Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, nhà nước phải tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Thực tế hiện nay cho thấy, mặc dù Chính phủ cho phép tất cả các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu đếu được tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động còn yếu kém, hạn chế về trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cũng như, cũng như trình độ quản lý nói chung. Vì thế thiết nghĩ Chính phủ có thể ban hành các quy chế về các điều kiện tài chính, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ, tầm cỡ của doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Có thể các đơn vị không đủ điều kiện để xuất nhập khẩu trực tiếp thì có thể thông qua uỷ thác để hạn chế xuống mức thấp nhất rủi ro có thể xẩy ra.
Tuy nhiên các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay chủ trương cấp quốc gia về xuất nhập khẩu đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này, bất lợi cho doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây lên tồn đọng nhiều loại vật tư (sắt thép, xi măng, đường.). Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ được. Trước tình hình đó, Nhà nước cần có những biện pháp giúp đỡ các doanh nghiệp củng cố và duy trì thị trường, hạn chế rủi ro mất khả năng thanh toán của họ. Cụ thể như:
- Thực hiện chính sách trợ cấp xuất nhập khẩu thông qua chế độ lãi xuất ưu đãi, cân đối cung cầu, hạn chế các cơn sốt hàng hoá.
- Nhà nước cần ban hành các quy định về thuế xuất nhập khẩu phù hợp, ổn định. Trên thực tế thì biểu thuế xuất nhập khẩu cũng thường xuyên thay đổi nên các doanh nghiệp không dự đoán được tình hình, nên cũng gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề này, nhất là khi bị tăng thuế, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp, mà cũng là gây rủi ro cho các ngân hàng.
- Chính phủ cần có những thông tin giá cả kịp thời về thị trường thế giới. Đây là biện pháp quan trọng trong công tác phòng ngừa rủi ro trong thanh toán. Nếu thiếu thông tin giá cả, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ không cập nhật được tình hình thế giới, gây thiệt hại trong giao dịch, nhất là trong trường hợp doanh nghiệp mở các thư tín dụng trả chậm.
100 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ và thực tiễn áp dụng trong thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu tại ngân hàng VietcomBank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n biến tích cực và đạt được những thành quả đáng khích lệ nhưng mảng ngân hàng bán lẻ chưa thực sự được quan tâm đúng mức và đầu tư thích đáng. Tuy vậy, ngay từ đầu năm 1995 lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương đã quyết định đầu tư vào dự án công nghệ ngân hàng bán lẻ với tên gọi: Hệ thống Ngân hàng bán lẻ Ngân hàng Ngoại thương - Tầm nhìn 2010, viết tắt là VCB-2010.Việc triển khai dự án một mặt nhằm thực hiện chiến lược ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại vào hoạt động ngân hàng, mặt khác đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ của mình.
b. VCB-2010 :
ã Các đặc điểm kỹ thuật và nghiệp vụ của VCB-2010 :
Việc ứng dụngVCB-2010 tạo ra nhiều thay đổi với Ngân hàng trên nhiều lĩnh vực như tư duy quản lý, quy trình nghiệp vụ.. Do đó việc ứng dụng VCB-2010 dẫn đến :
- Thay đổi quan điểm về phục vụ khách hàng trong toàn bộ Ngân hàng;
- Thay đổi quy trình xử lý nghiệp vụ của Ngân hàng: theo hướng chuẩn hoá, khoa học, chuyên môn hoá nhằm tận dụng tối đa nguồn nhân lực của Ngân hàng;
- Cung cấp khả năng hoạt động trực tuyến, tạo điều kiện quản lý tập trung tài khoản khách hàng;
- Chuẩn hoá hệ thống thông tin khách hàng đáp ứng các yêu cầu về phân tích, đánh giá khả năng và rủi ro khách hàng, nâng cao khả năng quản lý của các bộ phận hỗ trợ, phục vụ việc quản lý và điều hành tập trung tại ngân hàng .
- Đảm bảo tính an toàn và khả năng bảo mật thông tin dữ liệu của Ngân hàng và cho khách hàng.
ã Những lợi ích đối với khách hàng - các dịch vụ ứng dụng trên VCB-2010:
Khách hàng được phục vụ rất nhanh thông qua chỉ một nhân viên với thời gian giao dịch giảm xuống tối đa. Với VCB-2010, khách hàng còn được cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ ngân hàng quốc tế mà trong giai đọan hiện nay chưa ngân hàng Việt Nam nào có được.
- Với mô hình một cửa trong giao dịch, khách hàng được cung cấp nhiều loại dịch vụ tại một quầy và thời gian phục vụ giảm tối đa.
- Các dịch vụ ngân hàng quốc tế được cung cấp cho khách hàng tại Việt Nam bao gồm quản lý vốn tự động, chuyển tiền tự động, trả lương tự động.. Ngoài ra, với VCB-2010 Ngân hàng có nền tảng để xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử cho khách hàng -VCB-2010 cho phép Ngân hàng cung cấp tức thời mọi thông tin từ tổng hợp đến chi tiết về mọi hoạt động trên tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng.. điều này đặc biệt hữu ích đối với các Công ty mẹ trong việc quản lý hoạt động của các ngân hàng VCB và Công ty con.
II Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ
1. Sự cần thiết phải đề ra các giải pháp
Thương mại quốc tế đang ngày càng phát triển và tác động không nhỏ vào hoạt động kinh tế của mỗi nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại là một phần không thể thiếu được trong quá trình tăng trưởng kinh tế các nước. Một lĩnh vực không tách rời của thương mại quốc tế chính là quy trình thanh toán giữa các nước với nhau. Là một phương thức có hiệu quả, phương thức tín dụng chứng từ được rất nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong và ngoài nước chọn làm phương thức thanh toán tiền hàng. Một cách trực tiếp nó ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Nhưng cái gì cũng có mặt tiêu cực của nó. Phương thức thanh toán tiền hàng bằng L/C thường chứa đựng rất nhiều rủi ro mà các ngân hàng thường không tránh khỏi và dẫn tới việc thanh toán L/C đạt hiệu quả không cao. Do đó việc đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả trong thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng mà các ngân hàng phải đặt lên vị trí hàng đầu. Hơn nữa, hiện nay với chính sách mở cửa nền kinh tế, một môi trường kinh doanh mới xuất hiện với tính cạnh tranh cao đan xen giữa những yếu tố thuận lợi và khó khăn cho Ngân hàng VCB trên mọi lĩnh vực.
Ngân hàng VCB là một ngân hàng lớn nằm trong mạng lưới ngân hàng có chi nhánh rải đều trên toàn quốc của Việt Nam. Điều này giúp VCB thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình thuận lợi hơn. Đồng thời, VCB có một đội ngũ cán bộ nhân viên được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng, nhiệt tình với công việc. Đó là những thuận lợi tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng, qua đó ngân hàng có điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của mình đặc biệt trong phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng không thể tránh khỏi những trở ngại tác động không nhỏ tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Việc đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ phải nằm trong mối quan hệ tổng thể của các giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế sau của ngân hàng trong thời gian tới:
- Nâng cao năng lực tài chính đặc biệt là vốn tự có bằng ngoại tệ
- Chất lượng tài sản Có thấp do một bộ phận lớn tài sản Có không sinh lời, đọng trong nợ khó đòi.
