Như đã giới thiệu, Pháp có những thế mạnh mà Việt Nam có thể khai thác như những mặt hàng công nghệ cao, hoá dược, xi măng, sắt thép.
ỉ Công nghệ của Pháp có thể coi là công nghệ nguồn, ta cần nghiên cứu nguồn máy móc này để có thể nhập từ Pháp các loại thiết bị cho công nghiệp nặng như khai thác dầu, lọc dầu; thiết bị y tế; máy móc công cụ phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp; thiết bị viễn thông, truyền hình, thiết bị hàng không.
ỉ Về nguyên vật liệu cho sản xuất trong các ngành như sản xuất bột mỳ, men làm bia, sữa bột., chúng ta có thể giảm dần việc nhập nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ bằng cách tăng cường nghiên cứu sản xuất bằng công nghệ trong nước.
ỉ Về tân dược và mỹ phẩm của Pháp, đây là các sản phẩm Pháp nổi tiếng nên giá thường đắt hơn các nước khác. Chúng ta nên hạn chế nhập khẩu vì trong nước các liên doanh cũng đã sản xuất được với chất lượng không thua kém, vừa là nhằm kích thích sản xuất trong nước vừa giảm được một phần đáng kể ngoại tệ dùng vào việc nhập khẩu những mặt hàng này.
ỉ Nhà nước nên quản lý bằng việc chỉ cấp hạn ngạch vừa đủ cho một số công ty chuyên nhập khẩu cung cấp thiết bị cao cấp cho các khách sạn, nhà hàng. Việc tuyên truyền dùng các sản phẩm nội địa mà các liên doanh Pháp – Việt đã sản xuất được với chất lượng khá cao là hết sức quan trọng.
86 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ thương mại đầu tư Pháp - Việt: Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òn 70 triệu USD. Điều nay chứng tỏ rằng do điều kiện của Pháp gặp khó khăn và cũng một phần là do môt trường đầu tư của Việt Nam chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp đồng thời hệ thống hành chính vẫn chưa thực sự được đơn giản hoá.
Các dự án đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam chủ yếu là các dự án vừa và nhỏ, số các dự án lớn không có nhiều. Điều này có thể được lý giải là vì đầu tư theo các dự án vừa và nhỏ thì thời hạn của dự án sẽ ngắn hơn, nhà đầu tư Pháp sẽ nhanh chóng có được kết quả của dự án đầu tư chứ không phải chờ đợi lâu và lo rằng dự án đầu tư không đạt kết qủa cao như mong muốn. Hơn nữa đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ, các nhà đầu tư có thể nhanh chóng rút vốn ra khi tình hình có điều gì bất lợi đối với việc đầu tư. Điều này cũng chứng tỏ rằng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thật sự chắc chắn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án lớn và dài hạn.
Do đó, chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để tạo một môi trường đầu tư thật sự thông thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp nói chung và quốc tế nói riêng.
Phân bổ các dự án đầu tư theo địa bàn
Các nhà đầu tư của Pháp có mặt tại 24 tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng tập trung chính vào một số vùng trọng điểm kinh tế, nơi có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương...
Nhìn vào bảng sau chúng ta sẽ thấy rõ được tình hình phân bổ các dự án đầu tư của Pháp vào Việt Nam những năm qua.
Bảng 8 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Pháp vào Việt Nam phân theo địa bàn tính đến cuối năm 2001.
Đơn vị : triệu USD
STT
Tỉnh thành phố
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
(VPĐ)
% VPĐ trong tổng vốn đầu
tư
Đầu tư thực hiện
(ĐTTH)
% vốn ĐTTH trong tổng vốn đầu tư
1
TP Hồ Chí Minh
40
923,5
775,47
84%
152,5
16,5
2
Hà Nội
18
277,24
142,67
51,5%
149,8
54,04
3
Bà Rịa Vũng Tàu
5
229,44
72,55
31.6
15,73
6,9
4
Đồng Nai
11
143,72
48,88
34
70,47
49,03
5
Tây Ninh
1
113
112,19
99,3
54
47,8
6
Ninh Bình
1
36,6
36,6
100
17,5
47,8
7
Gia Lai
1
25,55
16,8
65,8
16,8
65,8
8
Hải Phòng
2
17,85
9,85
55,2
8,25
46,2
9
Bình Dơng
6
15,13
7,69
50,8
8,26
54,6
10
Long An
1
15
7,5
50
0
0
11
Cần Thơ
1
12,36
7,13
57,7
7,2
58,3
12
An Giang
1
8,2
2,8
34,1
7,9
96,5
13
Lào Cai
1
7,2
2,1
29,2
7,1
98,6
14
Bến Tre
1
5,5
1,6
29,1
0,8
14,55
15
Quảng Nam
2
5,2
5,17
99,3
4,244
81,5
16
Hà Tây
2
4,76
1,85
38,95
0
0
17
Đà Nẵng
2
3,9
3,9
100
3,07
78,7
18
Bình Thuận
1
3,5
1,05
30
3,5
100
19
Khánh Hoà
2
3,2
1,287
40
1,31
40,9
20
Phú Yên
1
2
1
50
1,7
85
21
Hải Dơng
1
1,2
0,5
41,7
0,08
6,7
22
Ninh Thuận
1
0,85
0,63
73,6
0,85
100
23
Đồng Tháp
1
0,5
0,15
30
0,5
100
24
Thừa Thiên Huế
1
0,05
0,05
100
0,036
71,4
Tổng số
108
1855,45
1259,42
67,9
531,6
28,7
Nguồn: Báo cáo của Bộ kế hoạch đầu tư về việc phân bổ vốn đầu tư của Pháp vào Việt Nam tính đến cuối năm 2001
Nhìn vào bảng trên, ta thấy được ngay sự khác biệt trong việc phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Pháp vào Việt Nam. Cụ thể là phần lớn dự án đầu tư của Pháp đều tập trung ở các thành phố lớn và vùng đồng bằng nơi có điều kiện cơ sở vật chất khá tốt, nơi tập trung đông dân cư và có nguồn nhân lực có trình độ để đáp ứng tốt nhu cầu của các nhà đầu tư, trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm 40 dự án, Hà Nội với 18 dự án, rồi đến Đồng Nai 11 dự án, Bình Dương 6 dự án.
Tuy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Pháp vào Việt Nam là khá lớn, nhưng các dự án của Pháp vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại, đó là số dự án giải thể cao so với mức trung bình, đã có 34 dự án giải thể trước thời hạn, chiếm 33% số dự án (trong khi mức trung bình của các nước là 17%).
Do vậy, chúng ta cần phải tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến điều đáng lo ngại này để có thể ngày càng thu hút được nhiều và quản lý tốt các dự án đầu tư của Pháp – một cường quốc đứng vào hàng ngũ 7 nước phát triển nhất (G7). Chúng ta có thể đưa ra một số nguyên nhân sau :
Các nhà đầu tư Pháp thường có xu hướng dựa vào nhà nước: muốn lấy vốn từ nghị định thư tài chính và hay đòi hỏi được bảo lãnh COFACE. Chỉ có một số tập đoàn lớn hoạt động có hiệu quả do có ưu thế về vốn, tiềm lực và khả năng cạnh tranh đó là các tập đoàn Alcatel, Accor, Total, Rhone-Poulenc. Do thiếu thông tin mà nhiều đề án được chuẩn bị không thích hợp với điều kiện Việt Nam đôi khi các nhà đầu tư Pháp nóng vội, muốn có lợi ngay, muốn làm thật bài bản, chắc chắn và sợ rủi ro. Trong khi đó các nhà đầu tư Châu á thường tìm cách tạo sản phẩm và tiêu dùng tại chỗ, điều này thích hợp với Việt Nam hơn.
