Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia đồng thời cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Theo xu hướng tự do hoá thương mại, các rào cản thương mại chủ yếu là các rào cản thuế quan và một số rào cản phi thuế khác sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp sẽ không gặp khó khăn gì khi tiếp cận và thâm nhập các thị trường nước ngoài bởi các quốc gia đang có xu hướng sử dụng một loại rào cản thương mại mới: rào cản kỹ thuật để thay thế cho các rào cản đã bị xoá bỏ. Rào cản kỹ thuật là một hình thức rào cản thương mại rất tinh vi, phức tạp và rất khó vượt qua ngay cả đối với doanh nghiệp của các nước phát triển. Các quốc gia mà hiện nay chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển đã sử dụng các tiêu chuẩn, quy định về chất lượng, vệ sinh và môi trường hết sức khắt khe để ngăn cản hàng hoá của các nước khác nhập khẩu vào lãnh thổ nước mình. Các rào cản kỹ thuật này đã gây cản trở lớn cho thương mại thế giới, thậm chí còn gây ra cả những vụ xung đột thương mại giữa các quốc gia. Tương tương lai, khi các rào cản thương mại khác đã dược dỡ bỏ hoàn toàn thì rào cản kỹ thuật sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi hơn và sẽ tác động đến phần lớn thương mại thế giới. Do đó, các quốc gia trên thế giới đã tiến hành ký kết nhiều Hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến thương mại quốc tế. Các quốc gia đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam là những nước chịu tác động của rào cản kỹ thuật nhiều nhất.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ và chưa được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế thì thương mại Việt Nam cũng đã chịu những thiệt hại không nhỏ do rào cản kỹ thuật từ các nước công nghiệp phát triển gây ra. Và trong tương lai khi rào cản kỹ thuật được sử dụng một cách rộng rãi thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ đứng trước những khó khăn thách thức lớn. Hiện nay, do các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói chung nên chưa chú tâm tìm hiểu kỹ càng về rào cản kỹ thuật và các biện pháp để vượt qua các rào cản đó. Cũng như các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị hạn chế về trình độ khoa học công nghệ , khả năng tài chính và thiếu thông tin nên rất khó vượt qua được các rào cản kỹ thuật mà các nước công nghiệp phát triển đã dựng lên. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế vì xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong thời gian tới, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ trung bình 15%/năm trong giai đoạn 2000-2010 mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra thì bản thân các doanh nghiệp cũng như Nhà nước ta cần nỗ lực nhiều hơn nữa. Trong đó, các doanh nghiệp ngoại thương phải cần tích cực tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng các yêu cầu mà các thị trường nhập khẩu đặt ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần thực hiện các giải pháp ở cấp vĩ mô để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản.
Tóm lại, rào cản kỹ thuật là một hình thức mới của rào cản thương mại và có tác động to lớn tới thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện ngay những biện pháp cần thiết để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, tiếp cận và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số nước công nghiệp phát triển và các biện pháp giúp Việt Nam vượt rào cản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 15%, giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 2000 đến 2010 đạt 70 tỷ USD (10).
(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001
(10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ
(11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, 2002
Cơ cấu hàng xuất khẩu trong hơn 15 năm qua cũng có những thay đổi tích cực. Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có sự gia tăng lớn do Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu có xu hướng giảm dần trong cơ cấu xuất khẩu. Xuất khẩu hàng công nghiệp có xu hướng tăng đều trong những năm qua. Tỷ lệ hàng thô sơ chế có giá trị không ổn định trong cơ cấu xuất khẩu giảm dần, tỷ lệ hàng chế biến xuất khẩu ngày tăng. Trước đây, các mặt hàng thô sơ chế thường chiếm khoảng 60-70% tổng giá trị xuất khẩu nhưng hiện nay tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể. Năm 2001, tỷ lệ xuất khẩu của các mặt hàng chế biến chiếm 55,8% tổng kim ngạch xuất khẩu còn các mặt hàng thô sơ chế chỉ còn chiếm 44,2% (11). Mục tiêu của chúng ta trong thời gian tới là giảm tỷ lệ hàng thô sơ chế trong tổng kim ngạch xuất khẩu xuống còn 14% (10). Việt Nam cũng đã xây dựng được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD một năm như dầu thô, giày dép, may mặc, thuỷ sản…Đây là những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế và có khả năng phát triển trong tương lai. Những mặt hàng này sẽ đóng vai trò chủ chốt giúp đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong hơn 15 năm qua cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.Khi khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã và rơi vào khủng hoảng thì Việt Nam mất đi thị trường xuất khẩu chủ lực và gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta đã nhanh chóng chuyển hướng, tiếp cận và thâm nhập những thị trường mới, nhờ đó mà xuất khẩu của chúng ta thoát khỏi khủng khoảng và có những bước phát triển mới. Thị trường châu á và châu Âu chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong khi các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ lại giảm mạnh vào những năm 80 và nửa đầu những năm 90. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc châu Mỹ, châu Đại Dương cũng ngày càng tăng. Trong thời gian tới, châu á được xác định là thị trường xuất khẩu chủ lực của chúng ta, đồng thời, chúng ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường châu Âu và châu Mỹ. Chúng ta đặt mục tiêu trong giai đoạn 2000-2010, xuất khẩu của nước ta sang các thị trường châu á sẽ chiếm 45% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tỷ lệ xuất khẩu sang châu Âu và châu Mỹ đều là 25% (10).
Nhìn chung, trong hơn 15 năm qua, xuất khẩu Việt Nam đã đạt được khá nhiều thành tựu, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Và trong những năm tới, đẩy mạnh xuất khẩu vẫn được Đảng và Nhà nước ta xác định là hướng phát triển chiến lược của nước ta.
2. Những thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu
(10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ
Tuy xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua đạt được một số thành tích nhất định nhưng hiện nay, trước xu hướng phát triển mới của thương mại quốc tế, đặc biệt là xu hướng tăng cường sử dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của các nước công nghiệp phát triển thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn.
Xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào nhóm hàng có nguồn gốc thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp và phải chịu nhiều các quy định về môi trường và an toàn vệ sinh của các thị trường nhập khẩu. Cụ thể là hàng xuất khẩu thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu (năm 2000, tỷ lệ là 44,2%). Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, làm mất đi nguồn đa dạng sinh học, tài nguyên không tái tạo dễ bị các nước hạn chế nhập khẩu vì lý do bảo vệ môi trường. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay thì đại bộ phận là các mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên như thuỷ sản, dầu thô, gạo, cà phê, rau quả mà việc khai thác, chế biến đang gặp phải các giới hạn về môi trường như làm thu hẹp diện tích rừng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước và đa dạng sinh học. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như gạo, đồ uống, cà phê, rau quả, thuỷ sản, khoáng sản… đang gặp những rào cản kỹ thuật rất lớn liên quan đến tiêu chuẩn của sản phẩm như tiêu chuẩn và quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, chất lượng hàng hoá, nhãn môi trường, bao bì, đóng gói… Kể cả các mặt hàng chế biến đang có kim ngạch ngày càng tăng như dệt may, giày da, chế biến thuỷ sản…cũng có thể gặp phải các rào cản kỹ thuật từ các thị trường do công nghệ của chúng ta hiên nay còn thấp kém so với thế giới.
* Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế của một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
Hàng thuỷ sản: Đến nay, tuy thuỷ sản Việt Nam đã lần lượt vượt qua các rào cản của EU và cũng được các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Mỹ, Australia chấp nhận nhưng việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ có 78 trong số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản chiếm 80% lượng thuỷ sản xuất khẩu được Bộ thuỷ sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm còn lại các cơ sở khác đang sản xuất trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh. Công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm thuỷ sản còn lạc hậu do đó khó có thể đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng cũng như vệ sinh của các thị trường.
Mặt hàng thịt: Hàng thịt xuất khẩu của Việt Nam mới tiếp cận được những thị trường có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, chưa vào được những thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ…Lý do là thịt của nước ta chưa đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Chăn nuôi còn theo cách thủ công, không tuân thủ các quy định về chế độ ăn uống, chăm sóc y tế. Khâu chế biến còn lạc hậu, hệ thống quy định về thú y chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến xuất khẩu thịt là HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với mặt hàng thịt. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến nay, chưa có một nhà máy nào của ta được cấp chứng chỉ về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cà phê: Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn của cà phê Việt Nam hiện nay tương đối hoàn chỉnh nhưng chất lượng cà phê chưa cao do quá trình chăm sóc, thu hái, phơi sấy, chế biến và đóng gói chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng. Vệ sinh công nghiệp trong các xưởng chế biến còn yếu. Một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là độ ẩm của cà phê trong bảo quản, vận chuyển. Ngành cà phê cần cố gắng hoàn thiện rất nhiều để có thể đáp ứng các yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Rau quả: Hiện nay, rau quả của Việt Nam mới xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc vì các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn môi trường còn dễ dãi. Hàng rau quả xuất sang EU, Nhật Bản, Mỹ, Australia còn rất hạn chế. Thậm chí ngay trong nước nhu cầu rau quả sạch cũng rất lớn nhưng các nhà sản xuất cũng chưa đáp ứng được. Thách thức lớn nhất đối với mặt hàng này hiện nay là các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh và mức dư lượng các chất kháng sinh trong sản phẩm.
Ngoài những mặt hàng kể trên thì các mặt hàng xuất khẩu khác của nước ta như da giày, dệt may, thủ công mỹ nghệ…cũng gặp phải các rào cản kỹ thuật từ phía thị trường nhập khẩu phát triển.
Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta lại là các nước công nghiệp phát triển như EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường
Đơn vị: triệu USD
2000
2001
2002
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
EU
2845,1
19,6%
3002,9
20,0%
3149,9
18,9%
Nhật Bản
2575,2
17,8%
2509,8
16,7%
2438,1
14,6%
Mỹ
723,8
5,1%
1065,3
7,1%
2421,1
14,5%
Tổng
KNXK
14483,0
100,0%
15029,0
100,0%
16705,0
100,0%
Nguồn: Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là những thị trường khó tính, có đòi hỏi cao đối với hàng nhập khẩu và thường dùng các rào cản kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu. Do đó, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường chiến lược này. Và thực tế thì xuất khẩu của Việt Nam cũng đã gặp phải những rào cản kỹ thuật từ phía các thị trường.
Từ đầu năm 2002, EU liên tục thông báo dư lượng chloramphenicol (một loại kháng sinh bị cấm vì có khả năng gây ung thư ) trong các lô tôm xuất khẩu của Việt Nam và họ đã giữ lại hoặc thiêu huỷ hàng chục lô tôm của Việt Nam và quyết định sẽ kiểm tra toàn bộ các lô tôm xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Quyết định này là một rào chắn mà EU thiết lập đối với hàng thuỷ sản của Việt Nam. Trước đây, Việt Nam và EU có ký kết với nhau các văn bản về kiểm soát dư lượng độc tố trong các sản phẩm thuỷ sản, thống nhất với nhau về các tiêu chuẩn cũng như các thiết bị kiểm tra, và Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu này. Nhưng đến thời điểm đó, EU lại đơn phương sử dụng thiết bị kiểm tra mới với tiêu chuẩn khác để phát hiện dư lượng chlramphenicol với tỷ lệ chỉ bằng 2/10 tiêu chuẩn đã thống nhất mà không hề báo trước. Do đó, Việt Nam không kịp ứng phó và phải chịu thiệt. Vì EU là một thị trường có các tiêu chuẩn nghiêm đối với vệ sinh và an toàn thực phẩm và được các thị trường khác lấy làm chuẩn mực trong lĩnh vực này nên sau khi EU đưa ra quyết định trên thì hàng loạt các thị trường khác cũng vậy. Cơ quan kiểm soát thực phẩm Hàn Quốc cũng tuyên bố sẽ kiểm tra dư lượng chất chloramphenicol trong các lô tôm sú và cua ghẹ nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường này ít nhất một tháng một lần. Nhật cũng yêu cầu các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu phải có giấy chứng nhận không chứa các chất nói trên. Mỹ cũng tuyên bố kiểm tra chặt chẽ các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu. Riêng Canada thì quyết định lấy mẫu kiểm tra chất chloramphenicol đối với 100% lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Quyết định này của EU và các thị trường gây cho nước ta thiệt hại không nhỏ do các lô hàng xuất đi bị giữ và thiêu huỷ, hơn nữa, quyết định này còn làm cho các nhà xuất khẩu e ngại không dám xuất hàng thực hiện các hợp đồng nữa.