- Nhìn chung trình độ của các cán bộ quản lý cần được nâng cao hơn nữa, nhiều kinh nghiệm cũ thiếu các kiến thức về giá trị kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, ngoại ngữ, tin học cần được cải thiện để đáp ứng hơn nữa yêu cầu kinh doanh và hội nhập quốc tế.
- áp dụng các tiến bộ khoa học tiên tiến trong hoạt động kinh doanh còn hạn chế, chưa đồng bộ làm giảm sức cạnh tranh của ngân hàng.
- Còn phải chịu nhiều sức cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài
- Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ chưa cao về chất lượng chuyên môn và mô hình tổ chức nên vẫn chưa dự báo ngăn chặn được những vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng. Kinh nghiệm hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ
2.1. Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ
Quy trình thanh toán là nhân tố tác động trực tiếp đến việc thanh toán tín dụng chứng từ. Dù sai sót nhỏ trong quy trình thực hiện cũng dẫn đến những rủi ro trong thanh toán. Vì thế ngân hàng cần phải thường xuyên thay đổi nâng cao sự hoàn thiện của quy trình thanh toán. Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ cần phải tiến hành sao cho thủ tục đơn giản, nhanh gọn nhưng vẫn chính xác, chặt chẽ và có tính hấp dẫn cao, thu hút được khách hàng, đồng thời giảm được càng nhiều chi phí càng tốt, trên cơ sở đó giảm mức phí dịch vụ đáp ứng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
ã Hoàn thiện thanh toán L/C hàng xuất
Trong nghiệp vụ thanh toán L/C hàng xuất thì thông thường các ngân hàng của nước xuất khẩu thường đóng vai trò là ngân hàng thông báo. Sự hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng thông báo sẽ mang lại lợi ích cho khách hàng của mình, cũng như lợi ích cho quốc gia. Vì vậy trong quá trình thực hiện nếu thấy có dấu hiệu bất ổn thì ngân hàng phải thông báo nhanh chóng và đầy đủ nhất.
Ngân hàng thông báo tham gia vào phương thức thanh toán tín dụng chứng từ với tư cách là ngân hàng cung ứng dịch vụ thu phí và không bị ràng buộc trách nhiệm phải thanh toán. Tuy nhiên quyền lời luôn đi đôi với nghĩa vụ. Trong thực tế ngân hàng thông báo có thể nhận được thư tín dụng bằng điện (Telex, Swift) không đầy đủ và không rõ ràng có thể do sai mã test hoặc không xác định được mẫu điện, trong trường hợp này NHTB phải yêu cầu NHPH mở lại thư tín dụng đó hoặc cung cấp mã test chính xác nhằm phòng ngừa gặp phải thư tín dụng giả. Nếu ngân hàng thông báo được ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo cho người xuất khẩu ở nước thứ ba không phải là nước mà ngân hàng thông báo đang hoạt động mà ngân hàng thông báo không muốn thông báo những thư tín dụng kiểu như thế thì phải gửi ngay lập tức quyết định của mình cho ngân hàng mở biết một cách kịp thời bằng phương tiện thông báo nhanh nhất mà ngân hàng hiện có.
Ngoài tư cách là ngân hàng cung ứng dịch vụ thu phí, ngân hàng thông báo còn có thể được yêu cầu xác nhận thư tín dụng. Trong trường hợp này ngân hàng xác nhận sẽ phải gánh chịu rủi ro cùng ngân hàng mở. Nghiệp vụ này chỉ được thực hiện với những ngân hàng mở được Ngân hàng VCB cấp tín dụng, có uy tín hoặc có quan hệ làm ăn lâu năm với Ngân hàng VCB. Tuy nhiên vẫn có thể xác nhận đối với các ngân hàng mở không phải là khách hàng quen thuộc nhưng phải nghiên cứu kỹ khách hàng và yêu cầu được chiết khấu toàn bộ chứng từ nhằm phòng tránh khả năng bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Đối với những quốc gia tình hình tài chính không ổn định, khủng hoảng kinh tế có thể dẫn đến việc hàng loạt các tổ chức tài chính, tín dụng bị đóng cửa. Với những L/C được mở ở ngân hàng những nước này không nên chiết khấu chứng từ vì độ rủi ro là rất cao.
Trong nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hiện nay thì Ngân hàng VCB mới chỉ áp dụng phổ biến là hình thức chiết khấu truy đòi, còn hình thức chiết khấu miễn truy đòi được áp dụng chưa nhiều. Sở dĩ như vậy, bởi vì trong hoàn cảnh hiện nay Ngân hàng VCB chưa hoàn toàn đủ điều kiện để áp dụng hình thức chiết khấu có khả năng rủi ro cao này. Những trường hợp áp dụng hình thức chiết khấu miễn truy đòi đều đem lại thiệt hại ít nhiều cho ngân hàng .Tuy nhiên, trong tương lai ngân hàng nên đưa ra hình thức này để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, tạo uy tín và lòng tin cậy trong khách hàng. Không phải vì nó có nhiều rủi ro mà ta không áp dụng, mà ta phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ lưỡng về nó sao cho khi hoạt động thì sẽ hạn chế được rủi ro xuống mức thấp nhất. Để ngăn ngừa rủi ro trong chiết khấu chứng từ cần phải chuẩn bị kỹ những điều kiện khách quan và chủ quan cho nó. Xuất phát từ yêu cầu khách quan là khả năng thanh toán của các bên, ngân hàng cần xây dựng cho mình một hệ thống thông tin gồm các kênh nội bộ và kênh ngoài ngân hàng. Trong nội bộ ngân hàng cần có sự kết hợp giữa các phòng chức năng, giữa các ngân hàng VCB trong cùng hệ thống. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần thiết lập một hệ thống thông tin giữa các ngân hàng về tình hình vay nợ, uy tín của doanh nghiệp, phát huy hiệu quả của bộ máy thông tin giữa các ngân hàng đại lý để có thông tin chính xác về ngân hàng mở thư tín dụng và nhà xuất khẩu. Nếu các kênh thông tin này được tổ chức tốt ngân hàng còn biết được xu hướng của thị trường trong thời gian tới.
Cụ thể, ngân hàng cần thông qua hệ thống thông tin để nghiên cứu tình hình kinh tế chính trị của nước nhà nhập khẩu để quyết định chấp nhận hay từ chối chiết khấu cho bộ chứng từ của nhà xuất khẩu. Đối với những quốc gia đang có nội chiến, chiến tranh sắc tộc hay tình hình chính trị không ổn định, khủng hoảng kinh tế thì ngân hàng không nên chiết khấu bộ chứng từ vì rủi ro cao. Hơn nữa, ngân hàng cũng cần xem xét đến các yếu tố như:
- Uy tín của nhà xuất khẩu, thực trạng hoạt động và khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu. Đây là yếu tố quan trọng và quyết định đối với ngân hàng để đưa ra quyết định đồng ý hay từ chối chiết khấu bộ chứng từ.
