Khóa luận Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Có nhiều người đã kết tội cho đó là bài thơ phản chiến, nhưng cũng có nhiều người đã đứng về phía tác giả. Nguyễn Sĩ Đạt nêu ý kiến: Chống chiến tranh mơ ước hòa bình vốn là phẩm chất tạo nên giá trị nhân đạo của mọi văn học tiến bộ xưa nay Nếu “Màu tím hoa sim” có gây cảm giác bi lụy trong một vài người “vệ quốc quân” nào đó, thì “sòng phẳng” một cách máy móc, nó cũng làm rã ngũ đối phương. [18 ;513] Như vậy, nhà thơ Hữu Loan viết về sự mất mát, nỗi đau cá nhân như một lẽ thường tình, như là một nhu cầu phản ánh đời sống, tình yêu, bi kịch của thời đại. Chiến tranh luôn mâu thuẫn với ước mơ hạnh phúc của con người. Nhà thơ Hữu Loan tâm sự: Vệ quốc quân hồi ấy, ai cũng chép bài thơ vào sổ tay. Họ yêu thơ chừng nào, tâm hồn càng phong phú thêm, quyết tâm càng cao, ý chí càng mạnh. Có anh chép bài thơ xong thì hi sinh rất dũng cảm. Bài thơ không hề làm cho các chiến sĩ yếu đuối và dao động [17;11]. Rõ ràng, viết về cái tôi, sự mất mát đau thương nhưng bài thơ vẫn đạt được những giá trị văn học nhất định. Dù viết về nỗi đau hạnh phúc không trọn vẹn, bài thơ vẫn ánh lên màu sắc lí tưởng Người vợ hi sinh còn người chồng vẫn tiếp tục cầm súng, tiếp tục hành quân diệt thù. Giai đoạn 1945 – 1975, mỗi con người phải tìm cho mình một lí tưởng sống. Những người yêu nhau, người vợ, người chồng đều tìm đến lí tưởng cách mạng, tìm đến nhân dân, chung sức chung lòng chiến đấu vì độc lập tự do. Đối với họ, hạnh phúc chính là chiến đấu, là có mặt khi Tổ quốc cần: Hạnh phúc là gì? Bao lâu ta lúng túng Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra Cho đến ngày cất bước đi xa Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)

pdf61 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừng được Vương Hàn, một nhà thơ đời Đường trong bài “Lương châu từ” đề cập: Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi (Say khước sa trường anh chớ mỉa Xưa nay chinh chiến mấy ai về!) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 34 - Đó chính là sự thật, sự phi lí của chiến tranh không thể né tránh. “Màu tím hoa sim” dẫn người đọc đến sự cảm thương vô cùng trớ trêu, bất ngờ. Người nằm xuống lại là người vợ nơi hậu phương. Câu thơ dài ngắn rớt nhịp nửa chừng diễn tả niềm đau quá lớn: Nhưng không chết, Người trai khói lửa Mà chết Người gái nhỏ hậu phương Em ơi giây phút cuối Không được nghe em nói Không được nhìn nhau một lần (Màu tím hoa sim) Như không làm chủ được cảm xúc của mình, nỗi đau bộc lộ một cách hết sức tự nhiên theo tiếng nấc, nghẹn, tiếng gọi trong vô vọng. Để mỗi lần hành quân qua đồi sim tím, niềm đau nhức nhối, miên man nối tiếp vô cùng vô tận trong màu loang của hoa, hoàng hôn và chiều tímAi biết rằng biệt li là mãi mãi! Ngày xưa, nàng yêu hoa sim tím Áo nàng màu tím hoa sim Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài Trong chiều Không hết Màu tím hoa sim Tím chiều hoang biền biệt (Màu tím hoa sim – Hữu Loan) Nỗi đau dồn nén bao ngày đã trào ra choáng hết không gian bao la của đất trời, của cả lòng người. Mỗi dòng thơ được ngắt ra thể hiện nỗi đau đớn như trùng điệp đè nén mỗi bước chân của người chiến sĩ. Đó là nỗi nhớ thương khôn nguôi, những mất mát dài không hết. Bài thơ “khóc thương vợ” của Hữu Loan ra đời năm 1949 – một năm sau khi người vợ qua đời – quá sớm, xa lạ đối với mĩ học đương thời. Bởi lí tưởng thẩm mĩ trong văn học thời đại chưa dễ dàng chấp nhận sự phơi bày niềm đau cá nhân và cả những đau thương tổn thất trong chiến tranh. Nhưng “Màu tím hoa sim” đã được khai sinh như một qui luật tất yếu. Nó phản ánh đời sống nội tâm của con người, làm cho nền thơ kháng chiến bớt đi tính phiến diện. Do đó, bài thơ ra đời đã được đông đảo bạn đọc đón nhận. Tuy nhiên, dư luận xung quanh sự xuất hiện của bài thơ vẫn không ít. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 35 - Có nhiều người đã kết tội cho đó là bài thơ phản chiến, nhưng cũng có nhiều người đã đứng về phía tác giả. Nguyễn Sĩ Đạt nêu ý kiến: Chống chiến tranh mơ ước hòa bình vốn là phẩm chất tạo nên giá trị nhân đạo của mọi văn học tiến bộ xưa nayNếu “Màu tím hoa sim” có gây cảm giác bi lụy trong một vài người “vệ quốc quân” nào đó, thì “sòng phẳng” một cách máy móc, nó cũng làm rã ngũ đối phương. [18 ;513] Như vậy, nhà thơ Hữu Loan viết về sự mất mát, nỗi đau cá nhân như một lẽ thường tình, như là một nhu cầu phản ánh đời sống, tình yêu, bi kịch của thời đại. Chiến tranh luôn mâu thuẫn với ước mơ hạnh phúc của con người. Nhà thơ Hữu Loan tâm sự: Vệ quốc quân hồi ấy, ai cũng chép bài thơ vào sổ tay. Họ yêu thơ chừng nào, tâm hồn càng phong phú thêm, quyết tâm càng cao, ý chí càng mạnh. Có anh chép bài thơ xong thì hi sinh rất dũng cảm. Bài thơ không hề làm cho các chiến sĩ yếu đuối và dao động[17;11]. Rõ ràng, viết về cái tôi, sự mất mát đau thương nhưng bài thơ vẫn đạt được những giá trị văn học nhất định. Dù viết về nỗi đau hạnh phúc không trọn vẹn, bài thơ vẫn ánh lên màu sắc lí tưởng Người vợ hi sinh còn người chồng vẫn tiếp tục cầm súng, tiếp tục hành quân diệt thù. Giai đoạn 1945 – 1975, mỗi con người phải tìm cho mình một lí tưởng sống. Những người