Thứ nhất: Cần tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang Nga. Thị trường Nga chia làm hai loại: Một là ưa dùng hàng hóa chất lượng cao thường nhập của EU và các nước Nam Mỹ. Hai là chấp nhận mức giá thấp và chất lượng không cao chủ yếu của Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nga thường là hàng nông sản, nguyên liệu sơ chế, tỷ lệ chế biến còn thấp và các hàng gia công, lắp ráp như hàng may mặc, giày dép. Trước mắt thì sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận dân cư thu nhập thấp nhưng trong thời gian tới khi mà đời sống nhân dân Nga được nâng cao thì cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Những lợi thế về lao động rẻ sẽ không còn chủ đạo nữa mà cần có lực lượng lao động tri thức, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao thì tạo ra được những hàng hóa có giá trị. Chính vì vậy, đầu tư công nghệ tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm là những yếu tố quyết định đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường thế giới nói chung và thị trường Nga nói riêng.
Thứ hai: Chú trọng nâng cao trình độ, phát huy tính năng động, nhạy bén của đội ngũ công nhân viên. Các doanh nghiệp sản xuất phải có sự phối hợp đồng bộ, cố gắng đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra với giá thành hạ, không ngừng cải tiến chất lượng theo nhu cầu thị hiếu trên thị trường, cải tiến mẫu mã, chất lượng bao bì, đảm bảo cung ứng đúng tiến độ giao hàng ở tầm vi mô các doanh nghiệp cần thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi phát hiện những kẽ hở để có thể đi trước đối thủ cạnh tranh (như kênh phân phối mới, thị hiếu mới lạ.). Mặt khác các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ đối tác của mình trước khi thiết lập quan hệ làm ăn bởi hiện nay xuất hiện rất nhiều “công ty ma” chuyên lừa những doanh nghiệp thiếu hiểu biết hoặc mới bước chân vào lĩnh vực kinh doanh.
Thứ ba: Cần liên kết các doanh nghiệp Việt Nam ở Nga. Hiện nay ở Nga có rất nhiều người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Nga. Nhiều người làm ăn khá giả, thành lập doanh nghiệp nên chính họ là đầu mối để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước, ngoài ra Việt Nam cũng có hàng triệu tri thức, lao động được đào tạo tại Nga nên họ rất hiểu người dân Nga, thị trường Nga. Do vậy, Việt Nam nên tận dụng và phát huy lợi thế này để hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga.
106 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2088 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Việt Nam vẫn ít nhiều cản trở quá trình hội nhập. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan của chúng ta nói chung còn khá cao. Chính sách bảo hộ nền kinh tế trong nước còn nặng nề, thủ tục hành chính tuy đã được đổi mới nhưng vẫn còn phức tạp, làm trì trệ các hoạt động kinh tế đối ngoại.
1.3. Chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2010
Theo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu nêu rõ: “Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, đảm bảo nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu có tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo thị trường ổn định cho một loạt mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh tìm kiếm các thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu mới”.
Trên cơ sở những thành tựu của hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2005, nhận định phân tích các nhân tố thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế, dự thảo “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010” của Bộ Thương mại đã đặt ra mục tiêu tổng quát cho hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010” là: Phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao, tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô xuất khẩu. Cụ thể, đến năm 2010 tỷ trọng các nhóm nguyên liệu và nông lâm sản sẽ giảm xuống còn 19 - 21% so với gần 40% như trong giai đoạn hiện nay. Tỷ trọng các nhóm hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng từ 30% lên 40 - 45% với các mặt hàng chủ lực là: giày dép, thủ công mỹ nghệ, may mặc, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, sản phẩm cơ khí, sản phẩm nhựa. Phần còn lại sẽ là các sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghệ cao là hàng điện tử, tin học.Chỉ tiêu xuất khẩu đặt ra cho giai đoạn 2006 - 2010 là đạt mức tăng trưởng xuất khẩu trung bình 17,5%, phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu 72,4 tỷ USD.
Nhập khẩu thời kỳ này giữ được tốc độ bình quân 15%/năm. Mục tiêu cơ bản đối với nhập khẩu là thực hiện chính sách nhập khẩu hợp lý, bảo đảm vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, nhất là nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến, cân đối ngoại tệ và khả năng sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thị trường xuất nhập khẩu, quan điểm chỉ đạo là tích cực chủ động, tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi gia nhập WTO, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ với đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột, tận dụng mọi khả năng để phát triển mức xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện nay còn chiếm tỷ trọng thấp, mở rộng hơn nữa sự hợp tác với các thị trường như Mỹ, Mỹ La Tinh, Châu Phi... tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn.
Tóm lại, trong 21 năm đổi mới Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách hệ thống thương mại của mình. Từ sự phụ thuộc vào Đông Âu và Liên Xô, đến nay nền kinh tế Việt Nam đã chuyển đổi sang chế độ buôn bán đa phương hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương mà chủ yếu là với khối APEC, ASEAN. Những định hướng chiến lược mà Việt Nam đề ra trong thời gian tới sẽ là những cái đích mà chúng ta cần thực hiện cho được nhằm đưa Việt Nam thực sự trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn vậy Việt Nam phải mở rộng hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, đặc biệt là những nước mà chúng ta có quan hệ gắn bó lâu dài như Nga thì cần phải có chiến lược dài hạn hơn và có những hành động cụ thể hơn.
Triển vọng phát triển kinh tế của Liên bang Nga
Bước vào thế kỷ 21, nền kinh tế Nga có dấu hiệu phục hồi của một cường quốc kinh tế và bắt đầu phát triển mạnh mẽ: tăng trưởng GDP cao, dự trữ ngoại hối tăng, thặng dư cán cân thương mại và đời sống nhân dân dần dần được cải thiện. Theo Bộ Thương mại và Phát triển kinh tế Nga, Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Nga có thể tăng trưởng ở mức cao vào khoảng từ 6,5 đến 7%/năm cho tới tận năm 2020. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì mức lạm phát của Nga là vừa phải, đồng nội tệ ổn định và có xu hướng tăng giá, cải cách thuế và khung pháp lý đang được hoàn thiện. Theo Tổng thống Putin, nước Nga ngày nay cần đặt ra mục tiêu nhiều tham vọng hơn, mức tăng trưởng phải cao hơn, nền kinh tế phải tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn nhiều. Việc đánh giá thấp tiềm năng của Nga sẽ làm cho nước Nga không đạt được mục tiêu của mình và cũng không tận dụng được những điều kiện sẵn có để phát triển. Năm 2000, kinh tế Nga đã đạt mức tăng trưởng kỷ lục là 8,3%, năm 2001 mặc dù kinh tế toàn cầu suy giảm nhưng kinh tế Nga vẫn duy trì mức tăng trưởng khá cao là 5%, năm 2002 thấp hơn chút ít là 4,4%. Năm 2003 là năm mà nền kinh tế Nga được coi là một trong những điểm sáng hiếm hoi của nền kinh tế toàn cầu. Trong năm 2006, kinh tế Nga tăng trưởng là 6,6%, trong đó tăng trưởng công nghiệp là 4,6%, vốn đầu tư cơ bản tăng 11,1%, thu nhập quốc dân tăng 12,5%, xuất khẩu hàng hoá đạt 311 tỷ USD, nhập khẩu đạt 160 tỷ USD. Nguyên nhân chính để kinh tế Nga có thể tăng trưởng như vậy là do giá dầu thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh và sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới vì Nga có nguồn dự trữ dầu khổng lồ. Từ những năm đầu thế kỷ XXI, nền kinh tế Nga đã bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn phát triển toàn diện cả về kinh tế và chính trị.