- Khả năng thanh toán của ngân hàng mở.
- Loại hàng hoá và mức biến động giá cả của loại hàng hoá này trên thị trường.
- Mối quan hệ giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.
- Đối với những tín dụng thư có điều khoản mập mờ rối rắm dễ phát sinh tranh chấp, ngân hàng không nên chiết khấu bộ chứng từ vì rủi ro cao.
ã Hoàn thiện quy trình thanh toán L/C hàng nhập
Trong quy trình này chúng ta cần chú ý tới một số vấn đề cơ bản liên quan tới rủi ro trong thanh toán thư tín dụng hàng nhập sau đây:
- Định mức ký quỹ một cách hợp lý
Định mức ký quỹ một cách hợp lý là điều kiện tốt nhất để ngân hàng hạn chế và tránh được rủi ro trong quá trình thanh toán hàng nhập. Bởi vì trong trường hợp này ngân hàng thường đóng vai trò là ngân hàng mở thư tín dụng hoặc là ngân hàng bảo đảm việc thanh toán của ngân hàng mở cho người xuất khẩu khi họ trình được bộ chứng từ hợp lệ. Nếu không có khoản ký quỹ thì người nhập khẩu có thể không thanh toán cho ngân hàng khi mà ngân hàng đã thanh toán cho người xuất khẩu. Tuy nhiên định mức ký quỹ là một việc làm không đơn giản bởi lẽ với mức ký quỹ quá cao thì sẽ gây khó khăn cho nhà nhập khẩu, nhà nhập khẩu sẵn sàng từ bỏ ngân hàng chuyển sang quan hệ với ngân hàng khác chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn, như vậy là đã làm giảm uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay. Còn nếu định mức ký quỹ quá thấp sẽ không đảm bảo thực hiện cam kết của khách hàng và nếu không may có rủi ro xẩy ra thì hậu quả của nó sẽ rất lớn. Việc đưa ra định mức ký quỹ hợp lý cần phải được các chuyên gia nghiên cứu kỹ, căn cứ vào những yếu tố sau đây:
+ Uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu: điều này được thẩm định thông qua quá trình làm ăn lâu dài với khách hàng, nếu có uy tín sẵn thì ngân hàng có thể chấp nhận mức ký quỹ thấp để giữ quan hệ lâu dài. Còn nếu mới quan hệ hoặc quan hệ lần đầu thì phải tìm kiếm thông tin về khách hàng, kiểm tra tài khoản của khách hàng, nhưng để hạn chế rủi ro thì chúng ta vẫn phải đặt mức ký quỹ cao, thậm trí có thể lên tới 100% so với giá trị của thư tín dụng. Trong trường hợp có người bảo lãnh thì cần phải xem xét mức độ uy tín của người bảo lãnh để định mức, đồng thời cũng phải có những ký kết cụ thể với người bảo lãnh.
+ Khả năng tiêu thụ hàng nhập về: Với những mặt hàng nhập về cho mục đích kinh doanh, phải tìm hiểu và cân nhắc xem khả năng tiêu thụ của lô hàng đó như thế nào. Liệu nó có phù với thị hiếu hay không, liệu có được người mua chấp nhận hay không, khả năng thu hồi vốn trong khoảng thời gian là bao lâu...Tuỳ theo khả năng tiêu thụ cao hay thấp mà ngân hàng sẽ đưa ra mức ký quỹ cho phù hợp.
+ Hiệu quả kinh tế của lô hàng nhập về: Định mức ký quỹ phải cao hơn tỷ suất lợi nhuận mà lô hàng mang lại bởi vì trong trường hợp nhà nhập khẩu thế chấp bằng cả lô hàng không có khả năng thanh toán cho ngân hàng mở thì ngân hàng khi âý sẽ có quyền định đoạt với lô hàng. Giá chuyển nhượng phải làm sao đảm bảo cho ngân hàng thanh toán với nước ngoài.
+ Tỷ lệ trượt giá của đồng tiền: Trong thời kỳ tỷ giá biến động mạnh, ngân hàng phải dự đoán tình hình, từ đó điều chỉnh mức ký quỹ để tránh rủi ro về tỷ giá. Tỷ lệ điều chỉnh phải tương ứng với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong thờ gian tới. Đây là một yếu tố còn tương đối khó khăn với các ngân hàng ta hiện nay. Thường thì các ngân hàng chưa quan tâm tới yếu tố này nhiều.
- Cần liên hệ chặt chẽ với khách hàng để hạn chế rủi ro và lừa đảo thương mại
Khi nhận được bộ chứng từ, Ngân hàng VCB nên liên hệ với người mua để nắm vững thông tin xem người bán giao hàng như thế nào? Người mua có sẵn sàng thanh toán hay không? Nếu bộ chứng từ thanh toán hoàn toàn phù hợp nhưng hàng hoá lại có vấn đề thì phải giải thích với người mua là nghĩa vụ của ngân hàng là phải thanh toán đồng thời đề nghị người mua tiếp xúc với người bán để khiếu nại. Nếu hàng hoá không giao nhưng vẫn có bộ chứng từ xuất trình thì phải ngưng ngay việc thanh toán, nếu cần phải có sự can thiệp của luật pháp. Những trường hợp như vậy cần có công văn của người mua gửi cho ngân hàng.
- Cân nhắc các điều kiện đảm bảo thanh toán
Trong quá trình vận chuyển hàng hoá và sự chu chuyển của bộ chứng từ nhiều khi xẩy ra trưòng hợp hàng hoá đến trước bộ chứng từ, trong trường hợp này nếu để quá thời gian gia ân thì nhà nhập khẩu sẽ phải chịu thêm chi phí kho bãi. Do đó, để đề phòng trường hợp này xẩy ra thì các nhà nhập khẩu thường đề nghị ngân hàng cho phép 1/3 cuả bộ chứng từ được gửi trực tiếp cho nhà nhập khẩu, 2/3 của bộ chứng từ còn lại sẽ được chuyển qua ngân hàng mở thư tín dụng. Như thế thì nhà nhập khẩu có thể lấy được vận đơn trước để nhận hàng và khi nhận hàng rồi thì họ có thể từ chối thanh toán, gây thiệt hại cho ngân hàng. Khi ấy trong trường hợp này nếu chấp nhận điều kiện đó của nhà nhập khẩu thì nhất thiết vận đơn phải theo lệnh của ngân hàng mở để đảm bảo quyền định đoạt và kiểm soát bộ chứng từ cho ngân hàng mở thông qua hình thức ký hậu. Nếu nhà nhập khẩu lại yêu cầu vận đơn theo lệnh của nhà nhập khẩu thì phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay của khách hàng.