Theo Báo cáo của Tổng cục quản lý thị trường năm 2000 thì từ tháng 2 đến tháng 12 năm 2002 đã có 34% số hàng xuất sang Mỹ bị trả lại vì lỗi về ghi nhãn hàng hoá. Nguyên nhân là do quy chế ghi nhãn hàng hoá còn chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và các doanh nghiệp cũng ý thức chưa cao về vấn đề này.
Tháng 11/2001, Mỹ đã ban hành dự luật HR 2330 với điều khoản SA 2000, theo đó FDA không được sử dụng ngân sách để làm thủ tục nhập khẩu các loại cá da trơn mang tên catfish trừ khi chúng thuộc họ Ictaluridae. Quy định này là bất hợp lý vì ngay cả cơ quan FDA của Mỹ cũng khẳng định tất cả các loại cá da trơn đều được mang tên catfish và ca da trơn của Việt Nam cũng được công nhận mang tên catfish có kèm theo tính từ để phân biệt với các loại các da trơn khác. Dự luật này gây khó khăn lớn cho xuất khẩu cá catfish của Việt Nam.
Những rào cản kỹ thuật đó đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam đồng thời cũng gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế. Trong tương lai, Việt Nam vẫn chú trong đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường nói trên và vẫn sẽ gặp phải vô số các hàng rào kỹ thuật mà các thị trường này sử dụng. EU tuy đã chấm dứt việc kiểm tra toàn bộ các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam nhưng vẫn rất nghiêm ngặt trong vấn đề dư lượng kháng sinh trong thực phẩm. EU, Mỹ và các thị trường khác đã đưa ra quy định “dư lượng bằng không” trong thuỷ sản. Điều này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề dư lượng kháng sinh. Ngoài ra, chúng ta còn gặp phải những rào cản môi trường ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn ở EU. Mỹ cũng vừa ban hành Dự luật sẵn sàng chống khủng bố sinh học nhằm ngăn chặn các hành động khủng bố sinh học đối với nước này. Các nhà xuất khẩu VIệt Nam sẽ gặp không ít khó khăn với những quy định của Dự luật này.
Tóm lại, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế của hàng hoá Việt Nam còn thấp, các thị trường lại ngày càng sử dụng nhiều các rào cản kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu nên xuất khẩu của Việt Nam đã và sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Việt Nam cần phải có những biện pháp hữu hiệu để có thể vượt qua các rào cản đó, hội nhập thành công vào thương mại quốc tế và đạt được những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
II. Các giải pháp giúp Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật trong thương mại
1. Các giải pháp cấp Nhà nước
Để giúp hàng hoá và các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vượt qua được các rào cản kỹ thuật và đẩy mạnh được xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm thì chúng ta cần tiến hành nhiều biện pháp. Trong đó, ở cấp độ nhà nước, Nhà nước ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
1.1. Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật trong thương mại.
Trong tình hình hiện nay, các quốc gia phát triển đang lợi dụng trình độ khoa học công nghệ vượt trội hơn để đặt ra ngày càng nhiều các rào cản kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước đang và kém phát triển. Do đó, Chính phủ các quốc gia đang và kém phát triển phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong những biện pháp hữu hiệu là tham gia vào các diến đàn quốc tế về vấn đề này. Khi tham gia vào các Hiệp định quốc tế song phương cũng như đa phương về rào cản kỹ thuật thì các nước sẽ có được sự bảo vệ cũng như giúp đỡ cần thiết từ các bên liên quan nhờ đó sẽ có được sự công bằng khi tham gia vào thương mại quốc tế. Ví dụ như trong Hiệp định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại có điều khoản 11 về trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác quy định các thành viên khi được yêu cầu phải tư vấn, trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác là các nước đang phát triển trong việc soạn thảo các quy định kỹ thuật, thành lập cơ quan tiêu chuẩn hoá hay tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế…Các nước đang phát triển khi tham gia Hiệp định này còn được hưởng sự đối xử đặc biệt ưu đãi hơn các thành viên phát triển khác như thành viên đang phát triển được phép “chấp nhận một số các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc các thủ tục đánh giá sự phù hợp nhằm duy trì công nghệ, sản xuất trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển của mình” tuỳ theo những điều kiện kinh tế – xã hội, công nghệ của mình dù các tiêu chuẩn đó chưa phù hợp với tiêu chuẩn hay quy định quốc tế. Ngoài ra, trong những tổ chức quốc tế về rào cản kỹ thuật, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật mà các quốc gia sử dụng sẽ được thống nhất, công khai và áp dụng chung cho các thành viên. Vì vậy, các tiêu chuẩn, quy định sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch nhờ đó mà các nhà xuất khẩu sẽ hiểu được các quy định và sẽ có biện pháp khắc phục tránh tình trạng các tiêu chuẩn kỹ thuật không rõ ràng, rối rắm gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu.
Với tình hình thực tiễn của nước ta hiện nay, khi trình độ kinh tế - xã hội cũng như khoa học - công nghệ còn thấp so với thế giới, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn khi phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật. Các tiêu chuẩn mà nước ta áp dụng chưa phù hợp với tiêu chuẩn thế giới và chưa được thế giới công nhận cho nên hàng xuất khẩu của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các nước nhập khẩu yêu cầu. Để giúp hàng hoá của ta có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật, thâm nhập vào thị trường toàn thế giới thì Chính phủ ta cần tích cực tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định quốc tế về rào cản kỹ thuật và tiêu chuẩn hoá song phương cũng như đa phương. Khi ký kết các hiệp định này, nước ta sẽ có điều kiện rà soát hiệp định, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp với trình độ phát triển của nước mình và có thể tận dụng quyền nhận xét các tiêu chuẩn và các quy định quốc tế, bảo vệ được quyền lợi của nước ta cũng như các nước đang và kém phát triển khác.