Bảng 13: Dự báo phát triển kinh tế của Nga từ năm 2007
đến năm 2009
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Chỉ số giá tiêu dùng (%)
106,5-108
104,5-106
104-105,5
Chỉ số phát triển tiền lương thực tế (%)
111
108,6
107,4
Chỉ số tăng trưởng GDP (%)
106
105,8
105,9
Chỉ số phát triển
công nghiệp (%)
104,2
104,5
104,7
Chỉ số phát triển
nông nghiệp (%)
103,2
103,3
103,4
Chỉ số tăng vốn đầu tư cơ bản (%)
110,4
109,7
109,8
KN xuất khẩu
(tỷ USD)
315,5
294
280,5
KN nhập khẩu
(tỷ USD)
194,8
228,2
264,2
Nguồn: Dự báo phát triển kinh tế xã hội Liên bang Nga giai đoạn
2005-2009 của Bộ Thương mại và phát triển kinh tế Liên bang Nga
Có thể thấy rằng, trong giai đoạn 2007 - 2009 các nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương của Nga là giữ vững ổn định kinh tế, mở rộng nhu cầu trong nước trên cơ sở phát triển đầu tư và nâng cao thu nhập thực tế của người dân, tăng sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương đồng thời duy trì chính sách thương mại tự do, duy trì những ưu thế trên thị trường nhiên liệu thế giới. Mở rộng nhu cầu trong nước sẽ tăng nhập khẩu được những hàng hoá có tính ưu việt lớn. Chính sự bình ổn tài chính tiền tệ và tỷ giá đồng Rúp đã tác động tích cực đến nhập khẩu của Nga. Thêm nữa là sự cải thiện môi trường đầu tư sẽ kích thích tăng các nguồn vốn đầu tư và trước hết là tăng nhập khẩu những thiết bị máy móc công nghệ tiên tiến hiện đại. Điều này sẽ tạo điều kiện cho nền công nghiệp Nga ngày một lớn mạnh có thể theo kịp các nước đang phát triển trên thế giới.
Các mặt hàng nhiên liệu năng lượng, kim loại màu và kim loại đen, phân hoá học, thậm chí máy móc kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu của Nga. Giá dầu thế giới trong những năm gần đây đều ở mức cao. Dự đoán xuất khẩu dầu của Nga trong năm 2009 so với năm 2005 sẽ tăng từ 4,2% cho đến 4,8%. Các nhà nhập khẩu dầu chính của Nga là các nước thuộc liên minh châu Âu (Đức, Italia, Anh…) thậm chí cả Trung Quốc. Khí đốt cũng là mặt hàng chủ lực của Nga. Trong vòng 10 năm trở lại đây, nhu cầu về khí đốt tăng cao hơn so với khả năng cung cấp trên thị trường thế giới ở mức gần 2% so với 1,6% của dầu, trong khi nhu cầu về than lại giảm. Nhu cầu khí đốt ở các nước đang phát triển là rất lớn, đặc biệt là châu Á. Các nước công nghiệp phát triển cũng có nhu cầu đáng kể đối với khí đốt. Điều này làm tăng sự phụ thuộc của các nước này vào nhập khẩu khí đốt. Đây là lợi thế rất lớn của Nga để tăng trưởng xuất khẩu. Trong dài hạn Nga sẽ đóng vai trò chủ đạo trên thị trường khí đốt thế giới nhờ có trữ lượng khí đốt khổng lồ.
Theo dự đoán thì xuất khẩu máy móc thiết bị và phương tiện chuyên chở của Nga năm 2009 sẽ tăng so với năm 2005 là 30,5% và nhịp độ gia tăng xuất khẩu ô tô tải trong năm 2009 so với năm 2005 là 74,9% - 98,7%.
Nhìn chung, trong những năm tới nền kinh tế Nga hứa hẹn là một nền kinh tế phát triển năng động về mọi mặt. Những dấu hiệu tích cực này sẽ tác động một cách mạnh mẽ vào ngoại thương của Nga nói chung và quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga nói riêng trong thời gian tới. Sự phát triển công nghiệp của Liên bang Nga sẽ tạo điều kiện tăng xuất khẩu máy móc thiết bị có hàm lượng công nghệ cao ra nước ngoài và đặc biệt là vào Việt Nam, đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên rất cần những thiết bị có công nghệ cao để thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, khi mức sống của người dân Nga tăng lên thì nhu cầu về những mặt hàng như cà phê, hàng dệt may, giày dép sẽ tăng lên rất nhiều. Đây chính là cơ hội của Việt Nam khi những mặt hàng này là những mặt hàng lợi thế của Việt Nam trong những năm gần đây. Hơn nữa đây cũng là những mặt hàng mà trước kia Việt Nam vẫn nhập vào Nga nên dân Nga quen dùng những mặt hàng này của Việt Nam.
Có thể nói sự khởi sắc của nền kinh tế Nga có được là nhờ tình hình chính trị ổn định, Nhà nước phát huy vai trò trong việc điều tiết nền kinh tế và nhờ có được một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và giàu có. Việc cải cách kinh tế tài chính giữ được nhịp độ vừa phải, thận trọng, vững chắc, điều chỉnh giá đồng Rúp với ngoại tệ đúng mức nên tăng được khả năng cạnh tranh của hàng hoá Nga. Như vậy, trong 10-15 năm tới, nền kinh tế Nga sẽ khởi sắc và mong muốn tham gia vào nền kinh tế thế giới với tư cách là một nền kinh tế lớn. Sự hồi sinh của nền kinh tế Nga dựa trên một nền tảng vững chắc, đó là: tinh thần Nga mới. Đây là những thuận lợi nhất định để Nga nhanh chóng trở lại với vị thế của một cường quốc thế giới tương xứng với những tiềm năng sẵn có của mình.