- Xem xét các điều kiện đòi tiền
Đòi tiền bằng điện là hình thức trong đó bảo lưu quyền đòi lại. Nghĩa là sau khi đã chuyển tiền bằng điện thanh toán cho bán, nếu bộ chứng từ có lỗi và nhà nhập khẩu từ chối thanh toán thì ngân hàng mở có quyền đòi nhà nhập khẩu trả lại tiền. Tuy nhiên trong thực tế khả năng hoàn lại tiền của nhà xuất khẩu là rất khó, còn tuỳ thuộc vào thiện chí của họ và khó tránh khỏi những tranh chấp xẩy ra. Vì thế ngân hàng có thể đưa ra các diều kiện đòi tiền trong thư tín dụng cho nhà xuất khẩu, chẳng hạn như yêu cầu nhà xuất khẩu cho phép ngân hàng mà nhà xuất khẩu mở tài khoản được phép can thiệp khi có truờng hợp đòi lại tiền, khi ấy sự làm việc giữa các ngân hàng sẽ thuận tiện hơn, nhất là khi nhân hàng của nhà xuất khẩu có tài khoản tại ngân hàng mở.
2.2. Giải pháp chiến lược khách hàng
Với phương châm “ngân hàng tồn tại bởi khách hàng”, chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng nếu không nói là mang tính chất quyết định.
Trong tình hình xoá bỏ sự độc quyền kinh doanh đối ngoại của Vietcombank, sự ra đời của hàng loạt các NHTM cổ phần, công ty tài chính và nhất là sự góp mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giải pháp về một chính sách khách hàng đúng đắn sẽ là yếu tố quyết định vị trí của mỗi ngân hàng trong cuộc cạnh tranh quyết liệt này.Thắng lợi của chính sách khách hàng là thắng lợi của sự kết hợp thực hiện tốt một loạt các công tác khác nhau. Chiến lược khách hàng bao gồm những nội dung sau:
ã Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng
Một phong cách giao tiếp lịch sự văn minh lịch sự là nghệ thuật giữ khách hàng có hiệu quả nhất. Sự quyết định lựa chọ ngân hàng của khách hàng trong giao dịch phần nhiều là do thái độ giao tiếp của cán bộ ngân hàng. Khách hàng luôn cần đến một ngân hàng không gây khó khăn cho họ, sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ họ trong mọi hoạt động giao dịch. Bên cạnh đó chúng ta cần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ để phục vụ khách hàng cũng như thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng. Ngân hàng nên có chính sách ưu tiên đối với những khách hàng quen, làm ăn có uy tín, tạo cho họ những ưu đãi về vốn vay hay không phải ký quỹ.v.v. Còn đối với mọi khách hàng khác ngân hàng cố gắng giảm chi phí, điều kiện ký quỹ mở L/C sao cho phù hợp.
Ngân hàng nên coi lợi ích khách hàng cũng là lợi ích của mình, khi có những tranh chấp xảy ra cần đấu tranh đến cùng để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và cũng là quyền lợi của chính mình. Ngân hàng cũng nên đóng vai trò tham mưu để tránh bị động sau này.
ã Tăng cường công tác cố vấn khách hàng
* Đối với các đơn vị xuất khẩu
Các đơn vị xuất khẩu thường gây ra rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh các rủi ro đó ngân hàng có thể cố vấn cho khách hàng đặt biệt là các khách hàng mới hoặc ít tham gia vào các hợp đồng thương mại quốc tế ở một số vấn đề sau đây:
- Cố vấn cho đơn vị xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình một thư tín dụng đảm bảo nhất. Hiện nay loại thư tín dụng không huỷ ngang có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất cho người bán. Tuy nhiên không nhất thiết trường hợp nào cũng phải mở thư tín dụng xác nhận bởi vì chi phí xác nhận cao và bên nhập khẩu phải ký quỹ tai ngân hàng mở, và nếu khó khăn với nhà nhập khẩu thì họ có thể không thực hiện hợp đồng thương mại.
- Cố vấn cho đơn vị xuất khẩu trong việc chọn ngân hàng mở thư tín dụng và ngân hàng thanh toán, bời vì trong lĩnh vực này ngân hàng sẽ am hiểu hơn rất nhiều so với nhà xuất khẩu. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn
- Cố vấn cho khách hàng cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. Thư tín dụng cho phép đòi tiền bằng điện là loại có lợi hơn tất cả vì nó giúp cho mọi giao dịch được tiến hành nhanh chóng góp phần rút ngắn thời gian thanh toán, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn.
- Cố vấn cho đơn vị xuất khẩu các điều kiện bất lợi của thư tín dụng như thời hạn giao hàng, thời hạn thư tín dụng, các chứng từ mà khó khăn trong việc có được... để người xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng mở tu chỉnh lại thư tín dụng cho phù hợp với khả năng của mình.
- Ngân hàng cũng nên cố vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót. Xem xét kỹ lưỡng các lý do từ chối ngân hàng mở thư tín dụng đưa ra có hợp lý hay không. Nếu bộ chứng từ có sai sót nghiêm trọng nên cố vấn cho khách hàng chuyển sang hình thức nhờ thu. Trong trường hợp mà hàng hoá đã chuyển sang nước ngoài nhưng ngân hàng mở vẫn từ chối thanh toán thì nên cố vấn cho khách hàng trong việc tìm nguồn tiêu thụ, hạn chế thời gian lưu kho làm tăng chi phí hoặc giảm phẩm chất. Cũng cần cố gắng tìm hiểu và cố vấn cho khách hàng trong trường hợp đó có nên khiếu kiện hay không và nếu có thì nên thực hiện như thế nào.
* Đối với đơn vị nhập khẩu
Người nhập khẩu gây ra rủi ro cho ngân hàng khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm các cam kết. Khi đó để đảm bảo lợi ích cho nhà nhập khẩu và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng cần cố vấn cho họ những vấn đề sau đây:
- Cố vấn cho nhà nhập khẩu nên mở loại thư tín dụng nào cho phù hợp. Nhà nhập khẩu cần thoả thuận với đối tác nên hạn chế mở thư tín dụng chuyển nhượng vì thủ tục lòng vòng gây khó khăn trong thanh toán. Cũng không nên mở thư tín dụng miễn truy đòi, bởi nếu như thế thì nhà xuất khẩu có thể vi phạm hợp đồng, họ có thể chuyển hàng ít hơn số lượng, kém phẩm chất... nhưng họ vẫn lấy được đủ bộ chứng từ hợp lệ.
- Cố vấn cho đơn vị nhập khẩu trong việc đưa các điều khoản vào thư tín dụng. Không nên đưa quá nhiều điều khoản vào trong thư tín dụng vì có thể dẫn đến sai sót cũng như gây nhiều khó khăn cho nhà xuất khẩu khiến họ không đáp ứng được yêu cầu tu chỉnh, như thế sẽ gây tốn phí không cần thiết, tốn thời gian giao dịch lại.