yêu nhau, người vợ, người chồng đều tìm đến lí tưởng cách mạng, tìm đến nhân dân, chung sức chung lòng chiến đấu vì độc lập tự do. Đối với họ, hạnh phúc chính là chiến đấu, là có mặt khi Tổ quốc cần: Hạnh phúc là gì? Bao lâu ta lúng túng Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra Cho đến ngày cất bước đi xa Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Hạnh phúc đã được cụ thể hóa bằng một hình ảnh giản dị, đầy sức sống mà bom đạn chiến tranh không hủy diệt được. Bông hoa cúc nở giữa mảnh vườn tan tác bom na – pan: Trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc Và em gọi đó là hạnh phúc... (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Hạnh phúc không dừng lại ở đó khi những người yêu nhau cùng đứng trên cùng một trận tuyến, chiến đấu cho lí tưởng cộng sản. Họ vừa là chồng vợ, vừa là đồng đội, đồng chí. Dương Hương Ly đã sáng tác bằng tất cả niềm xúc động khi phát hiện lẽ sống mới. Ở đây có tình yêu, hạnh phúc niềm tin, sự hài hòa giữa tình yêu đôi lứa và lí tưởng đấu tranh: Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 36 - Em lớn lên bên họ can trường Giữa bom rào đạn réo Em đã thấy những tâm hồn tuyệt vời trong trẻo Những con người như ánh sáng lung linh Mỗi đêm ra đi giản dị hiến mình Để làm nên buổi mai đầy nắng Em bối rối, em sửng sờ đứng lặng Vẻ đẹp này em chưa biết đặt tên Thức dậy bao điều mới mẻ trong em Thức dậy bao điều cao quý trong em Nơi ngọn bút nghe cuộc đời thôi thúc. Và em gọi đó là hạnh phúc... (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Như vậy, hạnh phúc thời chiến tranh có thể hình thành khi con người phát hiện ra những lẽ sống đẹp, bao hình ảnh cao cả của đồng đội, tuổi trẻ quanh mình – vẻ đẹp giản dị từ trong lòng cuộc kháng chiến của nhân dân, những người anh hùng bất tử, hi sinh thầm lặng cho sự nghiệp cách mạng. Hạnh phúc là được quên mình sống nhiệt thành cho lí tưởng. Chiến tranh luôn là thách thức lớn cho tình yêu. Thật khó có hạnh phúc trong khi đất nước mãi đạn réo, bom rơi. Đồng cảnh ngộ với nhà thơ Hữu Loan, nhà thơ Dương Hương Ly cũng đã mất đi người bạn đời, người đồng chí cùng chí hướng. Nỗi đau này đã trở thành nỗi đau của toàn dân tộc, nỗi đau của những đôi lứa đang yêu. Cái tôi trữ tình đã nhập vào nhân vật “anh” để cất tiếng khóc thống thiết, đau nỗi đau tột cùng, quặn lòng: Anh mất em như mất nửa cuộc đời Nỗi đau không thể nói được bằng lời Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc ( Bài thơ về hạnh phúc) Nhà thơ cứ để cảm xúc tuôn trào, phơi bày chân thật nỗi niềm đau đớn của mình. Thơ Dương Hương Ly đã nói những điều rất thật, không che giấu nỗi đau, sự mất mát, hụt hẫng đang vò xé tâm can. Trong nỗi đau đớn không cùng, con người biết biến đau thương thành sức mạnh. Anh đã tìm cho mình một hướng đi và tình yêu của anh thấm đẫm lí tưởng anh hùng cách mạng: Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 37 - (Bài thơ về hạnh phúc) Hạnh phúc là được chiến đấu, là vượt lên trên nỗi đau để chiến thắng. Đó là lẽ sống chung của cả thời đại, của những anh hùng thời đánh Mĩ. Cùng với Hữu Loan, Dương Hương Ly, nhà thơ Vũ Cao, Giang Nam cũng đã góp cho thơ hiện đại những dòng thơ một thời thấm đẫm niềm đau li biệt: Mới tới đầu ao tin sét đánh Giặc giết em rồi dưới gốc thông Nửa đêm bộ đội vây đồn Thửa Em sống trung thành chết thủy chung. (Núi đôi – Vũ Cao) Tâm trạng đau đớn này cũng có thể bắt gặp qua bài “Quê hương” của Giang Nam: Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người! Nỗi đau mất người yêu đã được hai nhà thơ kí thác qua nhiều hình ảnh đau thương, tan tác: Anh ngước nhìn lên / hai dốc núi Hàng thông / bờ cỏ / con đường quen Nắng lụi / bỗng dưng / mờ bóng khói Núi vẫn đôi / mà anh mất em! ( Núi đôi – Vũ Cao) Cảnh vật quen thuộc nhạt nhòa trong nước mắt, mờ mờ ảo ảo, khô héo, hắt heo. Nắng thì lụi tàn, mây khói thì mờ mịt, hình ảnh núi đôi vẫn còn đó nhưng người xưa thì không còn. Đó là hình ảnh đối lập mang sức khái quát cao. Nhịp thơ chùng xuống, câu thơ cuối gảy đôi diễn tả nỗi đau đột ngột như làm chết nửa con người. “Núi đôi” và “Quê hương” đều nói về niềm đau, sự mất mát, nhưng không yếu đuối, bi lụy. Ngược lại, còn mang đến cho người đọc đan xen những cảm xúc thăng hoa trái ngược: đau đớn, cảm thông, niềm tin tương lai và cả sự ngưỡng mộ tự hào. Bởi cái chết được hóa thân, chết không mất đi, không chấm dứt mà biến thành sức mạnh, thành ánh sáng soi đường cho lớp lớp thế hệ nối tiếp: Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm (Núi đôi – Vũ Cao) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 38 - Tình yêu lứa đôi đã tìm được thế đứng vững chắc trong tình yêu quê hương, đất nước. Sự mất mát đau thương đã tiếp thêm cho người chiến sĩ sức mạnh để tiếp tục sự nghiệp cách mạng thay vì phải mãi đau đớn, bi lụy. Họ chính là “tấm lòng trong vạn tấm lòng”, là “đôi hạt giữa nghìn đôi”. Vũ Cao thật tài tình khi sáng tạo ra các cặp hình ảnh sóng đôi: “sao – hoa, ánh sáng – mùi hương”. Phải chăng đó là sự tương quan giữa lí tưởng và tình yêu. Ngôi sao sáng trên mũ sẽ dẫn đường cho người chiến sĩ thực hiện lí tưởng. Còn cô gái, dù mất đi nhưng đã hóa thân thành tình yêu quê