Những nhân tố thúc đẩy và triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Để có một nền kinh tế phát triển bền vững thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế này, trong đó không loại trừ Việt Nam và Nga. Toàn cầu hóa thể hiện nổi bật ở sự phát triển của các định chế toàn cầu như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)... Hiện nay cả Nga và Việt Nam tuy là thành viên của IMF và WB nhưng mới là thành viên đi vay IMF và WB chứ chưa phải là thành viên có tiếng nói và đóng góp cho các tổ chức này. Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO và Nga cũng đang tiến hành đàm phán để có thể gia nhập WTO trong tương lai gần, do đó hai nước cần có những thay đổi cơ bản để phù hợp với các điều kiện của WTO. Các định chế và mức độ tự do hóa kinh tế của tổ chức quy định là mức độ tương đối phổ cập cho tất cả các nước thành viên, tuy có khác nhau giữa các nước phát triển và kém phát triển. Nga chưa gia nhập WTO, điều đó chứng tỏ mức độ tự do hóa kinh tế của nước này còn thấp hơn mức độ phổ cập của thế giới. Trong bản chào đầu tiên để đàm phán gia nhập WTO, Nga đưa ra mức thuế nhập khẩu là 27%, nếu so với mức thuế nhập khẩu bình quân của các nước phát triển là khoảng 3% và các nước đang phát triển là 14% thì mức thuế trên là quá cao. Gần đây Nga đang cố gắng hạ thấp hàng rào bảo hộ này để khai thông đàm phán gia nhập WTO. Quan hệ kinh tế hiện nay của hai nước của hai nước cũng đang bị hàng rào bảo hộ này ngăn chặn. Chính vì vậy, để quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Nga ngày càng phát triển thì cần phải hạ thấp các hàng rào bảo hộ, thậm chí còn phải thấp hơn mức mà WTO yêu cầu. Một ví dụ điển hình là trước đây, khi chưa có Hiệp định thương mại Việt - Mỹ thì kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ là rất thấp. Nhưng từ khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 thì mức thuế suất đối với hàng hóa Việt Nam chỉ là 3% so với mức thuế quan trung bình trước đây là 40%. Do đó, giá trị xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng dần qua các năm. Năm 2005 là 5,93 tỷ USD và 5 tháng đầu năm 2006 con số này đã là gần 3 tỷ USD. Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ còn là đòn bẩy quan trọng giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Qua đó, ta thấy việc tăng cường quan hệ thương mại với các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng là rất cần thiết để phát triển kinh tế một cách bền vững.
Hiện nay trên thị trường thế giới tồn tại rất nhiều các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia. Các công ty này ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế của các nước trên thế giới. Trong khi ở Nga và Việt Nam có rất ít các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia hoạt động. Những công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia nước ngoài hoạt động ở Nga thì chỉ chú ý tới thị trường của Nga và ở Việt Nam thì chỉ chú ý tới thị trường Việt Nam. Điều này chứng tỏ quan hệ thương mại Việt - Nga vẫn còn ở mức độ thấp, chưa đủ sức hấp dẫn nên các công ty này chưa chú ý tới. Đây là đòi hỏi bức thiết để phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga sao cho tương xứng với tiềm năng của hai nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hướng mở cửa hợp tác quan trọng của Nga ngoài Mỹ, EU là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Với chiến lược kinh tế đối ngoại hai đầu, một là châu Âu mà trọng tâm là EU, một là châu Á mà trọng tâm là Nhật Bản, Trung Quốc. Tuy nhiên để xâm nhập vào các thị trường này thì không phải đơn giản đối với Nga trong điều kiện hiện nay. Việt Nam là nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong tương lai gần sẽ là cầu nối giữa Nga và khu vực này. Do đó, Việt Nam chính là đối tác chiến lược của Nga trong việc thiết lập quan hệ kinh tế với các nước Châu Á - Thái Bình Dương và thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này.
Một ý nghĩa quan trọng để phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga là hai nước có nhiều yếu tố tương đồng, đều là những nền kinh tế chuyển đổi, sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp quốc gia thấp, mức độ hội nhập kinh tế còn hạn chế. Do đó, hai nước có thể tiếp cận thị trường của nhau dễ dàng hơn. Việt Nam có những tài nguyên có thể cùng Nga khai thác như: dầu khí, cao su, rau quả, nông phẩm nhiệt đới và du lịch, Việt Nam có một lực lượng lao động có tri thức, đã từng được đào tạo ở Nga, có hiểu biết về tình hình hai nước, thị trường Việt Nam hiện chưa lớn nhưng đến năm 2010 sẽ được mở rộng ra cả ASEAN, Trung Quốc... và có khả năng tiêu thụ nhiều sản phẩm của Nga, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp nặng. Việt Nam ở một vị trí có tầm quan trọng chiến lược trong khu vực cả về an ninh chính trị và kinh tế. Mặt khác, Việt Nam có nhu cầu lớn đối với các mặt hàng của Nga như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng nông phẩm, công nghiệp nhẹ, các sản phẩm nhiệt đới. Nga có thể cung cấp cho Việt Nam các sản phẩm công nghệ cao, các sáng chế phát minh, các chuyên gia kỹ thuật và Nga có thể tham gia xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, khai thác dầu khí, phát triển điện năng...
Đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng, sau chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Nga M.Phratcov vào tháng 2/2006, hai bên đã xúc tiến thành lập ngân hàng liên doanh Việt - Nga (VRB) để đẩy mạnh quan hệ hợp tác hai nước. Trong 10 năm trở lại đây, VRB là ngân hàng liên doanh duy nhất được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam. VRB được thành lập với số vốn điều lệ đăng ký là 10 triệu USD, bên Việt Nam góp 51% vốn. Ngân hàng liên doanh Việt - Nga thành lập đáp ứng nhu cầu giao thương, tạo kênh thanh toán thông suốt hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp hai nước. Thanh toán thuận lợi là điều kiện quan trọng thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Nga phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Qua phân tích một số xu thế và bối cảnh thế giới diễn ra trong thời gian qua cũng như tình hình mỗi nước, chúng ta phần nào hình dung được bức tranh triển vọng quan hệ thương mại Việt - Nga trong thời gian tới. Cả Nga và Việt Nam đều có tiềm năng và nhu cầu phát triển nhiều mặt. Điều này sẽ tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế của mỗi nước cũng như càng làm gắn bó quan hệ anh em giữa dân tộc Việt Nam và Liên bang Nga từ trước đến nay. Để điều đó trở thành hiện thực thì phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của cả hai nước.
Nga là đối tác truyền thống về đầu tư, thương mại của Việt Nam, sau một thời gian dài chìm trong khủng hoảng và suy thoái kinh tế đến nay đang trên đà phục hồi và dần tăng trưởng làm tăng nhu cầu xuất nhập khẩu và đầu tư mạnh mẽ ra thị trường nước ngoài. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ thương mại giữa hai nước sau những chuyến thăm hữu nghị, ký kết giữa những người đứng đầu nhà nước cũng như các bộ ngành, doanh nghiệp... đã mở ra việc khôi phục lại và phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga. Hai nước đang cố gắng tăng cường và áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao quy mô buôn bán song phương và tăng kim ngạch xuất nhập khẩu sao cho phù hợp với tiềm năng của mỗi bên. Chính phủ hai nước đều coi việc phát triển quan hệ thương mại là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Trong chuyến thăm chính thức Liên bang Nga vào tháng 5/2004, Chủ tịch nước (cũ) Trần Đức Lương và Tổng thống Nga Putin đã khẳng định một lần nữa mong muốn và quyết tâm của hai nhà lãnh đạo tiếp tục đưa quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước lên tầm cao của hai đối tác chiến lược. Và cách đây không lâu, nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga M.Phratcov, ngày 9/9/2007 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Liên bang Nga. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên đã ký kết các văn kiện: Nghị định thư bổ sung Hiệp định Liên chính phủ về Xí nghiệp liên doanh Vietsopetro ký năm 1991; Kế hoạch hợp tác giữa hai bộ ngoại giao năm 2007-2008; Các thoả thuận hợp tác hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực viễn thông, tài chính, cơ khí và xuất nhập khẩu hàng hoá. Chính phủ hai nước chủ trương hỗ trợ việc mở rộng hợp tác lâu dài trong lĩnh vực kinh tế thương mại và đầu tư, ủng hộ những nỗ lực của Phòng Công nghiệp và Thương mại hai nước và hoạt động của Hội đồng doanh nghiệp Việt - Nga nhằm hỗ trợ giới doanh nghiệp thiết lập và mở rộng các mối quan hệ trực tiếp, tổ chức hội chợ triển lãm, nghiên cứu thị trường của nhau và tìm kiếm những phương thức hiệu quả trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Như vậy, có thể thấy Chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga đều nhất trí cao việc tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển quan hệ thương mại hai nước. Đây là yếu tố hết sức quan trọng, đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp hai nước đầu tư và giao thương.