- Cố vấn cho đơn vị trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở thư tín dụng, sửa đổi thư tín dụng sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình. Trong lĩnh vực này ngân hàng là bên có nhiều kinh nghiệm nhất nên có thể biết được yêu cầu nào là có thể chấp nhận được và yêu cầu nào là không thể chấp nhận được, mà đưa ra ý kiến cho nhà nhập khẩu.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo
Bên cạnh việc thành lập một bộ phận tiếp thị để thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tiếp xúc với khách hàng, ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng để cùng trao đổi rút kinh nghiệm và tìm hiểu về UCP, về giới hạn trách nhiệm của ngân hàng, tìm hiểu các thông tin thị trường... Các hội nghị này không những giúp khách hàng rút ra được nhiều kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế mà còn là cơ hội để khuếch trương quảng cáo cho hoạt động thanh toán của ngân hàng. tăng cường hoạt động quảng cáo nhằm thu hút các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc có nhu cầu mua bán ngoại tệ về giao dịch và thanh toán quốc tế tại ngân hàng.
2.3. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ và đào tạo
Xuất phát từ yêu cầu hoạt động kinh doanh nói chung và tính chất đa dạng phức tạp của thông lệ, tập quán quốc tế, sự điều chỉnh khác nhau của luật pháp các nước đối giao dịch ngân hàng, Ngân hàng VCB luôn chú trọng tăng cường công tác tổ chức cán bộ và đào tạo. Cán bộ ngân hàng phải là những người am hiểu về kỹ thuật tinh thông nghiệp vụ, nắm vững pháp luật và luật lệ quốc tế để có thể xử lý kịp thời các nghiệp vụ thanh toán trong mọi tình huống. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả thanh toán tín dụng chứng từ, Ngân hàng VCB đã xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu nghề nghiệp, có nhân cách và tâm hồn trong sáng.
Trước hết cần xây dựng toàn ngành từ lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên, từ Trung ương đến các chi nhánh VCB và các công ty trực thuộc. Đoàn kết để tạo lên một sức mạnh tổng hợp. Điều này không chỉ có ý nghĩa với cán bộ làm công tác thanh toán mà cho bất kỳ một phòng chức năng nào. Những cán bộ còn bị hạn chế về mặt này hay mặt khác sẽ nhận được sự giúp đỡ từ các đồng nghiệp của mình để tiến bộ thêm. Những chi nhánh VCB mà hoạt động hiệu quả chưa cao sẽ được sự hỗ trợ từ các chi nhánh VCB khác. Mọi người cùng làm việc và cùng tin tưởng lẫn nhau, khách hàng sẽ tin tưởng vào họ, niềm tin ấy sẽ tạo ra một sức mạnh lớn lao vượt qua mọi gian lao thử thách.
Để củng cố niềm tin, việc phát huy vai trò, việc phát huy vai trò của Đảng viên, Đoàn thanh niên và Công đoàn là hết sức cần thiết, tạo lên một khí thế lao động sáng tạo và tình cảm gắn bó cộng đồng trách nhiệm trong mọi công việc. Đoàn thanh niên và Công đoàn cần tích cực hơn nữa trong việc phát động các phong trào đoàn thể, bên cạnh đó phối hợp với hội phụ nữ và thanh niên xây dựng mục đích chung cho cán bộ toàn hệ thống.
Thứ hai là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, áp dụng công nghệ thông tin của thanh toán viên để đáp ứng nhu cầu kịp thời nhu cầu ngày càng tăng của tốc độ phát triển kinh tế và thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Để có được một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, Ngân hàng VCB phải có cả một chiến lược tuyển chọn và đào tạo trên cơ sở quy hoạch đã được xác định. Nội dung đào tạo cần phải được chú trọng về cả kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lý giáo dục tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho thanh toán viên. Cần phải hình thành nên trong mỗi cán bộ ngân hàng một lý tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp để họ gắn chặt tương lai và sự nghiệp của mình vào sự nghiệp chung của ngân hàng, coi mỗi thành tựu, tồn tại của ngân hàng là của chính mình, có sự đóng góp và trách nhiệm của mình trong đó. Từ đó mỗi cán bộ phải cố gắng hết sức mình nhằm hoàn thiện hơn nữa công việc hoặc lĩnh vực mà mình phụ trách, luôn suy nghĩ và hành động vì sự phát triển không ngừng của hệ thống. Mỗi cán bộ của Ngân hàng VCB vừa phải thể hiện bản chất của một cán bộ ngân hàng nói chung nhưng phải có những nét đẹp riêng của mình, những nội dung riêng của mình. Tổ chức đào tạo có trọng điểm theo những tiêu chuẩn nhất định đối với những cán bộ trong quy hoạch, những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến và biết phát huy trong thực tiễn để tạo lập nên đội ngũ cán bộ nòng cốt của Ngân hàng VCB.
Công tác đào tạo phải gắn liền với việc sử dụng cán bộ, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo và công nhân viên. Có chương trình đào tạo cụ thể với từng cấp cán bộ. Việc đào tạo cán bộ không chỉ giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao mà phải để cho mỗi cán bộ có điều kiện phát huy khả năng và sở trường của mình. Từ đó xác định việc quy hoạch, đào tạo cán bộ theo quy mô hình chóp tạo lên mặt bằng vững chắc nhưng có trọng tâm, trọng điểm bổ xung nguồn lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo xứng đáng có đủ tài đức, đảm bảo tính kế thừa liên tục và phát triển.
Trong nhân tố con người, cần đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng khả năng tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Người lãnh đạo phải là tấm gương trong sáng cho đồng nghiệp, tận tụy trong công việc, trong sạch, liêm khiết chí công vô tư trong nếp sống tạo lên điểm tựa vững chắc cho tiến trình phát triển của hệ thống.
Đây là vấn đề mà Ngân hàng VCB nói chung và Phòng thanh toán quốc tế nói riêng thường xuyên quan tâm tới. Trong những năm qua ngân hàng đã nhiều lần tổ chức các cuộc hôi thảo, các buổi thực tập, khảo sát nâng cao nghiệp vụ... cũng như việc gứi các cán bộ đi học tập. Các cán ngân hàng không những được học tập ở trong nước mà còn được tham gia học tập ở nhiều nước trên thế giới như Singapore, Nhật bản, Hàn quốc, Malaixia, Mỹ, Pháp...Các cán bộ công nhân viên ở đây cũng thuờng xuyên được cử đi các ngân hàng khác trong và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệm. Hiện nay công tác tại Phòng thanh toán quốc tế của Ngân hàng VCB có tất cả sáu người, thì có một người hiện đang học tập và nghiên cứu về nghiệp vụ tại Malayxia, còn lại năm người trong nước cũng đang tham gia các lớp học nâng cao nghiệp vụ.
2.4. Mở rộng mạng lưới hoạt động, hoàn thiện cơ cấu tổ chức
Nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, cũng như cải thiện khả năng cạnh tranh của mình, Ngân hàng VCB phải từng bước tiến hành cải tổ cơ cấu, quy mô của mình cho hợp lý. Muốn tăng doanh số, tăng khả năng cạnh tranh thì phải có một quy mô đủ lớn, nhưng phải là chất lượng.
