Khóa luận Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Qua kết quả nghiên cứu đề tài: “Giải pháp thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam”, tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Sự hình thành TTCK Việt Nam phù hợp với xu thế tất yếu của kinh tế thị trường và sự phát triển TTCK trên thế giới. Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội nước ta và góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 2. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài là yếu tố cần thiết góp phần phát triển và hoàn thiện TTCK Việt Nam. Hiện nay, số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK nước ta còn hạn chế ở thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp và chưa tham gia đầu tư trực tiếp thành lập các công ty chứng khoán liên doanh. Nguyên nhân chủ yếu là do quy mô hàng hoá nhỏ, chỉ tập trung vào một số ngành nghề nhất định và sự thiếu thống nhất, thông thoáng của các văn bản pháp luật. 3. Để thu hút sự tham gia đông đảo của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam cần kết hợp nhiều yếu tố, trong đó việc hoàn thiện các chính sách của Nhà nước nhằm tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng. Trong thời gian tới, các chính sách của Nhà nước cần được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn kinh tế-xã hội đất nước và xu thế hội nhập quốc tế về kinh tế và phát triển TTCK./.

doc116 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CK Sớm ban hành văn bản quản lý ngoại hối cho cả thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Đối với thị trường phi tập trung, hiện nay có khoảng 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng đủ điều kiện niêm yết nhưng nhu cầu mua, bán, chuyển nhượng cổ phiếu khá cao và lại được thực hiện thông qua các địa điểm không chính thức, thông qua các trung gian môi giới phức tạp làm hạn chế quá trình chu chuyển vốn cũng như đem lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư. Tại thị trường tập trung, khi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam sẽ làm phát sinh một số giao dịch ngoại hối như: chuyển vốn từ nước ngoài vào, chuyển đổi ngoại tệ ra VND để đầu tư, mua ngoại tệ và chuyển vốn, lợi nhuận đầu tư về nước. Xây dựng chính sách quản lý ngoại hối an toàn và thông thoáng sẽ thu hút được nguồn vốn lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời đảm bảo kiểm soát được các luồng vốn chuyển vào, chuyển ra, tránh việc các luồng vốn ồ ạt chuyển ra nước ngoài, gây tác động tiêu cực đến thị trường tài chính. 9. Xây dựng một số chính sách khác - Có văn bản cho phép các doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện được phát hành và niêm yết chứng khoán trên Sở Giao dịch Chứng khoán nước ngoài, trước mắt là các Sở Giao dịch Chứng khoán trong khối ASEAN trong thời gian sớm nhất. Đồng thời có chính sách về sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam qua hình thức các Quỹ Đầu tư Chứng khoán, nhằm tạo điều kiện cho công tác Quản lý Nhà nước đối với nhà đầu tư nước ngoài thu về một đầu mối quản lý cũng như tạo môi trường đầu tư ít rủi ro cho nhà đầu tư nước ngoài trong các giao dịch chứng khoán. - Có quy định về việc giảm thuế đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài của những nước đã ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam. III. GIẢI PHÁP TĂNG CUNG HÀNG HOÁ CHO THỊ TRƯỜNG Sau hơn 1 năm Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM đi vào hoạt động đã xuất hiện một số bất cập: + Mất cân bằng nghiêm trọng giữa lượng cung và lượng cầu chứng khoán trong các phiên giao dịch đã gây tác động tiêu cực tới sự phát triển của TTCK: Tình trạng dư cầu quá lớn đẩy giá cổ phiếu tăng liên tục ở mức kịch trần, làm ảnh hưởng xấu đến việc phản ánh giá trị thực tế của các cổ phiếu được niêm yết, làm cho lợi ích của nhà đầu tư khó được bảo đảm khi cổ phiếu của mình đang nắm giữ không có chất lượng thực sự. + Xuất hiện hiện tượng đầu cơ ngoài ý muốn: Do giá cổ phiếu liên tục tăng nên khi nhà đầu tư đã mua được nhưng không muốn bán đi để hưởng cổ tức và hưởng mức lợi vốn do giá liên tục tăng. + Giá cả lên xuống thất thường tạo ra hình ảnh sai lệch về TTCK Việt Nam khiến một số nhà đầu tư đã rút ra khỏi thị trường và nhà quản lý cũng gặp khó khăn khi sử dụng các biện pháp tình thế bình ổn thị trường. + Hàng hoá khan hiếm đã hạn chế số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường, nhất là sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường thứ cấp và chưa sẵn sàng tham gia góp vốn thành lập công ty chứng khoán liên doanh với đối tác Việt Nam. Sự khan hiếm hàng hoá là do một số nguyên nhân chủ yếu sau: + Tiến độ thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta còn chậm. + Việc thành lập TTCK ở nước ta đi thẳng tới thị trường tập trung nên tạo ra tình trạng khan hiếm hàng hoá và sự non kém trong giao dịch. + Thị trường trái phiếu chưa phát triển, không thực hiện được vai trò chủ đạo trên TTCK tập trung như dự định ban đầu. Xuất phát từ nguyên nhân và ảnh hưởng của sự khan hiếm hàng hoá nêu trên, xin kiến nghị một số giải pháp khắc phục như sau: 1. Hàng hoá cổ phiếu: 1.1 Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá DNNN là quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong công chúng đưa vào đầu tư cho hoạt động kinh tế. Cổ phần hoá DNNN có mối quan hệ chặt chẽ với TTCK vì việc cổ phần hoá DNNN là nguồn cung cổ phiếu chủ yếu cho TTCK. Thực tế, tiến trình cổ phần hoá DNNN chưa tạo được tiền đề cho việc cung ứng hàng hoá cho TTCK. Đến nay, có gần 700 DNNN đã được cổ phần hoá, trong số đó có khoảng 70 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết nhưng chưa thực hiện niêm yết. Với 7 công ty niêm yết trên TTCK, một con số quá nhỏ đã làm hạn chế số lượng cổ phiếu giao dịch trên TTGDCK. Mặt khác, số lượng DNNN thực hiện cổ phần hoá còn ít, tiến trình cổ phần hoá còn chậm, không đạt chỉ tiêu được giao. Ví dụ, so với năm 1999, số DNNN hoàn thành CPH năm 2000 là 75,2% nhưng chỉ đạt 27,2% so với chỉ tiêu kế hoạch được giao. Tiến độ CPH còn chậm là do một số nguyên nhân cơ bản như: Trình độ dân trí còn thấp, còn mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ; Dư âm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực; Tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực DNNN ở mức thấp, hoạt động kém hiệu quả. Việc lựa chọn DN CPH chưa đạt yêu cầu vì nhiều DN làm ăn thua lỗ vẫn được đưa vào kế hoạch CPH, đã gây khó khăn trong việc xác định giá trị DN và việc bán cổ phần cho nhà đầu tư. Ngoài ra, cơ chế chính sách về CPH chưa đồng bộ, thủ tục