Khóa luận Quan hệ Trung - Nga trong tổ chức hợp tác Thượng Hải

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Lịch sử quan hệ quốc tế luôn là đề tài được giới sử học quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là quan hệ quốc tế từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay. Sau khi Liên Xô tan rã, thế giới mất đi một cường quốc, thế cân bằng hai cực sụp đổ. Thế giới bước vào giai đoạn quá độ trong quá trình hình thành một trật tự mới. Do đó tình hình thế giới biến động không ngừng với sự nổi lên của “siêu cường” duy nhất là Mỹ đang ra sức thực thi “chiến lược toàn cầu” nhằm thống trị thế giới. Chính sách bá quyền của Mỹ thể hiện qua việc đơn phương thực hiện các hành động can thiệp vào bất cứ khu vực nào mà Mỹ muốn, coi nhẹ vai trò của Liên hợp quốc, thi hành chính sách cấm vận, dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực đối với những nước mà Mỹ cho là không nghe lời mình. Trong lúc đó, Nga là nước kế thừa Liên Xô đang lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, vị thế quốc tế sa sút. Lúc này, các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Âu, xét về tiềm lực mọi mặt đều chưa đủ mạnh nên trên thế giới không có một thế lực nào đủ sức làm đối trọng với sự bá quyền của Mỹ. Nhưng tất cả các nước đều phản đối chính sách đơn cực mà Mỹ đang áp đặt lên thế giới, cùng hướng tới một trật tự đa cực và mong muốn tạo dựng vị thế cho mình. Bước sang thế kỷ XXI, công cuộc cải cách ở Trung Quốc đạt nhiều thành tựu, một “Người khổng lồ vụt lớn_Trung Quốc” dần hiện ra trước sự ngỡ ngàng của thế giới. Một nước Nga dưới thời của Tổng thống V.Putin đang thoát ra khỏi khủng hoảng, dần lấy lại vị thế nước lớn của mình trên trường quốc tế. Mỹ tuyên bố Trung Quốc và Nga là hai đối thủ lớn nhất của mình. Sau sự kiện 11/9/2001, lợi dụng cuộc chiến “chống khủng bố” Mỹ đã đưa quân đội của mình vào các khu vực mà Mỹ cho là có sự ẩn náu của quân khủng bố mà thực chất là thực hiện “chiến lược toàn cầu” mới nhằm kiềm chế không cho các đối thủ của Mỹ có điều kiện vươn lên như đưa quân vào khu vực Trung Á, mở rộng NATO về phía Đông tạo thành vành đai chiến lược bao vây Nga, tạo thế cài răng lược kìm hãm Trung Quốc. Đứng trước sức ép của Mỹ ngay trong vùng địa - chính Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 6 trị quan trọng bậc nhất của mình cả Nga và Trung Quốc đã xích lại với nhau một cách tự nhiên. Đặc biệt trong vai trò là hai nước lãnh đạo của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO_Thành lập tháng 6/2001), Trung Quốc và Nga đã liên kết chặt chẽ với nhau nhằm đẩy lùi sự ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Trung Á và tăng cường vị thế nước lớn của mình trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế và nhanh chóng đưa tổ chúc này trở thành đối trọng với NATO. Tạo thế cân bằng trong quan hệ quốc tế, đảm bảo sự hoà bình, ổn định trong khu vực và trên toàn thế giới. Tìm hiểu vấn đề này, tôi mong muốn tái hiện một cách chân thực quá trình hình thành và phát triển của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và Nga từ 2001 đến 2008. Qua đó thấy được vị thế ngày càng lớn của Trung Quốc, Nga và những tác động của quan hệ Trung –Nga cũng như của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải đến những vấn đề khu vực và đến trật tự thế giới đang ngày càng lộ rõ sau Chiến tranh lạnh. Thực hiện đề tài này sẽ giúp tôi tích lũy thêm kiến thức cũng như những kinh nghiệm, để phục vụ cho quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy sau này. 2. Lịch sử vấn đề. Tìm hiểu về quan hệ Trung – Nga trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải là một đề tài rất mới, chưa được nghiên cứu nhiều và cụ thể ở nước ta. Trong số những tài liệu mà tôi thu thập được thì các sách viết về đề tài này không có, nó chủ yếu là chính sách ngoại giao của Trung Quốc và Nga. Tuy nhiên, trong các tạp chí nghiên cứu về Trung Quốc đã có đề cập một cách rải rắc đến nội dung trên. Trong đó có bài viết của thạc sĩ Nguyễn Thanh Thuỷ in trên tạp chí Nghiên Cứu Trung Quốc số 2 năm 2006 có đề cập đến vấn đề này, nhưng tác giả mới chỉ tiếp cận một cách sơ lược về quá trình thành lập tổ chức Hợp tác Thượng Hải cũng như về quan hệ Trung_Nga mà chưa đi sâu tìm hiểu kỹ từng mặt của mối quan hệ đó. Kế thừa các kết quả nghiên cứu, tôi đã tìm hiểu được về chính sách ngoại giao của Trung Quốc, của Nga, việc hình thành Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và quá trình hợp tác giữa hai nước làm nền tảng cho tôi thực hiện đề tài. Do nguồn sách quá ít nên khi viết tôi dựa trên nguồn tài liệu chủ yếu là các báo và tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc; Tạp chí Nghiên cứu châu Âu; Tạp chí Nghiên cứu quốc tế; Những vấn đề kinh tế -chính trị thế giới. Tài Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 7 liệu từ Thông tấn xã Việt Nam (Tài liệu tham khảo đặc biệt, Tài liệu tham khảo chủ nhật, Thông tin tư liệu ) Ngoài ra tôi còn tham khảo thêm một số website như: http://www.mofa.gov.vn; MegaVNN Plus portal http://www.antg.cand.com.vn; http://www.vnics.org.vn; http://www.vietbao.vn; http://www.nciec.gov 3. Phương pháp nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, tôi chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để liên kết, móc nối các sự kiện 4. Phạm vi đề tài. Đề tài chủ yếu nghiên cứu về quá trình thành lập Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và mối quan hệ giữa hai nước Trung Quốc và Nga trong tổ chức SCO, thời gian từ năm 2001 đến năm 2008. 5. Bố cục. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài này gồm ba chương: CHƯƠNG I: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC VÀ NGA ĐẦU THẾ KỶ XXI. I.1 Bối cảnh quốc tế trong những năm đầu thế kỷ XXI. I.2 Sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao của Trung Quốc và Nga. CHƯƠNG II: TỔ CHỨC HỢP TÁC THƯỢNG HẢI (SCO) II.1 Sự thành lập. II.2 Tổ chức và hoạt động. II.3 Bước phát triển và một số kết quả hợp tác của SCO. CHƯƠNG III: QUAN HỆ TRUNG –NGA TRONG TỔ CHỨC HỢP TÁC THƯỢNG HẢI III.1 Quan hệ Trung –Nga trong thời kỳ chiến tranh lạnh. III.2 Quan hệ Trung –Nga từ 1991 đến tháng 5/2001. III.3 Quan hệ Trung –Nga trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (từ tháng 6/2001 đến 2008). III.4 Những trở ngại và triển vọng trong quan hệ Trung –Nga