Việc mở rộng quy mô cần căn cứ vào thực trạng khách hàng của mình. Quy mô khách hàng hàng năm có tăng hay không, tương lai sẽ có những khách hàng nào, có những ngân hàng nào cùng tham gia cạnh tranh...Đó là những câu hỏi mà các nhà nghiên cứu cần trả lời để xây nên một quy mô cho hợp lý nhất. Mặc dù mở rộng về quy mô nhưng vẫn luôn phải đảm bảo nguyên tắc tinh gọn, hiệu quả, không mở rộng ồ ạt.
Là một ngân hàng mang cấp thành phố, nhưng thiết nghĩ là một ngân hàng hoạt động tại địa bàn thủ đô, hơn nữa là ngân hàng có kinh nghiệm nhất hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Ngân hàng VCB cũng nên mở thêm một số ngân hàng chi nhánh ở nước ngoài để thuận tiện trong việc giao dịch, thông tin và quá trình thanh toán quốc tế. Nếu điều kiện không cho phép thì ngân hàng nên thường xuyên quan hệ với các chi nhánh VCB ở nước ngoài nhờ sự giúp đỡ từ Việt Nam, đồng thời đẩy mạnh quan hệ đại lý với các ngân hàng trên thế giới để tránh phải thanh toán L/C qua trung gian. Muốn thực hiện được biện pháp này thì Ngân hàng VCB cần củng cố và nâng cao uy tín của mình bởi chính khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của ngân hàng. Quan hệ này tốt sẽ tạo điều kiện cho việc thanh toán được nhanh chóng và thuận tiện, phục vụ tốt cho yêu cầu kinh doanh và đảm bảo lợi ích của khách hàng.
Về cơ cấu tổ chức thì hiện nay tại ngân hàng là tương đối hiệu quả, các mối quan hệ dọc, ngang tương đối rõ ràng và mật thiết. Phòng thanh toán về cơ bản là hoạt động độc lập trong mối quan hệ chung. Tuy nhiên để hoàn thành nhiệm vụ của mình thì phòng thanh toán cần có sự giúp đỡ nhiệt tình vì công việc chung từ các phòng ban chức năng khác như các phòng Tín dụng, Kế toán, Ngân quỹ...đồng thời hoàn thiện hơn nữa cơ cấu để đảm bảo xây dựng được một bộ máy quản lý điều hành gọn nhẹ, chặt chẽ, phân định rõ ràng từ trung ương đến địa phương.
2.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng
Công nghệ ngân hàng là một trong những nhân tố quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong huy động và sử dụng vốn, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và quản lý thông tin. Với chính sách mở cửa nền kinh tế hoà nhập cộng đồng thế giới, hiện nay nhiệm vụ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là điều không thể thiếu được. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phải được hiện đại hoá dần cùng hệ thống vi tính đồng bộ và hoàn chỉnh có thể đáp ứng được yêu cầu thanh toán qua hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT)
Là một ngân hàng có quy mô lớn Ngân hàng VCB đang từng bước áp dụng các thành tựu của khoa học vào trong hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng đã trang bị nhiều máy tính hiện đại, các máy fax, máy điện tân tiến. Đặc biệt ngân hàng còn đang tiến hành nối mạng với các khách hàng thường xuyên để tạo sự nhanh chóng và thuận tiện trong các giao dịch với các khách hàng. Hệ thống thanh toán SWIFT cũng được ngân hàng áp dụng đầu tiên và có những hiệu quả cao trong thanh toán và chuyển tiền.
Tuy còn nhiều khó khăn và hạn chế, nhưng sự cố gắng của ngân hàng trong việc trang bị các thiết bị hiện đại nâng cao khả năng phục vụ khách hàng đã cho chúng ta thấy được quyết tâm của ngân hàng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đem lại lợi ích cho khách hàng và cho chính mình.
2.6. Tăng cường công tác kiểm tra và kiểm soát
Để đảm bảo hoạt động thanh toán quốc tế đi đúng hành lang pháp lý phải nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra kiểm soát. Công tác kiểm tra kiểm soát phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Lựa chọn các cán bộ tham gia kiểm tra kiểm soát là những người công tư phân minh, giám sát hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao
- Phát hiện, uốn nắn kịp thời để nâng cao nhận thức toàn diện cho thanh toán viên, đưa ra những ý kiến tư vấn xây dựng đội ngũ cán bộ có đức có tài, xây dựng kỷ cương chấp hành pháp luật nghiêm túc, thành lập được mối quan hệ tổng hoà trong từng cơ sở.
- Giải quyết dứt điểm, nghiêm khắc các vụ việc vi phạm tuỳ theo mức độ, hoàn cảnh, số lần để duy trì được một tập thể trong sạch.
- Hợp tác nâng cao tinh thần cảnh giác với các âm mưu chống phá từ bên ngoài như các vụ lừa đảo thanh toán quốc tế và từ bên trong như tham nhũng, bè phái.
- Việc kiểm tra kiểm soát phải được thực hiện một cách thiết thực tránh tiến hành mang tính hình thức.
Công tác kiểm tra kiểm soát của Ngân hàng VCB trong những năm vừa qua đã có những chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng, được tiến hành thường xuyên ở tất cả các khâu nghiệp vụ. Ngoài kiểm soát nghiệp vụ bình thường hàng ngày, hệ thống kiểm tra kiểm soát còn tập trung kiểm tra các nghiệp vụ hoạt động trọng yếu. Qua kiểm tra phát hiện kịp thời nhiều sai lầm, kiến nghị yêu cầu tu chỉnh, khắc phục và xử lý các cán bộ có sai phạm, từ đó góp phần hạn chế các rủi ro cho ngân hàng trong đó có rủi ro trong thanh toán quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hiện nay các cán bộ kiểm tra của ngân hàng có trình độ đại học chiếm tỷ lệ 90%, nhiều cán bộ có hai bằng: bằng chuyên môn và bằng pháp lý. Chính vì vậy chất lượng của công tác kiểm tra kiểm soát trong toàn hệ thống đã ngày càng được nâng cao, công tác tư vấn pháp luật đã thu được kết quả tốt, nhất là tư vấn pháp luật trong việc xử lý tài sản thế chấp, khởi kiện khách hàng, các vụ việc liên quan đến khởi tố, điều tra xét xử các vụ án, bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngân hàng.
2.7. Giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C
Ngoại tệ luôn là vấn đề được Ngân hàng VCB hết sức quan tâm. Hiện nay ngân hàng đang lâm vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ vì thế ngân hàng cần củng cố mạng lưới kinh doanh của mình, tăng trưởng nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ để có đủ khả năng thanh toán L/C. Muốn thế ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, tăng các bàn thu đổi ngoại tệ, quản lý việc sử dụng ngoại tệ và đảm bảo khả năng tái tạo ngoại tệ để phục vụ thanh toán hàng xuất nhập khẩu.
Nguồn thanh toán L/C xuất khẩu chính là một nguồn vốn ổn định và chủ động để thanh toán L/C nhập khẩu vì vậy phải quan tâm trong việc phát triển nghiệp vụ này bằng cách mở rộng hơn nữa hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu. Ngân hàng cần có chính sách ưu đãi với khách hàng có tiềm năng xuất khẩu như tư vấn miễn phí ngay từ khi ký hợp đồng, nhận L/C hay khi có vướng mắc xảy ra, hướng dẫn họ lập bộ chứng từ xin thanh toán .v.v. để tạo mọi điều kiện cho khách hàng tin tưởng và đến giao dịch tại ngân hàng.
