà không thực sự có chuyên môn nghiệp vụ thì không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả được. - Một điều không thể phủ nhận là kiến thức pháp luật của nhân dân ta ngày cang tăng lên. Không những vậy trong dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật KN - TC dự định ban hành trong thời gian tới thì việc ủy quyền KN - TC sẽ được mở rộng hơn, nghĩa là người KN - TC có thể ủy quyền cho Luật sư để tiến hành việc KN - TC. Trong trường hợp này nếu người giải quyết KN - TC có kiến thức không cao thì họ khó có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. - Hiện nay, ở một số địa phương vùng sâu, vùng xa đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết KN - TC về đất đai, nhất là ở các cấp cơ sở, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu Trước những lý do đó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giải quyết KN – TC là một nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian tới. 2.2.7. Thành lập cơ quan tài phán nhà nước về đất đai hoặc hệ thống Toà án đất đai Hiện nay, Bộ tài nguyên môi trường đang đề xuất việc thành lập cơ quan tài phán Nhà nước về đất đai (hệ thống cơ quan này nếu được tổ chức sẽ trực thuộc chính phủ, được tổ chức thành ba cấp: cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện) hoặc nếu không tổ chức hệ thống cơ quan tài phán về đất đai thì tổ chức hệ thông Toà án về đất đai. Trong trường hợp không thực hiện được cả hai phương án trên thì có thể áp dụng phương án là cơ quan hành chính ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính có trách nhiệm giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu sau đó người khiếu nại vẫn tiếp tục khiếu nại thì đơn sẽ được chuyển sang cho Toà án hành chính giải quyết. Người thực hiện Khoá luận nhận thấy đề xuất này của Bộ tài nguyên môi trường rất phù hợp, nên triển khai bởi các nguyên nhân sau: - Tình trạng KN - TC về đất đai, nhất là trong giai đoạn hiện nay rất phức tạp, tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp, gay gắt. Riêng bộ tài nguyên môi trường, năm 2006 đã tiếp nhận 2.735 lượt đơn thư KN - TC tăng so với năm 2003, chỉ có 943 lượt; đặc biệt các đoàn KN - TC đông người ngày càng tăng, 90% tổng lượng đơn thư Bộ tiếp nhân trong thời gian qua là đơn thư KN - TC trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Có lẽ không có một khảo sát thống kê nào liệt kê đầy đủ những thiệt hại về vật chất tinh thần, thời gian, công sức của những đoàn người đi khiếu kiện về đất đai, dù đúng dù sai. Nhiều trường hợp đã được các cơ quan trung ương giải quyết nhưng công dân vẫn thường xuyên ở Hà Nội để KN - TC và yêu cầu người đứng đầu các cơ quan Trung ương tiếp nhận và giải quyết. - Công tác giải quyết KN - TC về đất đai ở các cơ quan hành chính, nhất là ở các cấp cơ sở, còn rất nhiều tồn tại. Việc tiếp dân, nhận đơn vẫn chưa được làm tốt, chưa có hướng dẫn cụ thể cho người dân nên người KN - TC vẫn phải đi hết nơi này tới nơi khác để nộp đơn, có khi cùng một nội dung đơn gửi đến rất nhiều cơ quan tổ chức mà vẫn không được tiếp nhận, đó là chưa kể tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm của các cơ quan. - Giải quyết KN - TC về đất đai là một việc hết sức phức tạp nhất là trong tình hình KN - TC về đất đai bề bộn như hiện nay. Nó bao gồm nhiều giai đoạn: kiểm tra, nghiên cứu, kết luận…mà để tiến hành, đòi hỏi cần có một đội ngũ cán bộ am hiểu pháp luật, có chuyên môn nghiệp vụ và làm việc chuyên trách. Nhưng công tác giải quyết KN - TC về đất đai hiện nay vẫn chủ yếu là làm kiêm nhiệm. KN - TC về đất đai chủ yếu phát sinh ở cấp huyện nhưng bộ máy thụ lý ở cấp này lại không tương ứng. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phải chịu trách nhiệm về quyết định giải quyết KN - TC về đất đai, nhưng họ lại phải lo mọi việc của địa phương nên khó có điều kiện chuyên tâm về việc này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giải quyết KN - TC chậm chạp, thiếu dứt điểm, chất lượng thấp, tái khiếu kiện như hiện nay. - Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa Luật KN - TC và Luật đất đai trong giải quyết KN - TC của công dân. Hiện vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ trong giải quyết KN - TC giải cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp, giữa cơ quan quản lý chuyên ngành với thanh tra Chính phủ. Rõ ràng sự phân định thẩm quyền giữa hệ thống cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp chưa cụ thể nên mới dẫn tới tình trạng người dân phải đi lại nhiều lần giữa cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp mà vẫn không được thụ lý để giải quyết như hiện nay. Bởi những nguyên nhân đó việc xây dựng một hệ thống cơ quan chuyên trách giải quyết KN - TC về đất đai (có thể là hệ thống cơ quan tài phán nhà nước về đất đai hoặc hệ thống toà án về đất đai) là một đề xuất nên được triển khai để có thể giải quyết tốt những KN - TC về đất đai đang ngày càng phức tạp, gay gắt như hiện nay cũng như trong thời gian tới. Nâng cao hiểu biết của công dân về pháp luật nói chung, pháp luật về đất đai và pháp luật về KN - TC nói riêng. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến tận người dân, nhất là người nông dân bằng nhiều hình thức khác nhau qua các phương tiện thông tin đại chúng qua công tác tiếp dân…Phối hợp với các đoàn thể xã hội để vận động, giáo dục, thuyết phục đương sự tự giác chấp hành các quyết định giải quyết chấp hành pháp luật. KẾT LUẬN Việt Nam là một nước đang phát triển, dân số ngày càng tăng lên. Thêm vào đó công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cùng với quá trình công đô thị hoá nông thôn đang diễn ra mạnh mẽ từng ngày đã làm cho nhu cầu sử dụng đất vào các mục đích công cộng như xây dựng các khu công nghiệp, các khu đô thị, đường xá, cầu cống…cũng như nhu cầu sử dụng đất của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tăng lên không ngừng. Thực tế đó làm cho KN - TC về đất đai cũng ngày càng diễn biến phức tạp. Vì vậy đòi hỏi cấp bách và thiết thực là hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết KN - TC về đất đai để không những có thể giải quyết hiệu quả triệt để mà còn hạn chế được KN - TC về đất đai xảy ra, ngăn chặn, phòng ngừa kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Nhận thức được tính phức tạp và cấp thiết của đề tài, Khoá luận đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành về KN - TC và giải quyết KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai, thực trạng áp dụng các quy định đó trong giai đoạn hiện nay, từ đó tìm ra nguyên nhân của KN - TC trong quản lý và sử dụng đất đai cũng như tìm ra những thành tựu đã đạt được, và những mặt hạn chế chưa làm được của công tác giải quyết KN - TC về đất đai trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác này ở nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên trong phạm vi giới hạn của một Khoá luận tốt nghiệp, chắc chắn Khoá luận chưa thể trình bày đầy đủ mọi điều cần phải nói, vì vậy người viết rất mong sẽ có cơ hội tiếp tục phát triển vấn đề này trong một công trình nghiên cứu lớn hơn, để có thể có những nghiên cứu đánh giá sâu sắc hơn, từ đó có thể đóng góp những kiến nghị, giải pháp hữu ích hơn cho các nhà lập pháp cũng như các nhà hành pháp trong lĩnh vực giải quyết KN - TC về đất đai, hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả của công tác này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam các năm 1946, 1959, 1960 và 1992; Luật đất đai năm 2003; 3. Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003; 4. Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi bổ xung năm 2004, 2005; 5. Giáo trình “Luật đất đai”, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Tư pháp; 6. “Từ điển Luật học”, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Tư pháp; 7. Giáo trình “Luật hành chính và Tài phán hành chính”, Học viện Chính trị Quốc gia, NXB Bộ giáo dục; 8. Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nguyễn Duy Lâm, NXB Giáo dục; 9. “Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong những quy định của Luật đất đai”, ThS. Nguyễn Thị Dung, Tạp chí Luật học, Đặc san về Luật đất đai năm 2003; 10. “Giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai, giải toả, đền bù”, Tạp chí Thanh tra, NXB Lao độnh; 11. “Đối thoại trực tiếp, một giải pháp phù hợp trong thực tế giải quyết khiếu nại”, Duy Anh, Tạp chí Thanh tra; 12. “Cần có giải pháp đảm bảo thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng về đất đai”, Võ Văn Tiến, Tạp chí Thanh tra; 13. “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết KN - TC của cơ quan hành chính nhà nước”, Trần Văn Sơn, Tạp chí Thanh Tra; 14. “Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước - giải pháp tăng cường pháp chế XHCN”, Trần Văn Sơn, Tạp chi Nghiên cứu lập pháp số 8, năm 2005; 15. “Những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp xã”, Nguyễn Trí Phước, Tạp chí Thanh tra; 16. “Cần sớm khắc phục những hạn chế về giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Mai Trần Dũng, Tạp chí Hiến kế lập pháp số 13, năm 2006; 17. “Một số kinh nghiệm rút ra từ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Ba Đình (Hà nội)”, Nguyễn Quôc Tuấn, Tạp chí Thanh tra; 18. “Tìm hiểu những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Đinh Văn Minh, Tạp chí Thanh tra; 19. “Cần đổi mới hơn nữa công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai”, Giáo sư, Ts khoa học Đặng Hùng Võ; 19. www.vnexpress.vn 20. www.luatvietnam.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (68).DOC
Tài liệu liên quan