Chiến lược phát triển theo mô hình “đàn ngỗng bay” những năm trước đây ở Đông Á đã làm cho thương mại và đầu tư mở rộng nhanh chóng, tạo nên tình trạng phụ thuộc rất cao giữa các nền kinh tế trong khu vực. Kể từ đó cho đến nay, trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á 1997, ảnh hưởng ngày càng lớn của EU và NAFTA đối với khu vực và đặc biệt là xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì sự phụ thuộc này càng trở nên chặt chẽ hơn bao giờ hết. Chính vì vậy sự ra đời và phát triển của ngày càng nhiều các liên kết như ASEAN, ASEAN + 3, ASEAN + 1là tất yếu. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc cũng nằm trong số đó. Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác song phương Việt Nam – Hàn Quốc em đã chọn đề tài: “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trong xu thế hội nhập hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của bài viết là nghiên cứu chính sách quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được cụ thể hoá trong quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc, tổng kết và đánh giá thực tiễn quan hệ này thời gian qua, từ đó xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Do tính chất hạn chế của khoá luận nên bài viết chỉ xin đề cập đến quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trên lĩnh vực kinh tế - thương mại trong đó bao gồm quan hệ mậu dịch, quan hệ đầu tư, quan hệ xuất khẩu lao động.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được để tài này, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh.
Bố cục của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được trình bày thành 3 chương:
Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc giai đoạn 1992 – 2003.
Chương III: Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc.
87 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hàn Quốc trong xu thế hội nhập hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỷ, Pháp nhập siêu 4,4 tỷ, Anh nhập siêu 53,6 tỷ, Hồng Kông nhập siêu 11,2 tỷ, Mêhicô nhập siêu 16,3 tỷ. Cách đây mấy năm, Hàn Quốc còn giữ kỷ lục thế giới về số năm kinh tế tăng trưởng liên tục lên đến 20 năm, nay mới chịu nhường kỷ lục đó cho Trung Quốc.
Trong quan hệ thương mại Việt Nam vẫn trong tình trạng nhập siêu. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc chủ yếu vẫn là hàng sơ chế, công nghệ thấp trong khi đó vẫn phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, hoá chất…từ Hàn Quốc để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nguyên nhân chủ yếu là do hàng xuất khẩu của Việt Nam chất lượng còn thấp lại không ổn định nên doanh nhân Hàn Quốc thường mua qua Hồng Kông hoặc tìm đến Thái Lan. Trong số 10 mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất của Hàn Quốc thì có tới 8 mặt hàng Việt Nam chưa sản xuất được như linh kiện bán dẫn, máy móc, kim loại quý, sản phẩm hoá dầu, thiết bị chế tạo bán dẫn… Mặt khác bản thân thị trường Hàn Quốc cũng rất kén chọn hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng lương, thực phẩm. Hầu hết những mặt hàng này khi nhập khẩu vào Hàn Quốc phải qua kiểm dịch rất chặt chẽ, phải có báo cáo đầy đủ về quá trình nuôi trồng, bảo quản… và chỉ sau khi nhận được giấy phép của cơ quan có thẩm quyền mới có thể nhập vào Hàn Quốc. Nhật Bản chấp nhận độ đạm phân huỷ là 12% trong khi Hàn Quốc chỉ chấp nhận 8%. Đây thực sự là một thách thức cho hàng hoá Việt Nam khi mà trình độ sản xuất trong nước còn rất hạn chế. Hơn thế nữa thị trường Hàn Quốc còn “nổi tiếng” với đặc điểm được bảo hộ mạnh, có những hàng rào thuế quan ngặt nghèo mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa vượt qua được. Đến thời điểm này, Hàn Quốc vẫn áp dụng chế độ hạn ngạch đối với một số mặt hàng mà Việt Nam có khả năng xuất khẩu với mức thuế suất còn rất cao so với một số thị trường khác trên thế giới. Đơn cử như đối với mặt hàng rau quả, theo Bộ Thương mại, mức thuế suất ưu đãi nhập khẩu mặt hàng này của Hàn Quốc đối với mức hạn ngạch mà Hàn Quốc cho phép xê dịch từ 28% đến 30%. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vượt mức hạn ngạch cho phép thì vẫn được nhập khẩu vào thị trường này nhưng sẽ phải chịu một mức thuế suất khoảng từ 300% đến 600%. Với một mức thuế suất cao như vậy thì hàng hoá Việt Nam có mặt tại thị trường còn ít cũng là điều dễ hiểu. Không những thế khi vào thị trường Hàn Quốc, hàng hoá của Việt Nam còn phải cạnh tranh với hàng hoá của nhiều nước như Thái Lan, Malayxia, Hồng Kông…đặc biệt là hàng của Trung Quốc. Trong khi đó, Việt Nam lại nhập từ Hàn Quốc chủ yếu là các loại máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu có giá trị cao.
Các doanh nghiệp Hàn Quốc thường phàn nàn rằng thiếu thông tin của doanh nghiệp Việt Nam (về mặt hàng, tay nghề, kỹ thuật, kim ngạch của doanh nghiệp, khả năng cung cấp nguồn hàng, thời gian giao hàng, giá dự kiến…) hoặc nếu có thì phần lớn lại bằng tiếng Việt và chỉ giới thiệu chung chung như ‘xuất khẩu nông sản’, ‘thủ công mỹ nghệ’...nên rất khó làm việc. Doanh nghiệp Hàn Quốc có ấn tượng rất tốt với việc giới thiệu bằng Catalog song rất ít doanh nghiệp Việt Nam chú ý tới cách giới thiệu này. Đây cũng là nhược điểm về trình độ nghiệp vụ marketing mà các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm có biện pháp khắc phục. Thêm vào đó hiện tượng tráo hàng xấu nếu có điều kiện, nợ nần dây dưa và sự thiên vị đôi khi khá vô lý đối với các doanh nghiệp Việt Nam đã khiến các doanh nghiệp Hàn Quốc thêm nản lòng.