2.8. Kiến nghị đối với nhà nước
Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vai trò điều khiển vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời cũng là thách thức cho các quốc gia hoặc phát triển hoặc tụt hậu. Lúc này rất cần đến bàn tay định hướng của Chính phủ để con tầu quốc gia đi đến mục tiêu của mình. Thanh toán thương mại quốc tế nói chung cũng như phưong thức tín dụng chứng từ nói riêng, do liên quan đến yếu tố quốc tế - một yếu tố tương đối rộng lớn và đa dạng nên rất cần đến những chính sách phù hợp, với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và phát triển. Qua đó cũng có thể hạn chế bớt được nhiều khúc mắc trong quá trình thanh toán mà hạn chế được phần nào sự rủi ro.
ãCần có những văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán quốc tế
Một trong những nguyên nhân dẫn tới rủi ro pháp ký trong thanh toán tín dụng chứng từ là sự hạn chế và thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh trong quan hệ giũa các bên trong quy trình nghiệp vụ. ở Việt Nam hiện nay, ngoài UCP 500 và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một văn bản pháp quy nào đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng thương mại quốc tế của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của ngân hàng. Khi có tranh chấp xẩy ra, Trọng tài quốc tế có thể phán quyết đối với quan hệ hai bên mua và bán mà không đề cập đến quan hệ chi trả giữa các ngân hàng. Như vậy chỉ áp dụng UCP 500 vào giao dịch tín dụng chứng từ là chưa đủ với các ngân hàng tại Việt Nam khi có xẩy ra tranh chấp. Chính phủ cần có những văn bản pháp lý mới về mối quan hệ hợp đồng ngoại thương và thanh toán tín dụng chứng từ, nêu lên quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và ngân hàng khi tham gia vào quan hệ tín dụng chứng từ. Trước hết nên đề cập và làm rõ những vấn đề sau đây:
- Cần quy định rõ sự giới hạn các điều khoản của thư tín dụng mà nhà nhập khẩu đưa ra để giúp cho nhà xuất khẩu và ngân hàng có thể thực hiện và thực hiện quy trình một cách nhanh chóng.
- Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận hàng bị trọng tài tuyên án huỷ bỏ.
- Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng mất khả năng thanh toán.
- Quyền được bảo lưu chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua đứt bán đoạn. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoá luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng chiết khấu với nhà xuất khẩu
Hơn nữa xét về đặc trưng cơ bản của thư tín dụng thì nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại quốc tế. Khi có tranh chấp thương mại xẩy ra trong quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thì sẽ được điều chỉnh bởi luật kinh tế của một quốc gia nào đó hoặc bằng các thông lệ quốc tế, vậy còn khi xẩy ra tranh chấp về thư tín dụng thì như thế nào, thư tín dụng có phải là hợp đồng kinh tế hay không. Theo Điều 12 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án sau đây:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Các tranh chấp giữa các công ty với các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Tranh chấp phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ không thuộc ba loại trên nhưng có thuộc loại cuối cùng hay không thì ta lại hoàn toàn không quy định. Vì thế chúng ta cần phải từng bước ban hành và hoàn thiện dần các văn bản pháp luật liên quan đến thanh toán tín dụng chứng từ.
ãCó chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu
Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, nhà nước phải tăng cường hiệu lực các văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Thực tế hiện nay cho thấy, mặc dù Chính phủ cho phép tất cả các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu đếu được tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động còn yếu kém, hạn chế về trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cũng như, cũng như trình độ quản lý nói chung. Vì thế thiết nghĩ Chính phủ có thể ban hành các quy chế về các điều kiện tài chính, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ, tầm cỡ của doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Có thể các đơn vị không đủ điều kiện để xuất nhập khẩu trực tiếp thì có thể thông qua uỷ thác để hạn chế xuống mức thấp nhất rủi ro có thể xẩy ra.
Tuy nhiên các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay chủ trương cấp quốc gia về xuất nhập khẩu đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này, bất lợi cho doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây lên tồn đọng nhiều loại vật tư (sắt thép, xi măng, đường...). Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ được. Trước tình hình đó, Nhà nước cần có những biện pháp giúp đỡ các doanh nghiệp củng cố và duy trì thị trường, hạn chế rủi ro mất khả năng thanh toán của họ. Cụ thể như:
- Thực hiện chính sách trợ cấp xuất nhập khẩu thông qua chế độ lãi xuất ưu đãi, cân đối cung cầu, hạn chế các cơn sốt hàng hoá.
- Nhà nước cần ban hành các quy định về thuế xuất nhập khẩu phù hợp, ổn định. Trên thực tế thì biểu thuế xuất nhập khẩu cũng thường xuyên thay đổi nên các doanh nghiệp không dự đoán được tình hình, nên cũng gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề này, nhất là khi bị tăng thuế, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp, mà cũng là gây rủi ro cho các ngân hàng.
- Chính phủ cần có những thông tin giá cả kịp thời về thị trường thế giới. Đây là biện pháp quan trọng trong công tác phòng ngừa rủi ro trong thanh toán. Nếu thiếu thông tin giá cả, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ không cập nhật được tình hình thế giới, gây thiệt hại trong giao dịch, nhất là trong trường hợp doanh nghiệp mở các thư tín dụng trả chậm.
2.9. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Một là: Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tiến hành thành lập thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần có các biện pháp sau:
Giám sát và buộc các ngân hàng thương mại phải xử lý trạng thái ngoại hối của mình trong ngày bằng việc mua hoặc bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng. Mở rộng đối tượng tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ, nghiệp vụ tiền gửi qua đêm và các hình thức mua bán ngoại tệ như: mua bán kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi ngoại tệ, quyền mua, quyền bán,... Cần tăng cường hơn nữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Hai là: Công tác điều hành chính sách tỷ giá cần linh hoạt phù hợp với thực tế.
Tỷ giá hối đoái là một yếu tố nhạy cảm, nó không những ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất nhập khẩu mà còn tác động tới toàn bộ các mặt hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết quản lý của nhà nước là hoàn toàn hợp lý, song cần đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá dần với những bước đi thích hợp.
Ba là: Tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng nhà nước .
Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm để có điều kiện thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Cần phải có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của các doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng...
2.10. Kiến nghị đối với khách hàng
ã. Nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và trình độ thanh toán quốc tế
Một vấn đề bức thiết đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam là phải tổ chức đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương, trình độ pháp lý trong thương mại quốc tế. Ngoài các ngiệp vụ ngoại thương, doanh nghiệp cần phải nắm vững nghiệp vụ và thông lệ thanh toán quốc tế, cụ thể cần phải nắm vững nội dung UCP và các thông lệ quốc tế khác để hiểu rằng hợp đồng và L/C, chứng từ và hàng hoá là độc lập nhau, cần nâng cao kỹ năng trong việc lập chứng từ và kiểm tra nội dung L/C...