Pháp vẫn còn dè dặt trong vấn đề rủi ro xuất khẩu đối với vốn trung bình và dài hạn sang Việt Nam, hơn nữa, Việt Nam vẫn ở nhóm 3 trong bảng tỷ suất đóng bảo hiểm của COFACE. Thêm vào đó, thủ tục hành chính của Pháp còn nặng nề và các công ty còn trông chờ quá nhiều vào Nhà nước.
Pháp có ít nhà sản xuất thiết bị đồng bộ về chế biến nông sản nên việc tổ chức đấu thầu các dự án còn khó khăn. Giá cả thiết bị và dịch vụ kỹ thuật cao làm cho đơn vị vay vốn phải cân nhắc mất nhiều thời gian.
Tóm lại, về FDI, các nhà đầu tư Pháp đã có mặt ở Việt Nam ngay từ những năm đầu tiên của thời kì đổi mới. Số dự án FDI của Pháp ở Việt Nam bắt đầu tăng mạnh từ năm 1993 với 18 dự án được cấp giấy phép, rồi đến năm 1997 có tới 18 dự án được cấp giấy phép với số vốn gần 700 triệu USD. Mặc dù ở xa Việt Nam về mặt địa lý, song có lợi thế là am hiểu tình hình Việt Nam, Pháp luôn luôn là một trong mười nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam đồng thời đứng đầu các nước Châu Âu. Tuy gần đây có sự giảm sút cả về giá trị cũng như số lượng dự án nhưng Pháp vẫn là nhà đầu tư lớn tại Việt Nam. Như vậy chúng ta cần có biện pháp để nhằm thu hút nhiều hơn nữa đầu tư trực tiếp của Pháp để góp phần phát triển nền kinh tế nước ta.
IV. Viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam.
Pháp là một trong những nước dành một tỷ lệ lớn của ngân sách cho viện trợ phát triển chính thức (ODA) và là nước duy nhất đạt mục tiêu của Liên Hiệp Quốc về tỷ lệ GDP dành cho ODA (0,7%). Tại Hội nghị các Đại sứ Pháp lần thứ 7 họp ở Paris ngày 28/9/1999, Tổng Thống Pháp J. Chirac đã phát biểu: “Hiện nay, Pháp vẫn là nước thứ hai trên thế giới cung cấp nguồn viện trợ ODA tính theo giá trị tuyệt đối, sau Nhật Bản. Thật bất thường khi chỉ riêng viện trợ chính thức của Liên Minh Châu Âu đã chiếm tới 60% loại viện trợ này trên thế giới. Thật là bất thường khi một số nước tăng trưởng bền vững và được duy trì ở mức cao vẫn tiếp tục cắt giảm một khoản viện trợ tính trên đầu người vốn đã ít hơn của chúng ta 4 lần”. Không chỉ chú ý đến viện trợ ODA, Pháp còn quan tâm đến cả việc huy động các nước tài trợ tận dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn tài trợ ODA theo đúng mục tiêu dã định.
Những mục tiêu của viện trợ ODA của Pháp cho Việt Nam là:
Mục tiêu phát triển: Pháp coi phát triển là thước đo hiệu quả của viện trợ ODA. Do vậy, nguồn ODA của Pháp chủ yếu dành cho các dự án hạ tầng cơ sở, y tế, giáo dục, cải cách hành chính quản lý, chuyển đổi kinh tế, cải thiện môi trường pháp lý. Nhưng cũng chính vì mục tiêu này mà nhiều khi Pháp đã đặt điều kiện ràng buộc các nước nhận viện trợ, buộc các nước này phải tuân thủ hoặc can thiệp sâu vào tình hình nội bộ của nước nhận viện trợ.
Mục tiêu chiến lược và chính trị: Về mặt chính trị, đối với một nước có tham vọng toàn cầu như Pháp, một trong những mục đích chính mà Pháp theo đuổi là ODA tạo sự thiện cảm và ủng hộ của các nước nhận viện trợ về những vấn đề nhạy cảm như thế giới đa cực, ngoại lệ văn hoá, chính sách nông nghiệp do Pháp chủ trương và được đem ra thảo luận tại các diễn đàn quốc tế.
Mục tiêu thương mại: Viện trợ ODA nhằm giúp các xí nghiệp Pháp bán được hàng, máy móc thiết bị, đào tạo kỹ thuật viên sử dụng thiết bị của Pháp. Pháp hiểu rõ các nước đang phát triển tuy nghèo nhưng vẫn là những thị trường quan trọng đối với thiết bị, công nghệ của một nước công nghiệp phát triển như Pháp.
Mục tiêu văn hoá: Văn hoá là mục tiêu có từ hàng thế kỷ nay và Pháp luôn muốn gây ảnh hưởng văn hoá qua hợp tác kinh tế. Chính vì vậy, ODA của Pháp thường dành cho các nước Châu Phi, các nước nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp. Hiện nay, các nước Châu Phi cận Sahara chiếm 60% viện trợ ODA của Pháp.
Mục tiêu đoàn kết và nhân đạo: ODA đáp ứng ý tưởng chung đó là mọi dân tộc đều có quyền được hưởng những tiến bộ kỹ thuật của nền văn minh nhân loại, đều phải có cơ may phát triển đồng đều. Tuy nhiên đoàn kết nhân đạo ở đây phục vụ yêu cầu duy trì và mở rộng ảnh hưởng về mọi mặt của Pháp.
Viện trợ ODA Pháp dành cho Việt Nam cũng không nằm ngoài các mục tiêu trên. Vấn đề là ta phải sử dụng vốn ODA như thế nào để phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam đồng thời đáp ứng nguyên tắc hai bên cùng có lợi.
Các hình thức viện trợ phát triển chính thức
Hợp tác kỹ thuật: Hợp tác kỹ thuật chiếm khoảng 40% ODA của Pháp nhằm vào các lĩnh vực đào tạo, giáo dục con người và trợ giúp kỹ thuật.
Trợ giúp cho các chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cải cách hành chính, môi trường pháp lý, các chương trình mang tính phúc lợi xã hội như xây dựng đường sá, cầu cống, hệ thống nước.... Hình thức này chiếm 40% ODA của Pháp.
Trợ giúp về kinh tế và tài chính (chiếm khoảng 20%) nhằm làm giảm nhẹ nợ nần, giải quyết khó khăn về cán cân thanh toán bằng việc cho vay để cơ cấu lại nợ và bổ sung ngân sách.
Tình hình viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam
Từ năm 1955 đến 1973, giữa Việt Nam và Pháp chỉ có quan hệ thuần tuý thương mại, Việt Nam không nằm trong danh sách các nước được nhận viện trợ ODA của Pháp. Trong giai đoạn từ 1973 đến 1977 Pháp đã dành cho Việt Nam một khoản viện trợ ODA khá lớn là 1,744 tỷ FRF.
Từ sau năm 1978, viện trợ ODA của Pháp dành cho Việt Nam bị ngừng do vấn đề “thuyền nhân” và vấn đề Campuchia. Khi vấn đề Campuchia được giải quyết, Pháp là nước đầu tiên nối lại viện trợ cho Việt Nam với 5 triệu FRF năm 1989.
Nếu tính từ năm 1989 cho đến hết năm 2002 thì tổng số viện trợ ODA của Pháp dành cho Việt Nam đã lên đến hơn 700 triệu USD và đã giải ngân được khoảng hơn 400 triệu USD.