Đến nay, Việt Nam cũng đã hội nhập khá tốt trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Đại diện của Nhà nước về lĩnh vực tiêu chuẩn hoá và chất lường là Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã tham gia vào 15 tổ chức quốc tế và khu vực như: Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế (IEC – International Electrotechnical Commission), Uỷ ban tư vấn của ASEAN về tiêu chuẩn chất lượng (ACCSQ – Asean Consultative Committee of Standards and Quality), Diễn đàn tiêu chuẩn khu vực Thái Bình Dương (PASC – Pacific Area Standards Congress)…Trong quá trình tham gia các tổ chức này, Việt Nam cũng đã tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ của các tổ chức này nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong nước. Việt Nam cũng đã ký các Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá, đo lường và chứng nhận, Hiệp định thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhậnvà thử nghiệm với Liên bang Nga, Trung Quốc, Ucraina… Việt Nam cũng đang trên đường gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, từ đó sẽ trở thành thành viên của các Hiệp định của tổ chức này về tiêu chuẩn, chất lượng và về rào cản kỹ thuật như HIệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về vệ sinh và các biện pháp vệ sinh thực phẩm. Sau sự kiện EU đưa ra mức dư lượng bằng không đối với chloramphenicol và nitrofuran trong thuỷ sản nhập khẩu, các nước ASEAN đang thảo luận về việc thành lập một tổ chức gọi là Codax. Cơ quan thực phẩm này sẽ đưa ra các tiêu chuẩn chung cho thực phẩm của các nước trong khối và các tiêu chuẩn này sẽ được EU, Mỹ, Nhật Bản công nhận.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn - chất lượng và rào cản kỹ thuật nhưng Việt Nam vẫn cần tích cực hơn nữa trong việc đàm phán ký kết các hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại để bảo vệ quyền lợi quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật của các nước.
Một trong những nguyên nhân khiến cho các rào cản kỹ thuật trở nên khó vượt qua là vì các rào cản này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, khó nhận biết và thường xuyên thay đổi. Các doanh nghiệp ở các nước đang và kém phát triển thường gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và thu thập thông tin liên quan đến rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu do hệ thống thông tin còn yếu. Và họ có rất ít các thông tin cũng như hiểu biết rất hạn chế về rào cản kỹ thuật tại các thị trường mà họ sẽ xuất hàng sang. Chính vì lý do đó mà các nước đang và kém phát triển là những nước chịu thiệt thòi nhiều nhất từ các rào cản kỹ thuật.
ở Việt Nam cũng vậy, các doanh nghiệp có nhận thức rất thấp về rào cản kỹ thuật và lại càng mơ hồ về các rào cản cụ thể mà các thị trường xuất khẩu của mình đang áp dụng. Do đó, hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị từ chối nhiều do không đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường mà các thị trường đặt ra cho hàng nhập khẩu. Với điều kiện như của các doanh nghiệp nước ta hiện nay thì việc tiếp cận với các nguồn thông tin trực tiếp từ các thị trường về các quy định nói chung và về rào cản kỹ thuật nói riêng là khó khăn. Vì thế, để giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường xuất khẩu thì sự trợ giúp của Nhà nước là cần thiết. Nhà nước cần có những cơ quan chuyên trách về vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại có nhiệm vụ tìm hiểu thu thập các thông tin liên quan đến các quy định, tiêu chuẩn mà các nước đặt ra đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu của nước nhà. Sau đó, các cơ quan này sẽ tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh ngiệp biết về các quy định cũng như tiêu chuẩn đó, giúp các doanh nghiệp có sự hiểu biết tốt hơn về những quy định, tiêu chuẩn mà các mặt hàng xuất khẩu của doanh ngiệp mình sẽ phải thoả mãn khi xuất sang từng thị trường cụ thể, nhất là những thị trường xuất khẩu chiến lược của ta như EU, Nhật, Mỹ, Australia... Các cơ quan chuyên trách này nên tổ chức các buổi hội thảo cũng như các buổi tuyên truyền, giới thiệu định kỳ về rào cản kỹ thuật của các thị trường và có những thông báo bổ sung cần thiết cho các doanh nghiệp khi các nước thay đổi, bổ sung các quy định, tiêu chuẩn. Đồng thời, họ cũng có thể gợi ý những giải pháp mà các doanh nghiệp nên áp dụng để vượt rào cản. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp cần thiết để đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị trường nhập khẩu và từng bước nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp nói riêng và của cả nước nói chung.
Hiện nay, nước ta có Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (Vietnam Chamber of Commerce and Industry - VCCI) là tổ chức hỗ trợ và xúc tiến các hoạt động thương mại của Việt Nam. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cũng có vai trò đáng kể trong việc tuyên truyền, cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, trong đó có thông tin về các rào cản kỹ thuật cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, nước ta còn có các có quan đại diện thương mại đóng tại các quốc gia khác cũng có đóng góp lớn trong việc thu thập và cung cấp các thông tin về các từng thị trường cụ thể cho các doanh nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập các thị trường...
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực sự vẫn chưa nhận được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến các rào cản kỹ thuật trong thương mại nên còn vấp phải những cản trở, những thất bại khi xuất khẩu hàng hoá, gây thiệt hại, mất uy tín không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho cả quốc gia. Vì thế mà hoạt động tuyên truyền, giới thiệu về rào cản kỹ thuật cho các doanh nghiệp là một hoạt động cần thiết mà Nhà nước ta cần tiến hành để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu.
1.3. Tổ chức đào tạo đội ngũ quản lý chất lượng và kỹ thuật cho các doanh nghiệp.
Chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn quan trọng đối với cả quốc gia. Những sản phẩm có chất lượng sẽ được người tiêu dùng chấp nhận và có thể đứng vững trên thị trường. Hiện nay, khi các nước công nghiệp phát triển tăng cường sử dụng các quy định về chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm làm rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu thì vấn đề chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần huy động rất nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp cần có những công nhân kỹ thuật lành nghề, có những nhà quản lý giỏi, hiểu biết về quản lý chất lượng và ý thức được tầm quan trọng của chất lượng thì mới có thể thành công được. Nhưng ở nước ta hiện nay còn thiếu vắng những cán bộ giỏi, có năng lực trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm. Chính sách đào tạo còn chưa thích hợp. Số lượng các cán bộ quản lý về chất lượng được đào tạo chưa nhiều. Các cán bộ quản lý của các doanh nghiệp hiện nay cũng chưa có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc vượt các rào cản kỹ thuật của các thị trường. Nhà nước ta cần quan tâm đến việc đào tạo cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu, một đội ngũ cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật giỏi và am hiểu về các rào cản kỹ thuật. Các cơ quan chuyên trách có thể tổ chức các khoá học ngắn hạn cho các nhà quản lý của các doanh nghiệp về vấn đề chất lượng, các tiêu chuẩn kỹ thuật và các biện pháp vượt rào cản bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong dài hạn thì nước ta nên có chính sách thu hút và đào tạo một lực lượng cán bộ quản lý có chuyên môn cao, có bằng cấp về chất lượng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong tương lai. Những cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật này sẽ giúp các doanh nghiệp lập các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về chất lượng sản phẩm và giám sát quá trình thực hiện các kế hoạch đó giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp. Nhờ đó, mà sản phẩm của doanh nghiệp có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường về chất lượng sản phẩm và vượt qua được các rào cản kỹ thuật về mặt chất lượng mà các thị trường nhập khẩu dựng lên.
Chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật là một hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn vượt qua được rào cản này thì cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm thoả mãn những yêu cầu nghiêm ngặt đối với sản phẩm của các nước nhập khẩu. Để làm được việc này, các doanh nghiệp cần có các cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật giỏi và Nhà nước cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý này cho các doanh nghiệp.
1.4. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm và thành lập các cơ quan kiểm tra chất lượng và kỹ thuật đối với hàng xuất khẩu.
Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay thì việc hài hoà hoá các tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một xu hướng tất yếu. Để hàng hoá của nước mình có thể được chấp nhận và tiêu thụ được ở mọi thị trường trên thế giới mà không gặp phải các rào cản kỹ thuật thì các quốc gia đều đang nỗ lực xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn quốc gia mới sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và được các nước khác thừa nhận. Khi hệ thống tiêu chuẩn trong nước phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế thì các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước một khi đã đáp ứng được các tiêu chuẩn trong nước thì vừa có thể tiêu thụ được ở thị trường nội địa vừa có thể tiêu thụ được ở các thị trường nước ngoài.
ở Việt Nam hiện nay, theo báo cáo của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng năm 2002 thì trong số 5200 TCVN hiện hành mới chỉ có 24% các tiêu chuẩn phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một tỷ lệ thấp dù hiện giờ việc hài hoà hoá các TCVN với các tiêu chuẩn quốc tế đã được chú trọng hơn. Vì có sự sai khác giữa các TCVN và các tiêu chuẩn quốc tế nên phần lớn các sản phẩm của Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và kỹ thuật do các thị trường nhập khẩu đặt ra. Điều này đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu sang các thị trường có trình độ khoa học công nghệ cao vì các thị trường này đặt ra các tiêu chuẩn rất khắt khe cho hàng hoá mà các TCVN hiện nay thì chưa đáp ứng được.
Do đó, đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam cần được đặc biệt quan tâm và phải được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập quốc tế. Điều này rất có ý nghĩa với Việt Nam vì nó sẽ giúp chúng ta vượt qua được các rào cản kỹ thuật của thị trường các nước công nghiệp phát triển. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn mới thay thế những tiêu chuẩn đã lạc hậu và không phù hợp với các yêu cầu của hội nhập. Những tiêu chuẩn này sẽ phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và phải tính đến các điều kiện đặc thù của các doanh nghiệp trong nước. Những tiêu chuẩn mới sẽ phải bao quát hết những đòi hỏi phổ biến của thế giới đối với hàng hoá như các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm...Giải pháp này không những giúp hàng hoá Việt Nam có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật mà còn giúp nâng cao chất lượng hàng hoá trong nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Riêng đối với các mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước cần thành lập các cơ quan kiểm tra chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi cho xuất khẩu. Vì hiện nay, vì việc kiểm soát chất lượng hàng xuất khẩu của chúng ta không chặt chẽ nên số lượng hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn và bị trả lại, bị tiêu huỷ hoặc phải bán giảm giá vẫn còn cao gây thiệt hại cho doanh nghiệp và mất uy tín cho hàng hoá Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta cần tăng cường công tác kiểm tra đối với các lô hàng xuất khẩu để đảm bảo rằng các lô hàng này thoả mãn những yêu cầu của thị trường nhập khẩu về chất lượng, các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch..., tránh tình trạng hàng của chúng ta sẽ bị từ chối khi nhập cảng. Hiện thời, chúng ta đã thực hiện khá tốt công tác này đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu. Năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 50 CP ngày 21/6/1994 thành lập Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (National Fisheries Inspection and Quality Assurance Center - NAFIQACEN) nay là Cục quản lý chất lượng, an toàn và thú y thuỷ sản có chức năng quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thuỷ sản từ khâu nuôi trồng, khai thác, đến chế biến và tiêu thụ. Cục còn có trách nhiệm kiểm tra chất lượng và các điều kiện vệ sinh của các cơ sở sản xuất thuỷ sản, công nhận các cơ sở đủ điều kiện xuất khẩu sang các thị trường cụ thể và cấp giấy chứng nhận vệ sinh cho các lô hàng thuỷ sản. Những lô hàng nào được Cục cấp giấy chứng nhận thì sẽ được phép xuất khẩu và sẽ được thị trường chấp nhận. Nhờ đó, thuỷ sản Việt Nam đã được nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc... chấp nhận. Hiện nay, Cục có 6 chi nhánh trên cả nước với những trang thiết bị hiện đại, có thể kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở sản xuất, chế biến và các lô hàng một cách kịp thời, nhanh chóng.
Tuy nhiên đối với các mặt hàng khác thì chúng ta còn chưa thực hiện tốt vấn đề này. Do vậy, trong thời gian sắp tới, Nhà nước nên thành lập những trung tâm tương tự cho các mặt hàng khác để đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác cho các lô hàng xuất khẩu.
Ngoài các giải pháp trên thì Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, thể chế pháp luật liên quan đến vấn đề chất lượng nhằm đạt được một sự quản lý thống nhất trên cả nước. Nhà nước cũng cần có chế độ khen thưởng đối với những doanh nghiệp, tổ chức có thành tựu trong lĩnh vực quản lý chất lượng cũng như cần có chế độ xử phạt, kỷ luật đối với những doanh nghiệp, tổ chức không chấp hành tốt các quy định của Nhà nước về vấn đề chất lượng. Nhà nước cần có biện pháp trợ giúp về kỹ thuật, thông tin... cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật. Tóm lại, vì nước ta là một nước đang phát triển còn bị hạn chế về nhiều mặt, hơn nữa, rào cản kỹ thuật là một vấn đề phức tạp và khá mới mẻ với nước ta nên Nhà nước cần phải hợp tác với các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cần thiết để giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt rào cản thành công.