Trong quan hệ đầu tư, tuy Hàn Quốc là một nước có vốn đầu tư lớn tại Việt Nam nhưng thực tế ngoài những lợi ích kinh tế mà hai bên thu được vẫn còn những khó khăn nhất định. Khó khăn đầu tiên là hệ thống luật pháp của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện. Mặc dù được sửa đổi và bổ sung liên tục từ năm 1986 đến nay nhưng các văn bản pháp luật của Việt Nam có liên quan hai nước vẫn chưa được chặt chẽ và ổn định. Các chính sách, văn bản dưới luật về đầu tư nước ngoài quá nhiều lại thay đổi liên tục nên không tránh khỏi những thiếu sót. Chính những hệ thống văn bản này đã gây khó khăn, trở ngại rất lớn cả cho các nhà đầu tư Việt Nam cũng như Hàn Quốc muốn tìm hiểu đầu tư vào nhau. Việt Nam đang cố gắng cải thiện môi trường đầu tư và đưa ra các chính sách thu hút đầu tư hơn nữa nhưng các thủ tục hành chính xét duyệt và thẩm định các dự án đầu tư vẫn còn chậm chạp và phiền hà, chưa thoả mãn được yêu cầu của các nhà đầu tư. Trên thực tế, một số dự án đã không được tiến hành hoặc phải thu hồi giấy phép đầu tư.
Cơ sở hạ tầng nước ta còn khó khăn, thiếu thốn và lạc hậu gây trở ngại cho quá trình đầu tư. Bên cạnh đó cơ chế và trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam và Hàn Quốc còn có sự chênh lệch. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá nhưng phần lớn các công ty Việt Nam tham gia liên doanh với Hàn Quốc vẫn chưa thoát hẳn cơ chế bao cấp. Trong khi đó Hàn Quốc đã hình thành được một đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, người lao động có tác phong công nghiệp hiện đại, có ý thức kỷ luật cao. Do đó trong các công ty liên doanh của Việt Nam với Hàn Quốc đã xảy ra tình trạng xung đột giữa cán bộ công nhân Việt Nam với chủ đầu tư Hàn Quốc. Đây là vấn đề nhức nhối cần được quan tâm giải quyết thoả đáng theo đúng pháp luật Việt Nam.
Năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á xảy ra đã gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế các nước trong khu vực trong đó có Hàn Quốc. Lạm phát tăng nhanh, nhiều công ty rơi vào phá sản đã buộc các Chaebol Hàn Quốc ở nước ngoài phải rút vốn về tập trung cải cách cơ cấu, thu hẹp quy mô nhằm giải quyết những bê bối tài chính. Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam trong thời gian này do đó giảm mạnh, nhiều dự án phải tạm hoãn hoặc không thực hiện được. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng trưởng âm cũng là điều không thể tránh khỏi. Cuộc khủng hoảng đã thực sự gây khó khăn cho quan hệ giữa hai nước trong một giai đoạn nhất định nhưng đồng thời cũng giúp hai nước nói riêng và các nước trong khu vực nói chung nhận ra được nhược điểm trong hợp tác khu vực, các nước không thể phối hợp cùng nhau để ngăn chặn khủng hoảng. Hiện nay trong tiến trình phục hồi kinh tế, các nước đều nhận thấy rằng tình trạng suy giảm kinh tế ở bất kì một nước nào trong khu vực đều có thể gây ra những tác động ở mọi mức độ khác nhau tới mọi quốc gia Đông Nam á. Do đó hợp tác khu vực nói chung và hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc nói riêng càng cần được thúc đẩy hơn bao giờ hết.
Chương III:
Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hàn Quốc
I. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trong thời gian tới
Có thể nói quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian qua đã đạt được những thành công nhất định, đem lại nhiều lợi ích cho cả hai bên, nhất là đối với Việt Nam. Sự hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực đã giúp bổ sung nguồn lực cho nền kinh tế Việt Nam, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó việc phát triển quan hệ hợp tác với Hàn Quốc còn tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó trong thời gian tới việc tăng cường quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc là hết sức cần thiết. Một số định hướng dưới đây sẽ giúp nâng cao hiệu quả của sự hợp tác này:
Thứ nhất, cần ổn định và không ngừng củng cố quan hệ đối ngoại giữa hai nước trên cơ sở độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ. Đây là một điều hết sức có ý nghĩa vì trong thời đại ngày nay “ngoại giao cấp cao” thường góp phần rất quan trọng vào việc gắn bó quan hệ giữa các quốc gia và giải quyết những vấn đề trọng đại trong quan hệ quốc tế. Không có sự ổn định vững chắc trong quan hệ đối ngoại thì sẽ không có những mối quan hệ hợp tác khác, sẽ không thể có sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Điều này lại càng có ý nghĩa với Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo và đang nỗ lực thoát khỏi nguy cơ tụt hậu.
Thứ hai, với xuất phát điểm thấp, vốn và công nghệ trở thành hai nguồn lực khan hiếm nhất, có vai trò quyết định trong việc đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh và chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ ở Việt Nam. Thực tế ở nhiều nước cho thấy nhập khẩu công nghệ chính là con đường ngắn nhất để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong khi đó xu hướng tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Hàn Quốc đã làm nảy sinh nhu cầu chuyển giao vốn và công nghệ cho những nước đi sau, trong đó có Việt Nam. Sự phù hợp về nhu cầu này là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước, đặc biệt là quan hệ đầu tư. Khi đó Việt Nam không những phần nào giải quyết vấn đề thiếu vốn cho phát triển kinh tế mà còn có thể tiếp cận được với những công nghệ hiện đại, học hỏi được kinh nghiệm của các nhà đầu tư Hàn Quốc phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do đó trong thời gian tới cần tích cực thúc đẩy mối quan hệ này trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. Riêng phía Việt Nam cần chủ động cải thiện môi trường đầu tư theo hướng phù hợp nhằm tăng cường thu hút FDI của Hàn Quốc.