Cộng hoà Pháp là nhà tài trợ song phương lớn thứ hai cho Việt Nam sau Nhật Bản. Việt Nam hiện đứng vị trí thứ ba trong số các nước Châu á hưởng viện trợ ODA của Pháp. Vốn ODA dành cho Việt Nam thông qua hai kênh:
Nghị định thư tài chính hàng năm ký từ năm 1989 đến nay trị giá khoảng 397 triệu USD cho 110 dự án, trong đó có 100 triệu USD là viện trợ không hoàn lại, 250 triệu USD vay nợ lãi kho bạc với lãi suất 1%/năm và gần 50 triệu USD là tín dụng thương mại của các ngân hàng Pháp.
Cơ quan phát triển Pháp (AFD) bắt đầu hoạt động ở Việt Nam từ năm 1994 đã cung cấp 150 triệu USD cho 11 dự án.
Tài trợ của Pháp được ưu tiên cho các ngành đường sắt, hàng không dân dụng, công nghiệp khai thác mỏ, ngân hàng, khí tượng thuỷ văn.
Trong những năm gần đây, do phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế và do những khó khăn về ngân sách, Pháp đã thu hẹp diện những nước được hưởng viện trợ ODA từ 100 nước xuống còn 53 nước nhưng Pháp vẫn giữ Việt Nam trong danh sách ưu tiên được nhận viện trợ ODA.
Những công trình lớn mà Pháp tham gia bằng viện trợ ODA ở Việt Nam :
Nhà máy xi măng Hà Tiên với gần 300 triệu FRF
Nhà máy giấy Tân Mai với gần 225 triệu FRF
Hai nhà máy kéo sợi với gần 200 triệu FRF
Dự án trồng cao su – do AFD cấp vốn: Pháp là đồng tài trợ cấp vốn 100 triệu FRF
Dự án phát triển nâng cao sản lượng bông: Pháp tham gia cấp 60 triệu FRF trên tổng số 90 triệu FRF trị giá dự án
Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn: Pháp tham gia cấp vốn 95 triệu FRF trong tổng số 950 triệu FRF trị giá dự án
Dự án hiện đại hoá 4 trung tâm dạy nghề: Pháp tham gia cấp 83,96 triệu FRF vốn
Tính từ đầu năm 2002 cho tới nay, đã có 2 dự với một dự án trị giá 7,3 triệu USD và một dự án trị giá 19,5 triệu USD cung cấp các thiết bị bay cho ngành hàng không và các thiết bị phục vụ cho việc viễn thám.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa ký với Bộ Trưởng Ngoại Thương Pháp Ông Francois Loos Nghị định thư tài chính Việt - Pháp theo đó Chính phủ Pháp cam kết dành cho Chính phủ Việt Nam vay hơn 22 triệu euro để thực hiện 2 dự án đó là “Xây dựng phân xưởng kiểm tra sửa chữa thiết bị điện tử trên máy bay” và “Xây dựng hệ thống giám sát tài nguyên thiên nhiên môi trường”.
Bên cạnh đó cũng có một dự án ODA của Pháp tài trợ cho Việt Nam đó là dự án “Nâng cao năng lực đào tạo về quản lý tài chính công và thống kê kinh tế trong chương trình cải cách hành chính nhằm hỗ trợ hiện đại hoá quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam” do Bộ Tài Chính là cơ quan chủ quản với tổng số tiền viện trợ là 2,06 triệu USD và thời hạn của dự án là giai đoạn 2003-2005.
Viện trợ ODA của Pháp đã đem lại những hiệu quả thiết thực, đáp ứng những nhu cầu cấp bách của Việt Nam trong các lĩnh vực: cấp nước, điện thoại, truyền hình, hàng không, sửa chữa cầu, bệnh viện. Viện trợ ODA của Pháp đã giúp cho Việt Nam làm chủ một số công nghệ tương đối hiện đại, nâng cao chất lượng sản xuất và dịch vụ góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung cũng như công cuộc xoá đói giảm nghèo nói riêng. Đại sứ Pháp Degallaix đã phát biểu tại Hội nghị các nhà tài trợ ngày 14/12/1999 tại Hà Nội: “tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 58% xuống còn 37% trong khoảng thời gian từ 1993 đến 1998”. Nhìn chung, các công ty của Pháp thực hiện dự án một cách nghiêm túc có chất lượng nên đảm bảo hiệu quả của vốn ODA. Các cơ quan quản lý và điều hành vốn ODA của phía Việt Nam và Pháp phối hợp với nhau tương đối tốt, do vậy đã nâng cao được trách nhiệm của cán bộ quản lý vốn ODA và của các địa phương hưởng vốn ODA.
Viện trợ ODA của Pháp thường dàn trải ra nhiều lĩnh vực, các dự án thường nhỏ vì:
Mục đích của phía Pháp là tạo điều kiện cho nhiều công ty Pháp tiếp cận thị trường Việt Nam. Công nghệ mà Pháp mang đến Việt Nam lại chưa phải là tiên tiến.
Việc sử dụng tín dụng hỗn hợp, trong đó có thành phần ngân hàng là một khó khăn lớn đối với Việt Nam vì điều kiện vay khá ngặt nghèo, lãi suất cao, không ân hạn, hạn trả ngắn.
Tốc độ giải ngân của các dự án ODA với Pháp thường chậm do tình trạng thiếu vốn đối ứng, tốc độ triển khai và thi công các dự án chậm, đặc biệt qui trình giải ngân khá chặt chẽ từ khâu đàm phán, ký kết hiệp định, chọn tư vấn, khảo sát lập dự án nghiên cứu khả thi, đấu thầu mua sắm thiết bị máy móc. Một qui trình như vậy đòi hỏi phải có thời gian và kinh nghiệm.
Tóm lại kể từ năm 1994 đến nay, quan hệ Việt Nam – Pháp đã có những bước tiến dài đáng kể về mọi mặt. Từ chỗ chỉ có quan hệ thương mại với tổng kim ngạch hai chiều hàng năm ở mức rất khiêm tốn 1-5 triệu FRF, hiện nay, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều đạt tới hơn 737 triệu USD năm 2002 và Pháp là nước Châu Âu đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đồng thời là nước đứng thứ hai về cung ứng viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam. Có thể nói trong những năm qua và cả trong những năm tới, quan hệ Việt Nam – Pháp đã và sẽ là quan hệ đối tác ưu tiên. Cả hai nước đều nhận thấy vai trò riêng của từng nước ở khu vực mình đang sống và trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Do vậy, nếu hai nước biết tận dụng thế mạnh của mình và phát huy những lợi thế mà hai nước đã có đối với nhau thì quan hệ mọi mặt Việt Nam – Pháp chắc chắn sẽ còn phát triển hơn nữa phục vụ lợi ích của từng nước, phù hợp với xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế.
V. Đánh giá chung về quan hệ Thương mại và Đầu tư Pháp-Việt.
1. Thành tựu đạt được
Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn cả về lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Về thương mại
Từ năm 1996 đến nay, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Pháp không ngừng tăng lên. Năm 1996, tổng giá trị trao đổi giữa Việt Nam và Pháp mới chỉ đạt 416,9 triệu USD nhưng đến năm 2002, tổng giá trị trao đổi thương mại giữa hai nước đã lên đến 737,8 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2003, đã đạt gần 446 triệu USD. Qua đó chúng ta có thể thấy được nỗ lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thúc đẩy xuất khẩu sang Pháp. Các doanh nghiệp Việt Nam đã cố gắng nâng cao chất lượng của sản phẩm, cải tiến mẫu mã nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế và cũng để cạnh tranh với hàng hoá Trung Quốc vừa có mẫu mã đa dạng phong phú lại vừa có giá rẻ hơn hàng hoá của chúng ta. Qui mô sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đã đi vào chuyên môn hoá, không còn là sản xuất nhỏ lẻ như trước đây. Bên cạnh đó tay nghề của người lao động đã từng bước được nâng cao nên chất lượng hàng hoá cũng dần được nâng lên.