2. Các giải pháp ở cấp độ doanh nghiệp
2.1. Nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật trong thương mại
Rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cho nên hiện nay, nhận thức của các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật là thấp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có doanh nghiệp còn không có chút khái niệm gì về rào cản kỹ thuật. Có doanh nghiệp thì biết nhưng không ý thức được mức độ ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói chung. Vì thế các doanh ngiệp không mấy quan tâm đến việc đổi mới sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ, đảm bảo các yêu cầu về đảm bảo môi trường để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường, thâm nhập những thị trường khó tính. Mà các doanh nghiệp hiện nay chỉ sản xuất theo khả năng vốn có và tiêu thụ ở những thị trường dễ tính chấp nhận những sản phẩm đó.
Muốn vượt qua được các rào cản kỹ thuật thì trước hết các doanh nghiệp phải hiểu rõ rào cản kỹ thuật là gì, các hình thức và tác động của nó. Do đó, giải pháp đầu tiên và rất quan trọng là phải nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật cho các doanh nghiệp, cho các thành viên của doanh nghiệp. Muốn vậy, trước hết, những nhà quản trị của các doanh nghiệp cần có một nhận thức đầy đủ và sâu sắc về rào cản kỹ thuật và ảnh hưởng của nó tới thương mại nói chung và tới doanh nghiệp mình nói riêng. Các nhà quản trị cần nắm rõ các quy định, tiêu chuẩn cụ thể của từng thị trường nhập khẩu đối với loại hàng hoá của doanh nghiệp mình và các biện pháp mà doanh nghiệp cần áp dụng. Sau đó, các nhà quản trị sẽ tuyên truyền, giáo dục cho từng thành viên trong công ty về các rào cản kỹ thuật và lợi ích của việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, việc tuân thủ các yêu cầu về môi trường và vệ sinh đối với doanh nghiệp trong việc giúp doanh nghiệp vượt rào cản. Một khi từng thành viên trong doanh nghiệp đã hiểu rõ về rào cản kỹ thuật và tác động của nó tới doanh nghiệp mình thì họ sẽ tự ý thức và nỗ lực để nâng cao chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp mình, đáp ứng các đòi hỏi của thị trường nhập khẩu.
Tóm lại, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp là một biện pháp rất cần thiết và hiệu quả giúp doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật. Vì nó làm cho từng cá nhân, thành viên trong doanh nghiệp, dù ở vị trí nào cũng có ý thức rõ ràng về trách nhiệm của mình trong việc giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại và cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
2.2. áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, trước tình trạng các doanh nghiệp của các nước đang phát triển đang phải đối đầu với những đòi hỏi chứng nhận phù hợp với những yêu cầu về chất lượng, môi trường, vệ sinh và an toàn thực phẩm được quy định trong các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đông thời cũng là rào cản của các nước phát triển, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế đã trở thành yêu cầu bắt buộc cho các doanh nghiệp nếu muốn bước chân vào các thị trường này.
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể áp dụng các hệ thống chất lượng được công nhận rộng rãi trên thế giới như hệ thống quản trị theo tiêu chuẩn của tổ chức quốc tế ISO 9000, hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ TQM, hệ thống quản lý chất lượng theo HACCP, GMP cho các xí nghiệp sản xuất dược phẩm, thực phẩm, nông sản và thuỷ sản, hệ thống quản trị môi trường theo ISO 14000... áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện hình ảnh của mình, tạo niềm tin cho bạn hàng và người tiêu dùng. Việc áp dùng các hệ thống này sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều cái lợi so với sự đầu tư ban đầu.
Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 500 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hệ thống chất lượng ISO 9000, hơn 40 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000 và trong tổng số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản thì đã có 78 cơ sở được công nhận đạt tiêu chuẩn của hệ thống HACCP (12). Đây là những con số đáng mừng cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức trong việc áp dụng các hệ thống chất lượng quốc tế. Nhưng những con số này còn thấp so với những doanh nghiệp còn chưa áp dụng các hệ thống này. Vì không phải doanh nghiệp nào cũng quan tâm và có điều kiện áp dụng các hệ thống chất lượng đó. Trong số các doanh nghiệp áp dụng các hệ thống chất lượng thì còn nhiều doanh nghiệp còn chưa thực sự chú trọng mà chủ yếu nặng về hình thức.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa tới việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ở doanh nghiệp mình vì những hệ thống này sẽ giúp cho các doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp được công nhận toàn cầu và có thể vượt qua các quy định về chất lượng, vệ sinh và môi trường của các nước nhập khẩu đồng thời cũng được người tiêu dùng ưa thích hơn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có điều kiện áp dụng các hệ thống này thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ, bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải tự mình tìm ra các giải pháp thích hợp tuỳ điều kiện của mình. Đầu tư áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế không những giúp doanh nghiệp có thể thoả mãn yêu cầu của những thị trường khó tính mà doanh nghiệp còn có thể kiểm soát, quản lý chất lượng tốt hơn, giảm những sản phẩm khuyết tật đồng thời tiết kiệm chi phí kiểm tra, kiểm soát và sửa chữa cho doanh nghiệp.
Có thể nói hiện nay, việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã trở nên phổ biến và là một một điều kiện không thể thiếu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ví dụ như: giấy chứng nhận ISO 9000 được xem là “ngôn ngữ đảm bảo chữ tín” về chất lượng giữa các doanh nghiệp, ISO 14000 được coi là tấm “hộ chiếu xanh” cho hàng hoá và HACCP là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với thực phẩm để xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển. Vì thế, để có thể tồn tại và phát triển được trong tương lai thì các doanh nghiệp Việt Nam không còn sự lựa chọn nào khác là phải áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
2.3. Gắn “nhãn sinh thái” cho hàng hoá
“Thương mại - môi trường” chính là xu hướng phát triển trong tương lai của thương mại quốc tế. Các quốc gia ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ môi trường sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia mình và của cả thế giới. Một công cụ mà các nước trên thế giới hiện nay đang sử dụng để dung hoà giữa yêu cầu phát triển thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường là “nhãn sinh thái”.