còn nhiều phức tạp… Do vậy, để tiến trình CPH DNNN thực hiện nhanh chóng và góp phần giải quyết khan hiếm hàng hoá cho TTCK cần thực hiện các biện pháp sau: * Nâng cao nhận thức cho cán bộ Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước, người lao động trong DN và nhân dân hiểu rõ chủ trương của Đảng, Nhà nước về lợi ích của CPH DNNN. Cho đến nay, tiến độ CPH DNNN chậm, một phần do nhận thức về việc cổ phần hoá trong các cấp, các ngành chưa nhất quán. Một số quan điểm chưa đúng bản chất về cổ phần hoá: Sợ mất quyền quản lý của mình đối với doanh nghiệp trực thuộc, còn cán bộ và người lao động trong DN đều sợ mất sự bao cấp của nhà nước, sợ mất quyền lợi…nên không muốn cổ phần hoá. * Cần xác định lại tỷ lệ sở hữu cổ phần của Nhà nước trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Việc bán hết cổ phần Nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần hoá hay giữ lại một phần vốn Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng ngành, từng lĩnh vực để cân nhắc. Xem xét lại quy định bắt buộc việc giữ lại cổ phần Nhà nước đối với tất cả các loại doanh nghiệp. Trên thực tế, tất cả các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá, kể cả các doanh nghiệp đã niêm yết trên thị trường đều không cần Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. * Ngoài việc sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh và gắn bó người lao động với doanh nghiệp, khắc phục tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện CPH, nên dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài để thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý của các cổ đông ngoài xã hội, nhất là đối với nhà đầu tư nước ngoài. * Thực hiện xóa bỏ cấp chủ quản đối với các DNNN theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 3 khoá IX. Hiện nay, có tâm lý e ngại thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp. Vì một số hiện tượng phát sinh giữa cơ quan chủ quản và doanh nghiệp cổ phần hoá đã dẫn đến cách hiểu: việc cổ phần hoá một doanh nghiệp trực thuộc các cơ quan chủ quản cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự bất lợi hơn nhiều so với các đơn vị còn lại. Trong khi đó, doanh nghiệp đã cổ phần hoá ít có khả năng thắng thầu mà cơ quan chủ quản làm chủ đầu tư dù đó là tổ chức đấu thầu dưới hình thức rộng rãi vì lúc này mối quan hệ giữa công ty cổ phần và cơ quan chủ quản là quan hệ buôn bán, còn quan hệ cơ quan chủ quản và các đơn vị trực thuộc là quan hệ “cấp trên-cấp dưới”. Nếu xoá bỏ cấp chủ quản đối với DNNN thì sẽ tạo ra một sân chơi thực sự thống nhất và bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá góp phần tạo cung cho TTCK, thu hút sự tham gia của công chúng đầu tư nhất là nhà dầu tư nước ngoài. * Đổi mới cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp. Xác định giá cổ phiếu của công ty cổ phần hoá thông qua đấu thầu trên thị trường. Đồng thời đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Hiện nay việc xác định giá trị doanh nghiệp thông qua Hội đồng định giá doanh nghiệp nên vừa tốn kém, vừa mang tính chủ quan, nhiều khi không phù hợp với thực tế. Kết quả là, có doanh nghiệp bị định giá cao hơn giá trị thực tế khiến việc bán cổ phần gặp khó khăn và cổ đông công ty bị thiệt thòi khi mua cổ phần, nhưng cũng có doanh nghiệp cố tình bị định giá thấp hơn giá trị thực tế để làm lợi cho một số đối tượng. Các cơ quan chức năng cần nghiên cứu để đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Thực tế đang xuất hiện tình trạng, nhiều doanh nghiệp có vị trí thuận lợi ở ngay giữa trung tâm thành phố nhưng không tính giá trị quyền sử dụng đất khi thực hiện CPH nên giá trị doanh nghiệp được định giá thấp hơn giá trị thực tế. Sau khi CPH, doanh nghiệp chỉ cần đem một phần đất đi chuyển nhượng là có thể thu được khoản tiền gấp 2-3 lần giá trị doanh nghiệp. * Tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ trong quá trình thực hiện CPH DNNN, đồng thời nâng cao sự quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá: Tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ trong quá trình thực hiện cổ phần hoá sẽ góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc, phát sinh nhằm hướng các doanh nghiệp thực hiện theo đúng tiến độ và đúng pháp luật. Bên cạnh đó, biểu dương những đơn vị thực hiện tốt và phê phán những doanh nghiệp cố tình làm sai nhằm tạo sự an tâm tin tưởng cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Cần nâng cao sự quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Trong thời gian vừa qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã không coi trọng việc quản lý và theo dõi các doanh nghiệp sau khi thực hiện cổ phần hoá. Chính nguyên nhân này đã gây ra nhiều yếu tố tiêu cực: Có nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, các đơn vị chủ quản doanh nghiệp cổ phần hoá trước đây vì chạy theo thành tích nên đưa ra con số báo cáo chủ quan, số liệu báo cáo đều chưa qua kiểm toán hoặc do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện kiểm toán; Mặt khác, trong số 700 doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ có 200 doanh nghiệp nộp báo cáo. Do vậy, cho đến nay chưa có đánh giá chính xác về tình hình thực tế của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá. * Tổ chức thực hiện lựa chọn doanh nghiệp CPH có hiệu quả. Các cơ quan chức năng cần rà soát lại tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, xây dựng tiêu chuẩn lựa chọn doanh nghiệp CPH, hướng dẫn doanh nghiệp làm công tác chuẩn bị CPH theo đúng quy trình được duyệt. * Xây dựng chính sách, quy trình, thủ tục về CPH đồng bộ, thông thoáng, dễ thực hiện nhằm khuyến khích doanh nghiệp và người lao động hăng hái thực hiện CPH: Đối với quy trình CPH DNNN cần quy định rõ thời hạn không chỉ với khâu xác định giá trị doanh nghiệp mà với các khâu còn lại, nhằm xác định trách nhiệm của các ngành, các cấp và doanh nghiệp trong việc triển khai thực hiện CPH. Nới lỏng mức khống chế mua cổ phần để các cá nhân, pháp nhân có khả năng mua được số cổ phần như mong muốn (trong phạm vi cho phép) nhằm bù đắp cho việc doanh nghiệp không thể huy động đủ vốn điều lệ. Không nên khống chế mức mua cổ phần của cán bộ lãnh đạo DN chặt chẽ như hiện nay: Được mua cổ phần không vượt quá mức mua cổ phần bình quân của cổ đông trong DN. Chính quy định này đã hạn chế mức huy động vốn và không tạo được niềm tin, không khuyến khích cổ đông khác mua cổ phần của DN. Đối với một số cán bộ lãnh đạo có số năm làm việc cho Nhà nước cao hơn mức bình quân bị thiệt thòi và ảnh hưởng đến sự quyết tâm của số cán bộ này. Tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về việc sử dụng đất, vay vốn, xuất khập khẩu…để DN sau CPH có môi trường hoạt động bình đẳng với các DNNN. 1.2 Thực hiện cổ phần hoá Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Ban hành Quy chế thực hiện thí điểm chuyển đổi DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức Công ty cổ phần. Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghiệp FDI được thành lập và tổ chức dưới dạng công ty TNHH. Loại hình này chỉ thích hợp trong điều kiện Việt Nam chưa có TTCK vì nó hạn chế việc huy động vốn của các chủ đầu tư và họ phải gánh chịu toàn bộ rủi ro. Cho phép cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là giải pháp cần thiết để tạo thêm kênh huy động vốn, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, đặc biệt sẽ góp phần tạo thêm hàng hoá cho TTCK sau này. * Khi thực hiện CPH DN có vốn đầu tư nước ngoài cần áp dụng triệt để nguyên tắc chỉ đạo là phải vận dụng tối đa các điều khoản phù hợp của Luật đầu tư nước ngoài và Luật doanh nghiệp, giảm thiểu các quy định pháp luật mới. Khi thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI cần bãi bỏ quy định về thời hạn hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài. Bởi vì, khi gần đến ngày hết thời hạn hoạt động thì giá trị cổ phần của doanh nghiệp sẽ bị giảm dần và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo luật hiện nay, thời hạn hoạt động của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài không được quá 70 năm, giới hạn này chỉ phù hợp với hình thức công ty TNHH. * Chuyển từ cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng đất sang cơ chế doanh nghiệp thuê đất của Nhà nước sẽ tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI trong việc xác định giá trị thực tế của DN khi cổ phần hoá. * Cho phép doanh nghiệp FDI được chọn đơn vị giá trị cổ phần của DN là đồng USD. Vì như vậy, sẽ tạo thuận lợi cho DN trong việc huy động vốn ngoại tệ tại Việt Nam thông qua thị trường sơ cấp từ nguồn vốn ngoại tệ của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài. Bên cạnh đó, nếu Nhà nước ban hành quy định cho phép và hướng dẫn doanh nghiệp cổ phần FDI được phát hành cổ phiếu và niêm yết trên TTCK nước ngoài sẽ huy động được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài và tạo ra sự thông thoáng cho môi trường đầu tư Việt Nam cũng như như tạo thuận lợi trong việc chuyển ngoại tệ về nước. - Quá trình CPH DN FDI cần sự tham gia của các công ty kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt Nam để thực hiện việc định giá DN FDI theo phương pháp định giá quốc tế nhưng phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam. - Khuyến khích DN FDI sau khi CPH niêm yết trên TTCK Việt Nam bằng cơ chế ưu đãi thoả đáng: Miễn thuế thu nhập khi niêm yết cổ phiếu và chuyển nhượng cổ phiếu trong thời gian đầu tham gia TTCK. 1.3 Tăng số lượng các công ty niêm yết. Trong thời gian đầu TTCK đi vào hoạt động, hiện tượng cầu vượt cung do có quá ít công ty niêm yết. Để tăng số lượng các công ty niêm yết nhằm giải quyết tình trạng khan hiếm hàng hoá, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam, cần thực hiện một số giải pháp sau: 1.3.1 Khuyến khích các công ty đăng ký niêm yết trên TTGDCK Hiện nay, có khoảng 70 DNNN đã cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn niêm yết trên TTGDCK TP. HCM, nhưng mới chỉ có 7 công ty niêm yết. Đây là con số quá nhỏ so với nhu cầu của thị trường. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là: Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được lợi ích của việc niêm yết trên TTGDCK; TTCK hiện nay chưa đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp; Đa số các doanh nghiệp chưa có nhu cầu huy động thêm vốn; thủ tục đăng ký niêm yết còn rườm rà. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích, động viên những doanh nghiệp đã đủ tiêu chuẩn niêm yết nhanh chóng đưa cổ phiếu lên tham gia vào TTGDCK: Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp niêm yết trong nhiều năm, nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ dự trữ, tái đầu tư cho phát triển. 1.4 Cho phép các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới Thực tế hiện nay, việc niêm yết cổ phiếu trên TTGDCK chỉ là quá trình đăng ký lại và lưu ký số chứng khoán đã phát hành. Do vậy, một phần nó không phản ánh được chính xác giá trị thị trường, một phần hạn chế lượng hàng hoá trên thị trường vì các doanh nghiệp niêm yết hiện nay, khi tham gia thị trường chỉ được giao dịch số cổ phiếu không thuộc Nhà nước nắm giữ (30%). TTCK Việt Nam hiện mới đơn thuần là nơi giao dịch cổ phiếu, chỉ có tác dụng nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu mà chưa giải quyết được nhiệm vụ là tạo ra một kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế. Đây là tiền đề cơ bản cho hoạt động của thị trường thứ cấp. Việc cho phép các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới cũng là một biện pháp kích thích doanh nghiệp phát sinh nhu cầu vốn đầu tư, tạo môi trường cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. 1.5 Sớm ban hành danh mục các doanh nghiệp được phép giảm hoặc bán hết cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ. Hầu hết các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, kể cả các doanh nghiệp có cổ phiếu niêm yết trên TTGDCK TP. HCM đều thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ quyền chi phối. Nếu không có sự thay đổi sẽ làm gia tăng sức ép khan hiếm hàng hoá trên thị trường và những bất cập đối với công ty cổ phần. Thực tế, nhiều công ty mặc dù đã thực hiện cổ phần hoá nhưng vẫn chịu sự quyết định của Nhà nước, chưa thực sự được quyền quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, cách thức quản lý doanh nghiệp như bản chất của "Cổ phần hoá". Nói chung, cơ quan quản lý Nhà nước còn can thiệp quá sâu bằng các biện pháp hành chính vào công việc nội bộ của công ty cổ phần, vượt quá tỷ lệ vốn mà Nhà nước nắm giữ (trường hợp tranh chấp nội bộ trong Công ty cổ phần Đồng Giao-Ninh Bình đã bị Bộ Giao thông vận tải can thiệp bằng việc ra Quyết định nhận định cách giải quyết của công ty là đúng hay sai). 