Thứ ba, trong tình hình hiện nay vấn đề thị trường có tầm quan trọng rất lớn. Nó quyết định cả đầu vào lẫn đầu ra của sản xuất. Do trình độ phát triển kinh tế chưa cao, nước ta còn phải nhập khẩu một lượng đáng kể máy móc, thiết bị, vật tư nên việc nhập khẩu từ thị trường nào có lợi nhất về chất lượng và giá cả sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Trong khi đó Hàn Quốc lại là nguồn cung cấp nguyên vật liệu giá rẻ, chất lượng tốt, hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu của Việt Nam. Nhưng vấn đề này càng trở nên gay gắt hơn khi đi liền với bước chuyển cơ chế, đó là định hướng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu là phải tạo ra thị trường "chỗ dựa đầu tiên" làm nền tảng cho chiến lược xuất khẩu. Đối với Việt Nam, vấn đề này đặc biệt gay gắt, bởi lẽ nước ta phải chuyển sang một thị trường về cơ bản là mới, lại “khó tính” chứ không như những thị trường truyền thống trước đây, trong khi năng lực cạnh tranh của nền kinh tế lại rất thấp. Có thể nói hợp tác thương mại với Hàn Quốc vừa tạo ra điều kiện thuận lợi nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta những thách thức phải vượt qua. Do vậy cần tiếp tục phát triển mối quan hệ hợp tác thương mại với Hàn Quốc theo hướng tích cực nhập khẩu các nguyên vật liệu cần thiết cho phát triển kinh tế và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Cần chủ động chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Hàn Quốc, giảm mạnh các sản phẩm thô và sơ chế. Mục tiêu đến 2005 là hạ tỷ trọng của nhóm nguyên liệu thô chỉ chiếm tối đa là 25 - 28% kim ngạch xuất khẩu.
Thứ tư, việc hợp tác với Hàn Quốc là một trong những giải pháp quan trọng giúp chúng ta giải quyết vấn đề quá độ lao động. Đây vốn là vấn đề rất khó khăn cho bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là trong bước chuyển từ nền kinh tế nông thôn - nông nghiệp sang nền kinh tế thị trường - công nghiệp. Quả thực, trong điều kiện của Việt Nam, hợp tác kinh tế với Hàn Quốc nói riêng và các nền kinh tế khác nói chung đều hướng tới một mục tiêu kép: vừa tận dụng được tính kinh tế của lao động (khả năng sử dụng nguồn lao động dồi dào và rẻ), vừa giải quyết được một trong những vấn đề nan giải nhất, cũng là một bất lợi thế phát triển đang đặt ra là: dư thừa lao động, thất nghiệp và thiếu việc làm.
Giảm thất nghiệp, tạo thêm việc làm là một trong những vấn đề kinh tế cấp bách hàng đầu của Việt Nam, nhất là khi đặt trong quan hệ với định hướng xã hội chủ nghĩa cho toàn bộ sự nghiệp phát triển kinh tế. Trong khi đó, lợi thế so sánh lớn nhất mà nền kinh tế Việt Nam có được là nguồn lao động. Không tận dụng tốt lợi thế này có nghĩa là lãng phí một thế mạnh trong hoàn cảnh còn nghèo, là hãm chậm, thậm chí triệt tiêu cơ hội có thể "cất cánh nhanh". Việc thiết lập nhanh chóng và rộng khắp các quan hệ kinh tế khu vực và trên thế giới, đặc biệt là quan hệ với Hàn Quốc cho phép chúng ta hạn chế điểm bất lợi, đồng thời phát huy lợi thế trong trong quan hệ lao động.
II. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc
Trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc thời gian qua, bên cạnh những kết quả tốt đẹp mà hai bên đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số khó khăn. Để góp phần khắc phục những khó khăn này và thực hiện có hiệu quả định hướng hợp tác giữa hai nước trên đây, tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
1. Giải pháp về môi trường, thể chế
Giữ vững sự ổn định chính trị - kinh tế - xã hội, kiên trì đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế, hoàn thiện cơ chế thị trường, hình thành cấu trúc thể chế kinh tế mới là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sự hợp tác kinh tế của Việt Nam với các nước nói chung và với Hàn Quốc nói riêng.
ổn định chính trị là điều kiện cơ bản để ổn định các chính sách kinh tế và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta theo hướng đổi mới, là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống xã hội. Tình hình chính trị trong nước có ổn định, các nước khác trong đó có Hàn Quốc mới tin tưởng vào đường lối đổi mới của Việt Nam; yên tâm làm ăn, kinh doanh, hợp tác với Việt Nam trên cơ sở cùng có lợi.
Thực tế, Việt Nam được giới doanh nghiệp Châu á - TBD đánh giá là nước đứng đầu khu vực về an ninh tốt, xã hội ổn định, ít biến động. Đây là một lợi thế trong hợp tác kinh tế quốc tế, đặc biệt là thiết lập quan hệ kinh tế đối ngoại và thu hút FDI. Tuy nhiên, không vì thế mà Việt Nam lơ là công tác này. Để giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị, Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tư tưởng. Yếu tố quyết định sự thành công, đó là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên Chủ nghĩa Xã hội.
Cùng với sự ổn định là chính sách ngoại giao mềm dẻo, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, đa phương hoá và đa dạng hoá trong quan hệ, với khẩu hiệu “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển”. Chính việc mở rộng quan hệ ngoại giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế song phương và đa phương, đặc biệt là quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc.
Bên cạnh đó chúng ta cần tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế tiến tới xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Có như thế Việt Nam mới từng bước rút ngắn khoảng cách với Hàn Quốc, trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Hàn Quốc góp phần thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc ngày càng sâu sắc và bền chặt hơn.