Trong vài năm trở lại đây, Việt Nam chiếm 3% kim ngạch nhập khẩu của Nga và 1,5 - 2% kim ngạch xuất khẩu của nước này.Theo các chuyên gia dự báo, đến năm 2010 thì kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước có thể đạt 1,881 - 3,4 tỷ USD. Đây là những dự báo về cơ bản thì phù hợp với dự báo của Bộ Thương mại nhưng khả năng trở thành hiện thực thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất nhiều của cả hai.
Trong thời gian tới, về cơ cấu xuất nhập khẩu giữa hai nước thì Việt Nam chủ yếu vẫn xuất sang Nga những mặt hàng như sản phẩm nông nghiệp, hàng công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra, Việt Nam còn có thể xuất khẩu các sản phẩm từ thịt, khoai tây, hạt điều, lạc nhân, cà phê, chè, đồ gỗ...
Khối lượng và trị giá các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào Nga năm 2006 là: mặt hàng cao su đạt 13 nghìn tấn, cà phê: 6 nghìn tấn, hàng may mặc: 40 triệu USD... Quan hệ thương mại Việt - Nga trong các tháng đầu năm 2007 vẫn phát triển với tốc độ khá mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều trong 2 tháng đầu năm đạt 140 triệu USD, tăng 8,5% so với 2 tháng đầu năm 2006. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đạt 57,4 triệu USD (tăng 18,8%) và nhập khẩu của Việt Nam từ Liên bang Nga đạt 82,4 triệu USD (tăng 2,7%) so với cùng kỳ năm trước.
Còn về nhập khẩu thì các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Nga sẽ là hàng công nghiệp như sắt thép, phân bón, phương tiện vận tải, phụ tùng các loại máy công nghiệp, xăng dầu, máy và thiết bị cho ngành năng lượng, đóng tàu, khai khoáng... Khối lượng và trị giá các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Nga năm 2006 như sau: xăng dầu: 150 nghìn tấn, phân bón 30 nghìn tấn, sắt thép: 120 nghìn tấn, máy móc thiết bị: 24 triệu USD. Trong 2 tháng đầu năm, mặt hàng có kim ngạch tăng đáng kể là xăng dầu đạt 40,2 triệu USD (tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước), máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 20% trong khi kim ngạch nhập khẩu sắt thép giảm 40%, phân bón các loại giảm 52%, ô tô nguyên chiếc giảm gần 80%.
Hoạt động xuất nhập khẩu giữa Nga và Việt Nam có liên quan chặt chẽ với các chương trình hợp tác sản xuất, chế biến giữa hai nước. Việt Nam nhập khẩu vật tư, thiết bị từ Nga để cung cấp cho các chương trình này, đồng thời xuất khẩu sản phẩm theo các thỏa thuận hợp tác giữa hai nước. Do vậy, triển vọng hợp tác của một số ngành có liên quan tới thương mại sẽ ảnh hưởng đến triển vọng phát triển quan hệ thương mại hai nước. Nhìn chung trong những năm tới triển vọng quan hệ hợp tác của hai nước trong một số lĩnh vực như dầu khí, năng lượng, thủy sản...
Hiện nay hai nước đang tăng cường hợp tác đầu tư trong lĩnh vực khai thác và chế biến dầu khí. Năm 1981 hai nước thành lập liên doanh Vietsovpetro nhằm thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam. Điều này không những làm tăng ngoại tệ mà còn giúp Việt Nam xây dựng được đội ngũ cán bộ lành nghề, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực dầu khí. Trong tương lai, với sự ủng hộ của chính phủ hai nước thì liên doanh Vietsovpetro sẽ không ngừng phát triển và khối lượng khai thác dầu sẽ ngày càng tăng.
Trong lĩnh vực năng lượng, hai bên đã tiến hành hợp tác xây dựng nhà máy thủy điện Yaly, Sơn La và dự kiến phát triển một số nhà máy thủy điện tương lai khác ở Việt Nam. Đồng thời một số nhà máy cung cấp thiết bị của Nga sẽ cung cấp thiết bị hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ cho các dự án điện của Việt Nam.
Có thể nói về kỹ thuật thì Nga là một trong những nước đứng đầu thế giới nên hợp tác với Nga chúng ta có thể tranh thủ công nghệ kỹ thuật tiên tiến của họ và đào tạo được nhiều kỹ sư lành nghề. Về phía Nga thì Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và quý giá như rừng, than và dầu khí. Hợp tác với Việt Nam thì có thể tranh thủ khai thác được nguồn tài nguyên quý giá này. Có thể nói triển vọng hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực này là rất lớn, đôi bên cùng có lợi.
Ngoài những lĩnh vực có nhiều tiềm năng trên, hai nước còn hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực khác như khai thác hải sản, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông. Hàng năm Việt Nam xuất sang Nga một lượng hải sản lớn như tôm, cá... Năm 2005 trị giá xuất khẩu hải sản là 33,31 triệu USD và chỉ trong 7 tháng đầu năm 2006 là 63,7 triệu USD. Triển vọng trị giá xuất khẩu mặt hàng này trong những năm tới sẽ tăng cao do dân Nga rất thích cá hộp và cá hun khói, cá khô, cá muối. Chính vì vậy nếu chúng ta có thể khai thông được thị trường thủy sản Nga thì sẽ có triển vọng rất lớn. Matxcova và Saint Peterbug là hai thành phố có lượng tiêu thụ hải sản lớn nhất Nga, nếu các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở siêu thị thủy sản ở đây thì sẽ tạo điều kiện xâm nhập được vào thị trường Nga.