hương, sẽ mãi là hoa trên đỉnh núi bốn mùa tỏa mùi hương quyện và nâng bước chân của bao người đi tiếp trên mỗi dặm đường. Với người chiến sĩ trong bài thơ “Quê hương”, anh cũng đã tìm được cho mình một lẽ sống cao cả, một con đường đi và một chân lí mới: Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi Đối lập giữa hai hình ảnh xưa và nay đã giúp chúng ta thấy được một sự biến thiên dâu bể. Xưa là những hoài niệm về chuỗi ngày ấu thơ êm đẹp với cô bé hàng xóm. Nay là hiện thực đau thương tang tóc vì em không còn nữa. Nhưng em mất mà tất cả quê hương vẫn còn bởi em cũng chính là một phần của non sông gấm vóc. Chúng tôi xin trích một số lời tâm sự giữa nhà thơ Giang Nam và độc giả để từ đó thấy được sức mạnh của những bài thơ viết về tình yêu, niềm đau, sự mất mát trong tình yêu ra đời những năm kháng chiến. Về bài “Quê hương”,“Bài thơ được chép tay, truyền tay trong học sinh, sinh viên được làm tài liệu trong các cuộc đấu tranh. Tôi nhớ mãi lời tâm sự của một sinh viên Sài Gòn, người Bắc di cư đã tham gia phong trào. Khi biết tôi là tác giả bài thơ. Anh ấy đã xúc động nói: “Em đã thuộc bài thơ này từ lâu, nhưng em không bao giờ nghĩ đó là bài thơ của một người cộng sản. Khi được bạn cho biết Giang Nam là nhà thơ, hiện ở chiến khu và là Đảng viên cộng sản, em như bị choáng váng. Người cộng sản mà cũng có tình yêu, thậm chí một tình yêu cảm động, xót xa đến thế ư? Em hiểu là em có thể đứng cùng trận tuyến với các anh chống Mĩ và bọn tay sai. Và em đã tham gia phong trào. Em mơ ước gặp anh.” Tôi vô cùng xúc động, chỉ biết khẳng định với người bạn trẻ từng bị kẻ địch lừa dối về người cộng sản nhiều năm rồi: “Nếu có người dân nào yêu nước nhất, chịu hi sinh đau khổ nhiếu nhất thì đó chính là người cộng sản. Quê hương là một phần của cuộc đời tôi, và có lẽ cũng là của nhiều bạn bè tôi, em ạ!” ”[18 ;579] Qua đây, chúng ta đã hiểu được vì sao các nhà thơ viết hay, xúc động về tình yêu đến thế! Hẳn là vì trong họ có chất lửa. Tất cả đều là sống Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 39 - thật và trải nghiệm, xuất phát từ cái tôi trữ tình luôn thiết tha sâu nặng với làng xóm quê hương. Như vậy, tình yêu cá nhân riêng tư đã hóa thân vào tình yêu đất nước. Dù có ai mất đi hay gởi một phần xương thịt của mình nơi chiến trường thì cũng là một nỗi đau lớn, tổn thất chung của dân tộc: Giữ lấy giàn trầu Giữ xanh mái tóc! Hôm nay trở về, một chân anh mất Nhưng quê hương tất cả vẫn còn... (Hoa chanh – Nguyễn Bao) Điệp từ “giữ” cùng câu thơ tự do tạo nên tinh thần quyết tâm, tự nhủ để vượt lên số phận. Khi chiến tranh kết thúc, dù con người được tự do nhưng họ cũng mang trên mình những vết tích của cuộc chiến. Đó là nỗi đau, song họ vẫn có niềm an ủi, thấm thía về những đóng góp thầm lặng: “một chân anh mất, nhưng quê hương tất cả vẫn còn”. Lời thơ gợi nhớ đến một bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Tiến viết về những người thương binh trở về sau trận chiến: “Vết chân tròn vẫn đi về trên con đường mòn cát trắng quê tôi. Anh thương binh vẫn đến trường làng, vẫn ôm đàn dạy các em thơ bài hát quê hương. Bài hát có ngọn núi quê anh xa vời. Bài hát có đồng lúa miên man câu hò. Bài hát có người lính đã hi sinh âm thầm. Cho hôm nay những vết chân son, vui quanh dấu chân tròn”( Vết chân tròn trên cát – Trần Tiến). Trên đất nước này, qua chiến tranh, đã có biết bao người lính hi sinh một phần xương máu để mang đến sự bình yên, tương lai tươi sáng hôm nay cho dân tộc. Những tình cảm tưởng chừng như rất riêng ấy nhưng lại rất chung, bởi đó là sự mất mát, niềm đau của toàn dân tộc. Chính vì vậy mà những bài thơ nêu trên đã có sức lay động rất lớn, khi cái riêng càng sâu thì cái chung lại càng lớn. Người nghệ sĩ chân chính là biết khơi dậy từ cái riêng của mình để biến thành cái chung, chỗ gặp gỡ, liên thông với mọi người. Hàng loạt bài thơ đã ra đời trong hoàn cảnh khói lửa chiến tranh. Những bài như: Màu tím hoa sim, Nhớ, Núi đôi, Quê hương, Hoa chanh, Bài thơ về hạnh phúc, Cuộc chia li màu đỏ, Sóng,sẽ sống mãi với thời gian bởi nó đã cho bạn đọc hôm nay và mai sau những hình ảnh đẹp về tình yêu thời chiến – một tình yêu luôn lãng mạn, tươi tắn, đằm thắm, đau thương nhưng rất đỗi hào hùng, biết hi sinh hạnh phúc riêng tư vì nhiệm vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc. Chúng ta càng trân trọng, mến phục những chàng trai và cô gái đã không tiếc máu xương hiến trọn tuổi xuân cho đất nước. Họ trở thành nhân vật trung tâm, nguồn cảm hứng sáng tạo cho thơ ca cách mạng. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 40 - CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC, NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN Thơ viết về tình yêu thời kháng chiến ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: chiến tranh. Chính trong hoàn cảnh khó khăn đó, thơ ca vẫn sinh sôi nảy nở và tìm được chỗ đứng xứng đáng trong lòng bạn đọc. Bởi nó không đơn thuần là thứ tình yêu vị kỉ thấm nhuần màu sắc lãng mạn thoát li như trong Thơ mới. Mà nó là thứ tình yêu có đầy đủ những cung bậc nhớ thương, đau đớn, gắn liền với vận mệnh chung của dân tộc Việt Nam. Làm nên sự thành công của thơ tình yêu giai đoạn này, không chỉ qua nội dung biểu hiện mà còn ở các phương diện phương thức nghệ thuật thể hiện. Với một số phương thức nghệ thuật, các nhà thơ thời chiến đã góp phần thể hiện thành công cảm xúc cái tôi trữ tình trong thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. I. MÔTÍP RIÊNG – CHUNG: Môtíp riêng – chung xuất hiện dày đặc trong thơ tình yêu giai đoạn này, từ quan niệm thẩm mĩ nghệ thuật đến ngôn ngữ hình tượng thể hiện. Tình yêu trong thơ ca giai đoạn này tìm được chỗ dựa vững chắc trong lòng nhân dân, dân tộc, nên luôn có sự hòa quyện giữa tình yêu riêng tư với tình yêu non sông, đất nước. Giáo trình “Văn học Việt Nam hiện đại tập II” (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945) có đoạn nói về tình cảm cộng đồng như sau: Lòng yêu nước là tình cảm bao trùm và sâu rộng nhất, nó gắn bó mọi con người Việt Nam trong một khối thống nhất của tình đồng bào đã có từ ngàn xưa, nay lại càng thắm thiết hơn trong cách mạng và kháng chiến. [10;26] Như vậy, tình yêu đối với quê hương đất nước chính là một tình cảm lớn đã gắn kết mọi “con dân” Việt Nam. Bên cạnh những tình cảm chung, nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền trong bài nghiên cứu “Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975” đã đưa ra nhận định về tình cảm riêng tư như sau: Ngay cả đến tình yêu, một thứ tình cảm riêng tư nhất cũng được nhìn nhận theo chiều hướng hòa hợp với cái ta chung, theo hệ quy chiếu nhiệm vụ chung của cả cộng đồng. [14 ;260] Thấy được mối quan hệ khắng khít giữa tình cảm cá nhân và tình cảm cộng đồng; giữa tình yêu và lí tưởng giáo sư Lê Đình Kỵ trong “Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam”, nêu nhận định như sau: Đặt tập thể và cá nhân vào một thế hài hòa sinh động, thể hiện cái chung thông qua cái riêng, không gạt bỏ cái riêng, cái chung và cái riêng chuyển hóa vào nhau[3;136]. Như vậy, mối quan hệ riêng – chung đã xuất hiện và trở thành một môtíp quen thuộc trong văn học kháng chiến nói chung và thơ tình yêu nói riêng, nó vừa là tình cảm cao đẹp, vừa chi phối phương thức thể hiện của thơ ca thời kỳ này. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 41 - Nhà thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác đã đặt tình yêu lứa đôi hòa trong tình yêu đất nước: Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm, mỗi bữa anh ăn (Nhớ) tình yêu đã tìm được vị trí xứng đáng giữa cuộc đời: Ngoài kia sao cũng từng đôi sáng Từng cặp nhân vàng trong trái đêm Bát ngát lòng anh giữa trái đời Hai ta đôi hạt giữa nghìn đôi (Anh viết bài thơ – Huy Cận) Sáng tác thơ thời kì này, nhà thơ Tế Hanh cũng đồng cảm cho rằng: Tình yêu và cuộc đời không tách rời nhau. Nếu không có tình yêu thì mất hương, mất nhụy của cuộc đời, và nếu tình yêu không gắn với cuộc đời thì thơ quá riêng tây, dễ rơi vào vụn vặt. Tình yêu chính là sức mạnh vô tận tiếp thêm sức mạnh, nghị lực nâng bước người chiến sĩ: Đường anh đi Nghe có cả nhịp chân em bước ...... Yêu em yêu cả nước non yêu mình Trông lên trời mở thênh thênh Mỗi vì sao biếc có hình hai ta (Em phương xa – Thi Hoàng) Người yêu đi chiến đấu, tình yêu của người ở lại trở nên đẹp lung linh. Hình ảnh người yêu, biểu tượng của tình yêu trong lòng hiện ra thật gần gũi, thân thuộc “Bông hoa chuối đỏ trên đỉnh dốc cao”, “ánh lửa hồng” đồng thời là động lực đấu tranh, thôi thúc động viên xốc tới “Như chưa hề có cuộc chia li”: Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy, Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người; Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp Một làng xa giữa đêm giá rét (Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mĩ) Tình yêu chính là hồi kèn xung trận, thôi thúc mọi người lên đường. Tình yêu trải dài theo không gian của đất nước. Tình yêu càng đẹp hơn nếu biết hòa vào mạch chảy của quê hương, đất nước, cảm hứng lãng mạn cách mạng chi phối văn học kháng chiến: “hoa ngày thường” thành “hoa chiến Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 42 - đấu”. Tình yêu trở thành nụ hoa của niềm tin lãng mạn: “dập tắt đạn lửa, lấp bằng hố bom sâu”: Em đây hoa những ngày thường Yêu quá thành hoa chiến đấu Dời chốn phòng riêng nho nhỏ Theo anh lên tận chiến hào Dập tắt muôn trùng đạn lửa Lấp bằng những hố bom sâu Chói lói tình yêu em nở. (Hoa những ngày thường – Chế Lan Viên) Mượn núi sông, trời đất làm cái cớ để nói chuyện con người, lại đem tình riêng hòa vào sự nghiệp chung của đất nước, làm cho cái nhỏ bé trở nên cao rộng, còn cái cao rộng lại không thể che khuất cái nhỏ bé. “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” của Phạm Tiến Duật là một bài thơ như thế. Ở đó, tình cảm chung – riêng hòa hợp nối kết nhau: Từ nơi em gởi đến nơi anh Những quân đoàn trùng trùng ra rận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây) Bóng giặc thù tràn tới, làng xóm, quê hương tan hoang, cuộc sống đời thường xáo trộn. Ly loạn chia rẽ lứa đôi. Tình riêng phải nhường chỗ cho tình yêu Tổ quốc. Các bài thơ viết về niềm đau, sự mất mát trong chiến tranh mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Bởi đó cũng là nỗi đau, mất mát chung. Biểu