“Nhãn sinh thái” (hay còn gọi là “nhãn xanh”) là một trong những nội dung quan trọng của Bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Đó là một chứng chỉ được các cơ quan chứng nhận cấp cho sản phẩm, hàng hoá, chứng nhận sản phẩm, hàng hoá đó ít gây tổn hại đến môi trường (nói cách khác là “thân thiện với môi trường”). Nhãn sinh thái là sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Các sản phẩm được gắn nhãn sinh thái rất được người tiêu dùng ưa chuộng và thường có giá bán cao hơn các sản phẩm cùng loại. Nhãn sinh thái chính là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoại thương, đồng thời, nó cũng là công cụ giúp hàng hoá của các nước đang phát triển vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị trường khó tính. Vì hiện nay, các nước công nghiệp phát triển thường sử dụng các yêu cầu về bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu từ các nước khác. Và rào cản này thường gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp của các nước đang phát triển.
ở Việt Nam việc sử dụng nhãn sinh thái cho một số mặt hàng ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng đã được bắt đầu nghiên cứu, xem xét từ năm 2002. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt nhận thức và thông tin cho nên nhãn sinh thái còn là một vấn đề hết sức mới mẻ nên nhiều doanh nghiệp còn chưa hiểu được nội dung cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng nhãn sinh thái đối với các sản phẩm của mình. Để đáp ứng yêu cầu của thị trường về nhãn sinh thái thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thử thách. Hiện nay, ở nước ta, việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 đã là một khó khăn đối với doanh nghiệp chứ chưa nói đến việc áp dụng ISO 14000. Các doanh nghiệp nước ta phải đối mặt với những thách thức về trình độ quản lý và kinh phí, đặc biệt là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi áp dụng nhãn sinh thái. Vì thế, ngoài sự tự nỗ lực của các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần có những hỗ trợ cần thiết để các doanh nghiệp có thể từng bước triển khai việc gắn nhãn sinh thái cho hàng hoá.
Trong tương lai, do sức ép của vấn đề môi trường quốc tế, nhãn sinh thái sẽ là điều kiện bắt buộc đối với mọi hàng hoá nếu muốn thâm nhập các thị trường nước ngoài. Điều này sẽ cản trở khả năng thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Do đó mà ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự trang bị cho mình một cách đầy đủ các yêu cầu về triển khai việc dán nhãn sinh thái và phải coi đó như một yêu cầu tất yếu cấp bách mà doanh nghiệp phải thực hiện. Từ đó, có những bước chuẩn bị cần thiết để có thể áp dụng nhãn sinh thái trong một tương lai gần.
2.4. Đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khi các nước công nghiệp phát triển sử dụng các rào cản kỹ thuật về chất lượng, môi trường, vệ sinh để bảo hộ thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của các nước đang phát triển gặp phải nhiều khó khăn. Do trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, máy móc, thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý không cao nên sản phẩm sản xuất ra không thoả mãn các yêu cầu chất lượng và kỹ thuật khắt khe các thị trường phát triển đặt ra. Công nghệ lạc hậu lại không có kinh phí để lắp đặt các thiết bị xử lý nước thải, rác thải, khí thải gây ô nhiễm môi trường nên hàng hoá bị người tiêu dùng các nước phát triển tẩy chay cũng như không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của các nước phát triển. Vì thế mà hàng hoá của các doanh nghiệp các nước đang phát triển như nước ta không thâm nhập được vào các thị trường khó tính.
Để vượt qua các rào cản đó và đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới công nghệ, mua sắm mới máy móc thiết bị. Điều này một mặt làm giảm giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng các yêu cầu của các nước nhập khẩu về bao bì, đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế biến...Những công nghệ mới ít gây ô nhiễm môi trường vừa bảo vệ môi trường các nước sản xuất vừa giúp doanh nghiệp vượt quan rào cản về môi trường trong thương mại. Tuy nhiên với điều kiện tài chính của các doanh nghiệp nước ta như hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện để đổi mới hoàn toàn công nghệ và máy móc mà các doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình lập kế hoạch thay thế, đổi mới cho phù hợp. Các doanh nghiệp cũng nên khuyến khích các sáng kiến đổi mới công nghệ, các giải pháp hữu ích cho sản xuất của công nhân và cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp. Biện pháp này giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí mà vẫn có thể đổi mới phương pháp sản xuất một cách hiệu quả.
Song song với đổi mới công nghệ, doanh nghiệp cũng cần chú trọng việc nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý kỹ thuật trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần liên tục đào tạo nâng cao tay nghề cho các công nhân kỹ thuật của doanh nghiệp để họ có thể nắm bắt, sử dụng những công nghệ và thiết bị sản xuất mới hiện đại. Đặc biệt, doanh nghiệp cần có những cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ, có khả năng tiếp thu khoa học công nghệ mới. Những cán bộ kỹ thuật giỏi này sẽ là những người tiếp xúc và nắm bắt công nghệ mới đầu tiên sau đó họ sẽ giúp hướng dẫn, đào tạo các công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp. Những cán bộ kỹ thuật cũng cần hiểu biết rõ về những quy định, tiêu chuẩn trong nước cũng như ngoài nước đối với sản phẩm của công ty và đưa ra được các giải pháp để sản phẩm có thể đấp ứng được các quy định, tiêu chuẩn đó. Để có được đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ cao thì doanh nghiệp cần có chính sách đào tạo và bồi dưỡng nhân tài phù hợp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với họ. Những cán bộ kỹ thuật này sẽ là nòng cốt giúp doanh nghiệp từng bước nâng cao trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất trong toàn doanh nghiệp. Nhờ đó, các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có chất lượng ngày càng cao và đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Đổi mới công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Biện pháp này không những giúp doanh nghiệp vượt qua được các rào cản thương mại mà còn giúp tăng chất lượng hàng hoá, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên cả thị trường trong và ngoài nước.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần có những biện pháp như xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của rào cản kỹ thuật; chủ động trong việc tiếp cận các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, các bạn hàng...để tìm hiểu về các rào cản kỹ thuật trong thương mại. Tóm lại, doanh nghiệp cần phải có những sự chuẩn bị kỹ càng để có thể vượt qua các rào cản thương mại đó.