pdf112 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ Trung - Nga trong tổ chức hợp tác Thượng Hải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng tương đối hiệu quả ngoại thương như một yếu tố phát triển kinh tế trong nước và hội nhập với cộng đồng kinh tế thế giới. “Sự tăng trưởng kinh tế quốc dân ổn định cộng với việc Trung Quốc có dự trữ ngoại tệ lớn góp phần duy trì sự ổn định kinh tế của cả khu vực Đông và Đông Nam Á”(1). Những ưu thế của Trung Quốc là tiền đề cho sự bổ sung lẫn nhau trong quan hệ hợp tác kinh tế, giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực, trong đó có Nga. Chính những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc sử dụng tốt nguồn vốn nước ngoài và hội nhập thế giới, vào tổ chức WTO là những điều Nga đang rất cần. Trong khi, Nga là một quốc gia Âu – Á “Cánh phía Đông” của Nga có nguồn tài nguyên to lớn là cơ sở hùng hậu cho các khoa học cơ bản, tiềm năng phát triển kinh tế lớn. Nếu được sự hậu thuẫn của chính phủ và hợp tác hiệu quả với các đối tác bên ngoài, tất cả tiềm năng đó sẽ trở thành nguồn nội lực quan trọng cho phát triển khu vực. Đồng thời phải thấy rằng, trong điều kiện nước Nga đang trong giai đoạn phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng và sự hạn chế của ngân sách quốc gia, nguồn tài chính chủ yếu cho sự phát triển phía Đông của Nga trong tương lai gần chỉ có thể dựa vào yếu tố bên ngoài, đó là việc hợp tác kinh tế - thương mại cùng có lợi với các nước láng giềng cận kề và các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc. Chính các nhà kinh tế Nga cho rằng “vùng Viễn Đông và Tây Xiberi của Nga với nguồn tài nguyên đất đai rộng lớn sẽ là nơi thuận lợi để xây dựng các tổ hợp công – nông nghiệp và thu hút lao động và vốn từ Trung Quốc sang”(2) ( 1 ) ( 2 ) Hoàng Minh Hà,…sđd, số 5_2000 Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 81 Chính phủ Trung Quốc và Nga đã thông qua một loạt biện pháp để cải thiện cơ cấu thương mại song phương. Hai nước đã hết sức cố gắng soạn thảo kế hoạch năm trong lĩnh vực thương mại sản phẩm cơ khí điện tử, tổ chức các loại triển lãm khác nhau cũng như nhiều hoạt động xúc tiến thương mại hai nước. Việc nỗ lực hết sức trong tổ chức các hoạt động quy mô lớn của hai nước, hai chính phủ sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng của quan hệ hợp tác Nga – Trung. Nhiều hoạt động giao lưu, gặp gỡ của giới doanh nghiệp đã làm giàu thêm đời sống xã hội, giúp công dân hai nước hiểu biết hơn về nhau. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kim ngạch thương mại song phương, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cho rằng: “cần cải thiện cơ cấu kinh tế và thương mại với sự hợp tác rộng hơn trong lĩnh vực sản xuất điện tử, cơ khí, máy móc, công nghệ cao, tăng cường đầu tư song phương. Trung Quốc sẵn sàng thúc đẩy hợp tác với Nga trong nhiều lĩnh vực như khoa học, công nghệ, hàng không, công nghệ vũ trụ, y tế, bảo vệ môi trường và văn hóa…”(1). Trung Quốc là một trong những đối tác ưu tiên trong hợp tác kinh tế - thương mại của Nga với các nước láng giềng và đồng thời là đối tác tối ưu đối với vùng Viễn Đông của Nga. Điều đó là rõ ràng nếu căn cứ vào tính bổ sung lẫn nhau của hai nền kinh tế Nga và Trung Quốc: Phía Nga với nhóm ngành công nghiệp nặng, các ngành có hàm lượng lao động cao và công nghiệp khai khoáng còn Trung Quốc là nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và lực lượng lao động dư thừa, nguồn dự trữ ngoại tệ lớn của Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và nhu cầu lớn về vốn đầu tư của vùng Viễn Đông; sự tương đồng và trình độ phát triển các lực lượng sản xuất của vùng Đông Bắc Trung Quốc với trình độ khoa học kỹ thuật của cơ sở sản xuất vùng Viễn Đông của Nga; sự gần gũi về địa lí của các vùng thuộc Nga và Trung Quốc, nơi mà Trung Quốc có cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai nhanh các quan hệ kinh tế - thương mại với vùng viễn Đông thuộc Nga. Nhìn chung, “việc phát triển hợp tác kinh tế Nga – Trung trong ngắn hạn và trung hạn sẽ diễn ra theo ba hướng”(2): - Thứ nhất là các dự án lớn: vấn đề nói đến ở đây là sử dụng các nguồn năng lượng, về sự hợp tác trong lĩnh vực hàng không, vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác. Về vấn đề nguồn tài nguyên thiên nhiên. Có thể thấy rất rõ sự bổ sung tiềm năng kinh ( 1 ) ( 2 ) Đặng Phương Hoa, …sđd, số 8_2008 Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 82 tế của nhau giữa hai nước Nga và Trung Quốc: ở Đông Xibery và Viễn Đông của Nga có trữ lượng dầu và khí đốt lớn. Trung Quốc hiện là nước tiêu dùng năng lượng nhập khẩu lớn nhất. theo tính toán của các chuyên gia tới năm 2010, để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế của mình, trung Quốc cần nhập khẩu mỗi năm là 100 triệu tấn dầu, 300 triệu m3 khí đốt. - Thứ hai là cùng nhau khai thác các nguồn tài nguyên ở vùng Viễn Đông và Xibery của Nga. Trong trung hạn thì đây là một lĩnh vực hợp tác đầy hứa hẹn. Nga đặt ra nhiệm vụ khôi phục các vùng nói trên như một nhiệm vụ chiến lược dài hạn. Tuy nhiên, Nga không thể giải quyết nhiệm vụ này một mình được. Nga rất có thể đưa Trung Quốc vào sự nghiệp chấn hưng vùng Viễn Đông và Xibery, tức là sử dụng nhân lực Trung Quốc ở quy mô lớn, lập ra các doanh nghiêp liên doanh liên kết khác nhau, v.v… Chính phủ Trung Quốc có rất nhiều chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào các vùng sát biên giới với Nga như Hắc Long Giang, khu tự trị Nội Mông… Đây là những điều kiện rất hấp dẫn đối với Nga, vì nó khuyến khích sự phát triển các khu vực biên giới của Nga và điều đó sẽ góp phần làm giảm sự chênh lệch về trình độ và tốc độ phát triển kinh tế giữa các vùng giáp ranh của hai quốc gia. - Thứ ba là thương mại truyền thống và hợp tác kỹ thuật. Trung Quốc là một thị trường tiêu thụ lý tưởng về nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp nặng. trong khi Nga lại là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản… Ngoài nguồn dầu, khí khổng lồ Nga còn có trữ lượng lớn tài nguyên như sắt, than đá và các kim loại quý hiếm cần cho công nghiệp điện tử, một ngành mà Trung Quốc đang có chiến lược phát triển mạnh và các ngành công nghiệp khác như kim loại thuộc nhóm platin, trong khi Nga là nước có thể đáp ứng 1/3 nhu cầu chất palladi của cả thế giới. Bản thân Nga cũng là thị trường tiêu thụ rất lớn các sản phẩm tiêu dùng của Trung Quốc, đặc biệt là các ngành công nghiệp nhẹ như hàng dệt, may, giày, dép và hàng điện tử sinh hoạt. Bước vào thế kỷ XXI, khu vực châu Á – Thái Bình Dương trở thành trung tâm phát triển kinh tế và chính trị mới và quan trọng của thế giới mà trong đó, Nga và Trung Quốc đóng vai trò quan trọng. Tương lai phát triển quan hệ đối tác giữa hai nước sẽ ảnh hưởng đến hình thù của các quan hệ khu vực và tạo thế cân bằng trong một trật tự thế giới có lợi hơn cho sự phát triển của các quốc gia. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 83 Kết luận. Trước sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào Trung Á, vốn là khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga nhưng lại có vị thế vô cùng quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia của Trung Quốc. Và việc Mỹ mở rộng NATO đến sát biên giới phía tây của Nga đã khiến hai nước này xích lại gần nhau một cách tự nhiên và hợp tác chặt chẽ hơn trong việc dành lại quyền kiểm soát ở khu vực Trung Á. Do đó Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) đã ra đời như là một sự đảm bảo cho lợi ích của Trung Quốc và Nga ở khu vực này. Sự ra đời của SCO cũng phù hợp với mong muốn và lợi ích của các quốc gia Trung Á, vì trong thời điểm đó các nước Trung Á cũng đang phải đối phó với những khó khăn về chính trị và an ninh. Trong nước liên tục diễn ra các cuộc biểu tình phản đối chính phủ, sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái và sự can thiệp ngày càng sâu của nước ngoài vào công việc nội bộ của các nước này. SCO là sự đảm bảo an ninh và nền độc lập cho các nước Trung Á thông qua việc cam kết giúp đỡ nhau giữa các thành viên. Đặc biệt là việc thực hiện cam kết giảm lực lượng quân sự vùng biên giới xuống mức thấp nhất và giải quyết ổn thỏa đường biên giới chung với Trung Quốc là những cái lợi đầu tiên mà các nước Trung Á được hưởng từ SCO. Ngoài ra, việc gia nhập SCO cũng là cách các nước Trung Á muốn để Nga và Trung Quốc tự làm giảm ảnh hưởng của nhau trong việc tạo lập quyền kiểm soát của mỗi nước đối với khu vực, đồng thời mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh tế và hợp tác khu vực. Mỹ ra sức tăng cường ảnh hưởng đến khu vực Trung Á, bằng chiêu bài “chống khủng bố” và “dân chủ” nhằm đưa quân đội của Mỹ vào Trung Á, biến chính phủ các nước ở Trung Á thành chính phủ thân Mỹ, một mặt nhằm khống chế Nga và Trung Quốc mặt khác là khống chế nguồn dầu lửa quan trọng của khu vực này. Để đối phó với Mỹ, nước cờ của Trung Quốc và Nga là củng cố và phát triển Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, khuyến khích các nước SCO hành động đa phương để ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này, tác động đến tư tưởng các nước Trung Á để các nước thấy rằng: Trung Quốc và Nga hoàn toàn có khả năng cung cấp những gì mà Mỹ cung cấp cho họ. Mặt khác việc hợp tác trong SCO còn đảm bảo cho các nước Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 84 này sự ổn định về an ninh từ hai cường quốc láng giềng và hoàn toàn không có lợi nếu họ quay lưng lại với Trung Quốc và Nga. SCO ngày càng khẳng định được vị trí của mình đối với khu vực và quốc tế, tổ chức này đã thực sự trở thành sân chơi, thành bàn cờ đầy kịch tính và lí thú, trong đó Nga và Trung Quốc đang sử dụng những con bài chiến lược để tạo sự đối trọng với Mỹ, gạt dần Mỹ khỏi “khu vực sân sau sống còn” của mình, đẩy chiến lược của Mỹ ở Trung Á đi vào ngõ cụt. Với Trung Quốc sự chủ động thúc đẩy những cơ chế và khuôn khổ hợp tác an ninh khu vực đã cạnh tranh, và phá vỡ cấu trúc an ninh “trục và nan hoa” tại khu vực Đông Á nói chung và thế trận “cài răng lược” mà Mỹ đang định hình quanh lãnh thổ Trung Quốc. Với Nga, SCO cũng đã giúp Nga dành lại vị thế của mình tại các nước Trung Á, chặn đứng âm mưu của Mỹ và NATO trong việc bao vây, kìm hãm Nga trong biên giới lãnh thổ nước mình. Cùng những phản ứng của chính các nước Trung Á với Mỹ thời gian gần đây (hiện nay Mỹ không còn một căn cứ quân sự nào trên lãnh thổ của 4 nước Trung Á thuộc SCO) rõ ràng SCO là một bằng chứng cho sự thành công của quan hệ Trung _Nga. Hiện nay Mỹ đã phải thừa nhận sức mạnh của SCO và vai trò của tổ chức này đối với việc ổn định tình hình Trung Á. Trong kỳ hội nghị của SCO tháng 3/2009 vừa qua, lần đầu tiên Mỹ cử đại diện tham dự với tư cách khách mời. Điều này cho thấy Mỹ đang rất cần “sân chơi” của SCO và muốn thông qua diễn đàn của tổ chức này giải quyết những khó khăn mà Mỹ đang gặp phải tại Afghanistan và cải thiện quan hệ với đối thủ “khó chịu” Iran. Có thể thấy, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, quan hệ Trung –Nga không phải là liên minh cũng không nhằm đối đầu với bất cứ nước thứ ba nào, kể cả Mỹ. Vì thực tế cả Trung Quốc và Nga đều rất coi trọng hợp tác với Mỹ, cần khoa học- kỹ thuật của Mỹ trong quá trình phát triển của mình. Tuy nhiên do chính sách đơn cực của Mỹ mà cả Trung Quốc và Nga đều muốn dùng quan hệ hợp tác hai nước, làm giảm bớt sức ép từ Mỹ và nâng cao tiếng nói, khẳng định vị thế nước lớn của mình trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế hiện nay. Nhưng mối quan hệ đối tác chiến lược Trung –Nga không phải chỉ là quan hệ song phương đơn thuần mà nó còn bao hàm sự xuất hiện của một liên minh thống nhất chống lại Mỹ, vì vậy nó đang ngày càng được xem như là một động lực quan trọng để thúc đẩy xu thế đa cực hoá của thế giới. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 85 Quan hệ Trung –Nga có tính chất bổ sung cho nhau, khó có thể nói Trung Quốc cần Nga hơn hay Nga cần Trung Quốc hơn. Trung Quốc cần vũ khí, năng lượng và sự ủng hộ quốc tế của Nga. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất để kết nối quan hệ Trung –Nga là lĩnh vực quốc phòng và năng lượng. Nhu cầu về vũ khí để tăng cường sức mạnh, tăng cường khả năng đối phó với những đe doạ từ phía Mỹ và thống nhất Đài Loan, mà Nga là một đối tác đắc lực, Trung quốc còn được mệnh danh là “người khổng lồ thiếu năng lượng”. Nhất là sau khi ra nhập WTO tháng 11/2001, kinh tế Trung quốc phát triển mạnh và nguồn dầu mỏ ở Trung Đông bị Mỹ khống chế thì Trung Quốc đứng trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng. Trong khi Nga với nguồn dầu khí to lớn của mình, có thể coi là nơi cung ứng nguồn năng lượng lớn đảm bảo an ninh năng lượng cho Trung Quốc mà Mỹ không thể can thiệp. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng rất cần sự ủng hộ quốc tế của Nga để tiếng nói của Trung Quốc trên trường quốc tế có sức nặng hơn. Ngoài ra, trong lĩnh vực kinh tế, sự hợp tác Trung –Nga cũng mang lại những cơ hội phát triển cho nền kinh tế Trung Quốc, vì Nga là một thị trường đầy tiềm năng và chưa bão hoà… Chính do những yếu tố này mà Trung Quốc coi trọng việc xây dựng mối quan hệ chiến lược với Nga. Ngược lại, Nga cần tiền và sự ủng hộ chính trị của Trung Quốc thông qua việc mua vũ khí, năng lượng và quan hệ hợp tác thương mại, Trung Quốc đã đáp ứng được nhu cầu của Nga. Nga đã dùng con bài vũ khí và năng lượng với Trung Quốc để tạo cơ hội cho sự phục hồi và phát triển của mình. Bên cạnh đó, sự ủng hộ về chính trị của Trung Quốc với Nga cũng là một động lực gắn kết quan hệ Trung -Nga. Xuất phát từ có chung một mục đích, Trung Quốc luôn ủng hộ Nga trong các vấn đế như: Chống chủ nghĩa ly khai ở Chesnia, vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, vấn đề Iran, và ủng hộ Nga gia nhập WTO… qua đó sức mạnh trong tiếng nói của Nga được nhân lên, vì thế Nga rất cần có sự ảnh hưởng của một Trung Quốc đang “trỗi dậy” để tăng thêm trọng lượng cho mình trong các vấn đề quốc tế cũng như trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ. Hơn thế nữa, nếu Trung Quốc được coi là một nước đang “trỗi dậy” có sức mạnh đe doạ đến vị trí và những tính toán của Mỹ thì Nga là nước kế thừa duy nhất sức mạnh siêu cường của Liên Xô cũ mà hiện nay sức mạnh đó đang được phục Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 86 hưng với tiềm lực quân sự được đánh giá ngang ngửa Mỹ và chính sách “an ninh năng lượng” khiến vị thế của Nga đang trở lại mạnh mẽ. Có thể nói, Nga và Trung Quốc hiện nay thực sự là một cặp “long hổ tương phùng”, và sự kết nối của hai nước sẽ tạo nên một sức mạnh đòn bẩy nâng cao hơn nữa vị thế của mỗi nước. Như vậy, Trung Quốc và Nga đã gặp nhau ở tư duy chiến lược và mục đích hành động, từ đó cả hai nước đều muốn dựa vào nhau, bổ sung cho