hiện quan hệ riêng – chung chi phối đậm nét từ nội dung đến phương thức ngôn ngữ thể hiện: Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó mất tin nhau. (Núi đôi – Vũ Cao) hay: Anh nhớ ngày đi Hai đứa nhìn nhau yên lặng Chúng mình chưa hẹn một lời (Hoa chanh – Nguyễn Bao) Mặc dù tình yêu chung lớn lao cao cả nhưng trong cái chung đó ta vẫn cảm nhận từng cái riêng ngọt ngào, ấm nóng, nồng nàn thương nhớ khôn nguôi: Hôm gặp em vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn ( thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 43 - Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi... (Quê hương – Giang Nam) Chiến tranh gây chia cách đau thương, niềm đau vô tận. Tình yêu riêng sống mãi trong tình yêu đất nước, tình yêu lứa đôi hóa thân vào tình yêu Tổ quốc. Hình ảnh thơ hiện ra trong sự so sánh: “ngày xưa” và “bây giờ”; xưa yêu quê hương vì ở đó có biết bao kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên trong sáng, nay càng yêu quê hương vì quê hương ấp ủ, chôn giữ thân xác người thương. Niềm đau được lý tưởng tiếp thêm sức mạnh vượt lên. Người mất đành nằm lại, người còn sống tiếp tục cầm súng đấu tranh. Hi sinh không có nghĩa là mất hết; chết để rồi hóa thân, tiếp sức cho người sống. Khuynh hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn hòa chung, thơ ca ghi lại được khí thế hào hùng của dân tộc trong kháng chiến: Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn, roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. (Quê hương – Giang Nam) Môtíp riêng – chung được thể hiện qua giọng thơ sôi nổi, hào hùng: Thôi em nằm lại Với đất lành DuyXuyên Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên Và anh biết khi bất thần trúng đạn Em đã ra đi với mắt cười thanh thản Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai Bởi biết mình có mặt ở tương lai ( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Có thể nói sự thể hiện môtíp riêng – chung là một đặc điểm đặc sắc của thơ tình yêu thời kháng chiến. Chính đặc điểm này đã giúp thơ ca thời kì này bộc lộ, thể hiện cái tôi trữ tình theo cách riêng, vừa lãng mạn vừa lí tưởng, vừa bi, vừa hùng; sự chia li, mất mát cũng được thơ ca thể hiện thành hình tượng với nhiều cung bậc mới. Thơ ca đã gửi gắm, giãi bày nhận thức và tình cảm của quần chúng nhân dân trước hiện thực đời sống kháng chiến. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 44 - II. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT: Từ chuyên luận “Thi pháp thơ Tố Hữu”, giáo sư Trần Đình Sử giải thích vai trò của yếu tố không gian nghệ thuật như sau: Khó mà hiểu hết đặc điểm trong quan niệm về thế giới và con người của một nhà thơ nếu không tìm hiểu không gian nghệ thuật trong sáng tác đó. Bởi vì, nếu như không gian cũng như thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, thì có thể nói, trong cuộc đời, không gian và thời gian cũng là hình thức tồn tại của con người. Khó mà hiểu được con người nếu không hiểu được không gian tồn tại của nó. [16 ; 164] Qua đề cương bài giảng “Thi pháp học hiện đại”, thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc cũng chỉ ra rằng: Không gian nghệ thuật thuộc hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại, triển khai thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Mỗi tác phẩm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả.[12 ;13] Như vậy, qua những vấn đề vừa dẫn trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của không gian nghệ thuật trong việc tìm hiểu quan niệm của tác giả về thế giới và con người. Hay nói khác đi, không gian nghệ thuật mang quan niệm của tác giả và tìm hiểu sự biểu hiện không gian nghệ thuật của tác phẩm sẽ góp phần mở ra hướng hiểu một cách trọn vẹn về con người và thời đại văn học. Trong hoàn cảnh chiến tranh, để diễn tả nỗi nhớ trong sự xa cách, hay bộc lộ tình yêu tươi trẻ, hồn nhiên, đằm thắm, hay sự mất mát đau thương, tình yêu lí tưởng, các tác giả đã chọn cho mình những không gian riêng. Đó có thể là không gian mảnh vườn, góc phố, sân nhà gắn với không gian chia tay không ảm đạm, u hoài như trong “chinh phụ ngâm”; ở đây có “nắng vàng rực rỡ giữa vườn hoa thắm sắc”- không gian của niềm tin và ánh lên sắc màu lạc quan, sắc màu của nỗi nhớ và sự chung thủy: Trưa một ngày sắp ngả sang đông Thu bỗng nắng vàng lên rực rỡ Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa (Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mĩ) Hay là cảnh những người yêu nhau tiễn nhau đồng thời cũng thổ lộ tình yêu chưa một lần dám ngỏ. Lúc này, không gian căn nhà, góc phố - nơi chứng kiến những mối tình chớm nở - giữ vai trò trung tâm: Cửa sổ hai nhà cuối phố Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa. Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm Bên ấy có người ngày mai ra trận. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 45 - (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn) Từ không gian nơi chốn (khu vườn, ngôi nhà), không gian nghệ thuật được mở rộng ra thành không gian chiến trường - không gian xa cách. Chiến trường mênh mông đạn bom ác liệt lại là nơi chất chứa bao nỗi nhớ niềm thương, do hoàn cảnh chiến tranh con người khó có cơ hội gặp nhau. Do vậy, không gian chiến trường trở thành không gian ý niệm: xa mà gần; cách mà không ngăn; nỗi nhớ nối gần hai trận tuyến, không gian chia cách đã có nỗi nhớ và lý tưởng đấu tranh liên thông, nối kết: Vầng trăng sương muối Cơn gió đầu ngàn; Nhớ là tiếng nói Tính là không gian Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm xanh Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm lửa ...... Hai trận tuyến hai đầu Đang nhích lại gần nhau (Em phương xa – Thi Hoàng) Tình yêu nối liền không gian, dù xa cách muôn trùng nhưng họ vẫn gần nhau: Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Từ nơi em gởi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn. (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây) Tình yêu của đôi trai gái ở rừng Trường Sơn trở nên to lớn, nó vượt lên trên những cánh rừng đại ngàn và núi non hiểm trở, rút dần khoảng cách xa xôi, nối liền sợi dây tình cảm bằng “Những đoàn quân trùng trùng ra trận”. Họ chưa từng gặp nhau nhưng trái tim họ cùng đập chung một nhịp, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh gian khổ, từ xa mà nhớ thương lại nối gần không gian xa cách. Từ không gian thực cách ngăn trở thành không gian nghệ thuật – không gian tâm tưởng – nối kết hai tâm hồn: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây Bên nắng đốt Bên mưa quây Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 46 - Rút sợi thương Chằm mái lợp Rút sợi nhớ Đan vòm xanh Nghiêng sườn Đông Che mưa anh Nghiêng sườn Tây Xòa bóng mát ( Sợi nhớ sợi thương – Thúy Bắc) Không gian chiến trường là nơi chăng tơ cho những sợi dây yêu thương đồng thời cũng là nơi chứng kiến những nỗi đau li biệt. Màu sắc cảnh vật không gian ở đây thể hiện sự lạc quan: mùa xuân ở mãi, sắc trời, rừng cây vẫn xanh nguyên nơi người nằm lại: Trên mồ em có mùa xuân ở mãi Trên chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên. (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Nhìn chung, không gian chia tay, không gian xa cách, không gian chiến trường gắn liền với không gian tâm tưởng,giúp nhân vật trữ tình bộc lộ cái tôi giàu xúc cảm, cùng bao lẽ sống yêu thương. Không gian cũng là nơi con người sống hết mình vì nhiệm vụ và tình yêu của con người cũng đơm hoa kết trái. Các nhà thơ viết về tình yêu đã khắc họa thành công hình tượng không gian nghệ thuật trong thi ca. III. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ: Khi nói đến tác phẩm trữ tình là chủ yếu nói đến sự biểu hiện tâm trạng, cảm xúc, những tưởng nó không có cốt truyện và ở đó cái tôi – nhân vật trữ tình, giữ vị trí quan trọng trong việc phản ánh thế giới nội tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, thể loại trữ tình cũng có sự tham gia của yếu tố tự sự; ngược lại, tự sự cũng có vai trò quan trọng nhất định trong việc phản ánh cái tôi trữ tình. Thơ mới do chỉ chú trọng khám phá, biểu hiện cái “tôi”cá nhân – cá thể bằng những chất liệu nội cảm với những trạng thái đa dạng, tinh tế của tình cảm, cảm xúc, cảm giác, ấn tượng, cho nên cái “tôi” trong Thơ mới thường đánh mất mối liên hệ với cuộc đời bên ngoài và ngày càng chìm sâu vào trong nỗi cô đơn, trống vắng. Ngược lại, thơ ca cách mạng đã tăng cường chất liệu hiện thực, được khởi đầu từ thơ kháng chiến chống Pháp và mãi đến những năm kháng chiến chống Mĩ và sau này. Tất nhiên, thơ viết về tình yêu thời kì kháng chiến cũng đậm chất tự sự do không tách rời hiện thực đấu tranh của dân tộc nên nó dễ dàng tìm được sự đồng điệu nơi người đọc. Phương thức tự sự được thể hiện bắt đầu có thể bằng việc kể. Người kể chuyện thường không phải là người đứng ngoài cốt truyện hay sự kiện. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 47 - Họ không kể chuyện của người khác một cách khách quan mà luôn luôn kể chuyện của chính mình, lời kể chính là lời bộc bạch, tâm tình về cảnh ngộ hay quan hệ nào đó của chính nhân vật, nhưng cuối cùng cũng là để biểu hiện “cảm hứng trữ tình” của họ về những cảnh ngộ đó. [ 8 ;233] “Bài thơ về hạnh phúc” của Dương Hương Ly là một minh chứng. Tác giả cũng chính là nhân vật trữ tình và anh đang kể về câu chuyện của chính cuộc đời mình. Cuộc đời kháng chiến gian khổ, vất vả nhưng rất đỗi hạnh phúc bên người bạn đời, người đồng chí, người đồng nghiệp Xuân Quý thân yêu. Nhưng tiếc thay, súng đạn quân thù không loại trừ một ai, người vợ thân thương của nhà thơ đã vĩnh viễn ra đi: Thôi em nằm lại Với đất lành Duy Xuyên Trên mồ em có mùa xuân ở mãi Trên chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên Trời chiến trường không một chút bình yên Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên Lời thơ là lời tâm tình nhẹ nhàng đau thấu tâm can “Thôi / em nằm lại” biết bao nỗi đau uất nghẹn sau từ “thôi” nhẹ nhàng đó. Trước kia, Nguyễn Khuyến cũng từng khóc bạn Dương Khuê bằng từ “thôi” nhưng đằng sau lại ẩn chứa một nỗi đau vô cùng, vô tận: Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Khóc Dương Khuê) Cũng không ra ngoài việc kể chuyện về cuộc đời mình, Hữu Loan đã trải lòng mình qua bài thơ “Màu tím hoa sim”. Tác giả bắt đầu kể: Nàng có ba người anh bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh Tôi người vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Thông qua việc kể lại chuỗi các sự việc, bài thơ cho người đọc cảm nhận được những biến động, xáo trộn trong cuộc sống của người lính. Hi sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu đất nước đã trở thành lí tưởng sống của những đôi trai gái thời đó. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà cho rằng: tự sự thường chính là cái cớ để nhân vật thông qua chuyện mà bộc lộ tâm trạng của mình. [8 ; 233].Qua câu chuyện tình yêu dang dở, Hữu Loan kín Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 48 - đáo bộc lộ tình yêu thương vợ tha thiết, cả nỗi đau thổn thức, giày vò trong tim: Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối Không được nghe nhau nói Không được nhìn nhau một lần Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài Trong chiều Không hết Màu tím hoa sim Tím chiều hoang Biền biệt! Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa “ Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu” (Màu tím hoa sim – Hữu Loan) Người vợ thân yêu của nhà thơ mất lúc còn rất trẻ khi “Tóc nàng xanh xanh – Ngắn chưa đầy búi” và đây cũng chính là nỗi đau tột cùng, là sự bất hạnh của người “đi” lẫn kẻ ở. Câu thơ “Nhìn áo rách vai” và “Tôi hát trong màu hoa” cho người đọc tự nhủ: Tác giả đang hát phải chăng lòng cũng đang thổn thức khi nhận ra cảnh ngộ hiện tại và gặp lại cảnh xưa! Bằng giọng kể tâm tình, nhà thơ Giang Nam đã truyền đến người đọc nỗi đau, mất mát lớn trong cuộc đời của chính mình. Bài thơ “Quê hương” ra đời từ một kí ức buồn thương. Ba mươi câu đầu kể lại quãng thời gian vui tươi, hạnh phúc của tuổi trẻ và tình yêu nhưng những câu còn lại là sự sửng sờ trước hung tin, khác gì giông tố ập đến bao phủ: Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích em ơi! Đau xé lòng anh chết nửa con người! Nếu đoạn thơ đầu giọng thơ thong thả trìu mến, với những hình ảnh thơ mộng thì đoạn sau gân guốc, quằn quại trong đau thương. Người đọc như bị thu hút, theo dõi diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình bởi cả bài thơ là một câu chuyện kể nhiều chi tiết vừa hấp dẫn vừa xúc động do sự đan xen, kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 49 - Các nhà thơ kể chuyện của đời mình mà như nghe chuyện của muôn người. Những câu chuyện tình yêu vừa lãng mạn vừa bi thương làm xúc động lòng người xảy ra giữa thời khói lửa chiến tranh. Nhân vật trữ tình trong bài thơ “Núi đôi” đang hồi tưởng lại những kỉ niệm vừa đáng yêu, vừa cay đắng, chua xót của quá khứ: Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa Bữa thì em tới, bữa anh sang. Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó mất tin nhau. Mới tới cầu ao, tin sét đánh Giặc giết em rồi dưới gốc thông ( Vũ Cao) Nỗi đau này không thể đặt tên, cách tác giả vừa hồi tưởng vừa kể dẫn dắt người đọc vào câu chuyện đồng cảm nỗi đau như không còn là nỗi đau cá nhân. Cả bài thơ (64 câu) là một câu chuyện dài về đời người: sống, chiến đấu, yêu thương dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Nhân vật nữ du kích được nhắc đến do tác giả hư cấu. Thế nhưng, hình ảnh cô gái chết khi vây đồn giặc lại có sức ảnh hưởng lớn đến những người cầm súng lúc bấy giờ. Cô là đại diện tiêu biểu cho phẩm chất anh hùng của cả một tầng lớp, các cô nữ giao liên, du kích lúc bấy giờ trên khắp mọi miền đất nước. Những bài thơ ra đời trong giai đoạn này đã đi sát cuộc chiến đấu của nhân dân hai miền Nam, Bắc, bao quát, chiếm lĩnh hiện thực chiến trường. Bằng cách khai thác riêng, các nhà thơ đã phản ánh từng mảng hiện thực. Tất cả hợp thành bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Trong những năm tháng đó, đất nước phải chịu biết bao vết thương do chiến tranh để lại. Đó là hình ảnh: Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! Từ núi qua thôn đường nghẽn lối Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 50 - Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay. ( Núi đôi – Vũ Cao) Đất đai, cây cỏ, nhà cửa tan hoang sau những trận càn. Phương thức tự sự trong thơ phát huy tác dụng vừa kể vừa tả vừa sâu lắng trữ tình. Người đọc hình dung sau cuộc chiến, mọi thứ đều tan tác, mọi nơi đều nhuốm màu tang thương. Dân tộc Việt Nam – một dân tộc anh hùng đã gánh chịu bao mất mát từ cuộc chiến tranh phi nghĩa mà thực dân Pháp và đế quốc Mĩ tiến hành. Chúng đã thả hàng ngàn, hàng triệu tấn bom trên khắp đất nước này. Vậy mà giữa đạn bom, con người vẫn đường hoàng ung dung, nghĩ suy sâu sắc, càng thêm trân trọng bao lẽ sống – tình yêu: Trong ánh chớp nhoáng nhoàng cây cối ngả nghiêng Tổ công binh đứng ngồi trong trạm gác Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe. (Vầng trăng và những quầng lửa – Phạm Tiến Duật) hay: Anh ngủ lại trên lá rừng và đếm những bom rơi Nhưng tình yêu của em làm lòng anh yên tĩnh quá Hạnh phúc là sau những chặng đường vất vả Lại hiểu em nhiều trong muôn nẻo xa xôi. (Buổi hẹn hò lớn lao – Nguyễn Khoa Điềm) hay: B.52 bom nghìn tấn dội Giặc mới lui càn khi em vừa đến Bà mẹ già kể chuyện chặn xe tăng Quanh những bờ dương giặc san bằng Đã mở lại những chiến hào gan góc