Về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp cũng đã có những thay đổi đáng kể. Nếu như những năm trước đây (giai đoạn 1996-1999) số lượng mặt hàng xuất khẩu sang Pháp chỉ dừng lại ở 8 nhóm mặt hàng là da giầy, hàng dệt may, cà phê chè, than đá, hải sản đông lạnh, các sản phẩm công nghiệp, nông lâm sản thực phẩm và một nhóm mặt hàng khác bao gồm các mặt hàng bằng gỗ, đồ chơi trẻ em, đồ gốm... thì từ năm 2000 trở lại đây, cơ cấu các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Pháp đã tăng lên đáng kể bao gồm các mặt hàng cà phê, cao su, chè, dầu ăn, dây điện và dây cáp điện, đồ chơi trẻ em, giầy dép các loại, hải sản, hàng dệt may, hàng rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ, hạt điều, hạt tiêu, máy vi tính và linh kiện, mỳ gói, quế, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm sữa, xe đạp và phụ tùng xe đạp, gạo, than đá, hoa quả tươi khô. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp cũng ngày càng tăng do các doanh nghiệp Việt Nam đã dần biết khai thác thị trường Pháp bằng cách tìm hiểu các thói quen tiêu dùng của người dân Pháp, các sản phẩm phù hợp với thị hiếu của họ đồng thời còn biết đa dạng hoá mẫu mã chất lượng của hàng hoá đặc biệt là các sản phẩm mang tính truyền thống của Việt Nam.
Điều này trong quan hệ Pháp – Việt là tốt đối với Việt Nam chúng ta vì trao đổi thương mại hai chiều tăng lên chứng tỏ rằng sự hiểu biết giữa hai nước đã tăng lên đồng thời hai bên cũng đã tạo cho nhau những điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá của nhau, các thủ tục hành chính cũng đã được giảm nhẹ đối với hàng hoá của hai bên. Điều này không những tốt cho Việt Nam trong quan hệ với Pháp mà còn tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam vào các thị trường khó tính khác trên thế giới như thị trường Châu Âu... vì một khi hàng hoá Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường Pháp, một thị trường tương đối khó tính, và đã tạo được uy tín cho mình bằng chất lượng và mẫu mã thì khả năng thâm nhập vào các thị trường khác cũng sẽ ttrở nên dễ dàng hơn.
Nhập khẩu của Việt Nam từ Pháp về cơ cấu nhóm mặt hàng cũng đã tăng lên. Giai đoạn 1996-1999, Việt Nam có 6 nhóm mặt hàng nhập khẩu từ Pháp đó là hàng nông sản thực phẩm, hoá chất, dược phẩm, sản phẩm công nghiệp, máy móc thiết bị và các sản phẩm khác như nước hoa, tinh dầu... Nhưng từ năm 2000 trở lại đây, nhóm các mặt hàng nhập khẩu từ Pháp đã tăng lên bao gồm các mặt hàng dược phẩm, linh kiện điện tử và vi tính, máy móc thiết bị phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may da, nguyên pơhụ liệu dược phẩm, ô tô CKD và SKD, ô tô nguyên chiếc các loại, phân bón các loại, sắt thép các loại, xe máy CKD và IKD, chất dẻo nguyên liệu. Sở dĩ các nhóm mặt hàng nhập khẩu tăng lên là do nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng lên trong khi sản xuất trong nước lại chưa đáp ứng đủ và kịp thời đồng thời còn là do tâm lý thích dùng hàng ngoại nhập của người Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị nhập khẩu cũng đã giảm dần do các nhà sản xuất trong nước đã bắt đầu từ cung cấp được các mặt hàng như nguyên phụ liệu dược phẩm và dược phẩm có chất lượng và mẫu mã ngày càng tăng cho người tiêu dùng Việt Nam mà giá cá lại phải chăng.
Tóm lại, Việt Nam những năm gần đây đã dần xuất siêu sang Pháp với giá trị ngày càng tăng. Chúng ta cần có những biện pháp để duy trì và phát triển xu thế này để làm sao nhóm mặt hàng phải nhập khẩu từ Pháp ngày càng giảm và lượng mặt hàng xuất khẩu sang Pháp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng.
Về đầu tư
Cho đến nay, Pháp là nước đứng thứ sáu trong số các nước đầu tư tại Việt Nam và đứng đầu trong các nước EU đầu tư tại Việt Nam. Hiện có 149 dự án được cấp giấy phép đầu tư với số vốn đầu tư là 1.855.493 triệu USD. Trong khối EU, Pháp là nước có đầu tư trực tiếp nước ngoài dẫn đầu vào Việt Nam chiếm 41,5% số dự án, chiếm 36,2% vốn đầu tư cả Liên minh Châu Âu. Tính từ 1988 đến nay các nhà đầu tư Pháp đã đưa vào Việt Nam 587.041 triệu USD, tạo việc làm cho gần 1 vạn lao động trực tiếp (chưa kể lao động gián tiếp) đây là con số lớn nhất về việc làm được tạo ra trong số các nước EU.
Các nhà đầu tư Pháp thường đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và văn phòng đại diện chủ yếu trong các lĩnh vực như nông lâm ngư nghiệp, khách sạn du lịch, công nghiệp nhẹ, xây dựng, văn hoá - giáo dục - y tế, công nghiệp nặng.
Về việc phân bổ đầu tư, các nhà đầu tư của Pháp có mặt tại 24 tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng tập trung chính vào một số vùng trọng điểm kinh tế, nơi có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương... giúp đẩy nhanh quá trình đô thị hoá các thành phố này, và trở thành những thành phố kinh tế trọng điểm của cả nước.
Nhờ có đầu tư nước ngoài của Pháp vào Việt Nam mà chúng ta đã có rất nhiều công trình được xây dựng phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đầu tư của Pháp vào Việt Nam cũng đã giúp nâng cao năng lực sản xuất cũng như kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho việc sản xuất đi vào chuyên môn hoá cao, nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ và công nhân. Do đó chúng ta cần phải thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp của Pháp nói riêng vào Việt Nam nhằm phát triển kinh tế đất nước trong xu thế hội nhập hiện nay.
2. Hạn chế và nguyên nhân
Tuy quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt đã có những bước tiến đáng kể nhưng nó vẫn chưa xứng với tiềm năng của cả hai bên. Nền kinh tế của hai nước có cơ cấu bổ khuyết cho nhau song những mặt yếu của nền kinh tế hai nước vẫn chưa được thoả mãn theo đúng khả năng đáp ứng của hai bên. Chúng ta cần có biện pháp để đẩy mạnh quan hệ này hơn nữa. Bên cạnh đó, Việt Nam chúng ta còn có thể đạt được lượng giá trị xuất khẩu sang Pháp cao hơn nữa và giảm giá trị nhập khẩu từ Pháp nếu như chúng ta biết chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm hiểu rõ nhu cầu và thị hiếu của thị trường và người tiêu dùng Pháp.
Những mặt hàng của Việt Nam mà Pháp luôn quan tâm để đáp ứng nhu cầu của nền công nghiệp Pháp đó là nguyên nhiên liệu chưa được quan tâm đúng mức. Những vấn đề mà Pháp chú ý tới Việt Nam đó là việc xuất khẩu các sản phẩm thô của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp, sản phẩm ngành dệt may của Việt Nam thì chúng ta cần cố gắng hơn nữa để nhằm nâng cao chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu, cải tiến mẫu mã và nâng cao năng suất để nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp. Nguyên nhân mà giá trị xuất khẩu của Việt Nam chưa cao đó là Việt Nam chưa khai thác hết các nguồn nội lực của mình một cách có hiệu quả, chưa ứng dụng được các công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh để rút ngắn thời gian sản xuất, nâng cao chất lượng.