nhau để tạo sức mạnh toàn diện. Đây là cơ sở khẳng định sự sâu rộng và bền vững trong quan hệ Trung –Nga. Sự gắn bó hơn giữa Trung Quốc và Nga càng làm tăng thêm sức mạnh đối trọng trong quan hệ với Mỹ, nó là một cơ sở đảm bảo có lợi ích cho hòa bình, ổn định không chỉ trên phần lớn lãnh thổ lục địa Á – Âu mà cả trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Điều thấy rõ nhất là SCO với hai trụ cột là Trung Quốc và Nga, đang nổi lên như một lực lượng đối trọng với NATO, làm cân bằng cán cân quyền lực không chỉ trong khu vực châu Á –Thái Bình Dương, giữa một bên là SCO và một bên là Mỹ - Nhật bản, mà bằng chứng là sự xuất hiện của nhóm hợp tác an ninh “Bộ tứ”(1). Mà còn tạo thế cân bằng trong quan hệ quốc tế. Sự can thiệp của Mỹ là một chất xúc tác gắn kết các thành viên SCO, và trong giai đoạn này hợp tác năng lượng trở thành “chất keo” tốt nhất gắn kết các thành viên lại với nhau, hình thành một trung tâm sức mạnh và cũng là nhân tố duy trì sức sống và vai trò của SCO, như vậy dầu lửa trở thành một công cụ chính trị, một sức mạnh mà SCO và mỗi thành viên có thể sử dụng để bảo vệ các giá trị của mình trước các thế lực bên ngoài. SCO hiện nay đang là một tổ chức được rất nhiều nước quan tâm và mong muốn tham gia. Theo nhận định của ông Phạm Văn Răn trong bài nghiên cứu về “Những nỗ lực của nước Nga nhằm tăng cường vai trò cường quốc trong quan hệ quốc tế” in trên tạp chí châu Âu thì “SCO luôn để ngỏ khả năng gia nhập cho bất cứ quốc gia nào, thậm trí cả Việt Nam”. Thật vậy, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải hiện nay đang muốn mở rộng quan hệ với các tổ chức khác, trong đó có ASEAN. và Việt ( 1 ) Gồm: Mỹ và ba đồng minh “dân chủ” khác là Nhật Bản, Úc và Ấn Độ,(theo giới học giả bình luận là đối trọng vối sự gia tăng ảnh hưởng của SCO). Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 87 Nam là một trong những nước thành viên của ASEAN lại nằm sát cạnh Trung Quốc, có quan hệ truyền thống tốt đẹp, đang phát triển mạnh với cả hai nước trụ cột SCO là Trung Quốc và Nga thì việc Việt nam có thể xác lập quan hệ với tổ chức này trong tương lai không phải là điều không thể xảy ra. Quan hệ Trung –Nga Trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải là mẫu hình mới trong thực tiễn ngoại giao quốc tế. Nhìn vào tổng thể có thể đánh giá: Quan hệ Trung – Nga đã hoàn thành giai đoạn khôi phục, bình thường hoá và chuyển sang giai đoạn đối tác chiến lược. Quan hệ Trung – Nga trong thập niên đầu thế kỷ XXI, đang bước vào giai đoạn hợp tác toàn diện, ổn định. Cho đến nay cả Trung Quốc và Nga đều đã vươn lên mạnh mẽ khẳng đinh tiếng nói của mình trên trường quốc tế. Việc cả hai nước đồng loạt thể hiện quyền lực đang lên của mình (thể hiện qua Olympic Bắc Kinh đối với Trung Quốc và sự kiện Nam Ossetia và Abkhazia đối với Nga…) với cường độ lớn đánh dấu bước ngoặt quan trọng, chấm dứt “khoảnh khắc đơn cực” thời kỳ Mỹ tuỳ tiện mở rộng địa -chiến lược và áp đặt trật tự đơn cực sau Chiến tranh lạnh. Sức mạnh Trung – Nga làm dịch chuyển cán cân quyền lực toàn cầu, đưa đến sự cân bằng trong quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới đa cực đã và đang được xác lập. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách 1. Nguyễn Huy Quý, Lịch Sử Hiện Đại Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, HN 2004 2. Nguyễn Thế Tăng, Trung Quốc cải cách và mở cửa, NXB. KHXH, HN 2000 3. Trần Thị Vinh, Giáo trình lịch sử thế giớ hiện đại (Quyển II), NXB ĐH Sƣ Phạm, 2008 4. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý, Lịch Sử Trung Quốc, NXB Giáo Dục, 2007 5. Phạm Thị Diệu Linh, Tìm hiểu sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Liên bang Nga Từ 1991 đến nay, KLTN, khoa lịch sử, trƣờng ĐHSP TP.HCM, 2003 6. Trần Thị Kim Phƣợng, Góp phần tìm hiểu hợp tác quân sự Nga –Trung quốc sau chiến tranh lạnh, KLTN, khoa lịch sử, trƣờng ĐHSP TP.HCM, 2008. TẠp chí 1. Phạm Cao Phong, Chính sách của Trung Quốc đối với các nƣớc lớn trong hai thập niên đầu tiên trong thế kỷ XXI, Nghiên cứu Quốc tế, số 2 (57)_2004. 2. Đƣờng lối ngoại giao biên giới mới của Trung Quốc (Tạp chí “Quốc tế và chiến lƣợc” (Pháp) 2005) Các vấn đề Quốc tế, tháng 6_2006. 3. Nguyễn Trung Hiếu, Những nét chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc sau đại hội XVI, Nghiên cứu Quốc tế, số 52_2003. 4. Hoàng Minh Hà, Chiến lƣợc đối ngoại của Liên Bang Nga đến năm 2020 và vị trí của ASEAN trong chiến lƣợc đó, Nghiên cứu châu Âu, số 6_2007. 5. Lê Văn Mỹ, Sự điều chỉnh chiến lƣợc ngoại giao và quan hệ Mỹ - Trung - Nga sau sự kiện 11/09/2001. Nghiên cứu Châu Âu, số 2_2006. 6. Nguyễn Hữu Cát, Ngô Kim Anh, Triển vọng đối tác chiến lƣợc Nga- Trung: Hƣớng tới thế kỷ XXI, Nghiên cứu Châu Âu, số 6_2000. 7. Nguyễn Thái, Những chuyển động mới trong quan hệ của tam giác Nga – Trung – Mỹ thời gian gần đây, Nghiên cứu châu Âu, số 1_2001. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 89 8. Trần Hiệp, Quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nghiên cứu Trung Quốc, số 8_2007. 9. Hoàng Minh Hà, Quan hệ Nga – Trung trƣớc thềm thế kỷ XXI. Nghiên cứu châu Âu, số 5_2000. 10. Đỗ Minh Cao, Nga – Trung: Đối tác chiến lƣợc trên tầm cao mới, Nghiên cứu châu Âu, số 9_2006. 11. Đỗ Minh Cao, Nga và thị trƣờng khí gas Trung Quốc, Nghiên cứu châu Âu, số 6_2006. 12. Đỗ Minh Cao, Tƣơng Quan sức mạnh tổng hợp của Nga, Trung Quốc hiện nay và những năm tới, Nghiên cứu châu Âu, số 3_2007 13. Đỗ Trọng Quang, Ý tƣởng mới về xây dựng tam giác chiến lƣợc Nga - Trung - Ấn, Nghiên cứu châu Âu, số 5_2007. 14. Vũ Dƣơng Huân, Tổ chức hợp tác Thƣợng Hải sau 5 năm thành lập: Kết quả và triển vọng, Nghiên cứu Quốc tế sô 3_2006. 15. Trƣờng Lƣu, Từ cơ chế “5 nƣớc Thƣợng Hải” đến “tổ chức Hợp tác Thƣợng Hải”, Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (38)_2001 16. Nguyễn Thanh Thủy, Quan hệ Trung – Nga trong tổ chức hợp tác Thƣợng Hải, Nghiên cứu Trung Quốc, số 2_2006. 17. Nguyễn Thanh Thuỷ, Động lực kết nối quan hệ đối tác chiến lƣợc Trung-Nga từ 2001 đến nay, Nghiên cứu châu Âu, số 1_2006. 18. Đặng Thanh Toán, Phan Thị Hoài Thu, Tổ chức hợp tác Thƣợng Hải (SCO) – Những bƣớc phát triển mới, Nghiên cứu châu Âu, số 4_2007. 19. Đặng Phƣơng Hoa, Tiến triển trong quan hệ kinh tế Nga và Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 8_2008. 20. Nguyễn Đình Phúc, Hợp tác năng lƣợng trong tổ chức hợp tác Thƣợng Hải (SCO), Nghiên cứu châu Âu, số 3_2008. 21. Nguyễn An Hà, Những động thái mới trong chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga, Nghiên cứu Châu Âu, số 8_2008. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 90 22. Nguyễn Huy Quý, Quan hệ đối ngoại của CHND Trung Hoa qua 30 năm cải cách mở cửa (1978–2008) Thành tựu và kinh nghiệm, Nghiên cứu Trung Quốc, số 9_2008. 23. Đỗ Minh Cao, 2007: Năm Trung Quốc ở Nga: Đỉnh cao mới trong quan hệ Trung – Nga, Nghiên cứu Trung Quốc, số 2_2008. 