2.Hàng hoá Trái phiếu Hiện nay, thị trường trái phiếu chưa thể hiện được vai trò chủ đạo như dự tính ban đầu. Trái phiếu Chính phủ gần như không có giao dịch, trái phiếu Ngân hàng đầu tư có giá trị niêm yết không lớn và quy mô giao dịch nhỏ, chỉ chiếm một vài phần trăm trong tổng giá trị giao dịch của thị trường. Nguyên nhân là do: Trái phiếu Chính phủ vẫn được phát hành theo cơ chế có lãi suất chỉ đạo. Đây là quy định mang tính chất chủ quan, không phù hợp với tình hình thị trường nên đã làm nhiều đợt đấu thầu không có kết quả vì lãi suất đặt thầu thấp nhất cũng vượt quá lãi suất chỉ đạo; Đối tượng tham gia đấu thầu, bảo lãnh trái phiếu Chính phủ chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Thời gian qua, các ngân hàng trong tình trạng tồn đọng vốn, nên việc mua trái phiếu Chính phủ chỉ nhằm mục đích đầu tư và giải quyết ứ đọng vốn. Khi ngân hàng chưa cần nguồn vốn thì không có nhu cầu bán lại trái phiếu; Quan trọng hơn cả, mức sinh lời của trái phiếu Chính phủ thấp hơn nhiều so với cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường. Kiến nghị khắc phục như sau: 2.1 Điều chỉnh lại cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ Thực hiện bỏ lãi suất chỉ đạo trong đấu thầu và thực hiện theo lãi suất thị trường: Phát triển nghiệp vụ thị trường mở của hệ thống ngân hàng và xây dựng mặt bằng lãi suất các công cụ nợ theo lãi suất thị trường. Đa dạng hoá cơ quan phát hành trái phiếu: không nên tập trung tất cả qua Kho bạc Nhà nước như hiện nay mà nên đa dạng chủ thể phát hành cho phù hợp với tính chất của từng loại trái phiếu được phát hành. Đối với trái phiếu đầu tư huy động vốn cho tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nên giao cho Quỹ hỗ trợ phát triển trực tiếp phát hành; Trái phiếu đầu tư cho các công trình thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương theo Luật ngân sách Nhà nước nên giao cho các Quỹ đầu tư địa phương thực hiện. Kho bạc Nhà nước chỉ phát hành trái phiếu Chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Cơ chế bảo lãnh cũng cần được điều chỉnh, có thêm những chế tài để hạn chế việc các tổ chức tham gia bảo lãnh phát hành trở thành các nhà đầu tư Trái phiếu Chính phủ như hiện nay. Bởi vì, nếu không có sự thay đổi Nhà nước lại phải chi thêm tỷ lệ bảo lãnh phát hành và phí thanh toán sau này. 2.2 Đa dạng hóa các loại hình trái phiếu trên thị trường, phát triển mạnh trái phiếu đầu tư, trái phiếu công trình và trái phiếu doanh nghiệp Cho phép và khuyến khích Quỹ hỗ trợ phát triển, các Quỹ đầu tư hiện đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam được phát hành trái phiếu để huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Xây dựng chính sách phát hành trái phiếu đầu tư bằng ngoại tệ để huy động nguồn ngoại tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế cho một số dự án, công trình trọng điểm của Nhà nước. Xác định danh mục các dự án, công trình cấp thiết, thực hiện vay dân thông qua hình thức phát hành trái phiếu công trình. Tuỳ từng loại dự án, công trình mà có cách huy động khác nhau: Đối với dự án, công trình trọng điểm cấp Nhà nước, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các Bộ ngành liên quan triển khai phương án phát hành trái phiếu vào TTCK. Đối với dự án thuộc thẩm quyền của các Bộ và các địa phương, chủ dự án trực tiếp phát hành trên TTCK, nếu cần Bộ Tài chính sẽ thực hiện bảo lãnh phát hành. Khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhằm huy động được nguồn vốn trung và dài hạn để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của doanh nghiệp. 2.3 Mở rộng đối tượng được tham gia đấu thầu, bảo lãnh và mua bán trái phiếu trên TTCK Mở rộng đối tượng tham gia đấu thầu, bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các Công ty Bảo hiểm, Bưu điện, các tổ chức tài chính và được tham gia trực tiếp vào TTCK. Có chính sách cho phép các Công ty Bảo hiểm đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam được đầu tư và kinh doanh chứng khoán cũng như nới lỏng quy định đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia TTCK. 2.4 Đẩy mạnh hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ thông qua TTGDCK với các hình thức đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành có sự đổi mới 2.5 Giảm mức phí giao dịch trái phiếu Mức phí giao dịch trái phiếu hiện nay được đánh giá là khá cao. UBCKNN quy định mức giá trần đối với giao dịch trái phiếu là 0,15% tổng giá trị giao dịch, nhưng hầu hết các công ty chứng khoán áp dụng luôn ở mức này. Mức phí 0,15% cao so với lãi suất nhận được trung bình là 6,5%/năm. Mức phí giao dịch trái phiếu nên điều chỉnh hợp lý để thu hút thêm khách hàng tham gia giao dịch trái phiếu. 2.6 Đơn giản hoá việc tính toán giá trị trái phiếu giúp các nhà đầu tư hiểu và làm quen dần để có quyết định đầu tư có chất lượng 2.7 Khi xây dựng được TTCK Việt Nam ở trình độ cao hơn, nên đưa hoạt động giao dịch trái phiếu ra thị trường OTC (thị trường phi tập trung) Vì theo thông lệ thị trường trái phiếu của các nước trên thế giới, trái phiếu chủ yếu được giao dịch tại thị trường OTC chứ không phải ở Sở GDCK, tỷ lệ giao dịch trái phiếu ở các Sở GDCK các nước rất nhỏ: Tokyo (Nhật), Seul (Hàn Quốc) chỉ chiếm 1%. Mặt khác, giao dịch trái phiếu chủ yếu dành cho nhà đầu tư lớn, hiểu biết và phương thức thực hiện chủ yếu là qua giao dịch thoả thuận. Nếu làm được như vậy sẽ thu hút được số lượng nhà đầu tư nước ngoài có vốn lớn tham gia TTCK ở nước ta. Nhưng đây chỉ là giải pháp cho một tương lai xa của TTCK Việt Nam. 3. Nhanh chóng xây dựng TTCK bảng II tại Hà Nội dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay, UBCKNN đang xây dựng mô hình TTCK bảng II nhưng tiến độ còn chậm và chưa xác định được thời gian đi vào hoạt động chính thức. Đây là thị trường có tiêu chuẩn thấp hơn, độ rủi ro cao hơn hoặc ngành nghề đặc biệt hơn: Công ty có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên; hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi ít nhất 1 năm tính từ ngày đăng ký kinh doanh trên thị trường, có khả năng phát triển tốt và có ít nhất 10% số cổ phiếu phát hành ra công chúng. Khi tham gia TTCK bảng II, các công ty cũng phải thực hiện việc công bố thông tin nhưng ở mức độ và nhu cầu thấp hơn cổ phiếu ở TTCK bảng I. TTCK bảng II cần sớm đưa vào hoạt động để huy động được tối đa nguồn vốn của xã hội và thu hút sự tham gia đông đảo của công chúng đầu tư trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC 1. Có chính sách ưu đãi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào TTCK Việt Nam dưới hình thức thành lập các Công ty Chứng khoán liên doanh Tại thời điểm hiện nay, TTCK Việt Nam chưa có dấu hiệu của sự phát triển mạnh: Giá cổ phiếu chạm sàn, gần như không có giao dịch trái phiếu, nhiều nhà đầu tư muốn rút khỏi thị trường, số lượng giao dịch giảm, công ty chứng khoán trong nước nhiều hơn số công ty niêm yết…, nên chưa thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng việc thành lập Công ty chứng khoán liên doanh vẫn cần thiết để góp phần tạo tiền đề cho sự phục hồi và phát triển của TTCK Việt Nam, nâng cao tính cạnh tranh của các Công ty Chứng khoán và tạo ra các dịch vụ có chất lượng. Quy định tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào CTCK liên doanh nên tăng từ 30% lên 49%. Chuẩn hoá hồ sơ xin cấp giấy phép hoạt động của công ty Chứng khoán liên doanh, giảm thiếu những giấy tờ không cần thiết. 