Quy mô đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam là chưa ổn định qua các năm cụ thể là năm 1997, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam lên tới 906,3 triệu USD, mức cao nhất trong tất cả các năm, rồi đến năm 2001 với tổng vốn đầu tư là 494,1 triệu USD. Tuy nhiên, năm 2002 lại là một sự sụt giảm đáng kể vì vốn đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam giảm chỉ còn 8 triệu USD. Điều này là do nền kinh tế Pháp những năm gần đây cũng bị suy thoái chứ không còn tăng trưởng mạnh như trước và cũng một phần là do môt trường đầu tư của Việt Nam chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp đồng thời hệ thống hành chính vẫn chưa thực sự được đơn giản hoá. Do đó, chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để tạo một môi trường đầu tư thật sự thông thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp nói chung và quốc tế nói riêng.
CHƯƠNG 3: CáC GIảI PHáP NHằM THúC ĐẩY QUAN Hệ THƯƠNG MạI Và ĐầU TƯ PHáP – VIệT
I. Triển vọng quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt.
1. Định hướng phát triển quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt
Từ một nền kinh tế gần như tự cung tự cấp, coi trọng các bạn hàng cùng ý thức hệ, bước vào đầu thập kỷ 90 Việt Nam đã từng bước xây dựng một nền kinh tế hướng về xuất khẩu, coi trọng quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực và đẩy mạnh quan hệ với các trung tâm kinh tế lớn. Để phát huy những thành tựu đã đạt được và thúc đẩy hơn nữa quá trình đổi mới, Việt Nam đã tiến hành hàng loạt những biện pháp quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn. Đặc biệt Quốc hội đã có các giải pháp liên quan đến kinh tế đó là:
phát huy mọi nguồn lực, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
thực hiện quan hệ đối ngoại mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Với những thành tựu đã đạt được cùng với những giải pháp đúng đắn, Việt Nam có đầy đủ khả năng để đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá.
Đối với Liên minh Châu Âu nói chung, Pháp nói riêng, quan hệ thương mại của ta phát triển mạnh kể từ khi ký Hiệp định chung về hợp tác vào tháng 7 năm 1995 và một Hiệp định về chiến lược hợp tác trong giai đoạn 1996-2000. Một Hiệp định mới cho giai đoạn 2000-2006 cũng đã được ký kết. Riêng đối với hàng dệt của Việt Nam mà Liên minh Châu Âu là thị trường chủ yếu, một hiệp định mới đã được ký kết vào tháng 11 năm 1997, giảm số mặt hàng phải chịu hạn ngạch và tăng 30% hạn ngạch của 29 mặt hàng bị hạn chế về số lượng. Kể từ năm 1995, xuất khẩu của ta sang Châu Âu tăng 14 lần và nhập khẩu tăng 8 lần. Tổng kim ngạch trao đổi vượt quá 3 tỷ USD trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Âu là 2,3 tỷ USD và nhập khẩu gần 1 tỷ USD. Đối với Việt Nam, nhập khẩu từ Pháp đứng hàng thứ 8, chiếm 3% tổng kim ngạch.
Những thành quả này chắc chắn sẽ làm tiền đề cho những bước phát triển mới của mối quan hệ hai nước trong tương lai. Hơn nữa, kể từ khi đổi mới và cả trong những năm tới, Việt Nam đã và vẫn chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ nhằm phát huy những lợi thế so sánh của mình với mọi đối tượng. Thật vậy, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, Việt Nam cũng như các nước khác không thể quay lưng lại với cộng đồng quốc tế, Việt Nam cũng không thể chỉ quan hệ với một vài đối tác.
Trên tinh thần đó, phát triển quan hệ với Châu Âu nói chung và Pháp nói riêng nằm trong chiến lược đối ngoại chung của Việt Nam, là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đây chính là điều kiện tiên quyết cho phép nước ta phát huy mọi tiềm năng sẵn có trong quan hệ với Pháp.
Dự báo triển vọng phát triển quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt
Với những thành quả đã đạt được trong những năm qua và trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, chắc chắn Việt Nam và Pháp có khả năng phát huy tiềm năng sẵn có để đẩy mạnh quan hệ nhiều mặt giữa hai nước.
Đối với Việt Nam, tiềm năng đó thể hiện trước hết ở những thế mạnh về kinh tế:
Thứ nhất: Việt Nam đã bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng, đặc biệt liên quan đến công nghệ cao, trang thiết bị, máy móc hiện đại. Điều này sẽ chủ yếu thực hiện với các nước phát triển, trong đó có Pháp. Những nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam về cơ bản Pháp có thể đáp ứng được như công nghệ cao, hạ tầng cơ sở, dược phẩm, nông sản chế biến...
Thứ hai: Việt Nam có những mặt hàng như nông sản, thuỷ sản, dệt, da giày, cà phê... đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ cao về chất lượng của người Pháp.
Trong quan hệ với Việt Nam, Pháp cũng có những tiềm năng đáng kể và nếu biết tận dụng thì quan hệ giữa hai nước chắc chắn sẽ có những bước phát triển mới.
Việc Việt Nam được chọn là nước được hưởng Quy chế Khu vực đoàn kết ưu tiên mới (ZSP) của Pháp vào tháng 3 năm 1999 đã tạo ra các cơ sở vững chắc cho các chương trình hợp tác và thúc đẩy các doanh nghiệp hai nước làm ăn với nhau nhiều hơn nữa.
Pháp sử dụng nhiều nguồn tài chính khác nhau để hỗ trợ và phát triển hợp tác với Việt Nam. Kinh phí hợp tác của Bộ Ngoại Giao, các Nghị định thư tài chính, trợ giúp các khoản cho vay của Cơ quan phát triển Pháp (AFD). Pháp đã củng cố vị trí của mình là nhà tài trợ hàng đầu ở Châu Âu cho Việt Nam và của các nước Pháp ngữ.
Cơ quan phát triển Pháp AFD đang tăng mạnh các khoản trợ giúp và tài trợ cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, chế biến, những lĩnh vực có hàng hoá xuất khẩu đứng thứ 3 chỉ sau hàng dệt và dầu thô của Việt Nam.
Pháp là nước xuất khẩu thứ hai về dịch vụ trên thế giới trong khi Việt Nam lại đang chú trọng thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng phần dịch vụ. Đây là một tiềm năng mà Pháp chưa phát huy được trong quan hệ với Việt Nam.
Với chính sách đẩy mạnh quan hệ hợp tác văn hoá, giáo dục và khoa học kỹ thuật với Việt Nam, Pháp có nhiều lợi thế về tâm lý, ngôn ngữ, nhân lực to lớn so với các đối tác khác trong quan hệ với Việt Nam.
Đi đôi với việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại, Pháp muốn giúp Việt Nam trong cải cách hành chính và pháp lý. Điều này cũng tác động thúc đẩy các quan hệ khác giữa hai nước.
Về mặt chính trị, Chính phủ Pháp, dù tả hay hữu cũng đều chủ trương đẩy mạnh quan hệ kinh tế cũng như các quan hệ khác với Việt Nam.
Theo tờ “Les Echos” của Pháp đã viết rằng Pháp mong muốn tăng cường đầu tư vào Việt Nam và lại càng không muốn bỏ lỡ cơ hội khi nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi trở lại.
Nhân chuyến sang thăm Việt Nam 3 ngày vừa qua, Bộ Trưởng Ngoại Thương Pháp Ông Francois Loos đã phát biểu rằng “Trong bối cảnh hiện nay, Pháp thấy cần phải tăng thêm thị phần của mình ở Việt Nam so với mức 1,5% hiện nay. Tuy là nước Châu Âu đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam song kim ngạch xuất khẩu của Pháp sang Việt Nam vẫn chưa phải là cao, chủ yếu chỉ thông qua các hợp đồng lớn, còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Pháp vẫn chưa có mặt đông đảo tại Việt Nam”.