Kết luận
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia đồng thời cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Theo xu hướng tự do hoá thương mại, các rào cản thương mại chủ yếu là các rào cản thuế quan và một số rào cản phi thuế khác sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp sẽ không gặp khó khăn gì khi tiếp cận và thâm nhập các thị trường nước ngoài bởi các quốc gia đang có xu hướng sử dụng một loại rào cản thương mại mới: rào cản kỹ thuật để thay thế cho các rào cản đã bị xoá bỏ. Rào cản kỹ thuật là một hình thức rào cản thương mại rất tinh vi, phức tạp và rất khó vượt qua ngay cả đối với doanh nghiệp của các nước phát triển. Các quốc gia mà hiện nay chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển đã sử dụng các tiêu chuẩn, quy định về chất lượng, vệ sinh và môi trường hết sức khắt khe để ngăn cản hàng hoá của các nước khác nhập khẩu vào lãnh thổ nước mình. Các rào cản kỹ thuật này đã gây cản trở lớn cho thương mại thế giới, thậm chí còn gây ra cả những vụ xung đột thương mại giữa các quốc gia. Tương tương lai, khi các rào cản thương mại khác đã dược dỡ bỏ hoàn toàn thì rào cản kỹ thuật sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi hơn và sẽ tác động đến phần lớn thương mại thế giới. Do đó, các quốc gia trên thế giới đã tiến hành ký kết nhiều Hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến thương mại quốc tế. Các quốc gia đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam là những nước chịu tác động của rào cản kỹ thuật nhiều nhất.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ và chưa được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế thì thương mại Việt Nam cũng đã chịu những thiệt hại không nhỏ do rào cản kỹ thuật từ các nước công nghiệp phát triển gây ra. Và trong tương lai khi rào cản kỹ thuật được sử dụng một cách rộng rãi thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ đứng trước những khó khăn thách thức lớn. Hiện nay, do các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói chung nên chưa chú tâm tìm hiểu kỹ càng về rào cản kỹ thuật và các biện pháp để vượt qua các rào cản đó. Cũng như các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị hạn chế về trình độ khoa học công nghệ , khả năng tài chính và thiếu thông tin nên rất khó vượt qua được các rào cản kỹ thuật mà các nước công nghiệp phát triển đã dựng lên. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế vì xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong thời gian tới, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ trung bình 15%/năm trong giai đoạn 2000-2010 mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra thì bản thân các doanh nghiệp cũng như Nhà nước ta cần nỗ lực nhiều hơn nữa. Trong đó, các doanh nghiệp ngoại thương phải cần tích cực tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng các yêu cầu mà các thị trường nhập khẩu đặt ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần thực hiện các giải pháp ở cấp vĩ mô để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản.
Tóm lại, rào cản kỹ thuật là một hình thức mới của rào cản thương mại và có tác động to lớn tới thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện ngay những biện pháp cần thiết để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, tiếp cận và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
Phụ lục
(1) Những biện pháp cấp bách hạn chế dư lượng kháng sinh trong thuỷ hải sản xuất khẩu – Thanh Thuý, Tạp chí Doanh nghiệp thương mại, số 160, 2002
(2) Foodmarketexchange, 19/11/2002
(3) www.nationmaster.com/country/eu/economy
(4) Báo cáo của Eurostat, 2003
(5) www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us
(6) www.nationmaster.com/country/ja/economy
(7) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/nhatban
(8) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc
(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001
(10) Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
(11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, 2002
(12) http//khoahoc.vnn.vn/iso/ds
Tài liệu tham khảo
1. Viện nghiên cứu chiến lược, Việt Nam trên đường hội nhập và thị trường
chính sách công nghiệp, thế giới – NXB Thanh niên, 2003
Tạp chí công nghiệp
2. Trung tâm tư vấn và đào tạo Thị trường Nhật Bản - NXB Thanh niên,
kinh tế thương mại (ICTC) 1997
Tổ chức xúc tiến thương mại
Nhật Bản (JETRO)
3. G.S. Bùi Xuân Lưu Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - ĐH Ngoại thương, Hà Nội, 2001
4.T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống rào cản môi trường trong thương
mại quốc tế và một số giải pháp đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam - Tạp chí
Thương mại, số 26/2003
5. Nguyễn Thanh Bình Một số vấn đề cần chú ý đối với hàng hoánhập khẩu vào EU – Tạp chí Thương mại, số 26/2003
6. Trần Sửu Một số điều cần biết khi xuất khẩu sản phẩm vào Mỹ – Kỷ yếu Hội nghị khoa học, Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương, 2000
7. Trần Thanh Lâm Nhãn sinh thái hàng hoá và phát triển thương mại bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam – Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 15/2003
8. Nguyễn Huyền Trâm ISO 9000 – Kỷ yếu hội nghị khoa học, Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương, 2000
9. T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống quản lý chất lượng- công cụ để
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp-
Tạp chí Thương mại, số 17/2003
10. Thanh Thuý Những biện pháp cấp bách hạn chế dư lượng kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản – Báo Doanh nghiệp thương mại, số 160/2002
11. Nguyễn Thanh Bình Thị trường Nhật Bản-Một số vấn đề cần lưu
ý khi thâm nhập - Kỷ yếu Hội nghị khoa học Khoa KTNT, ĐH Ngoại thương, 2000
12. PV Để xuất khẩu hải sản vào Australia – Báo
Doanh nghiệp thương mại, số 185/2003
13. T.S. Hồ Tất Thắng Hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng
với hội nhập kinh tế quốc tế – Tạp chí Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng, số 11/2002
14. T.S. Đinh Công Tuấn Vấn đề bảo hộ đối với sản phẩm nông ,lâm,
thuỷ sản ở thị trường EU - Nghiên cứu châu
Âu, số 3/2003
15. Các trang web www.dongnai-industry.gov.vn
www.customs.gov
www.exim-pro.com/kinhte/thitruong
www.tcvn.gov.vn/wtcvn/newsraocan
www.vneconomy.com.vn
www.cia.gov/cia/publication/factbook
www.natonmaster.com/country
www.jisc.org
www.standards.com.au
www.smenet.com.vn/tiengviet/eu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19136.doc