24. Phạm Văn Răn, Những nỗ lực của nƣớc Nga nhằm tăng cƣờng vai trò cƣờng quốc trong quan hệ quốc tế, nghiên Cứu châu Âu, số 6_2008 Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt Của Thông Tấn Xã Việt Nam: 4/1997 11/1999 14/6/2001 21/7/2001 11/9/2001 26/9/2001 25/11/2001 18/4/2002 27/11/2002. 4/12/2002 6/12/2002 27/12/2002 5/6/2003 5/1/2004 22/6/2004 9/10/2004 10/10/2004 16/10/2004 20/10/2004 29/10/2004 2/7/2005 30/8/2005 6/9/2005 8/9/2005 25/11/2005 15/10/2005 19/12/2005 22/12/2005 8/4/2006 12/7/2006 9/12/2006 22/6/2006 14/7/2007 18/8/2007 21/8/2007 19/10/2007 29/4/2008 29/5/2008 21/8/2008 Một số webside: 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 91 PHỤ LỤC Phụ lục I: TUYÊN BỐ CHUNG GIỮA NƢỚC CHND TRUNG HOA VÀ LIÊN BANG NGA NĂM 2002. Sáng 2/12/2002 đã diễn ra cuộc gặp giữa Tổng thống Nga V.Putin với Tổng bí thư BCHTW ĐCS Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Thủ tướng Chu Dung Cơ, chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã ký Tuyên bố chung về những vấn đề hợp tác trong lĩnh vực chính trị và kinh tế giữa Trung Quốc và Nga. Dưới đây là trích một số nội dung chính như sau: -Nguyên thủ hai nước Trung Quốc và Nga đã thảo luận toàn diện thực trạng và tương lai quan hệ Trung – Nga và tuyên bố rằng đưa quan hệ đối tác chiến lược giữa CHND Trung Hoa và Liên bang Nga đi vào chiều sâu là phù hợp lợi ích lâu dài giữa hai quốc gia và nhân dân 2 nước, là sự lựa chọn lịch sử đúng đắn duy nhất, cũng là nhu cầu phát triển của tình hình thế giới và quan hệ quốc tế. -Nguyên thủ hai nước nhất trí cho rằng Trung Quốc và Nga có tương lai rộng mở và tiềm năng to lớn để phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị và đi sâu hợp tác chiến lược. Hai bên quyết tâm tiêp tục nỗ lực không mệt mỏi, không ngừng thúc đẩy hợp tác hữu nghị cùng có lợi giữa hai nước lên một trình độ mới. -Nguyên thủ hai nước nhắc lại, bất kể tình hình quốc tế có thay đổi như thế nào, bất kể mỗi nước Trung, Nga có những thay đổi như thế nào, hai bên vẫn quyết tâm tuân thủ phương châm và nguyên tắc đã được xác định trong hiệp ước, không ngừng thúc đẩy, mở rộng, bổ sung những nội dung mới và đi sâu vào quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai nước, hai bên cùng phối hợp lập trường và ủng hộ lẫn nhau trong các vần đề có liên quan chặt chẽ đến hai nước,thể hiện đầy đủ tư tưởng chiến lược vĩ đại “mãi mãi là láng giềng tốt, đối tác tốt và không thù địch” cùng với nhân dân và các nước yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới, sẵn sàng đón nhận những thách thức của thời đại mới. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 92 -Phía Nga tiếp tục khẳng định Chính phủ CHND Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc, Đài Loan là bộ phận không thể chia cắt của lãnh thổ Trung Quốc, Nga không thiết lập quan hệ và qua lại về mặt nhà nước với Đài Loan, Nga luôn thừa nhận Tây Tạng là bộ phận không thể chia cắt của Trung Quốc. Phía Trung Quốc ủng hộ những nỗ lực của Nga tấn công các phần tử khủng bố và ly khai ở Chesnia. -Nguyên thủ hai nước tuyên bố sẽ tiếp tục tiến hành đối thoại chính trị một cách mật thiết và tin cậy lẫn nhau, mở rộng và đi sâu hợp tác kinh tế cùng có lợi, tăng cường phối hơp trong các công việc quốc tế, củng cố tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. (Theo TTXVN, TLTK ĐB, ngày 6/12/2002) Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 93 Phụ lục II: TUYÊN BỐ CHUNG HỘI NGHỊ THƢỢNG ĐỈNH SCO Ngày 15/6/2006, Hội nghị thượng đỉnh các nước Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) đã ra tuyên bố chung gồm các nội dung chính như sau: Ngày 15/6, lãnh đạo các nước SCO đã hợp ở Thượng Hải -Trung Quốc với sự tham dự của Tổng thống Kazakhstan N.Nazarbayev, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Tổng thống Kyrgyzstan K.Bakiyev, Tổng thống Nga V.Putin, Tổng thống Tajikistan E.Rakhmonov, và Tổng thống Uzbekistan I.Karimov. Tổng thư ký SCO Trương Đức Quảng và giám đốc Ủy ban chống khủng bố khu vực của SCO V.T.Kasymov cùng tham dự hội nghị. Ngoài ra còn đại diện của các nước quan sát viên và các tổ chức quốc tế, bao gồm: Ấn Độ, Iran, Pakixtan, Afghanistan, chủ tịch ủy ban Điều hành cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và phó TTK ASEAN. Trong quá trình Hội nghị, các nhà lãnh đạo SCO đã ký tuyên bố về kỷ niệm lần thứ 5 ngày thành lập SCO, tuyên bố về vấn đề an ninh thông tin quốc tế, thông qua văn bản quy định mới về Ban thư ký SCO và chương trình hợp tác chống khủng bố, ly khai, và cực đoan giai đoạn 2007 – 2009. Hội nghị còn thông qua một số văn kiện và nhân sự và cơ cấu tổ chức SCO, nhất trí bầu ông Bolat K.Nurgaliyev (người Kazakhstan) làm tổng thư ký SCO nhiệm kỳ 2007 – 2009. Các nguyên thủ của các nước thành viên còn ký một hiệp định về việc tổ chức các hoạt động chung chống chủ nghĩa khủng bố, một hiệp định về phát hiện và ngăn chặn các kênh đột nhập của các phần tử khủng bố, ly khai và cực đoan, một hiệp định liên chính phủ về hợp tác giáo dục, một nghị quyết về Hội đồng doanh nghiệp SCO, và một chương trình hành động của hiệp hội ngân hàng SCO nhằm hỗ trợ các hoạt động hợp tác kinh tế ở khu vực. Các nhà lãnh đạo đã điểm lại những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển của SCO, thảo luận các vấn đề nổi cộm và nhiệm vụ sắp tới, đồng thời trao đổi về quan điểm và hàng loạt các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm. Các nhà lãnh đạo nhấn mạnh SCO đã làm được nhiều việc nhằm triển khai thực hiện các thỏa thuận đã ký tại hội nghị thượng đỉnh 2005 và điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành hợp tác đa phương trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 94 Các nhà lãnh đạo đã thông qua nghị quyết về việc tăng cường hơn nữa vai trò của Ban thư ký SCO trong khuôn khổ của tổ chức này và điều đó sẽ tạo nên động lực cho công việc của cả tổ chức nói chung cũng như tăng cường tính hiệu quả của Ban thư ký nhằm đủ sức đảm đương các nhiệm vụ ngày càng quan trọng hơn trong thời gian tới. Hội đồng điều phối các thành viên SCO sẽ tổ chức thảo luận và ra quyết định vào cuối năm 2006 về chương trình cải cách thể chế đối với Ban thư ký SCO cũng như quy chế hoán vị nhân sự trong Ban thư ký trên tinh thần bảo đảm sự cân bằng và không gây gián đoạn trong công việc của bộ phân này. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của SCO là chống chủ nghĩa khủng bố, ly khai, cực đoan và buôn lậu ma túy, vốn ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ. SCO sẽ tổ chức các cuộc tập trận để tăng cường khả năng phối hợp ứng phó của các thành viên trong việc chống lại vấn nạn này. Các nhà lãnh đạo cũng nhấn mạnh SCO đã có được cơ sở pháp lý như một bộ phận chuyên trách tiến hành các hoạt động hợp tác kinh tế. Việc triển khai thực hiện chương trình hợp tác kinh tế mậu dịch đa phương SCO đã được tiến hành trên thực tế. Việc thiết lập Hội đồng doanh nghiệp SCO và Hiệp hội ngân hàng SCO sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế trong nội bộ tổ chức. Số vốn tín dụng 900 triệu USD do Trung Quốc cung cấp sẽ giúp mở rộng hợp tác khu vực trong thời gian tới. Tất cả các thành viên đều nhất trí ưu tiên hàng đầu cho hợp tác trong các lĩnh vực năng lượng, công nghệ thông tin và giao thông vận tải đều có ý nghĩa đặc biệt đối với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế trong nội bộ SCO trong thời gian tới. Các nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng trước những tiến triển đạt được trong các lĩnh vực hợp tác đa phương như bảo vệ môi trường, giáo dục và thể thao. Các bên cũng nhất trí tăng cường sự hiểu biết giữa các nước thành viên và sẽ tích cực xúc tiến các hoạt động giao lưu phi chính phủ trong nội bộ các nước thành viên SCO. Các nhà lãnh đạo bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn đối với những sáng kiến nghị viện SCO ký tại hội nghị các nhà lãnh đạo quốc hội SCO ở Moscow ngày 30/5/2006, cho rằng hiệp định này là sáng kiến nhằm củng cố hơn nữa SCO và giúp tăng cường các mối quan hệ liên nghị viện trong khuôn khổ SCO. Các nhà lãnh đạo cho rằng trong bối cảnh tình hình quốc tế liên tục biế đổi và hoạt động của SCO ngày càng sôi động, cần phải tăng cường hơn nữa khả năng Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 95 thông tin của SCO và giao cho Ban thư ký soạn thảo các kiến nghị cụ thể về vấn đề này. Các thành viên SCO đều đang phải đối mặt với mối đe dọa chung về an ninh thông tin và điều này cần phải được giải quyết thông qua các biện pháp phối hợp với nhau. SCO đã chỉ định một nhóm chuyên gia chịu trách nhiệm phát thảo một chương trình hành động dài hạn cho việc bảo vệ an ninh thông tin trước khi diễn ra Hội nghị thượng đỉnh 2007. SCO sẽ tích cực mở rộng hợp tác nội bộ trên diễn đàn quốc tế dưới nhiều hình thức khác nhau và sẽ tổ chức các cuộc thảo luận định kỳ với các nước quan sát viên cũng như các tổ chức quốc tế hữu quan. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được thông qua nhóm liên lạc SCO – Afghanistan đã đi vào hoạt động. Các nhà lãnh đạo bày tỏ sự hài lòng trước sáng kiến do SCO đưa ra tại Tasken năm 2004 về việc thiết lập quan hệ hợp tác giữa các nước, giữa các tổ chức quốc tế ở Châu Á – Thái Bình Dương đã được đông đảo các nước tích cực hưởng ứng. SCO hoan nghênh việc ký kết các văn kiện hợp tác giữa SCO với ASEAN, CIS, cộng đồng kinh tế Á – Âu (EURASEC). SCO sẵn sàng thiết lập các quan hệ hợp tác tương tự với các tổ chức quốc tế khác trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Ban thư ký SCO sẽ cùng với ủy ban Chống khủng bố của SCO giám sát chặt chẽ việc triển khai các văn kiện hợp tác đã ký giữa SCO với các tổ chức quốc tế khác, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác cụ thể với các nước quan sát viên. Các nhà lãnh đạo cũng chỉ định Hội đồng điều phối SCO chịu rách nhiệm đưa ra các kiến nghị về việc mở rộng SCO. Tiến trình này phải phù hợp với mục đích và tiêu chí đã đặt ra trong hiến chương thành lập SCO, và phải bảo đảm tính hiệu lực của tất cả các hiệp định từng tạo nên cơ sở pháp lý của tổ chức này. Việc mở rộng SCO phải giúp tăng cường tính thống nhất và nguyên tắc đồng thuận trên tất cả mọi vấn đề. Hội nghị nhất trí sẽ chuyển giao quyền chủ tịch SCO cho Kyrgystan vào năm 2007 và hội nghị thượng đỉnh của SCO năm 2007 sẽ được tổ chức tại thủ đô Biskek của Kyrgystan./. (Theo TTXVN, TLTK ĐB, ngày 20/6/2006) Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 96 Phụ lục III: TUYÊN BỐ CHUNG TRUNG QUỐC – NGA VỀ CÁC VẤN ĐỀ QUỐC TẾ NĂM 2008 Dưới đây là toàn văn “Tuyên bố chung Trung Quốc – Nga về các vấn đề trọng đại” do Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Nga Dmitry Medvedev ký tại Bắc Kinh ngày 23/5/2008 trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Nga. CHDCND Trung Hoa và Liên Bang Nga (dưới đây là hai bên). Căn cứ vào trách nhiệm gánh vác đối với hòa bình và phát triển của thế giới nhất trí đối với các vấn đề quốc tế trọng đại. Tuân thủ “Tuyên bố chung CHDCND Trung Hoa và Liên Bang Nga về đa cực hóa thế giới và trật tự thề giới mới” 23/4/1997 và “Tuyên bố chung CHDCND Trung Hoa và Liên Bang Nga về trật tự quốc tế thế kỷ XXI” 1/7/2005 Toàn văn Tuyên bố như sau: I. Thế giới ngày nay đang trong tình trạng biến đổi lớn. Mưu cầu hòa bình, mưu cầu phát triển, thúc đẩy hợp tác đã trở thành yêu cầu thời đại. Xu thế thế giới đa cực hóa không thể đảo ngược kinh tế toàn cầu hóa phát triển theo chiều sâu, tốc độ khoa học công nghệ tăng nhanh. Hợp tác toàn cầu và hợp tác khu vực diễn ra rộng rãi. Đồng thời chủ nghĩa đơn phương và chính trị cường quyền trên thế giới vẫn tồn tại, xung đột cục bộ do mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo liên tiếp xảy ra, kinh tế toàn cầu mất cân bằng nặng, những đe dọa mới, thách thức mới liên tiếp xuất hiện. Do vậy, các nước trên thế giới cần cùng nhau cố gắng, ứng phó có hiệu quả với đe dọa và thử thách chung, xây dựng thế giới hài hòa, hòa bình bền vững, cùng phồn vinh. Cần tôn trọng tôn chỉ và nguyên tắc của “Hiến Chương Liên Hiệp Quốc”, nghiêm túc tuân thủ các nguyên tắc quan hệ quốc tế như tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp công việc của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, vứt bỏ tư duy “Chiến tranh lạnh” và chính trị tập đoàn, nêu cao tinh thần bình đẳng, dân chủ, hợp tác. II. Hai bên ủng hộ Liên Hiệp Quốc phát huy vai trò chủ đạo trong công việc giữ gìn hòa bình thề giới, thúc đẫy cùng phát triển là không thể thay thế. Hai bên nhất trí tán thành những cải cách cần thiết và hợp lý Liên Hiệp Quốc, tăng cường quyền uy của tổ chức này, nâng cao hiệu lực của nó, để tăng cường năng lực ứng phó với đe Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 97 dọa mới, thách thức mới. Cải cách cần phải tiến hành theo nguyên tắc tuần tự từng bước, hiệp thương nhất trí. III. Hai bên lên án chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức. Hai bên chỉ ra rằng chủ nghĩa khủng bố đang rắp tâm bành trướng về tư tưởng, có sự liên kết ngày càng chặt chẽ với hoạt động tội phạm có tổ chứ và buôn lậu ma túy xuyên quốc gia. Hai bên bày tỏ lo ngại về điểu này. Cộng đồng quốc tế nên lấy “Hiến Chương Liên Hiệp Quốc” và các nguyên tắc quan hệ quốc tế được công nhận làm cơ sở cùng chống chủ nghĩa khủng bố trong khuôn khổ đa phương. Chống khủng bố cần vứt bỏ tiêu chuẩn kép, không được mượn danh nghĩa chống khủng bố để thực hiện mục đích đi ngược lại việc bảo vệ ổn định và an ninh quốc tế. Vì vậy, hai bên sẽ cùng nhau cố gắng tăng cường vai trò điều phối của trung tâm Liên hiệp quốc trong quá trình chống chủ nghĩa khủng bố và ứng phó với các đe dọa, thách thức mới khác của cộng đồng quốc tế, thực hiện các văn kiện chống khủng bố quan trọng của liên hiệp quốc gồm “Chiến lược chống khủng bố toàn cầu của Liên Hiệp Quốc”, thúc đẩy các bên nhanh chóng đạt được nhất trí về “Công ước toàn diện về Chủ nghĩa khủng bố Quốc tế”. Hai bên sẽ có biện pháp tích cực, động viên rộng rãi các lược lượng xã hội bao gồm các tổ chức phi chính phủ và các giới nhân sĩ ngăn chặn trào lưu chủ nghĩa khủng bố, xóa bỏ đe dọa và thách thức mới. Hai bên nhắc lại sẽ kiên định không thay đổi tăng cường hợp tác trong các tổ chức và diễn đàn khu vực, trước hết là trong khuôn khổ SCO, diễn đàn