Cũng nhân chuyến sang thăm lần này của Ông, cùng đi còn có hơn 30 doanh nghiệp lớn của Pháp trong các lĩnh vực như đường sắt, dệt may, thiết bị công nghệ thông tin, rượu vang với mục đích chủ yếu là muốn tìm đối tác tại Việt Nam. Thông qua các cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp Pháp cũng đã tìm thấy những cơ hội hợp tác sản xuất và kinh doanh. Điều này chứng tỏ một dấu hiệu tốt trong quan hệ giữa hai bên.
Tóm lại, hai nước Việt Nam và Pháp có đủ tiềm năng, cơ sở chính trị pháp lý, hành chính để đẩy mạnh hơn nữa quan hệ về mọi mặt. Những tiềm năng đó cần phải được biến thành thực tế phù hợp với mong muốn của cả hai bên và tương ứng với quan hệ chính trị giữa hai nước hiện nay.
II. Những giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt.
1. Những giải pháp mang tính vĩ mô
Thúc đẩy quan hệ chính trị
Quan hệ chính trị đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy các quan hệ khác. Trên thực tế, điều này đã được nhận thức đầy đủ không chỉ ở cấp lãnh đạo hoạch định chính sách mà cả ở cấp thực thi chính sách.
Em thiết nghĩ quan hệ chính trị giữa hai nước vốn đã được thúc đẩy và duy trì cần được tăng cường với nhịp độ cao hơn nữa và ở mọi cấp, mọi ngành liên quan đến việc hoạch định chính sách. Quan hệ chính trị được nói ở đây là các cuộc tiếp xúc cấp nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Hai nước cần tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa hai bên vì tiếp xúc chính trị góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách của cả hai nước, đồng thời còn củng cố lòng tin và sự yên tâm làm ăn lâu dài của các nhà doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Chính tiếp xúc chính trị sẽ giải toả những vướng mắc tâm lý, những đắn đo không cần thiết, đặc biệt với những nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư Pháp, những người thường bị nhìn nhận là không dám chấp nhận rủi ro và hay trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nưóc hoặc các khoản viện trợ chính thức (ODA).
Chúng ta hy vọng rằng trong tương lai sẽ nhiều hơn nữa các cuộc tiếp xúc chính trị giữa hai nước Pháp và Việt Nam để giúp cho quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước trở nên tốt đẹp hơn.
Có chính sách hỗ trợ hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp
Chúng ta cần phải cải cách về thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu. Trong quản lý xuất nhập khẩu hai khâu quan trọng là quyền kinh doanh và phạm vi hàng hoá được phép xuất nhập khẩu. Trong những năm qua chúng ta đã tạo những điều kiện thuận lợi cả trong văn bản lẫn trên thực tế để cho mọi thành phần kinh tế tham gia trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhưng đến nay, nhìn chung lại, cơ chế điều hành vẫn còn phần nào mang tính “xin-cho” mặc dù đã có rất nhiều sửa đổi. Do vậy, cần loại bỏ sớm có chế này và quản lý theo pháp luật. Điều gì mà pháp luật không cấm thì để tự do kinh doanh, không nên gây phiền hà dưới bất cứ hình thức gì. Chính tư duy:”tôi được làm tất cả những gì pháp luật không cấm” rất phù hợp với lối làm ăn của người Pháp.
Để điều hành xuất nhập khẩu có hiệu quả cần bổ sung, sửa chữa các quy chế, quy định cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn như các quy định về giá xuất nhập khẩu, điều kiện, phương thức thanh toán, điều kiện giao hàng... Muốn vậy đương nhiên ta phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm quản lý, xây dựng cơ chế chính sách trung thực, am hiểu công việc và có kinh nghiệm nghề nghiệp. Chính họ sẽ là người tham mưu cho lãnh đạo và trực tiếp soạn thảo các chính sách cần thiết. Đồng thời ta cũng phải kiên quyết xoá bỏ các tầng nấc không cần thiết.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, ta cần nâng cao chất lượng hàng hoá, cải tiến mẫu mã, bao bì, giảm giá thành, nâng cao sự hiểu biết về thị trường, tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng. Từ đó nghiên cứu tiềm năng sản xuất hàng xuất khẩu của cả nước, của từng địa phương, từng vùng và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tất cả các điểm trên cần phải được xây dựng thành chính sách lâu dài, nhất quán, tránh tình trạng “bỏ mặc” hoặc quản lý theo lối hành chính đơn thuần.
Có chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI
Để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và để thu hút thêm nguồn vốn FDI chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp như sau:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập một hành lang pháp lý hấp dẫn, cởi mở, minh bạch, ổn định và tạo lập một khuôn khổ chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài.
Xây dựng các chính sách nhằm cải thiện tính cạnh tranh của các ngành thương mại, cụ thể là:
tiếp tục giảm phí và thuế đối với một số dịch vụ
hoàn thiện luật đất đai, các qui định về ngoại hối, vấn đề chuyển lãi ra khỏi Việt Nam và các qui định về thuế, nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện các dự án được cấp phép
đưa ra các ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hoặc các linh kiện và chi tiết rời
Đa dạng hoá các hình thức đầu tư để triển khai thêm nhiều kênh đầu tư và thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được lựa chọn.
Mở cửa dần thị trường bất động sản, các ngành dịch vụ và thương mại để hội nhập nền kinh tế thế giới.
Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan nhà nước các cấp cũng như mở rộng phạm vi trách nhiệm của các chính quyền địa phương nhằm giải quyết nhanh nhất các vấn đề của các nhà đầu tư.
Đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhằm tạo niềm tin đối với các nhà đầu tư.
Nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư. Chúng ta phải xây dựng quy hoạch đầu tư cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Quy hoạch đầu tư nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung của cả tỉnh, thành phố. Vốn đầu tư nước ngoài phải gắn chặt với quy hoạch phát triển các ngành, vùng lãnh thổ và đặt trong tiến trình hội nhập, khai thác những tiềm năng và lợi thế so sánh của địa phương, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể nói chung và quy hoạch đầu tư nước ngoài nói riêng sẽ tránh được tình trạng đầu tư tràn lan, đầu tư theo phong trào làm phung phí nguồn nhân lực, giảm hiệu quả các dự án FDI, làm cho nhà đầu tư nước ngoài giảm lòng tin.
Xem xét lại và xoá bỏ các qui định và các loại giấy phép không cần thiết hiện nay đang tạo thành rào cản đối với các hoạt động thương mại.
Xây dựng danh mục các dự án chỉ cần thủ tục đăng ký đầu tư đơn giản.
Cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là nước và điện; cải thiện chất lượng các dịch vụ ngân hàng, kỹ thuật và tài chính, nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.
Khuyến khích đầu tư tại một số khu vực, đa dạng hoá các hoạt động khuyến khích đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực cán bộ Việt Nam và cải thiện chất lượng thông tin liên quan đến đầu tư và chính sách đầu tư.
Mở rộng các hình thức thu hút và vận động FDI. Cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu để mở rộng quy mô đầu tư. Một số tập đoàn có nhiều dự án đầu tư được phép thành lập công ty quản lý vốn để điều hành chung và hỗ trọ các dự án đã đầu tư.
Nới rộng chế độ tuyển dụng người lao động.
Chúng ta cần tăng cường tiếp xúc ở mọi cấp, về mọi mặt với chính phủ các nước có liên quan và trực tiếp với các nhà đầu tư.