2. Hạn chế sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính của các cơ quan quản lý Trong thời gian qua, cơ quan quản lý đã can thiệp quá nhiều vào diễn biến của thị trường bằng các biện pháp hành chính: Giới hạn lệnh đặt mua tối đa, nới rộng biên độ giao dịch trong thời gian đầu, nhưng lại điều chỉnh khi thị trường thay đổi. Đây chỉ là những biện pháp tình thế, mặc dù có tính tích cực nhất định nhưng không mang tính chiến lược và được sử dụng không đúng thời điểm nên gây ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư. 3. Cho phép các tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm tham gia TTCK Việt Nam Đây là tổ chức chuyên đánh giá chất lượng chứng khoán nợ (trái phiếu)dựa vào tình hình tài chính của doanh nghiệp và các chỉ tiêu về định tính như: trình độ lãnh đạo của công ty, uy tín, xu hướng phát triển trong tương lai…Hiện nay ở Việt Nam chưa có một công ty định mức tín nhiệm nào ra đời. Do vậy, nhà đầu tư nước ngoài không có cơ sở tin cậy để lựa chọn chứng khoán. Chính vì vậy, cần phải có loại hình công ty này để gây dựng sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút họ tham gia TTCK . 4. Nới lỏng quy định ký quỹ cho nhà đầu tư nước ngoài và cho phép ngân hàng lưu ký thực hiện dịch vụ môi giới chứng khoán Cho phép các ngân hàng trong nước nhất là những ngân hàng có Công ty Chứng khoán được phép lưu ký chứng khoán và nhận tiền ký quỹ cho nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia TTCK Việt Nam. Đồng thời cho phép các ngân hàng lưu ký nước ngoài thực hiện dịch vụ môi giới chứng khoán. Đây là một đòi hỏi cần thiết nhằm thu hút hơn nữa sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK nước ta, giảm thiểu các khâu không cần thiết, tiến tới việc nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia giao dịch chứng khoán chỉ thông qua thành viên lưu ký. Trên thực tế, các ngân hàng trong nước như: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội có đủ khả năng để làm dịch vụ lưu ký chứng khoán và ký quỹ tiền cho nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, việc quản lý tiền gửi của các nhà đầu tư nước ngoài là một trong những nghiệp vụ được thực hiện thường xuyên của các ngân hàng trong nước. Lợi ích nhiều hơn cả là, nguồn tiền của nhà đầu tư nước ngoài ký quỹ để chuẩn bị tham gia TTCK trong thời gian đầu khoảng 5-10 triệu USD và có khả năng tăng lên khi thị trường sôi động hơn. Đây là nguồn vốn ngắn hạn hết sức cần thiết cho các ngân hàng trong nước vì có lãi suất và chi phí thấp. Việc cho phép ngân hàng lưu ký nước ngoài thực hiện dịch vụ môi giới chứng khoán sẽ rút bớt những thủ tục mà nhà đầu tư nước ngoài không phải trực tiếp thực hiện. 5. Khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức Hiện nay, số lượng nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức đầu tư vào Việt Nam tăng lên. Ngay từ khi chuẩn bị cho TTCK Việt Nam đi vào hoạt động, đã có 6 Quỹ Đầu tư nước ngoài mang vào thị trường vốn Việt Nam 400 triệu USD: Laza Vietnam Fund (Anh), Vietnam Frontier (Mỹ-Pháp), Templeton Vietnam Oppoturnities Fund (Mỹ), Vietnam Fund (Singapore) và Vietnam Enterprise Investment Ltd. Co (do Công ty Dragon Capital quản lý), ngoài ra Tập đoàn Ngân hàng Hồng Kông HSBC, một Quỹ Đầu tư xuất xứ từ Hồng Kông đã tham gia TTCK Việt Nam với số vốn 10 triệu USD. Đây là những quỹ đầu tư chuyên nghiệp, được điều hành bởi những quản trị viên xuất sắc. Các nhà đầu tư này muốn sở hữu một tỷ lệ cổ phiếu tương đối lớn trong các công ty cổ phần. Để thu hút được các nhà đầu tư có tổ chức như vậy, cần phải quy định tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài cởi mở hơn và tạo nên sợ thống nhất trong các văn bản. 6. Cho phép các Công ty Kiểm toán nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam với số lượng nhiều hơn Hiện nay có khoảng 32 doanh nghiệp hoạt động kiểm toán ở Việt Nam, trong đó có các nhà kiểm toán hàng đầu thế giới: Price Waterhouse Cooper, KPMG, Arthur Andersen…nhưng chỉ có duy nhất một công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài thực hiện kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán. Các công ty kiểm toán nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam sẽ tạo sự tin tưởng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. 7. Đẩy mạnh tin học hoá TTCK Xúc tiến việc nghiên cứu quy định pháp lý về phương thức đặt lệnh bằng điện thoại, fax, email tại TTCK Việt Nam. 8. Tăng cường an ninh chứng khoán: Gồm cả an ninh trật tự và an ninh mạng Nối kết trực tiếp các bộ phận liên quan đến giao dịch chứng khoán: Bộ phận lưu ký chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán… với cơ quan hữu quan nhằm giải quyết kịp thời những sự cố có thể xảy ra. 9. Xây dựng hệ thống ngân hàng phát triển mạnh Ngân hàng và Chứng khoán có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hai ngành cùng có mục tiêu hoạt động là điều hoà vốn trong nền kinh tế và các doanh nghiệp. Thực tế, một sự biến động nhỏ về lãi suất, khối lượng tiền tệ, tỷ giá hối đoái trong hoạt động ngân hàng đều có thể gây ra sự biến động lớn trong các hoạt động chứng khoán. Trước khi đưa ra quyết định, người phát hành chứng khoán và người đầu tư chứng khoán đều cân nhắc lãi suất tiền gửi ngân hàng và lợi tức chứng khoán cũng như khả năng rủi ro của từng loại. Như vậy, cần phải kết hợp giữa ngành chứng khoán và ngành ngân hàng trong các chính sách kinh tế vĩ mô, tính toán khoản thuế, phí và các vấn đề liên quan khác. Nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến mối quan hệ của hai ngành này, đây là một trong những mắt xích quan trọng trong chiến lược thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. KẾT LUẬN Qua kết quả nghiên cứu đề tài: “Giải pháp thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam”, tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Sự hình thành TTCK Việt Nam phù hợp với xu thế tất yếu của kinh tế thị trường và sự phát triển TTCK trên thế giới. Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội nước ta và góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 2. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài là yếu tố cần thiết góp phần phát triển và hoàn thiện TTCK Việt Nam. Hiện nay, số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK nước ta còn hạn chế ở thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp và chưa tham gia đầu tư trực tiếp thành lập các công ty chứng khoán liên doanh. Nguyên nhân chủ yếu là do quy mô hàng hoá nhỏ, chỉ tập trung vào một số ngành nghề nhất định và sự thiếu thống nhất, thông thoáng của các văn bản pháp luật. 3. Để thu hút sự tham gia đông đảo của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam cần kết hợp nhiều yếu tố, trong đó việc hoàn thiện các chính sách của Nhà nước nhằm tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng. Trong thời gian tới, các chính sách của Nhà nước cần được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn kinh tế-xã hội đất nước và xu thế hội nhập quốc tế về kinh tế và phát triển TTCK./. PHỤ LỤC CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Số: 139/1999/QĐ-TTg Độc lập-tự do-Hạnh phúc. QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992; Căn cứ Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành, chứng chỉ Quỹ đầu tư của một Quỹ đầu tư chứng khoán, trong đó một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 7% và một cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 3%. Điều 2. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành, trong đó một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 10% và một cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 5%. Điều 3. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trong Công ty chứng khoán liên doanh tối đa là 30%. Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký. Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHAN VĂN KHẢI (Trích Quyết định số145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài). QUY CHẾ Bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài (Ban hành kèm theo Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ). I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm huy động vốn, công nghệ, phương pháp quản lý doanh nghiệp của nước ngoài, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, trình độ cạnh tranh và mở rộng thị trường để đầu tư phát triển các doanh nghiệp Việt Nam. Điều 2. Các doanh nghiệp được bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực quy định tại phụ lục kèm theo Quyết định này, bao gồm: 1. Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá; 2. Công ty cổ phần và các loại hình doanh nghiệp khác đã có quyết định phát hành cổ phiếu để chuyển thành công ty cổ phần của cấp có thẩm quyền. Điều 3. Các từ ngữ trong Quy chế này được hiểu như sau: 1. “Nhà đầu tư nước ngoài” là tổ chức kinh tế nước ngoài, người nước ngoài sở hữu cổ phần, mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam. 2. “Doanh nghiệp Việt Nam” là các doanh nghiệp được bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại Điều 2 của Quy chế này. Điều 4. Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm về quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ theo Quy chế này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Điều 5. Việc mua cổ phần, chuyển cổ tức, tiền bán cổ phần ra nước ngoài của nhà đầu tư nước ngoài thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính, các ngân hàng của Việt Nam hoặc của người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại các tổ chức tài chính, các ngân hàng đó. Điều 6. Tổng số giá trị cổ phần bán cho các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty. Trong trường hợp nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần vượt quá 30% số vốn điều lệ của công ty thì tổ chức đấu giá. Điều 7. Bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện bằng đồng Việt Nam. Nếu mua bằng ngoại tệ chuyển đổi thì được quy đổi theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm bán cổ phần. Việc tổ chức bán cổ phần được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều 8. Cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam là cổ phiếu ghi danh do Bộ Tài chính in và quản lý. Giá trị danh nghĩa của một cổ phần trên tờ cổ phiếu là 100.000 đồng Việt nam. Điều 9. Tại các doanh nghiệp nhà nước có bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài thì doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp nhà nước được hưởng các ưu đãi quy định tại Điều 13, Điều 14 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 19-6-1998 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ Điều 10. Giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần. 1. Giá bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước thống nhất chung một giá. Giá này đảm bảo nguyên tắc chủ sở hữu doanh nghiệp (người bán) và nhà đầu tư nước ngoài (người mua) đều chấp nhận được. 2. Đối với doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá thì Giám đốc doanh nghiệp lập phương án giá và tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định hiện hành, báo cáo cơ quan quản lý trực tiếp hoặc Bộ Tài chính quyết định. 3. Đối với công ty cổ phần thì Đại hội cổ đông hoặc Hội đồng quản trị quyết định sau khi tham khảo cơ quan bảo lãnh phát hành và các nhà đầu tư nước ngoài. Mức giá công bố của cơ quan có thẩm quyền theo phân cấp hiện hành đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá của công ty cổ phần là giá tối thiểu khi tổ chức bán đấu giá cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều 11. Phát hành cổ phần. 1. Tất cả các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, các công ty cổ phần bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài đều thực hiện thông qua tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành cổ phiếu. 2. Tổ chức bảo lãnh phát hành tiếp xúc với từng nhà đầu tư nước ngoài để xác định: Số lượng cổ phần, giá bán cổ phần và các điều kiện khác do doanh nghiệp phát hành yêu cầu để chọn nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp. 3. Tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức đấu giá khi có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mua cổ phần của doanh nghiệp theo quy định về đấu giá hiện hành. 4. Mức chi phí cho tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý phát hành do hai bên thoả thuận trong chi phí cổ phần hoá hoặc tỷ lệ phần trăm (%) trong tổng số giá trị cổ phiếu phát hành. Điều 12. Quyền lợi của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài: 1. Được quyền tham gia hoặc không tham gia quản lý công ty cổ phần theo Quy định của Luật Công ty và Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. 