Đó là triển vọng hợp tác, thương mại giữa hai nước trong thời gian tới. Tuy nhiên nếu có những nỗ lực quyết tâm của tất cả các cấp từ phía cả hai nước Việt Nam và Liên bang Nga thì chắc chắn quan hệ thương mại hai nước sẽ còn được mở rộng và có hiệu quả nhiều hơn nữa để tương xứng với tiềm năng của mỗi nước. Đứng trước những thuận lợi như kinh tế hai nước trong những năm gần đây đều tăng trưởng cao, chính trị ổn định và xu thế toàn cầu hóa đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với mỗi quốc gia trên thế giới, cả Việt Nam và Liên bang Nga cần tận dụng một cách triệt để và cố gắng thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Sau đây là một số mặt hàng Việt Nam có triển vọng thâm nhập vào thị trường Nga trong những năm tới:
- Thịt và các sản phẩm từ thịt: Liên bang Nga hàng năm nhập khẩu một khối lượng lớn các loại thịt gia cầm và súc sản. Để có thể chiếm lĩnh một phần thị trường đông lạnh cũng như thị trường thịt chế biến, việc đầu tiên các doanh nghiệp Việt Nam cần làm là phấn đấu hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh với thịt lợn đông lạnh và các sản phẩm thịt Trung Quốc tại vùng Viễn Đông và Xibêri. Đối với thịt bò và gia cầm, chúng ta cần phải cải tạo lại đàn bò, đàn gà, đồng thời nuôi và giết mổ theo đúng phương pháp công nghiệp mới đảm bảo có giá cạnh tranh để thâm nhập vào thị trường Nga.
- Rau quả tươi và chế biến: Nước ta là nước có khí hậu nhiệt đới cho nên các sản phẩm rau quả của Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Nếu phát huy được thế mạnh này thì rất có lợi cho Việt Nam trong việc xuất khẩu bởi chi phí sản xuất mặt hàng này thấp trong khi doanh thu lại cao. Trong những năm gần đây, về hoa quả nhiệt đới, thị trường Liên bang Nga tiêu thụ chủ yếu là chuối, cam, quýt, xoài và đặc biệt là dứa. Liên bang Nga là thị trường xuất khẩu dứa lớn nhất nước ta, với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 400 nghìn USD, chiếm 29,4% tổng kim ngạch xuất khẩu dứa của cả nước. Nga cũng nhập khẩu cam quýt với số lượng lớn với khối lượng tương đối lớn nhưng chủ yếu từ các nước Địa Trung Hải bởi giống và chất lượng quả có múi của các nước này đồng đều và tốt hơn so với hàng của ta, chi phí vận tải lại thấp nên ta khó mà cạnh tranh được. Tuy vậy, nếu ta xử lý lai tạo được giống cam quýt ngọt , tổ chức được sản xuất, hệ thống kho bãi và hạ được giá thành thì có thể nối lại việc cung cấp các loại cam quýt qua vùng Viễn Đông.
Về rau quả chế biến, thị trường Nga có nhu cầu lớn về các mặt hàng: dứa miếng và dứa khoanh, chuối sấy, nước dứa, nước hoa quả, dưa chuột muối, khoai tây chế biến, tương ớt. Nhưng để có thể xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường Nga thì các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng cải tiến bao bì, đóng gói sản phẩm.
- Cây công nghiệp: Hạt điều và lạc nhân là hai mặt hàng mà Nga có nhu cầu nhập khẩu để làm bánh kẹo. Tuy nhiên dung lượng thị trường không lớn như trước đây. Lạc của các nước bán sang Nga đều có giá bán thấp hơn của ta, đặc biệt là lạc Trung Quốc.
Nga hàng năm nhập khẩu một khối lượng chè nguyên liệu từ các nước Ấn Độ, Trung Quốc và Srilanka. Nguyên liệu này được đưa vào nhà máy chế biến chè của Nga để đóng gói thành chè mang nhãn hiệu Nga. Nhìn chung, các nước bán chè cho Nga đều cho Nga thanh toán chậm, cho nên nếu ta chấp nhận cho Nga thanh toán chậm và tổ chức tốt được khâu sản xuất trong nước thì chè của ta có cơ hội chiếm lĩnh thị trường Nga.
- Hải sản: Nga chủ yếu nhập khẩu từ Aixơlen, Nauy, Anh, Ailen. Trước đây, Nga hầu như không nhập cá của các nước nhiệt đới. Tuy nhiên hiện nay Nga đang bắt đầu tăng trị giá nhập khẩu hải sản từ Việt Nam. Trong 2 tháng đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản đạt 20,5 triệu USD (tăng gấp hai lần so với cùng kỳ năm 2006). Do đó, nếu biết cách tổ chức thì Việt Nam có thể tiếp tục tăng cường xuất khẩu sang thị trường Nga trong thời gian sắp tới.
- Hàng công nghiệp nhẹ: Trong những năm qua, hàng may mặc của ta nhập khẩu vào Nga chủ yếu là hàng rẻ tiền, bình dân, kiểu dáng đơn giản, chất lượng chưa cao, chủ yếu là tiêu thụ ở các vùng nông thôn. Trong những năm gần đây, hàng Trung Quốc và hàng Thổ Nhĩ Kỳ cạnh tranh với hàng của ta rất mạnh, mẫu mã của họ phong phú, bắt kịp nhu cầu thị trường, họ lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong kinh doanh (cho các khách hàng Nga thanh toán chậm) nên hàng của ta ngày càng mất chỗ đứng trên thị trường Nga. Do đó, để xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nga với khối lượng lớn, ngoài việc cải thiện mẫu mã theo kịp thời trang, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như bao bì, nhãn hiệu, ngành dệt may Việt Nam cần mạnh dạn bỏ chi phí để khảo sát thị trường để từ đó xác định đúng hướng đi.
Về giày da, Nga nhập khẩu chủ yếu từ Italia, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ. Giầy da của Việt Nam về quy cách và tiêu chuẩn nhìn chung không phù hợp với khí hậu và thời tiết của Nga nên không được ưa chuộng. Nếu ta tổ chức sản xuất theo dây chuyền hiện đại, giầy model mới, hướng vào đối tượng tiêu dùng là thanh niên thì có thể có triển vọng thâm nhập tốt hơn kiểu giầy cổ điển
Những nhân tố kìm hãm quan hệ thương mại Việt - Nga
Có thể nói, quan hệ thương mại Việt - Nga đã đạt được những thành tựu đáng kể và bước đầu phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước. Tuy nhiên trong quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn còn tồn tại một số bất cập cần được xem xét. Do vậy, bên cạnh việc phân tích những nhân tố thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Nga chúng ta cũng cần xem xét tới các nguyên nhân kìm hãm quan hệ thương mại hai nước để từ đó tìm ra cách khắc phục nhằm phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga hơn nữa.
Thứ nhất: Chính phủ Việt Nam chưa kịp thời đưa ra những chính sách cụ thể, hấp dẫn để định hướng, khuyến khích, hỗ trợ và hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga. Năng lực kinh doanh, khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn yếu nên bỏ qua nhiều cơ hội kinh doanh tốt.
Thứ hai: Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam cơ bản vẫn còn ở dạng thô, hàm lượng công nghệ thấp, chất lượng chưa cao, bao bì mẫu mã chưa phù hợp và hấp dẫn khách hàng, ít có sự thay đổi, cải tiến về số lượng mặt hàng và chất lượng sản phẩm, trong khi thị trường Liên bang Nga đã thay đổi rất nhiều. Đó cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và trên thị trường Nga nói riêng.