2. Giải pháp cho quan hệ thương mại
2.1 Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc
Khi thâm nhập thị trường Hàn Quốc hàng hoá của Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trong đó phải đặc biệt kể đến Trung Quốc, do đó để có thể trụ vững trên thị trường này, việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Trước hết chúng ta cần xác định rõ những mặt hàng nào và số lượng bao nhiêu có thể thâm nhập thị trường Hàn Quốc. Dệt may, giày dép, hải sản, dược liệu, than đá và rau quả thực sự là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng trong đó riêng mặt hàng rau quả Hàn Quốc mới chỉ biết đến hàng Thái Lan, Philippines, Malaysia. Bên cạnh đó tiềm năng nhập khẩu thuỷ sản của thị trường Hàn Quốc là rất lớn, thậm chí không thua kém thị trường EU, trong khi đó điều kiện bán hàng lại khá dễ dàng. Đã có nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đến Thương vụ Việt Nam tìm thông tin về các nhà xuất khẩu thủy sản của ta. Thêm một lợi thế nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam khi một số công ty của Hàn Quốc đang nhập khẩu hàng Trung Quốc muốn chuyển sang mua hàng Việt Nam nhằm đa dạng hoá nguồn cung cấp, tránh phụ thuộc vào một thị trường để giảm thiểu rủi ro. Do đó trong thời gian tới cần duy trì và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng này. Tuy nhiên trong đó cũng cần lưu ý tăng cường xuất khẩu những sản phẩm chế biến vừa để nâng cao giá trị xuất khẩu, vừa để khắc phục tính bất ổn của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam, tạo niềm tin cho các nhà nhập khẩu Hàn Quốc.
Ngoài ra chúng ta phải không ngừng ổn định và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu để đảm bảo uy tín với bạn hàng. Đầu tư cải tiến công nghệ do đó cần được các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện mà trước hết là tăng cường khâu chế biến để tiến tới bán những gì thị trường cần chứ không phải những gì ta có. Cần đặc biệt chú ý nâng cao chất lượng hàng nông lâm sản, bởi thị trường Hàn Quốc vốn rất khắt khe đối với việc nhập khẩu những mặt hàng này. Việc kí kết thoả thuận Kiểm dịch thực vật tháng 9 năm 2003 vừa qua và thoả ước về Kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thuỷ sản càng làm tăng thêm cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa hàng vào thị trường này. Tuy nhiên cũng cần nỗ lực khắc phục ảnh hưởng của thời tiết, thực hiện thâm canh, tăng vụ, đầu tư nghiên cứu phát triển giống mới có chất lượng cao kết hợp với việc kiểm tra chất lượng sản phẩm bắt buộc. Có như thế vị trí hàng hoá Việt Nam trên trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Hàn Quốc nói riêng mới được cải thiện đáng kể.
Ngoài ra để nâng cao khả năng cạnh tranh chúng ta cũng cần quan tâm đến đặc điểm của người tiêu dùng Hàn Quốc. Do những thay đổi của lối sống, xu thế tiêu dùng của người Hàn Quốc những năm gần đây có nhiều nét mới. Điều dễ nhận thấy là sự gia tăng tiêu dùng những thực phẩm chất lượng cao, đồ ăn liền, giảm tiêu dùng gạo và lúa mì, tăng tiêu dùng những sản phẩm lâu bền và đắt tiền, tăng nhu cầu về dịch vụ, đặc biệt rất nhạy cảm với vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm và thực phẩm biến đổi gien. Đối với các sản phẩm thực phẩm doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý tới khẩu vị của người dân Hàn Quốc ví dụ như cá khô, mực khô, mì ăn liền phải tẩm cay hơn…Bên cạnh yếu tố chất lượng và giá cả người Hàn Quốc còn rất quan tâm đến hình thức sản phẩm và dịch vụ khách hàng. Đây cũng chính là điểm yếu của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng hoá xuất khẩu nói riêng. Do đó cần tích cực đầu tư cải tiến bao bì, mẫu mã sản phẩm cũng như đáp ứng tốt dịch vụ sau bán hàng cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Hàn Quốc. Có như thế hàng hoá Việt Nam không những có thể đứng vững trên thị trường Hàn Quốc mà còn có thể cạnh tranh được với hàng Thái Lan, Trung Quốc trên đất Hàn.
2.2 Xây dựng phương thức bán hàng hiệu quả
Trong xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Hàn Quốc bên cạnh các yếu tố như sản phẩm, chất lượng sản phẩm thì phương thức bán hàng cũng giữ một vai trò quan trọng. Việc xây dựng một phương thức bán hàng hiệu quả sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường Hàn Quốc từ đó góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Vì doanh nghiệp Hàn Quốc chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên họ thường mua những lô hàng nhỏ, do đó trong thời gian tới chúng ta cần áp dụng phương thức bán hàng linh hoạt. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần xem xét phương thức sử dụng đại lý bán hàng là các công ty Hàn Quốc thuộc thành viên của Hiệp hội các nhà nhập khẩu. Để xuất khẩu sang thị trường này đây là phương thức phổ biến nhất vì 90% (khoảng trên 100 tỷ USD) kim ngạch nhập khẩu của Hàn Quốc là thông qua hiệp hội này. Khi xuất khẩu vào Hàn Quốc doanh nghiệp trong nước nên sử dụng các đại lý ở đây, không nên giữ thói quen mua đứt bán đoạn.
Để có thể xuất khẩu hàng nông sản nói riêng và những mặt hàng khác nói chung vào Hàn Quốc các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường tham gia tham gia đấu thầu tại thị trường này. Đây là một trong những phương thức xuất khẩu rất có hiệu quả nhưng chưa được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm thực hiện. Trên thực tế đến nay mới chỉ có các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam tham gia đấu thầu còn các doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm khác có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa nắm rõ quy định của đấu thầu và chưa tham gia hoạt động này. Hàng năm, Hàn Quốc đều tổ chức các đợt đấu thầu nhập khẩu các mặt hàng nông sản như gạo, đỗ tương, đỗ đỏ, dầu vừng…vốn là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đặt quan hệ chặt chẽ với các nhà nhập khẩu Hàn Quốc, cung cấp giá và mẫu hàng để tham gia đấu thầu. Có như thế doanh nghiệp Việt Nam mới có thể tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này.