2. Được đổi các khoản thu về cổ tức, tiền chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam thành ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế theo quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các Luật thuế hiện hành. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài dùng cổ tức thu được để tái đầu tư tại Việt Nam thì được áp dụng như quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. 3. Được sử dụng cổ phiếu để cầm cố, thế chấp trong các quan hệ tín dụng ở Việt Nam. 4. Được cấp thị thực xuất nhập cảnh nhiều lần trong thời gian đầu tư mua cổ phần tại Việt Nam. 5. Được hưởng các quyền lợi khác như cổ đông là người trong nước và các quyền do pháp luật quy định. Điều 13. Cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Luật Công ty, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Điều 14. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được chuyển nhượng cổ phiếu của mình sau 3 năm (nếu tham gia quản lý công ty cổ phần), sau 1 năm (nếu không tham gia quản lý công ty cổ phần) kể từ ngày sở hữu cổ phần trong công ty. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN Điều 15. Trình tự việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài: 1. Các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá lập phương án theo trình tự quy định trong Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29-6-1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn kèm theo của các Bộ, trong đó nêu rõ: tỷ lệ cổ phần sẽ bán cho nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ cổ phần nhà nước (nếu có) và tỷ lệ cổ phần sẽ bán cho nhà đầu tư cá nhân, pháp nhân trong nước; tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý phát hành cổ phiếu. Các công ty cổ phần cũng phải lập phương án bán cổ phần trong nhà đầu tư nước ngoài theo những nội dung trên trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 2. Phương án cổ phần hoá và bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài được gửi đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Bộ quản lý ngành hoặc Hội đồng quản trị Tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (Tổng công ty 91). 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Bộ quản lý ngành, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 có trách nhiệm thẩm định phương án của từng doanh nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. 4. Sau khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, doanh nghiệp ký hợp đồng với cơ quan bảo lãnh và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức thực hiện xong trong thời hạn tối đa không quá 6 tháng kể từ ngày có quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Điều 16. Thẩm quyền quyết định bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài: Tất cả các doanh nghiệp có bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài đều do Thủ tướng Chính phủ quyết định. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHAN VĂN KHẢI DANH MỤC CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THUỘC CÁC NGÀNH ĐƯỢC BÁN CỔ PHẦN CHO NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (Ban hành kèm theo Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ) 1. Ngành dệt may. 2. Ngành sản xuất giầy, dép. 3. Ngành chế biến da. 4. Ngành sản xuất, chế biến hàng nông, lâm, thuỷ sản. 5. Ngành sản xuất hàng tiêu dùng khác. 6. Ngành sản xuất vật liệu xây dựng. 7. Ngành vận tải đường bộ, đường thuỷ nội địa, vận tải hàng hoá bằng container. 8. Ngành sản xuất đồ dùng học tập. 9. Ngành sản xuất đồ chơi trẻ em. 10. Ngành thương mại, dịch vụ-khách sạn. 11. Ngành sản xuất cơ khí. 12. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thuộc các ngành hàng quy định trên đây. Sơ đồ cơ cấu tổ chức CHỦ TỊCH Các Phó chủ tịch Các Uỷ viên kiêm nhiệm: -Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; -Thứ trưởng Bộ Tài chính; -Thứ trưởng Bộ Tư pháp; -Phó Thống đốc NHNN. Văn phòng Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo Vụ Quan hệ quốc tế Vụ Quản lý Kinh doanh Chứng khoán Vụ Quản lý phát hành chứng khoán Vụ Phát triển Thị trường chứng khoán Thanh tra Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Vụ Tài chính-Kế toán Văn phòng đại diện TP.HCM Trung tâm NC&BDNV Chứng khoán Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM Tạp chí Chứng khoán Phòng Pháp chế Phòng Công nghệ Tin học của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước TÌNH HÌNH GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN (Từ ngày 28/07/2000 đến ngày 27/7/2001) STT Mã CK Số phiên giao dịch KL khớp Giá trị giao dịch 1 REE 151 3.617.400 162.159.500.000 2 SAM 151 7.427.300 321.237.610.000 3 HAP 148 1.245.100 79.415.130.000 4 TMS 141 1.089.700 89.446.820.000 5 LAF 92 345.200 22.925.540.000 6 SGH 6 1.400 42.430.000 7 Tổng CP 13.726.100 675.227.030.000 8 CP1-0100 148 410 41.267.000 9 CP1-0200 140 770 79.633.000 10 CP1A0100 124 11 CP1-0300 2 12 CP1C0101 1 13 BID1-100 105 56.900 5.445.933.000 14 BID1-200 50 14.000 1.359.885.000 15 Tổng TP 72.120 6.926.718.000 16 Tổng cộng 13.798.220 682.153.748.000 (Nguồn: Con số và sự kiện một năm hoạt động từ 28/07/2000-27/07/2001, Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM). Tình hình giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài Từ ngày 28/07/2000 đến ngày 27/07/2001 Số lượng nhà đầu tư nước ngoài đăng ký mở tài khoản tại HSBC: 11. Số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia giao dịch: 6 (tính đến 1/7/2001). STT Mã chứng khoán Khối lượng giao dịch Giá trị giao dịch (đồng) 1 HAP 0 0 2 TMS 66.600 6.550.100.000 3 SGH 0 0 4 CP1-0100 0 0 5 CP1-0200 0 0 6 CP1A0100 0 0 7 CP1-0301 0 0 8 CP1C0101 0 0 9 BID1-100 0 0 10 BID1-200 0 0 11 Tổng cộng 66.600 6.550.100.000 (Nguồn: Con số và sự kiện một năm hoạt động từ 28/07/2000-27/07/2001, Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM). THÔNG TIN GIAO DỊCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI NGÀY 30/7/2001 Issues Total room No. of shares owner by foreigners Current room Current ownership ratio Trading volume Total value REE 3.000.000 3.749.580 0 25% 0 0 SAM 0 0 0 0% 0 0 HAP 201.600 3.000 198.600 0,30% 3000 309.000.000 TMS 440.000 176.600 263.400 8,03% 0 0 LAF 381.968 579.254 0 30,33% 0 0 THÔNG TIN GIAO DỊCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI NGÀY 7/11/2001 Issues Total room No. of shares owner by foreigners Current room Current ownership ratio Trading volume Total value REE 3.000.000 3.749.580 0 25% 0 0 SAM 0 0 0 0% 0 0 HAP 201.600 5.900 195.700 0,30% 2.900 309.000.000 TMS 440.000 176.600 263.400 8,03% 0 0 LAF 381.968 579.254 0 30,33% 0 0 SGH 353.260 3.000 350.260 0,17% 3000 84.900.000 CAN 