Thứ ba: Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga chuyển sang nền kinh tế thị trường, khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, lạm phát cao triền miên, đồng rúp liên tục bị mất giá, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về tài chính. Môi trường kinh doanh ở Nga đầy rẫy những rủi ro. Thế nhưng nhiều hãng kinh doanh lớn của nước ngoài đã nhanh chóng xây dựng được mạng lưới cung cấp và tiêu thụ hàng hóa với chất lượng cao, sức cạnh tranh lớn ở Liên bang Nga... làm cho khả năng “chen chân” của hàng hóa Việt Nam vào các kênh phân phối sở tại bị hạn chế.
Thứ tư: Thị trường Liên bang Nga vẫn còn nhiều rào cản thương mại kỹ thuật như: Thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng cao, nhất là thuế đánh vào hàng tiêu dùng trung bình từ 20 - 30% trị giá kèm theo mức giá tối thiểu áp dụng cho một số mặt hàng; các quy định của luật pháp Nga đối với hàng hóa nhập khẩu rất chặt chẽ, các quy định về quản lý tài chính tín dụng của Liên bang Nga còn rất phức tạp. Chính những điều đó đã gây không ít cản trở và khó khăn cho các đối tác yếu về năng lực kinh doanh quốc tế và nhỏ bé về tiềm lực như Việt Nam.
Thứ năm: Phía Việt Nam có đặt ra mục tiêu khôi phục và phát triển quan hệ thương mại truyền thống giữa Việt Nam và Liên bang Nga nhưng chưa xây dựng những chiến lược, chính sách cụ thể cũng như định ra những bước đi thích hợp để khôi phục và mở rộng quan hệ thương mại giữa hai nước nhằm khai thác thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng này. Việc trao đổi, buôn bán hàng hóa với Liên bang Nga chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân và tư thương người Việt làm ăn, sinh sống tại Nga thực hiện nên còn mang tính chất manh mún và không có tính chất chiến lược. Ngoài ra, hoạt động thương mại ấy đã không thực hiện được chức năng phản hồi và chuyển tải những tín hiệu của thị trường cho sản xuất trong nước. Công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường ngoài nước đã được chú trọng hơn trước nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Các doanh nghiệp vẫn phải tự lo là chính nên thiếu sự phối hợp, thiếu thông tin về các đối tác cũng như về thị trường hai nước.
Việc khôi phục và phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu tiếp cận theo tư duy mới. Thực tế Liên bang Nga không còn là thị trường để Việt Nam tiếp tục khai thác theo phương thức truyền thống mà phải coi Nga như một thị trường mới, không còn “dễ tính” như trước. Trong hoạt động ngoại thương, Việt Nam cần nhập khẩu từ Nga nhiều mặt hàng có nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế như nguyên, nhiên vật liệu, hóa chất, máy móc, thiết bị giao thông vận tải... kể cả các loại hàng hóa đặc biệt phục vụ cho an ninh quốc phòng. Các loại hàng hóa này phù hợp với trình độ tiếp nhận và khả năng thanh toán của Việt Nam. Liên bang Nga là thị trường xuất khẩu quan trọng và giàu tiềm năng với khoảng hơn 150 triệu dân, thu nhập và sức mua đang tăng, thị trường đang có nhu cầu về một số hàng hóa Việt Nam có lợi thế so sánh và có khả năng cung cấp. Bởi vậy, muốn tiến tới cân bằng cán cân thương mại và đạt mục tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều cao hơn nữa đòi hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp cần đề xuất và nỗ lực thực hiện các biện pháp xúc tiến thương mại một cách hiệu quả.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT – NGA SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Quan hệ thương mại Việt - Nga trong những năm gần đây có dấu hiệu phục hồi và phát triển nhưng còn chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO và trong tương lai không xa Nga cũng tham gia tổ chức này thì để có thể đạt được kết quả hợp tác thương mại hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp và chiến lược cụ thể. Sau đây là các giải pháp phát triển quan hệ thương mại:
1. Về phía nhà nước
Thứ nhất: Hai nước cần nhanh chóng ký kết Hiệp định mậu dịch tự do vì cơ chế thanh toán đã được tháo gỡ thông qua việc thành lập Ngân hàng Liên doanh Việt - Nga. Ngoài ra chính phủ hai nước cần áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia đối với các ngân hàng thương mại và các công ty Nga hoạt động tại Việt Nam cũng như tại Nga. Phần lớn các công ty của Nga làm ăn với Việt Nam là các công ty tư nhân, không chịu sự chi phối của Nhà nước, ít mở L/C (Thư tín dụng qua ngân hàng), do đó buôn bán giữa hai nước chủ yếu được thực hiện thông qua đối tác thứ ba. Do đó để khắc phục khó khăn này cần khuyến khích các doanh nghiệp thanh toán qua thương mại điện tử.
Thứ hai: Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và trợ giá hàng xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Nga cũng như xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc... và nhiều thị trường của các nước khác trên thế giới đều phải được coi trọng như nhau. Chính sách này hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam do nhiều nguyên nhân: Giá mua nguyên vật liệu đầu vào sản xuất trong nước cao, không có tàu chuyến thường xuyên giữa Việt Nam và Liên bang Nga nên khi có cước phí vận chuyển cao, đồng Rúp ở Nga biến động thất thường... nên nhiều doanh nghiệp làm ăn với Nga bị rủi ro cao và dễ thua lỗ. Trong những năm gần đây, đa số các lô hàng nhập khẩu vào Nga đều phải chịu thua lỗ trung bình từ 20 - 30%, có trường hợp lên tới 50%. Do đó, để khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn với thị trường Nga, Chính phủ cần có sự trợ giá xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian đầu và khi tình hình Nga còn đang mất ổn định, có vậy hàng Việt Nam mới có thể thâm nhập và đứng vững trên thị trường Nga. Vấn đề này theo một số tài liệu, hiện nay các nước phương Tây đều dùng chính sách lấy giá bán trong nước cao hơn giá thành sản xuất để tài trợ cho xuất khẩu đối với một số nhóm hàng, trong đó có hàng nông sản thực phẩm, nhóm hàng mà Việt Nam xuất chủ yếu sang Nga. Theo chính sách này mọi hàng hóa xuất khẩu đều được hỗ trợ đầu vào, bảo đảm hiệu quả sản xuất và xuất khẩu được lâu dài, đặc biệt được ưu tiên cho những mặt hàng có giá trị tăng cao, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước. Thủ tục hỗ trợ của Nhà nước cần phải hết sức đơn giản, không gây chậm chễ, phiền hà đối với các doanh nghiệp. Về một số mặt hàng mà Việt Nam có hướng đẩy mạnh xuất khẩu vào Nga, Nhà nước cần có chính sách mặt hàng cụ thể đối với những mặt hàng đó. Trong đó, nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang Nga như hỗ trợ vốn hoặc lãi suất cho vay để doanh nghiệp có điều kiện nâng cao năng suất, chất lượng hàng, giúp đỡ doanh nghiệp khi sản xuất loại hàng mới bằng cách miễn giảm thuế, thưởng cho các đơn vị sản xuất và xuất khẩu được nhiều sản phẩm sang Nga và bù lỗ khi sản xuất mặt hàng phải chịu tác động bởi các yếu tố thời tiết, bệnh dịch hay gặp phải những biến động thất thường khác gây rủi ro lớn cho người sản xuất.