Chúng ta phải cải thiện chế độ thông tin. Cần cung cấp cho các nhà đầu tư mọi qui định, thủ tục liên quan đến FDI ở Việt Nam, từ các văn bản pháp lý hành chính, chiến lược, quy hoạch lâu dài và tổng thể về FDI đến những thông tin chi tiết cho từng dự án, thậm chí cả những đặc điểm của địa phương đón nhận FDI. Thông tin cần được chuyển tải qua nhiều kênh khác nhau: hội nghị, hội thảo, ấn phẩm, Internet...
Để tăng cường khả năng giải ngân cho các dự án FDI, cần có những biện pháp hữu hiệu để giải phóng mặt bằng trước khi gọi vốn, rút ngắn thời gian thẩm định và đơn giản hoá mọi khâu thủ tục hành chính khác.
Đầu tư nước ngoài còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như ngân hàng, bảo hiểm, luật sư. Các nhà đầu tư Pháp nổi tiếng là thận trọng đôi khi họ không tin vào hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, luật sư của nước nhận đầu tư. Do vậy: những qui định pháp lý về mở chi nhánh, văn phòng cho ngân hàng, bảo hiểm và luật sư cần phải được ban hành và hoàn thiện. Hiện nay, các công ty của Pháp đã mở trên 100 văn phòng đại diện, 5 ngân hàng và 5 văn phòng luật sư đã có mặt ở Việt Nam dưới hình thức các chi nhánh. Điều họ mong muốn là chế độ hoạt động của chi nhánh này phải được tự do hoá hơn nữa và lý tưởng nhất là không có bất kỳ sự hạn chế nào trong kinh doanh.
Để duy trì những lợi thế của Việt Nam, Chính phủ đã ban hành quyết định 53 vào tháng 3 năm 1999 về việc giảm giá điện, viễn thông và tiến tới áp dụng chính sách một giá đối với các dịch vụ cung cấp cho đầu tư. Đây là một quyết định đúng lúc được các nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh. Tuy nhiên, thời gian tới, Chính phủ còn phải tiếp tục thực hiện kế hoạch giảm giá dịch vụ để thu hẹp khoảng cách với giá quốc tế và giải quyết vấn đề thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Chúng ta cần có những biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào các vùng ưu tiên cao của ta như các vùng sâu vùng xa vì Pháp thông thạo địa lý Việt Nam, tâm lý của người Việt Nam. Chẳng hạn như ta lo giải phóng mặt bằng trước, cấp không quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một thời gian nhất định, sản phẩm làm ra được tiêu thụ tại chỗ, không bắt buộc phải xuất khẩu một phần.
Có chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA
Vốn ODA được Chính phủ Việt Nam nhìn nhận là một nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng để hỗ trợ đầu tư phát triển các lĩnh vực ưu tiên thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam hiểu rõ rằng để phát triển kinh tế và thực hiện các chương trình cải cách... thì phải có nguồn lực, do vậy cùng với việc huy động tối đa nguồn nội lực, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng các nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn ODA của các nước và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Vì vậy nên chúng ta cần nâng cao hiệu quả của nguồn vốn này. Khác với nguồn vốn FDI, ODA đòi hỏi rất cao trách nhiệm của nước tiếp nhận viện trợ ngay từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ đến đánh giá kết quả thu được. Muốn vậy Việt Nam cần phải tiến hành những biện pháp sau:
Ta cần xây dựng bức tranh toàn cảnh về nhu cầu nguồn vốn ODA sao cho nguồn vốn này được phân bổ tốt về mặt địa lý theo ưu tiên đầu tư trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của ta, tránh được sự trùng lặp về đầu tư và tập trung quá cao vào một ngành, một vùng nào đó.
Một mặt, ta có tính đến ý kiến của các nhà tài trợ, mặt khác, ta phải hoàn toàn chủ động trong quá trình đề xuất nhu cầu, xây dựng dự án, điều hành, quản lý và đánh giá dự án.
Để vừa phát huy tính chủ động của nước tiếp nhận viện trợ và tôn trọng ý kiến của các nhà tài trợ, ta cần minh bạch trong mọi khâu, hài hoà các chính sách, chia sẻ thông tin về mọi mặt với các nhà tài trợ và giữa các nhà tài trợ với nhau.
Để thực hiện tốt các biện pháp trên, điều cốt lõi là tăng cường năng lực cán bộ tham gia vào quá trình quản lý ODA ở mọi cấp, đặc biệt là cấp thực hiện dự án ở địa phương.
Ta nên chủ động thiết lập các dự án theo các lĩnh vực, ngành, địa phương ưu tiên để chủ động trong đàm phán thông qua dự án với nước bạn.
Ta phải sử dụng có hiệu quả hơn kinh phí hợp tác, khoản viện trợ không hoàn lại do Bộ Ngoại giao Pháp quản lý. Đây chính là nguồn tài chính giúp ta một cách có hiệu quả trong việc đào tạo nguồn nhân lực và trợ giúp kỹ thuật nếu ta biết tận dụng tốt.
Những giải pháp mang tính vi mô
Các doanh nghiệp nên đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sang thị trường Pháp
Các ngành sản xuất của Việt Nam cần phải đi vào đầu tư theo chiều sâu, hoàn chỉnh công nghệ, có chính sách đào tạo lao động lành nghề, đãi ngộ nhân tài, tăng cường quy mô sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm và luôn có phương án điều chỉnh để có thể đáp ứng nhu cầu thường xuyên biến đổi của người tiêu dùng Pháp.
Đối với ngành dệt may, hạn ngạch phải được nhanh chóng phân bổ sao cho các doanh nghiệp có đơn đặt hàng ngay từ đầu năm để có kế hoạch triển khai sản xuất.
Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu thẳng cho khách hàng Pháp không qua trung gian.
Các doanh nghiệp phải chú ý tới sự thay đổi trong việc tiêu dùng của người Pháp để có kế hoạch cho việc sản xuất của mình, để sản phẩm phù hợp với nhu cầu của họ
Các doanh nghiệp phải đảm bảo việc sản xuất và giao hàng đầy đủ và đúng thời hạn đã thoả thuận.
Một vấn đề rất quan trọng nữa là việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong chế biến mặt hàng nông sản thực phẩm để đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường Pháp.
Chúng ta phải biết lựa chọn kênh phân phối phù hợp như tìm cách ký kết những hợp đồng tiêu thụ với những hãng phân phối lớn của Pháp và dành ưu tiên cho các doanh nghiệp Việt Kiều.
Nâng cao hiệu quả hàng nhập khẩu từ Pháp
Như đã giới thiệu, Pháp có những thế mạnh mà Việt Nam có thể khai thác như những mặt hàng công nghệ cao, hoá dược, xi măng, sắt thép...
Công nghệ của Pháp có thể coi là công nghệ nguồn, ta cần nghiên cứu nguồn máy móc này để có thể nhập từ Pháp các loại thiết bị cho công nghiệp nặng như khai thác dầu, lọc dầu; thiết bị y tế; máy móc công cụ phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp; thiết bị viễn thông, truyền hình, thiết bị hàng không.
Về nguyên vật liệu cho sản xuất trong các ngành như sản xuất bột mỳ, men làm bia, sữa bột..., chúng ta có thể giảm dần việc nhập nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ bằng cách tăng cường nghiên cứu sản xuất bằng công nghệ trong nước.
Về tân dược và mỹ phẩm của Pháp, đây là các sản phẩm Pháp nổi tiếng nên giá thường đắt hơn các nước khác. Chúng ta nên hạn chế nhập khẩu vì trong nước các liên doanh cũng đã sản xuất được với chất lượng không thua kém, vừa là nhằm kích thích sản xuất trong nước vừa giảm được một phần đáng kể ngoại tệ dùng vào việc nhập khẩu những mặt hàng này.