700.000 894.820 0 25,57% 0 0 THÔNG TIN GIAO DỊCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI NGÀY 9/11/2001 Issues Total room No. of shares owner by foreigners Current room Current ownership ratio Trading volume Total value REE 3.000.000 3.749.580 0 25% 0 0 SAM 0 0 0 0% 0 0 HAP 201.600 8.300 193.300 0,82% 2.400 249.600.000 TMS 440.000 176.600 263.400 8,03% 0 0 LAF 381.968 579.254 0 30,33% 0 0 SGH 353.260 3.000 350.260 0,17% 0 0 CAN 700.000 894.820 0 25,57% 0 0 THÔNG TIN GIAO DỊCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI NGÀY 14/11/2001 Issues Total room No. of shares owner by foreigners Current room Current ownership ratio Trading volume Total value REE 3.000.000 3.749.580 0 25% 0 0 SAM 0 0 0 0% 0 0 HAP 201.600 14.200 193.300 1,41% 5.900 637.200.000 TMS 440.000 176.600 263.400 8,03% 0 0 LAF 381.968 579.254 0 30,33% 0 0 SGH 353.260 4.200 350.260 0,24% 1.200 35.760.000 CAN 700.000 894.820 0 25,57% 0 0 (Nguồn: Tin thị trường chứng khoán-UBCKNN). TÀI LIỆU THAM KHẢO CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ 1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). 2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. 3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. 4. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010. 5. Luật Doanh nghiệp 1999. 6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. 7. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) 1998. 8. Nghị định 75/1996/NĐ-CP ngày 28-11-1996 của Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 9. Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29-6-1998 của Chính phủ về chuyển Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. 10. Nghị định số 48/NĐ-CP ngày 11-7-1998 của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán. 11. Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17-8-1998 của Chính phủ về Quản lý ngoại hối. 12. Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13-10-1998 của Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán Nhà nước ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán. 13. Thông tư số 169/1998/TC-BTC ngày 22-12-1998 của Bộ Tài chính về nộp thuế đối với tổ chức nước ngoài thành lập theo pháp luật nước ngoài có tham gia đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. 14. Quyết định số 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 15. Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. 16. Quyết định số 127/1999/QĐ-BTC ngày 22-10-1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Ban hành biểu mức thu phí, lệ phí đối với hoạt động thị trường chứng khoán. 17. Thông tư số 132/1999/TT-BTC ngày 15-11-1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. 18. Thông tư số 01/1999/TT-UBCK1 ngày 30-12-1999 của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước hướng dẫn Quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 19. Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27-3-2000 của Thủ tướng Chính phủ quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. 20. Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam. 21. Thông tư số 04/2001/TT-NHNN ngày 18-5-2001 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về Quản lý ngoại hối đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. 22. Công văn số 4708/TC-TCT ngày 23-5-2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn chính sách thuế đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. 23. Quy trình thanh toán bù trừ đối với nhà đầu tư nước ngoài. SÁCH THAM KHẢO 24. Giáo trình Thị trường chứng khoán - PGS.NGƯT. Đinh Xuân Trình, PTS. Nguyễn Thị Quy, Trường Đại học Ngoại thương - NXB Giáo dục, 1998. 25. Hình thành thị trường Chứng khoán ở Việt Nam trong bối cảnh tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á - Tập thể tác giả - NXB Thống kê,1999. 26. Hiểu và sử dụng thị trường chứng khoán - PGS. PTS. Lê Văn Tư, Chuyên viên kinh tế Lê Tùng Vân, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, NXB Thống kê,1999. 27. Sự hình thành và phát triển thị trường tài chính của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam - Nguyễn Đình Tài - NXB Chính trị quốc gia, 1999. 28. Thị trường chứng khoán Việt Nam - PGS. PTS Lê Văn Tề - NXB Thống kê, 1999. 29. Toàn cảnh thị trường chứng khoán - Nguyễn Ngọc Bích biên dịch - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000. 30. Thị trường chứng khoán, Phương thức hoạt động và kinh doanh - Chủ biên Nguyễn Trần Quế, 1996. 31. Thị trường chứng khoán Việt Nam, mô hình và bước đi - TS. Nguyễn Sơn, Nguyễn Quốc Việt, NXB Chính trị quốc gia, 2000. 32. Thị trường chứng khoán và Công ty cổ phần - Bùi Nguyên Hoàn, NXB Chính trị quốc gia, 1998. 33. Tài chính với sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam - TS. Đinh Văn Nhã, Hoàng Hải, NXB Tài chính, 2000. 34. Hướng dẫn đầu tư vào thị trường chứng khoán - Christine stopp - Minh Đức, Hồ Kim Chung biên dịch, NXB Trẻ, 1999. 35. Thị trường chứng khoán, kỹ năng chọn lựa đầu tư - Huy Nam, NXB Trẻ, 2000. TÀI LIỆU KHÁC 36. Báo cáo thường niên 2000, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 37. Con số và sự kiện một năm hoạt động (28/7/2000-27/7/2001), Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. 38. Báo cáo tổng kết một năm hoạt động của Thị trường chứng khoán Việt Nam (ngày 25/7/2001), Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 39. Tạp chí chứng khoán Việt nam các số năm 2000, 2001. 40. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng: số 1 năm 2000, số 3 năm 2000, số 1 năm 2001, số 2 năm 2001. 41. Khoá Đào tạo về Quản lý thị trường chứng khoán tại Việt Nam (ngày 24/2-7/3/1997), Tập 1. 42. Đầu tư chứng khoán, các số năm 2000, năm 2001. 43. Tạp chí Ngân hàng, các số năm 2001. 44. Tạp chí Tài chính các tháng năm 2001. 45. Điểm lại một số nét chính trong hơn một năm hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam, Công ty Chứng khoán Ngân hàng đầu tư và Phát triển. 46. Tin Chứng khoán đến ngày 14/11/2001 của Công ty Chứng khoán Thăng Long, Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội. 47. Tin Thị trường chứng khoán đến ngày 14/11/2001 của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 48. Danh sách công ty cổ phần của Ban Kinh tế trung ương. 49. Phương án bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài của công ty cổ phần Giao nhận vận chuyển container quốc tế (INFACON). 50. Tạp chí thông tin khoa học ngân hàng-Các chuyên đề 53, 55, 57, 61, 63, 65, 67, 69, 71, 73, 75,77,79,81.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van tot nghiep 2002 - Lan Huong.doc
Tài liệu liên quan