Mỗi doanh nghiệp nên có một bộ phận pháp chế hoặc sử dụng tư vấn pháp lý để tránh được các bất đồng hoặc tranh chấp có thể xảy ra trong kinh doanh và trong thanh toán. Khi soạn thảo hợp đồng ngoại thương, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ càng về thủ tục, cân nhắc kỹ các điều khoản, đặc biệt là điều khoản thanh toán trước khi ký, hợp đồng phải sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác... Vì các điều khoản của hợp đông chặt chẽ sẽ là cơ sở để làm tốt việc thanh toán L/C sau này và khi quyết đinh lựa chọn phương thức thanh toán L/C phải hết sức chú ý đến yêu cầu nghiêm ngặt của bộ chứng từ.
ã. Tìm hiểu kỹ và lựa chọn đúng bạn hàng nước ngoài
Bên cạnh việc thận trọng khi ký kết hợp đồng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tìm hiểu kỹ về đối tác nước ngoài vì dù hợp đồng có chặt chẽ đến đâu nhưng nếu các đối tác cố tình lừa đảo thì quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể bị vi phạm.
Các vụ tranh chấp xảy ra đều là do doanh nghiệp chưa chú trọng chọn đúng đối tác trong kinh doanh. Việc tìm hiểu thực lực và uy tín của bạn hàng là hết sức cần thiết. Hiện nay, khi các ngân hàng Việt Nam còn chưa cung cấp nghiệp vụ này, các doanh nghiệp có thể thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Trung tâm Thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để có các thông tin đáng tin cậy về đối tác làm ăn. Các doanh nghiệp có thể nhờ các ngân hàng phục vụ mình tìm hiểu đối tác kinh doanh thông qua hệ thống các ngân hàng đại lý tại nước ngoài.
Trong quan hệ mua bán với nước ngoài cần phải tuân thủ thông lệ quốc tế không trái với luật pháp quy định của Việt Nam, không nên vì lợi nhuận ngắn hạn mà làm ăn thiếu trung thực, đánh mất uy tín của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung, gây thiệt hại cho lợi ích lâu dài của quốc gia cũng như của doanh nghiệp.
ã. Tranh thủ sự tư vấn của các ngân hàng khác
Để tránh rủi ro cho mình, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam ngoài việc tranh thủ sự hỗ trợ về vốn từ các ngân hàng thương mại còn cần phải dựa vào các ngân hàng để nắm bắt thêm thông tin, xin tư vấn thêm về các điều khoản thanh toán quốc tế trước khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Ngay cả khi có các tranh chấp xảy ra thì ngân hàng cũng có thể hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại cho khách hàng Việt Nam nhất là thanh toán được thực hiện bằng L/C.
Tóm lại, trên đây là một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ của Ngân hàng VCB. Việc phát triển của ngành ngân hàng nói chung và của Ngân hàng VCB nói riêng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế cũng như mọi lĩnh vực hoạt động của ngân hàng đều có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước và góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đã để ra.
Kết luận
Hoạt động thanh toán quốc tế đặc biệt là hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là cơ sở để hoà nhập và bình đẳng trên thị trường thương mại quốc tế. Bởi vậy, thanh toán tín dụng chứng từ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng nói chung và của Ngân hàng VCB nói riêng.
Nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ nhìn chung còn có nhiều điều mới mẻ đối với các ngân hàng và các doanh nghiệp Việt Nam do chúng ta chỉ vừa mới chuyển sang “nền kinh tế mở” khoảng hơn một thập niên lại đây. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ vẫn đã và đang được chú trọng phát triển tại Ngân hàng VCB và được coi là một trong những hoạt động chủ yếu tại ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này không phải là không có những tồn tại. Mặc dù hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng tín dụng thư đã đạt được những thành công nhất định tuy nhiên không thể phủ nhận được những khó khăn mà phương thức này đang gặp phải. Nó vẫn là mối đe dọa đối với ngân hàng và cả các khách hàng.
Trước tình hình đó cùng với sức ép cạnh tranh của các ngân hàng khác, Ngân hàng VCB cần phải nỗ lực hơn nữa để phát huy thế mạnh và những hiệu quả ngân hàng đã đạt được trong kinh doanh đối ngoại, giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng, nâng cao vị thế của ngân hàng.Việc thực thi các giải pháp nâng cao hiệu quả trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ luôn được Ngân hàng VCB coi là nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, việc vận dụng như thế nào trong thực tế không dễ chút nào, bởi lẽ nó sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của khách hàng và nhiều khi vận dụng quá chặt chẽ vô tình sẽ phá vỡ mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa khách hàng và ngân hàng. Do đó, vận dụng các giải pháp nâng cao hiệu quả một cách thích hợp chính là nghệ thuật kinh doanh của ngân hàng.
Với mục tiêu tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất kết hợp hài hoà lợi ích của các ngân hàng thương mại cũng như của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, khoá luận này đã tập trung nghiên cứu sâu về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, hệ thống hoá những lý luận tổng quan về phương thức tín dụng chứng từ, phân tích đánh giá tình hình thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng VCB trong 5 năm gần đây (1997 - 2001). Đồng thời khoá luận cũng nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng VCB dưới các góc độ khác nhau: từ bản thân Ngân hàng VCB, từ phía khách hàng và các nguyên nhân từ môi trường vĩ mô. Qua đó, khoá luận rút ra được các bài học một phần nhằm phát huy những lợi thế của phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế, đề ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng trong thanh toán xuất nhập khẩu, mặt khác đưa ra một số kiến nghị để khắc phục và giải quyết các tồn tại trong hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương thức này trong thời gian tới.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS.TS Nguyễn Đức Dỵ đã hướng dẫn em hoàn thành khoá luận. Xin gửi lời cảm ơn tới các cô chú Phòng Thanh toán quốc tế, Ngân hàng VCB đã nhiệt tình giúp đỡ cả về lý luận và thực tiễn để khoá luận được nhanh chóng hoàn thành.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình thanh toán Quốc tế trong ngoại thương - PGS. NGƯT Đinh Xuân Trình - Nhà xuất bản giáo dục - trường Đại học ngoại thương Hà Nội 1998.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ : Hướng dẫn sử dụng các chứng từ thông dụng trong xuất nhập khẩu hàng hoá - PGS. NGƯT Đinh Xuân Trình - Hà Nội , 1995.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ : Các tranh chấp thường phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩuh giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài và cách giải quyết - PGS, PTS Hoàng Ngọc Thiết. Hà Nội, 1999.
Luật các tổ chức tín dụng - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - 1998.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic S. Mishkin - Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật 1999.
Báo cáo thường niên 1998, 1999, 2000, 2001 Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Báo cáo hoạt động kinh doanh 1998, 1999, 2000, 2001 - Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội.
Tạp chí Credit Insight quý 2/2001
Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ và nhờ thu kèm chứng từ - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTN.doc
- B×a.doc