Thương mại đổi hàng hai chiều trong đó áp dụng những ràng buộc về xuất nhập khẩu cũng là một phương thức nên khuyến khích thực hiện. Chính phủ cần đàm phán để Hàn Quốc mở cửa hơn nữa cho hàng hoá Việt Nam đặc biệt là mặt hàng thịt và gạo, giảm bớt sự mất cân bằng trong cán cân thương mại giữa hai nước.
Bên cạnh các phương thức bán hàng nói trên các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nghiên cứu và từng bước chuẩn bị để tiến tới áp dụng thương mại điện tử hay còn gọi là bán hàng qua mạng với Hàn Quốc. Đây là một phương thức bán hàng rất có hiệu quả, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Tuy hiện tại phương thức này chưa phát triển rộng rãi ở Việt Nam nhưng trong tương lai gần đây sẽ là phương thức giao dịch thương mại phổ biến và thuận tiện nhất. Để làm được điều này doanh nghiệp Việt Nam cần mạnh dạn đầu tư về cả nhân lực - những chuyên gia về công nghệ điện tử và vật lực - máy tính, phần mềm máy tính…để việc thực hiện đem lại hiệu quả cao.
2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
Trong quan hệ thương mại giữa hai nước các doanh nghiệp Hàn Quốc còn hiểu rất ít về thị trường hàng hoá Việt Nam. Đây sẽ là điểm bất lợi cho hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường này. Do đó để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần đặc biệt chú trọng tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại. Hoạt động này không những sẽ giúp cho việc quảng bá sản phẩm xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hàn Quốc mà còn giúp Việt Nam có điều kiện tìm hiểu sâu hơn thị trường này. Hiện nay cả nước đã có hơn 23000 doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nhưng phần lớn chưa có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về thị trường nước ngoài trong đó có thị trường Hàn Quốc.
Về phía Chính phủ để làm được điều này vai trò của các tham tán thương mại là rất quan trọng. Trực tiếp hoạt động trên đất nước Hàn Quốc, họ phải là tác nhân gắn kết các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường này. Họ phải tích cực cung cấp những thông tin hữu ích về doanh nghiệp Hàn Quốc, về đặc điểm thị trường Hàn Quốc tới doanh nghiệp Việt Nam và ngược lại đem đến cho doanh nghiệp Hàn Quốc những hiểu biết về doanh nghiệp Việt Nam, hàng hoá Việt Nam. Ngoài ra Bộ Thương mại còn có thể tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp hai nước để họ tìm hiểu nhau, trao đổi kinh nghiệm, để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình tiến tới hợp tác kinh doanh. Những cuộc tiếp xúc thường xuyên kiểu này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả hai bên. Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp của các tổ chức xúc tiến thương mại, nhất là của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Cần sớm triển khai các hoạt động như xây dựng quảng bá hình ảnh quốc gia thông qua thương hiệu sản phẩm đặc trưng, thành lập các trung tâm thiết kế, tạo mẫu sản phẩm, nhãn mác, bao bì, các trung tâm hội chợ triển lãm thương mại tại các thành phố lớn trong nước và trên thị trường Hàn Quốc. Trong thời gian tới chúng ta có thể thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở Hàn Quốc vừa để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đồng thời là nơi quảng bá hình ảnh Việt Nam. Ngoài việc giới thiệu sản phẩm các trung tâm còn làm nhiệm vụ thu thập và xử lý thông tin thương mại, thiết lập quan hệ với các tổ chức xúc tiến thương mại Hàn Quốc, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hội chợ triển lãm được tổ chức tại Hàn Quốc. Doanh nghiệp nào có năng lực có thể cử người sang làm đại diện như là hình thức chính phủ và doanh nghiệp cùng tham gia. Trong năm đầu doanh nghiệp tham gia sẽ không phải chịu bất kì khoản phí nào, những năm sau có thể từng bước đóng góp một phần. Hơn lúc nào hết việc, chọn lựa, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu kiên định về chính trị, tư tưởng, thành thạo về nghiệp vụ, tinh thông về ngoại ngữ và các phương tiện kinh doanh hiện đại, trong sạch về phẩm chất đạo đức là nhiệm vụ sống còn, cần được các cấp, các ngành quan tâm thoả đáng.
Về phía các doanh nghiệp cũng phải tăng cường khâu quảng cáo tiếp thị để có thể trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển mạnh mẽ của mạng may tính toàn cầu việc trao đổi thông tin được thực hiện hết sức nhanh chóng và hiệu quả. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam quảng bá sản phẩm của mình tới thị trường Hàn Quốc. Với một khoản phí không nhiều các doanh nghiệp Việt Nam có thể tự xây dựng những trang Web giới thiệu đầy đủ thông tin về công ty, về sản phẩm của mình. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tận dụng vai trò của cơ quan Thương vụ Việt Nam ở Hàn Quốc. Đây là biện pháp mà hiện nay được rất ít doanh nghiệp Việt Nam áp dụng trong khi các doanh nghiệp Hàn Quốc đã tích cực triệt để tiến hành. Theo tham tán thương mại của Việt Nam tại Hàn Quốc mỗi ngày có tới 4 - 5 doanh nghiệp Hàn Quốc điện thoại và fax tới Thương vụ hỏi mua hàng Việt Nam và theo hướng dẫn của Thương vụ nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đã trực tiếp sang Việt Nam tìm đối tác. Trong khi đó Thương vụ nhận được rất ít yêu cầu hoặc chào hàng của các công ty Việt Nam nên việc giới thiệu của Thương vụ chưa thật sự đạt hiệu quả mong muốn. Vẫn biết khả năng hạn hẹp về tài chính ít nhiều chi phối tới công tác tiếp thị của các doanh nghiệp xuất khẩu song cũng cần phải nhìn nhận thực tế rằng không ít doanh nghiệp làm ăn còn mang tính thời vụ nên bị động và chưa có biện pháp thích hợp để đeo bám, duy trì thị trường xuất khẩu. Ngoài ra khi liên hệ với các nhà nhập khẩu Hàn Quốc doanh nghiệp Việt Nam nên gửi catalogue, brochure, hàng mẫu và bảng giá để giới thiệu về công ty mình. Khi đã có mối liên hệ bằng việc trao đổi những thông tin cần thiết ban đầu, doanh nghiệp Việt Nam nên sang Hàn Quốc và mang theo hàng mẫu cũng như thông tin cụ thể hơn như bảng giá chào xác định, số lượng có thể giao để thoả thuận hợp đồng.