Mặt khác, về vấn đề thuế, ở tầm quốc gia, Nhà nước cần đề nghị với Liên bang Nga để phía Nga có thể xếp Việt Nam thuộc nhóm các nước kém phát triển chứ không phải nằm trong nhóm các nước đang phát triển như hiện nay với lý do mức thu nhập GDP (Tổng thu nhập quốc nội) của Việt Nam còn quá thấp không thể xếp ngang với các nước ở châu Á như Singapo, Malaysia... Qua đó, Việt Nam có thể hưởng mức miễn giảm thuế đối với hàng xuất khẩu vào Nga, phần nào giúp Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh còn yếu kém hiện nay.
Thứ ba: Nhà nước cần tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, thông tin thương mại. Tổ chức triển lãm định kỳ hàng xuất khẩu Việt Nam tại Liên bang Nga, Ukraine, Uzbekistan. Tăng cường hoạt động quảng bá hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Liên bang Nga thông qua việc tham gia hội chợ triển lãm, giới thiệu hàng mẫu, catalogue, phim, băng hình... Tổ chức và hỗ trợ các phái đoàn thương mại của Việt Nam đi khảo sát thị trường, trao đổi thông tin và xúc tiến thương mại cũng như tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, đầu tư mới. Hiện nay chúng ta đã có Đại diện thương mại của Việt Nam tại Liên bang Nga, Trung tâm giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại Matxcơva, Văn phòng đại diện xúc tiến thương mại ở Matxcơva. Các cơ quan này ngoài việc cung cấp thông tin thương mại còn giúp đỡ các doanh nghiệp hai bên trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, công nghệ và các dịch vụ khác tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hai nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại này. Để các doanh nghiệp có thể trao đổi ý kiến, kinh nghiệm, thông tin về chính sách, chế độ xuất nhập khẩu, hệ thống thuế quan, thủ tục xuất nhập khẩu và các tư liệu cần thiết liên quan đến thị trường Nga thì các văn phòng đại diện ở Nga cần tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề, ngoài ra cần tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp Nga và doanh nghiệp Việt Nam để trao đổi về các biện pháp thúc đẩy sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Ngoài ra, Chính phủ hai nước cần thành lập Trung tâm tư vấn đầu tư, thương mại ở thủ đô mỗi nước (Hà Nội và Maxcơva) để giúp các nhà đầu tư và doanh nghiệp hai nước trong việc buôn bán và đầu tư.
Thứ tư: Khuyến khích các doanh nhân Nga tham gia hoạt động thương mại ở Việt Nam. Các doanh nhân Nga hiện nay vẫn chưa quan tâm nhiều đến thị trường Việt Nam, do vậy Chính phủ Việt Nam cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi họ. Việt Nam có thể đơn phương miễn thị thực nhập cảnh cho khách du lịch Nga và cấp thị tực dài hạn cho các nhà kinh doanh và chuyên gia ở Việt Nam, giành cho Nga thuê một số khu công nghiệp với giá ưu đãi ở vị trí thuận lợi, chuyên sản xuất để xuất khẩu.
Thứ năm: Tổ chức tốt các khâu xuất nhập khẩu. Cả hai nước đều phải thiết lập tốt các kênh giao nhận và vận tải hàng hóa với những phương tiện vận tải đa dạng, lập các kho hải quan, thực hiện dịch vụ chuyển khẩu và quá cảnh hàng hóa, xúc tiến mạnh việc thành lập các xí nghiệp liên doanh về kinh doanh xuất nhập khẩu của mỗi nước tại nước kia để có thể phát huy mạnh và tranh thủ những điều kiện thuận lợi của mỗi bên. Việt Nam cần phải tăng cường đội tàu vận chuyển đến Odessa và Vladivostok với mức giá cạnh tranh hoặc Nhà nước hỗ trợ một phần giá cước.
Ký kết các thỏa thuận về thủ tục kiểm tra hàng hóa nhập khẩu. Cần có sự thống nhất giữa hai quốc gia về các thủ tục kiểm tra thú y, đồng thời thỏa thuận công nhận lẫn nhau về các giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường hai nước; hoặc thừa nhận giấy chứng nhận chất lượng của một số hàng hóa giám định. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện quản lý các chiến lược cấp quốc gia về phát triển các ngành xuất khẩu và phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước. Tổ chức thực hiện và kiểm soát các chiến lược cho từng ngành hàng xuất khẩu. Xác định lợi thế của từng loại hàng hay từng nhóm hàng của Việt Nam ở thị trường Liên bang Nga. Cũng cần xác định lại một số mặt hàng trọng điểm trong cơ cấu xuất nhập khẩu với Liên bang Nga để tập trung vốn đầu tư cho có hiệu quả. Nên chọn ra một số mặt hàng tiềm năng để tập trung khuyến khích đầu tư. Nghiên cứu kỹ thị trường Liên bang Nga để tiến tới có thể xuất khẩu những hàng hóa có giá trị lớn, có hàm lượng chất xám cao như linh kiện điện tử, vi tính, sản phẩm phần mềm...
Ngoài ra, Việt Nam và Liên bang Nga đều là thành viên của APEC, do đó cả hai nước cần phấn đấu thực hiện những mục tiêu chung mà APEC đã đề ra, đó là:
- Thúc đẩy tự do hóa thương mại giữa các quốc gia bằng biện pháp giảm bớt thuế, dần dần tiến tới phi thuế, hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, thực hiện cạnh tranh bình đẳng, thuận lợi hóa việc đi lại và giao lưu của các nhà doanh nghiệp.
- Thống nhất và công khai hóa thủ tục xuất nhập khẩu, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, thủ tục hải quan, ngoại hối, ngân hàng...
- Đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi với tất cả các quốc gia trên mọi lĩnh vực: phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng về kinh tế, năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông và thông tin... Một hệ thống thông tin thị trường chính xác sẽ cung cấp đầy đủ các dữ liệu, giúp cho các doanh nghiệp của cả hai quốc gia phân tích, đánh giá, đưa ra các quyết định đúng đắn nhằm tránh thiệt hại, rủi ro... cho cả hai bên.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành công bởi các doanh nghiệp là những chủ thể tham gia hoạt động buôn bán. Sẽ không thể có sự thành công dù nhà nước có mọi chính sách hỗ trợ cần thiết nếu như các doanh nghiệp không có nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng vững trên thị trường Nga.