khu vực ASEAN, tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và các diễn đàn đa phương khác chống chủ nghĩa khủng bố, chống buôn lậu ma túy và tội phạm. Hai bên sẽ cùng nỗ lực xây dựng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, mạng lưới đối tác của các tổ chức quốc tế và khu vực và cơ cấu chống khủng bố của nó. IV. Hai bên nguyện cùng nhau thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế phát triển theo hướng cân bằng, cùng ưu đãi, cùng thắng lợi, kêu gọi cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước phát triển tăng thêm viện trợ phát triển thực hiện toàn diện cam kết cung cấp viện trợ cho các nước đang phát triển tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của họ. Hai bên ủng hộ thi hành chiến lược mở cửa cùng có lợi, cùng thuận lợi, ủng hộ thúc đẩy đàm thoại Bắc – Nam và hợp tác Nam – Nam, thu hẹp khoảng cách Nam – Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 98 Bắc. Để làm điều này cần hoàn thiện thể chế mậu dịch và tài chính tiền tệ quốc tế, phản đối chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và chủ nghĩa bảo hộ đầu tư, thông qua thương lượng bình đẳng và hợp tác để giải quyết các vấn đề cọ xát kinh tế mậu dịch. V. Hai bên cho rằng để bảo vệ hòa bình lâu bền, các nước trên thế giới cần cùng nhau cố gắng, lấy “Hiến chương Liên Hiệp Quốc” và các nguyên tắc tin cậy lẫn nhau, quan tâm tới lợi ích của nhau, hợp tác bình đẳng, công khai, có thể dự liệu làm cơ sở, thúc đẩy hệ thống an ninh quốc tế phát triển theo hướng phù hợp hơn với yêu cầu thời đại và lợi ích chung của các nước. Hai bên cho rằng an ninh quốc tế là toàn diện và không thể tách rời nhau. Không thể lấy an ninh của một nước này làm vật hy sinh để bảo đảm an ninh cho một số nước khác, bao gồm việc mở rộng liên minh quân sự chính trị. Hai bên nhấn mạnh cần phải tôn trọng và quan tâm đầy đu tới lợi ích và mối lo ngại của các nước hữu quan. Hai bên nguyện tiếp tục tích cực thúc đẩy tiến trình kiểm soát quân bị quốc tế dưới tiền đề không làm giảm bớt an ninh của các nước, nỗ lực thúc đẩy tính hiệu quả của hiệp ước đa phương về kiểm soát và phòng chống phổ biến vũ khí. Hai bên chủ trương giải quyết vấn đề chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và phương tiện vận chuyển chúng trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. thông qua biện pháp chính trị và ngoại giao, thúc đẩy an ninh quốc tế. Hai bên cho rằng xây dựng hệ thống chống tên lửa đạn đạo toàn cầu, bao gồm việc bố trí hệ thống này hoặc triển khai sự hợp tác hữu quan ở một số khu vực trên thế giới, là không có lợi cho việc duy trì sự cân bằng và ổn định chiến lược, không có lợi cho sự cố gắng kiểm soát quân bị và chống phổ biến vũ khí, không có lợi cho sự tin cậy giữa các nước và sự ổn định khu vực. Hai bên bầy tỏ lo ngại về điều này. Hai bên chủ trương xây dựng hòa bình không gian vũ trụ, phản đối vũ khí hóa vũ trụ và chạy đua vũ trang vũ trụ, nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc ký kết các văn kiện pháp lệnh quốc tế hữu quan về phòng ngừa bố trí vũ khí trên vũ trụ trong khuôn khổ hội nghị đàm phán giải trừ quân bị Giơnevơ. VI. Hai bên cho rằng phát triển bền vững là lĩnh vực quan trọng của hợp tác quốc tế. Các nước cần phải tăng cường trao đổi kinh nghiệm, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và tính đa dạng sinh vật, nỗ lực xây dựng xã hội loại hình thân thiện môi trường, tiết kiệm tài nguyên. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 99 Hai bên coi trọng cao độ vấn đề biến đổi khí hậu, nêu lại nghĩa vụ thực thi toàn diện “Công ước khung Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu” và “Nghị định thư kyoto” của nó, sẵn sàng triển khai đàm thoại và hợp tác về lĩnh vực này trên cơ sở nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc của công ước, đặc biệt là nguyên tắc “trách nhiệm chung nhưng có phân biệt” và năng lực của các bên. Các nước phát triển cần phải cung cấp tiền và sự hỗ trợ công nghệ cho các nước đang phát triển nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của các nước đang phát triển. VII. Hai bên kêu gọi các nước tăng cường đàm thoại và phối hợp về năng lượng theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi để ổn định và hoàn thiện thị trường năng lượng quốc tế, cùng nhau giữ gìn an ninh năng lượng toàn cầu. Hai bên ủng hộ thành lập và thực hiện quan điểm an ninh năng lượng mới hợp tác với nhau, phát triển đa nguyên, hợp đồng bảo đảm đẩy nhanh nghiên cứu và phổ biến công nghệ năng lượng mới có lợi cho bảo vệ môi trường. VIII. Hai bên đánh giá tích cực sự tiến triển mà cuộc đàm phán sáu bên về hạt nhân Bán đảo Triều Tiên đạt được, kêu gọi các bên giữ vững phương hướng đàm thoại đàm phán và giải quyết hoà bình, tôn trọng cùng nhau tiến bước, thể hiện sự linh hoạt, thúc đẩy tiến trình đàm phán sáu bên, sớm thực hiện phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa các nước hữu quan, thực hiện ổn định bền vững cho khu vực Đông Bắc Á. Hai bên nguyện tôn trọng, phát huy vai trò tích cực trong việc này. Hai bên chủ trương thông qua đàm thoại và hiệp thương bình đẳng để giải quyết vấn đề hạt nhân Iran, vấn đề tái thiết Irắc và Apganixtan và các vấn đề Trung Đông, CôXôVô, XuĐăng (Darfur) và các vấn đề quốc tế cấp bách khác. Kêu gọi các bên trong khi giải quyết các vấn đề trên lưu ý đến an ninh toàn cầu và khu vực, dồn sức cho nỗ lực ngoại giao, tránh xung đột vũ khí và các phương thức cực đoan khác, thận trọng trong việc sử dụng biện pháp trừng phạt và quan tâm đến lợi ích của các nước hữu quan. IX. Hai bên cho rằng tính đa dạng văn minh, văn hoá là động lực quan trọng của tiến bộ loài người. Các nước cần phải tuân theo nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, tăng cường đàm thoại giữa các nền văn minh khác nhau, các nền văn hóa khác nhau, các tôn giáo khác nhau, thực hiện sự phát triển hài hòa và dung hợp lẫn nhau giữa các nền văn minh và văn hóa. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 100 X. Hai bên nhắc lại nguyên tắc tôn trọng tính phổ biến của nhân quyền, đồng thời cho rằng các nước có quyền thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền căn cứ vào tình hình của các nước. Trong vấn đề nhân quyền, các nước cần phải trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền và không can thiệp công việc nội bộ của nhau, thông qua đàm thoại và hợp tác để trừ bỏ các mâu thuẫn, chống lại việc chính trị hóa về nhân quyền và áp dụng tiêu chuẩn kép về nhân quyền, chống lại việc mượn vấn đề về nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, thúc đẩy cộng đồng quốc tế xử lý vấn đề nhân quyền một cách khách quan. XI. Hai bên nguyện cùng ra sức tăng cường đàm thoại giữa các nhà lãnh đạo các nước G8 và các nước đang phát triển, tăng cường chuyên cơ hợp tác quốc tế như 4 nước BRIC. Hội nghị ngoại trưởng Trung Quốc – Nga - Ấn Độ, nguyện trên cơ sở nhất trí lợi ích, thúc đẩy xây dựng và phát triển hơn nữa các cơ chế hợp tác quốc tế trên cũng như cơ chế hợp tác quốc tế khác, tìm kiếm biện pháp giải quyết qua hệ thống nhất trí các thách thức và đe dọa đối với an ninh toàn cầu và khu vực và phát triển bền vững. Hai bên hoan nghênh việc xây dựng cơ chế hợp tác giữa các cơ cấu nhất thể hóa khu vực, đặc biệt là tăng cường hợp tác kinh tế, giao lưu văn hóa xã hội ở khu vực này. Trung quốc ủng hộ Nga hội nhập tích cực hơn vào tiến trình nhất thể hóa Đông Á. Hai bên cho rằng tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) đã trở thành nhân tố cực kỳ quan trọng để củng cố ổn định chiến lược, bảo vệ hòa bình và an ninh, phát triển các loại hình hợp tác kinh tế và nhân văn khu vực Âu – Á. Hai bên cho rằng để giải quyết các vấn đề cấp bách hiện nay và khiến cho các bên có thể chấp nhận được, làm sâu sắc đối ngoại giữa các tổ chức hợp tác Thượng Hải với các nước, các tổ chức quốc tế và các diễn đàn hữu quan trên cơ sở nguyên tắc mở cửa và không nhằm vào nước thứ ba là điều vô cùng quan trọng. Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tổng thống Liên Bang Nga Hồ Cẩm Đào Dmitry Medvedev Bắc Kinh, ngày 23/05/2008 Theo TTXVN T5 (098TTX – 123TTX) Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 101 Phụ lục IV : MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ TỔ CHỨC SCO - “…Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) được thành lập như là một cơ cấu đa phương nhằm giải quyết tình trạng khó xử của khu vực Âu –Á trong thế kỷ 21. SCO cố gắng tạo ra một trạng thái cân bằng, thông qua một khuôn khổ hợp tác giữa các nước thành viên trong cơ cấu hậu lưỡng cực…” (“SCO và chủ nghĩa đa phương châu Á trong thế kỷ 21”, TTXVN, TLTKĐB 07- 04-2008) - “…Robert Kagan (một chuyên gia người Mỹ).. cho rằng SCO là Tổ chức nguy hiểm nhất mà nhân dân Mỹ từng biết.. Điều quan trọng là SCO đã giành được một sự định hướng quân sự, tương tự như NATO tại châu Á – cam kết viện trợ lẫn nhau khi xẩy ra mối đe dọa. Cả Trung Quốc và Nga, đều đang tìm kiếm các căn cứ quân sự tại khu vực này – đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự qui mô lớn…” ( “Phải chăng SCO là một tổ chức chống lại Mỹ”, TTXVN, TLTKĐB 07-04-08) -“…Sự mở rộng của SCO đã tăng cường sức mạnh an ninh cho khu vực, SCO đã thật sự trở thành đối trọng của Mỹ ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương..” ( Nguyễn Thanh Thuỷ, “Động lực kết nối quan hệ đối tác chiến lược Trung - Nga từ năm 2001 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 1_2006) -“…SCO được nhìn nhận như một thành trì đang lớn mạnh chống lại sự bành Trướng của Mỹ ở khu vực Trung Á và sức ép từ Phương Tây về những vấn đề dân chủ và nhân quyền. Chính sự kết hợp an ninh bao trùm lên một khu vực rộng lớn từ NATO ở phía Tây sang Trung Quốc ở phía Đông làm dấy lên sự so sánh với Hiệp ước Varsava trong kỷ nguyên Chiến tranh lạnh. Thậm chí một số nhà phân tích còn suy đoán rằng SCO trong tương lai còn có thể trở thành một liên minh quân sự mới kiểu NATO ở phía Đông hoặc là một Varsava mới. …Một số tư tưởng của SCO đã ngày càng được nhiều nước công nhận, kinh nghiệm của SCO dường như “đã xâu chuỗi thành hệ thống để tạo nên một tổ chức an ninh châu Âu cho một khu vực rộng lớn gồm châu Âu, châu Á và Bắc Thái Bình Dương” Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 102 ( “Về Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) và Hội nghị cấp cao SCO 2007”, TTXVN, TTTL 21-08-2007) -“…Phạm vi ảnh hưởng hiện nay của SCO là khoảng 25% dân số thế giới, tổng diện tích các nước thành viên chiếm khoảng 60% lãnh thổ của 2 châu lục Á, Âu. Điều này làm cho SCO có thể là một đối trọng mới của NATO sau khi Khối Hiệp ước Varsava tan rã… và ngày nay, SCO được coi như là một “Varsava mới ở phương Đông”, là lực lượng đối trọng với NATO khi tổ chức này đang mở rộng tiến sát biên giới với Nga.” (Từ điển Bách khoa Thư Wikipedia, 60100) -“…Ngoài Pakixtan và Ấn Độ, Belarus mới đây cũng đưa ra đề nghị xin gia nhập SCO. Có điều là đề xuất của Minsk dường như không nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia thành viên SCO. Theo lý giải của họ, Belarus là một quốc gia thuần túy nằm tại châu Âu, chứ không nằm trong khu vực tiếp giáp Âu - Á như các thành viên SCO. Rõ ràng, với những xu hướng phát triển như hiện nay, SCO chắc chắn sẽ trở thành một liên minh quân sự - chính trị lớn, một yếu tố quan trọng tác động đến bản đồ chính trị thế giới trong tương lai” ( theo -“…SCO dần dần đã khẳng định mình là một liên minh chính trị - quân sự quan trọng trên thế giới có xu hướng chống lại ảnh hưởng của Mỹ và NATO tại khu vực Trung Á, có vai trò ngày càng tăng trong nỗ lực chung nhằm hình thành một thế giới đa cực… …Nếu những kế hoạch quân sự hóa SCO được thực sự triển khai, tổ chức này sẽ trở thành một liên minh quân sự chiến lược hùng mạnh, liên kết gần một nửa số dân trên khắp hành tinh và hai kho vũ khí hạt nhân lớn (Nga và Trung Quốc) cùng hơn 4 triệu binh sĩ nhiều hơn cả quân số của NATO..” (theo Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 103 Phụ lục V: Hình Ảnh Tổng thống Nga V.Putin và Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tại Hội Nghị Trung_Nga năm 2001 Chủ tịch TQ Hồ Cẩm Đào (trái) và Tổng thống Nga V.Putin Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 104 Nga Kazakhstan Mông Cổ Uzbekistan Trung Quốc Iran Afghan Pakistan Ấn Độ Bản đồ các nƣớc SCO (Thành viên: xanh đậm, quan sát viên: xanh lá cây) Trụ sở của Tổ chức SCO tại Bắc Kinh Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 105 Logo của Tổ chức Hợp Tác Thƣợng Hải (SCO) Tổng thống Nga V.Putin Chủ tịch TQ Hồ Cẩm Đào (Bắc Kinh 2006) Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 106 Nguyên thủ sáu nƣớc thành viên SCO trong lễ khai mạc Hội Nghị SCO 2006 Các nhà lãnh đạo tham dự SCO 2006 Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 107 Khung cảnh một cuộc họp thƣợng đỉnh SCO Các nhà lãnh đạo SCO trƣớc sa bàn mô hình toàn cảnh cuộc tập trận “Sứ mệnh hoà bình 2007” Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 108 Binh sĩ Trung Quốc đứng trƣớc những chiếc xe bọc thép vừa chở quân vừa có thể tham gia tấn công trong cuộc tập trận 2007 Khung cảnh tập trận “Sứ mệnh hoà bình 2007” Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 109 Hai nhà lãnh đạo Trung Quốc và Nga theo dõi tập trận qua ống nhòm. Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao Nga Sergei Lavrow và ngƣời đồng nhiệm Trung Quốc Dƣơng Khiết Trì trong buổi ký kết hiệp định biên giới tại Bắc Kinh 21/7/2008 Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 110 Nguyên thủ sáu nƣớc trong lễ khai mạc hội nghị thƣợng đỉnh SCO 2008 Tổng thống Nga Dmitry Medvedev (phải) gặp ngƣời đồng cấp Iran Ahmadinejad bên lề Hội nghị thƣợng đỉnh SCO ở Tajikistan ngày 28/8/2008. Khoá luận tốt nghiệp GVHD:Ths. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Nguyễn Thị Nhị trang 111 Tổng thống Nga D.Medvedev và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong cuộc tiếp xúc song phƣơng tại Hội nghị SCO – 2008 Ông Patrick Moon_đại diện Mỹ tham dự hội nghị của SCO 3/2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnguyethinhi.pdf