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư
Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đây thực sự là nguồn lực bổ sung hiệu quả cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là cầu nối thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước đầu tư trong đó có Hàn Quốc. Mặc dù môi trường đầu tư ở Việt Nam trong mấy năm gần đây đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập gây trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hàn Quốc nói riêng. Hiện nay chỉ số thu hút FDI của Việt Nam vẫn rất khiêm tốn, xếp thứ 71/140 nước (so với 10 năm trước đây là 115/140 nước). Do đó để tăng cường quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm dẻo
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng như các sản phẩm; tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với mức lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được đảm bảo hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước và vào những nơi mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hoá" sản phẩm và công nghệ cao hơn.
Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước chính phủ đã lập ra các Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài để hỗ trợ cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất là FDI tư nhân chảy vào, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng. Như vậy, một khi các rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào nhiều và ổn định. Ngược lại tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số tổng hợp của các yếu tố như: rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù có những ưu đãi tài chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn các nhà đầu tư Hàn Quốc vốn năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới.
3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và một địa phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống thông tin liên lạc viễn thông hiện đại; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, quảng cáo, kỹ thuật...) phát triển rộng khắp và có chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài thuận tiện trong kinh doanh, giảm chi phí vận chuyển từ đó làm tăng hiệu quả đầu tư. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến các luồng FDI đổ vào Việt Nam; nếu giải quyết được ổn thoả những vướng mắc của lĩnh vực này, cụ thể là việc giải phóng mặt bằng cho các dự án thì các nhà đầu tư sẽ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn nữa.
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà đó còn là cơ hội để chúng ta có thể và có khả năng thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông qua thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai).
3.3 Cải cách thủ tục hành chính
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Đây cũng chính là điểm yếu làm giảm lợi thế cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của quốc gia. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách với những thủ tục hành chính, những quy định pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán được thực hiện bởi những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Để có thể xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn thoả mãn các tiêu chí trên, trước hết chính phủ Việt Nam cần coi thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2000 - 2010 là ưu tiên đặc biệt. Muốn vậy cần tạo ra sự hấp dẫn đặc biệt về cạnh tranh với các nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia...vốn là những thị trường đầu tư truyền thống của Hàn Quốc nhằm thu hút lượng vốn FDI trước khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế khi hội nhập đầy đủ với thế giới. Các chính sách ưu đãi đầu tư phải được cụ thể hoá. Các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả các dự án đầu tư mở rộng, chính sách một giá, miễn giảm tiền thuê đất... cần được sửa đổi nhanh chóng linh hoạt. Không nên quy định thời gian tồn tại của dự án. Không vì sự vi phạm của một vài doanh nghiệp hay một vài nhà đầu tư mà thắt chặt thêm các quy định luật lệ làm khó khăn hơn cho số đông các doanh nghiệp và nhà đầu tư khác.
Mặt khác cần xây dựng quy hoạch tổng thể đầu tư ở Việt Nam. Nên chăng chính phủ nên lập bản đồ quy hoạch về đầu tư, kể cả đầu tư trong và ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu; chỉ hạn chế về số lượng, quy mô dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn cung cầu trên thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và thiệt hại cho nhà đầu tư. Chính phủ Việt Nam cần dành sự quan tâm hơn nữa đến các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam vì theo kinh nghiệm các nhà đầu tư mới trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam đều tham khảo ý kiến nhận xét của lãnh đạo các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Họ coi đánh giá, nhận xét này là khách quan và là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đi đến quyết định cuối cùng. Vì vậy, chính phủ cần quan tâm giải quyết những vướng mắc, khó khăn và cùng các doanh nghiệp này tháo gỡ ngay các rào cản. Cụ thể như hiện nay các nhà đầu tư, nhà quản lý nước ngoài chỉ được cấp visa có thời hạn 6 tháng (được gia hạn khi hết hạn). Theo họ thời hạn này là quá ngắn trong khi đó việc xin gia hạn lại là cả một vấn đề, gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Do đó chính phủ nên quan tâm nghiên cứu kéo dài thời hạn này, có thể là 1 năm để các nhà đầu tư yên tâm hợp tác đầu tư tại Việt Nam.
3.4. Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện liên doanh, liên kết có hiệu quả
Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là một trong những điều kiện hàng đầu để một nước trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba cùng với sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ. ở Việt Nam lao động giản đơn dư thừa quá nhiều, trong khi đó lại thiếu các chuyên viên có trình độ kỹ thuật, quản lý cao. Do cung không đủ cầu nên tiền lương trả rất cao làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Trong khi đó, Hàn Quốc nổi tiếng là nước có lực lượng lao động quy củ vào bậc nhất thế giới. Những bất cập của lao động Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến quyết định bỏ vốn đầu tư của những nhà đầu tư Hàn Quốc.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế.