2. Về phía các doanh nghiệp
Thứ nhất: Cần tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang Nga. Thị trường Nga chia làm hai loại: Một là ưa dùng hàng hóa chất lượng cao thường nhập của EU và các nước Nam Mỹ. Hai là chấp nhận mức giá thấp và chất lượng không cao chủ yếu của Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nga thường là hàng nông sản, nguyên liệu sơ chế, tỷ lệ chế biến còn thấp và các hàng gia công, lắp ráp như hàng may mặc, giày dép... Trước mắt thì sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận dân cư thu nhập thấp nhưng trong thời gian tới khi mà đời sống nhân dân Nga được nâng cao thì cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Những lợi thế về lao động rẻ sẽ không còn chủ đạo nữa mà cần có lực lượng lao động tri thức, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao thì tạo ra được những hàng hóa có giá trị. Chính vì vậy, đầu tư công nghệ tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm là những yếu tố quyết định đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường thế giới nói chung và thị trường Nga nói riêng.
Thứ hai: Chú trọng nâng cao trình độ, phát huy tính năng động, nhạy bén… của đội ngũ công nhân viên. Các doanh nghiệp sản xuất phải có sự phối hợp đồng bộ, cố gắng đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra với giá thành hạ, không ngừng cải tiến chất lượng theo nhu cầu thị hiếu trên thị trường, cải tiến mẫu mã, chất lượng bao bì, đảm bảo cung ứng đúng tiến độ giao hàng ở tầm vi mô các doanh nghiệp cần thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi phát hiện những kẽ hở để có thể đi trước đối thủ cạnh tranh (như kênh phân phối mới, thị hiếu mới lạ....). Mặt khác các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ đối tác của mình trước khi thiết lập quan hệ làm ăn bởi hiện nay xuất hiện rất nhiều “công ty ma” chuyên lừa những doanh nghiệp thiếu hiểu biết hoặc mới bước chân vào lĩnh vực kinh doanh.
Thứ ba: Cần liên kết các doanh nghiệp Việt Nam ở Nga. Hiện nay ở Nga có rất nhiều người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Nga. Nhiều người làm ăn khá giả, thành lập doanh nghiệp nên chính họ là đầu mối để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước, ngoài ra Việt Nam cũng có hàng triệu tri thức, lao động được đào tạo tại Nga nên họ rất hiểu người dân Nga, thị trường Nga. Do vậy, Việt Nam nên tận dụng và phát huy lợi thế này để hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga chúng ta thấy rằng việc đẩy mạnh quan hệ thương mại với Liên bang Nga là điều rất cần thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO. Thị trường Nga là một thị trường rất rộng lớn với khoảng 150 triệu dân có nhiều tiềm năng nhập khẩu các mặt hàng của Việt Nam. Hơn nữa, trong gần 60 năm qua, Việt Nam và Nga vẫn là những đối tác truyền thống của nhau và đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong quan hệ thương mại hai nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước liên tục tăng trong những năm gần đây và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.
Những chuyển biến tích cực của tình hình thế giới, những cơ hội và thách thức của quá trình toàn cầu hoá, sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các tổ chức kinh tế cũng như những yêu cầu và mục tiêu phát triển của mỗi nước đòi hỏi chính phủ hai nước cần nhanh chóng thúc đẩy quan hệ Việt - Nga lên một tầm cao mới. Chính điều này sẽ nâng cao vị thế của Việt Nam và tạo bước đệm cho Nga thiết lập quan hệ với các nước Châu Á - Thái Bình Dương.
Có thể nói những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ thương mại Việt - Nga đã bước sang một trang mới đồng thời cũng khép lại một quá khứ đẹp đẽ, hào hùng trong quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước. Chúng ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Liên bang Nga sẽ phát triển tương xứng với bề dày truyền thống và tầm vóc lịch sử quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Nga, đồng thời đáp ứng yêu cầu của thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại học ngoại thương (2003), Tạp chí kinh tế đối ngoại N0 5, Hà Nội
Đại học ngoại thương (2007), Tạp chí kinh tế đối ngoại N0 22, Hà Nội, Chính sách hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, WTO - sân chơi bình đẳng nhưng không bằng phẳng.
Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế (2003), NXB Thống kê, Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp (2007), Một số vấn đề về cách tiếp cận quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga, Viện nghiên cứu châu Âu.
TS. Hà Mỹ Hương (2006), Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và ngày mai. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
PGS.TS Bùi Huy Khoát (1995), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên bang Nga: Hiện trạng và triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng (2007), Nền kinh tế Việt Nam và một số đối sách phát triển sau khi gia nhập WTO, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới.
Nguyễn Hồng Thu (2007), Kinh tế Nga 2006, Nghiên cứu châu Âu.
PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2006), Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Liên bang Nga trong bối cảnh quốc tế mới, Viện Nghiên cứu châu Âu, Hà Nội.
TS Đinh Công Tuấn (2007), Nước Nga cải cách và quan hệ Nga - ASEAN - Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Viện Nghiên cứu châu Âu, Hà Nội.
Viện nghiên cứu kinh tế thế giới (2002), Sự chuyển hướng chính sách đối ngoại của Liên bang Nga ở khu vực châu Á -Thái Bình Dương: Nguyên nhân và tác động, Hà Nội
Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới N0 3, (2007), Tác động của kinh tế thế giới đến kinh tế Việt Nam năm 2006 và 2007.
Tạp chí cộng sản (2005), Thế giới: Vấn đề và sự kiện, Hà Nội
Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2003 - 2004 Việt Nam và thế giới (2004), Thách thức thương mại Việt Nga (2007)
Viet Nam Economic News (2006), N0 9,12,14/2006, Hà Nội
MỤC LỤC
2.1.4. Nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nềnkinh tế 18
2.1.5. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế 19
2.2. Thách thức 20
2.2.1. Trình độ phát triển của ta còn thấp và lạc hậu 20
2.2.2. Sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém 21
2.2.3. Đổi mới trong nước chưa theo kịp với yêu cầu của hội nhập WTO 23
2.2.3. Hệ thống ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập 25
2.2.4. Sự lệ thuộc vào các nền kinh tế sẽ tăng lên 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA 27
I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ LIÊN BANG NGA 27
1. Tình hình kinh tế Nga từ năm 1991 đến năm 2000 27
2. Tình hình kinh tế Nga từ năm 2000 đến nay 32
2.1. Tình hình kinh tế chung 32
2.2. Chính sách ngoại thương của Nga trong giai đoạn hiện nay 36
2.2.1. Chính sách kinh tế đối ngoại chung của Nga 36
2.2.2. Chính sách ngoại thương của Nga 37
II. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA 40
1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước 40
1.1. Về phía Nga 40
1.2. Về phía Việt Nam 43
2. Thực trạng quan hệ thương mại Việt - Nga 45
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam và Liên bang Nga 45
2.2. Đánh giá chung quan hệ thương mại Việt - Nga từ năm 1991 đến nay 58
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT – NGA SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 63
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI 63
1. Những nhân tố tác động tới ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới 63
1.1. Những nhân tố bên ngoài 64
1.2. Những nhân tố bên trong 68
1.3. Chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2010 69
3. Triển vọng phát triển kinh tế của Liên bang Nga 71
4. Những nhân tố thúc đẩy sự phát triển quan hệ thương mại
Việt - Nga 74
5. Những nhân tố kìm hãm quan hệ thương mại Việt - Nga 83
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT – NGA SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 86
1. Về phía nhà nước 86
2. Về phía các doanh nghiệp 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT075.doc