Nhà nước nên quản lý bằng việc chỉ cấp hạn ngạch vừa đủ cho một số công ty chuyên nhập khẩu cung cấp thiết bị cao cấp cho các khách sạn, nhà hàng. Việc tuyên truyền dùng các sản phẩm nội địa mà các liên doanh Pháp – Việt đã sản xuất được với chất lượng khá cao là hết sức quan trọng.
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ
Việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ nói chung, cán bộ làm kinh tế đối ngoại nói riêng vừa mang tính chiến lược vừa có nội dung cấp thiết bởi vì, muốn làm chủ được công nghệ, nắm bắt được xu thế phát triển của thế giới và hội nhập được tốt thì phải có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực. Đội ngũ cán bộ hiện đang làm kinh tế đối ngoại của ta số đông là được đào tạo cơ bản, trải qua nhiều năm công tác, có kinh nghiệm chuyên môn. Song, bước vào thời kỳ đổi mới, với nhu cầu phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại cả về chiều rộng và chiều sâu đồng thời đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đội ngũ này bộc lộ nhiều điểm yếu.
Đối với những cán bộ phụ trách quan hệ kinh tế Việt Nam – Pháp, họ cần:
Được bồi dưỡng hoặc cập nhật kiến thức nhằm nâng cao hiểu biết về nước Pháp và Châu Âu, đặc biệt về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tài chính đồng thời trau dồi ngoại ngữ tiếng Pháp nhằm có đủ khả năng làm việc độc lập trong các lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Cập nhật những kiến thức về luật và kinh tế quốc tế, bổ sung những kiến thức mới.
Nâng cao khả năng chuyên môn, thực hành cụ thể như trình độ lập và triển khai dự án đầu tư, soạn thảo, thực thi những hợp đồng thương mại có giá trị lớn.
Để công tác bồi dưỡng cán bộ có hiệu quả, ta cần:
Thống kê đội ngũ cán bộ công tác trong từng lĩnh vực của kinh tế đối ngoại nói chung về Châu Âu và về Pháp nói riêng.
Kê khai ngành học được đào tạo ban đầu, thâm niên công tác trong kinh tế đối ngoại.
Xác định nội dung chương trình cần bồi dưỡng cho từng đối tượng.
Tận dụng mọi cơ hội và khả năng gửi cán bộ đi thực tập, tham quan thực tế tại Pháp và Châu Âu.
Nội dung đào tạo cần phải tính đến:
Những kiến thức kinh điển có tính chất quy luật về kinh tế đối ngoại.
Những đặc điểm của nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế của Pháp nói riêng ở thời kỳ toàn cầu hoá.
Trình độ ngoại ngữ và các kỹ năng nghiệp vụ.
Kinh nghiệm thực tiễn trong quan hệ với Pháp nói riêng và với Châu Âu nói chung.
Chương trình và nội dung đào tạo phải thường xuyên được cập nhật và sửa đổi nhằm theo kịp những biến đổi ngày càng nhanh trong kinh tế đối ngoại.
Quan hệ hợp tác chặt chẽ với Phòng Thương Mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam
Thường xuyên liên lạc với Phòng Thương Mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam (CCIFV) để có thể tiếp cận với các doanh nghiệp, địa phương của Pháp có nguyện vọng đầu tư vào Việt Nam và từ đó tìm được cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp mình.
Nên mở rộng hơn nữa môi trường Pháp ngữ nhằm rút ngắn khoảng cách giữa hai nước thông qua đó việc đầu tư và kinh doanh cũng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
KếT LUậN
Quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Pháp là mối quan hệ đã có từ lâu đời, một mối quan hệ mang tính lịch sử. Mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai bên được phát triển dựa trên cơ sở và nền tảng là mối quan hệ chính trị đã có từ lâu đời đó. Chính vì lý do này mà việc phân tích mối quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt chỉ trong phạm vi khoá luận này có lẽ là chưa đủ chi tiết và sâu sát so với mối quan hệ thực tế giữa hai bên.
Tuy nhiên, trong phạm vi khoá luận này em đã đi vào phân tích mối quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt trên hai khía cạnh là thương mại và đầu tư ở cả hai phương diện thành tựu và hạn chế. Quan hệ thương mại và đầu tư Pháp –Việt những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng góp rất nhiều cho việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước chúng ta. Nhưng bên cạnh đó, mối quan hệ này còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Với mục tiêu là duy trì và phát triển mối quan hệ thương mại và đầu tư với nước Pháp, trong quá trình nghiên cứu khoá luận này, em cũng đã mạnh dạn đề ra một số giải pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. Em rất mong muốn rằng những kiến nghị của em sẽ góp phần nhỏ bé vào việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước phát triển hơn và Việt Nam chúng ta sẽ thực hiện được những giải pháp đó để có thể phát triển mối quan hệ với Pháp nói riêng và với các nước khác trên thế giới nói chung.
TàI LIệU THAM KHảO
Báo cáo về quan hệ kinh tế Việt Nam với một số nước trong khu vực Tây Bắc Âu, Vụ Châu Âu 2 – Bộ Ngoại Giao – Việt Nam, 15/11/1999.
Báo cáo tổng kết thị trường Pháp 10 năm: 1991-2000, Thương vụ Việt Nam tại Pháp – 8/10/1999.
Nguyễn Mạnh Cầm, Bài phát biểu tại hội nghị các nhà tư vấn lần thứ năm tại Tokyo 11/12/1997.
Trần Đức Lương, Diễn văn đọc tại buổi chiêu đãi hoan nghênh Tổng Thống Pháp J. Chirac, Phủ Chủ Tịch Hà Nội – 12/11/1997.
Hà Lê, Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam – Tổng quan năm 1999 và giải pháp để thu hút vốn, Tạp chí thương mại số 1 năm 2000.
Nguyễn Huyền Minh, Những điểm mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài của Pháp, tạp chí Những vấn đề kinh tế ngoại thương số 2/1998 Đại Học Ngoại Thương Hà Nội.
Tổng quan về tình hình kinh tế của Việt Nam và Pháp - Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội năm 2002.
Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới – tháng 12/1999.
Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới – tháng 2/1998.
Tạp chí Thương mại số 35 năm 2003.
Báo Tin kinh tế – Thông tấn xã Việt Nam số ngày 27/11/2003
Đặc san tuần báo quốc tế chuyên đề Hợp tác Pháp – Việt năm 2000.
“Hướng dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” – Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2003. (Sách do Bộ Kế hoạch và đầu tư phối hợp với văn phòng luật sư Flécheux, Ngo & Associes thực hiện).
Cuốn “Kinh doanh với thị trường Châu Âu” do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Trung tâm thông tin thương mại Châu Âu tại Việt Nam thực hiện năm 2002.
Báo cáo thống kê chi tiết hàng Việt Nam xuất khẩu sang Pháp từ năm 1995 đến 6 tháng đầu năm 2003, Bộ Thương mại Việt Nam.
Báo cáo thống kê chi tiết hàng nhập khẩu từ Pháp từ năm 1995 đến 6 tháng đầu năm 2003, Bộ Thương mại Việt Nam.
Báo cáo về tình hình phân bổ nguồn vốn FDI của Pháp tại Việt Nam năm 2001, Vụ quản lý dự án – Bộ kế hoạch và đầu tư .
Báo cáo thống kê đầu tư của Pháp tại Việt Nam năm 2001 và năm 2002 do Thương vụ Pháp tại Việt Nam thực hiện.
Web:
Commerce extérieur,
Minc Alain, La France de l’an 2000, Odile Jacob – Paris.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan Van Hoang Cam Van.doc