4. Giải pháp cho quan hệ xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một nội dung quan trọng của quốc gia về việc làm, là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần tăng nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong khi đó Hàn Quốc được biết đến như là một thị trường nhập khẩu lao động tiềm năng. Đây là thị trường tiếp nhận số lượng khá lớn lao động từ 14 nước Châu á theo hình thức tu nghiệp sinh, trong đó có Việt Nam. Do vậy để tăng cường xuất khẩu lao động sang thị trường này chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
4.1. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
Chính phủ cần sớm có biện pháp sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách để khắc phục những tồn tại hiện hành. Trước hết cần phân cấp quản lý, làm rõ và tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản đối với doanh nghiệp, trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với hoạt động tuyển chọn lao động xuất khẩu trên địa bàn. Về phía doanh nghiệp chỉ cho phép các doanh nghiệp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế tham gia xuất khẩu lao động và chuyên gia. Giao quyền tự chủ rộng rãi cho các doanh nghiệp. Giao trách nhiệm đào tạo lao động cho doanh nghiệp. Chính phủ có thể nghiên cứu nâng tiêu chuẩn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động như nâng điều kiện về vốn điều lệ lên 7 tỷ đồng, phải có ít nhất và cán bộ có trình độ đại học chuyên ngành và ngoại ngữ, qui định doanh nghiệp phải có cơ sở đào tạo và dành một phần chi phí cho đào tạo lao động. Để khuyến khích người lao động sang làm việc tại nước ngoài, đặc biệt là sang thị trường Hàn Quốc cần có những chính sách như giảm chi phí cho người lao động, sửa đổi cơ chế tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Phía Hàn Quốc đã có lần yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam thu lệ phí phái cử trong giới hạn cho phép nhằm giảm bớt khó khăn cho người lao động, nói chung nên thu ít hơn giới hạn tối đa cho phép. Bên cạnh đó, chính phủ cần thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động trên cơ sở đóng góp của doanh nghiệp, người lao động và Nhà nước.
4.2. Chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc
Để xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc thực sự có hiệu quả các doanh nghiệp cần căn cứ vào nhu cầu lao động của thị trường này và khả năng ký kết hợp đồng để lập kế hoạch xuất khẩu lao động hàng năm và dài hạn. Hiện nay các doanh nghiệp nhỏ trên thị trường này đang thiếu hụt nhân công trầm trọng kể từ khi chính phủ Hàn Quốc thông qua lệnh cưỡng chế xuất cảnh đối với lao động nước ngoài bất hợp pháp. Tỷ lệ thiếu hụt năm 2002 là 9,36% trong tổng số 5 - 300 lao động biên chế của một doanh nghiệp, năm 2003 thiếu hụt khoảng 300.000 nhân công và dự tính năm 2004 vẫn tiếp tục thiếu hụt. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động phối hợp với các địa phương để chuẩn bị nguồn lao động đưa vào đào tạo chuyên môn, ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu của thị trường này.
Công tác tuyển chọn lao động xuất khẩu đi Hàn Quốc cũng còn nhiều bất cập. Hiện nay các công ty được quyền xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc thường không tiếp xúc trực tiếp tuyển tu nghiệp sinh bằng thông báo trên báo chí mà thông qua môi giới, do đó tạo điều kiện cho các đường dây môi giới nâng cao các tiêu cực phí. Điều này ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam và làm giảm lòng tin của KFSB. Thậm chí KFSB còn khuyến cáo nếu đơn vị nào thu phí tu nghiệp sinh quá nhiều mà không rõ lí do hoặc thông qua môi giới để tuyển chọn sẽ bị xử lí nghiêm khắc. Do vậy để lấy lại uy tín của mình doanh nghiệp cần có những thông báo công khai trên báo chí về tiêu chuẩn tuyển chọn, số tiền phải nộp và những chi phí cần thiết cho một lao động muốn sang làm việc ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó bản thân các công ty xuất khẩu lao động cũng cần thường xuyên thanh lọc nội bộ để phát hiện các đường dây môi giới để có những biện pháp xử lý kịp thời.
4.3. Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc
Đối với riêng thị trường Hàn Quốc việc nâng cao chất lượng lao động về tay nghề và ngoại ngữ là hết sức cần thiết. Không phải ngẫu nhiên mà đã gần chục năm kể từ khi người lao động Việt Nam đầu tiên sang Hàn Quốc cho đến nay KFSB vẫn phải nhắc nhở các doanh nghiệp ta chấn chỉnh lại khâu đào tạo, đặc biệt là ngoại ngữ. Điều này cũng một phần là do có không ít những doanh nghiệp coi việc đào tạo như một thủ tục hành chính, thậm chí còn xem đây là một hoạt động làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thêm vào đó hiện nay KFSB đã đưa ra quy định trong hồ sơ của tu nghiệp sinh gửi cho KFSB phải bao gồm cả bản copy bài kiểm tra ngoại ngữ tiếng Hàn và bài kiểm tra giáo dục định hướng tiếng Hàn. Thí sinh tốt nghiệp phải viết, nói nghe được tiếng Hàn cơ bản, biết các số cơ bản. KFSB sẽ kiểm trong lại khi sang Hàn Quốc. Do đó trong thời gian tới các doanh nghiệp cần phải thành lập các cơ sở đào tạo đồng thời kết hợp với các trường đào tạo nghề để đào tạo nguồn lao động theo cơ chế trường cung cấp nguồn lao động có chất lượng cho doanh nghiệp và doanh nghiệp tạo đầu ra cho trường trên cơ sở nhu cầu thị trường. Có như thế công tác đào tạo mới thực sự có hiệu quả. Bên cạnh đó Nhà nước và doanh nghiệp cũng cần cung cấp thông tin về nhu cầu, điều kiện thị trường và tiêu chuẩn lao động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và cơ quan lao động địa phương để định hướng cho người lao động tự học nghề, ngoại ngữ.
Tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam ở Hàn Quốc bỏ hợp đồng và hết hạn hợp đồng không về còn khá phổ biến. Đây là dư luận xấu ảnh hưởng rất nhiều đến triển vọng quan hệ xuất khẩu lao động giữa hai nước. Nhưng cách thức ngăn chặn hiệu quả nhất không phải là ràng buộc chặt hơn người lao động với doanh nghiệp. Mấu chốt là ở chỗ ý thức của các bên tham gia quan hệ lao động, đơn vị phái cử và người lao động. Nên chăng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động hãy chuyển sang mô hình hoạt động như một đơn vị môi giới thuần tuý thay vì phải chăm bẵm người lao động trong suốt thời gian của hợp đồng. Doanh nghiệp chỉ đóng vai trò trung gian còn người lao động và chủ sử dụng trực tiếp kí hợp đồng ràng buộc và chịu trách nhiệm với nhau. Nhưng trước mắt thiết nghĩ vẫn cần những biện pháp nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, thực hiện các điều khoản của hợp đồng lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc từ phía chính phủ và bản thân các doanh nghiệp.
Kết luận
Nhìn lại 11 năm kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với những biến động to lớn và sâu sắc trên toàn thế giới và khu vực châu á - Thái Bình Dương, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã có những bước phát triển đầy ý nghĩa và rất đáng khích lệ. Hai nước đã thiết lập và củng cố mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực trong đó chiếm vị trí nổi bật nhất là hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư. Chỉ trong vòng hơn 10 năm, Hàn Quốc đã vươn lên thành nước bạn hàng đứng thứ 4, nước đầu tư đứng thứ 4 và một trong những nước viện trợ phát triển hàng đầu cho Việt Nam. Nhân dân hai nước ngày càng hiểu biết và tin cậy lẫn nhau.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu nổi bật, quan hệ hai nước thời kì này cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn. Đó là: Việt Nam nhập siêu còn lớn trong quan hệ thương mại, là sự xung đột giữa chủ và thợ trong một số công ty có vốn của Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam, là tình trạng bỏ việc để ra ngoài làm của một số công nhân Việt Nam tại Hàn Quốc…Đây thực sự là những rào cản cần sớm được khắc phục trong quan hệ giữa hai nước.
Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, nhanh chóng và rộng khắp. Nó cuốn tất cả các quốc gia trong nền kinh tế thế giới vào guồng quay của mình và sẵn sàng bỏ lại đằng sau những quốc gia chậm thích ứng. Hàn Quốc và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Phải vươn lên để hội nhập là xu thế tất yếu, mà việc làm thiết thực đầu tiên chính là thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc lên một tầm cao mới - ngày càng sâu sắc, toàn diện và tốt đẹp hơn.
Lời mở đầu
Chiến lược phát triển theo mô hình “đàn ngỗng bay” những năm trước đây ở Đông á đã làm cho thương mại và đầu tư mở rộng nhanh chóng, tạo nên tình trạng phụ thuộc rất cao giữa các nền kinh tế trong khu vực. Kể từ đó cho đến nay, trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á 1997, ảnh hưởng ngày càng lớn của EU và NAFTA đối với khu vực và đặc biệt là xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì sự phụ thuộc này càng trở nên chặt chẽ hơn bao giờ hết. Chính vì vậy sự ra đời và phát triển của ngày càng nhiều các liên kết như ASEAN, ASEAN + 3, ASEAN + 1là tất yếu. Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc cũng nằm trong số đó. Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác song phương Việt Nam – Hàn Quốc em đã chọn đề tài: “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trong xu thế hội nhập hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của bài viết là nghiên cứu chính sách quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được cụ thể hoá trong quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc, tổng kết và đánh giá thực tiễn quan hệ này thời gian qua, từ đó xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Do tính chất hạn chế của khoá luận nên bài viết chỉ xin đề cập đến quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trên lĩnh vực kinh tế - thương mại trong đó bao gồm quan hệ mậu dịch, quan hệ đầu tư, quan hệ xuất khẩu lao động.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được để tài này, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh...
Bố cục của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được trình bày thành 3 chương:
Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc giai đoạn 1992 – 2003.
Chương III: Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc.
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Văn Hồng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Khoá luận này mới là bước đầu em làm quen với công tác nghiên cứu, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót trong việc triển khai đề tài. Em mong nhận được sự thông cảm của quí Thầy Cô và các bạn sinh viên.
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1
I. Quan hệ kinh tế quốc tế
1
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế
1
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế
2
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế
3
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế
9
IV. Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế
11
1. Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế
11
1.1 Mục tiêu của quan hệ kinh tế quốc tế
11
1.2 Những quan điểm chỉ đạo
12
1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010
13
2. Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói riêng
15
Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc giai đoạn 1992 – 2003
18
I. Khái quát chung
18
II. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc
20
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc
20
2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc
26
2.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc
26
2.1 Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc
29
III. Quan hệ đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc
32
1. Khái quát chung
32
2. Lĩnh vực đầu tư
36
3. Địa bàn đầu tư
37
4. Hình thức đầu tư
40
IV. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác
44
1. Viện trợ không hoàn lại
44
2. Tín dụng ưu đãi
47
3. Xuất khẩu lao động
48
V. Đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc
51
1. Đánh giá tổng quát
51
1.1 Về phía Việt Nam
51
1.2 Về phía Hàn Quốc
53
2. Những điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc
54
3. Những hạn chế, khó khăn và một số vấn đề cấp bách đặt ra cho quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
56
Chương III. Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc
60
I. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trong thời gian tới
60
II. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
63
1. Giải pháp về môi trường, thể chế
63
2. Giải pháp cho quan hệ thương mại
65
2.1 Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam
65
2.2 Xây dựng phương thức bán hàng hiệu quả
67
2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
68
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư
71
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm dẻo
71
3.2 Phát triển cơ sở hạ tầng
73
3.3 Cải cách thủ tục hành chính
74
3.4 Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện liên doanh, liên kết có hiệu quả
75
4. Giải pháp cho quan hệ xuất khẩu lao động
76
4.1 Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
77
4.2 Chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu
77
4.3 Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu
78
Kết luận
Tài liệu tham khảo