Những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học Trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc (Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly) Hậu quả của những trận mưa bom thật khủng khiếp. Nó làm cho “cây cối ngả nghiêng”, “những bờ dương giặc san bằng”, “góc vườn cháy khét lửa na – pan” nhưng trước sự hủy diệt tàn khốc của chiến tranh, đất nước Việt Nam vẫn cứ hồi sinh. Con người Việt Nam vẫn lạc quan: ca hát, nghĩ đến người yêu nơi xa, vẫn “mở lại những chiến hào gan góc ; những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học” và cao hơn hết là sự sống nảy sinh từ trong cái chết “trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan; em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc”. Chính sức mạnh tinh thần đã giúp dân tộc Việt Nam Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 51 - chiến thắng quân thù. Nếu không có lòng yêu nước thiết tha, lòng tin chắc chắn ở tương lai đầy ánh sáng của chiến thắng thì dân tộc Việt Nam làm sao có đủ sức mạnh tinh thần để vượt qua mọi thiếu thốn, mọi thử thách nặng nề của chiến tranh Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà nhận định xác đáng: Nếu không có sự kiện, không có lí do bắt nguồn cho những cảm xúc, những tâm trạng thì cảm xúc tâm trạng đó cũng trở nên lênh phênh, chung chung vì thế mà có lẽ cũng mờ nhạt. Tự sự như cái mắc để treo bức tranh, như đôi bờ đất để dòng sông chảy mà nếu không có cái mắc đó thì bức tranh không thể được treo lên, không có bờ đất thì nước chẳng theo một dòng nhất định.[8 ; 232].Qua đây, chúng ta thấy được vai trò của phương thức tự sự trong việc lót nền dẫn dắt cảm xúc, làm cho cảm xúc được thăng hoa. Đồng thời, nó góp phần xây dựng hình tượng, biểu hiện sâu sắc cái tôi trữ tình trong thơ tình yêu thời kháng chiến. IV. VẬN DỤNG THỂ THƠ TỰ DO: Có nhiều phương thức biểu hiện tình yêu trong thơ ca thời kháng chiến. Ngoài những môtíp riêng – chung, vai trò của hình tượng không gian nghệ thuật, của chất tự sự còn phải kể đến hiệu quả biểu đạt của câu thơ tự do. Thơ tự do được dùng sớm nhất trong các sáng tác của Tản Đà, Phong Hoa Lạc, Nguyễn Lang Quy Tản Đà được xem là “người của hai thế kỉ”, là người có ý thức cách tân mạnh mẽ hình thức thơ đầu thế kỉ XX. Bài thơ “Tống biệt” với những câu chữ dài ngắn không đều thích hợp thể hiện cảm xúc ngậm ngùi luyến tiếc khi rời tiên cảnh, cứ bước đi rồi lại bước dừng, hồi lâu cứ nhìn ngoái lại: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi! Nửa năm tiên cảnh Một bước trần ai, Ước cũ duyên thừa có thế thôi. Đá mòn, rêu nhạt Nước chảy, huê trôi, Cái hạc bay lên vút tận trời! Trời đất từ đây xa cách mãi. Cửa động Đầu non Đường lối cũ Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi. ( Tống biệt – Tản Đà) Thơ tự do thực sự ra đời khi xuất hiện phong trào Thơ mới. Có thể kể đến một số bài như: “Xuân về” của Lưu Trọng Lư, “Tiếng trúc tuyệt vời” của Thế Lữ, và hàng loạt các bài thơ khác. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 52 - Năm vừa rồi Chàng cùng tôi Nơi vùng giáp Mộ Trong căn nhà cỏ Tôi quay tơ Chàng ngâm thơ Rồi ngày lại ngày Sắc màu: phai Lá cành: rụng Ba gian: trống Xuân đi Chàng cũng đi Năm nay xuân còn trở lại Người xưa không thấy tới. ( Xuân về - Lưu Trọng Lư) Không bị giới hạn, không bị câu thúc từ các quy định về cấu tạo của khổ thơ, câu thơ, niêm luật, thể thơ tự do có ưu thế trong việc đi sâu vào các đề tài rộng lớn của cuộc sống. Bên cạnh đó, hình thức phóng khoáng của thơ tự do đã tạo điều kiện cho các tác giả biểu lộ một cách mạnh mẽ cảm xúc, cái tôi trữ tình. Chúng ta có thể hiểu khái niệm thơ tự do như sau: Thơ tự do là hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ, không bị ràng buộc vào quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối Do vậy mà nó mở ra chân trời rộng rãi cho sự sáng tạo hình thức mỗi bài thơ. [2 ; 70] Thể thơ tự do đã phát huy tác dụng mạnh làm nên thành tựu thơ ca giai đoạn 1945 – 1975. Chính mảnh đất màu mỡ của hiện thực sôi động và đời sống tình cảm phong phú của người Việt Nam thời kì này đã tạo điều kiện cho thơ tự do sinh sôi và phát triển. Để diễn tả nỗi đau li biệt, nhà thơ Hữu Loan đã sử dụng hình thức thơ tự do với cách ngắt nhịp, ngắt câu mới lạ, đột ngột tạo ra chiều sâu trong tâm tưởng – tâm trạng hụt hẫng, thất thểu, cô đơn khi bắt gặp hình ảnh những đồi hoa sim, màu hoa của kí ức, của kỉ niệm buồn đau: Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài Trong chiều Không hết Màu tím hoa sim Tím chiều hoang biền biệt ( Màu tím hoa sim) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 53 - Hình ảnh hoa sim “màu tím”gợi nỗi buồn, sự vô vọng, được thể hiện trên nền các câu thơ tự do, ngắt câu sáng tạo, Bài thơ như có sức ngân, vang xa dài lâu giữa không gian đất trời, vào giữa lòng người yêu thơ. Từ cách ngắt câu cuối mỗi dòng thơ 5/4/5/2/2/4/3/2 cùng thanh bằng trong từ “biền” gợi sức vang xa; thanh trắc trong từ “biệt” gợi sức chùng. Tất cả đã góp phần thể hiện sự biến động, mất cân bằng tâm lí trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Như vậy, ưu thế của thể thơ tự do được nhà thơ tận dụng triệt để. Cùng diễn tả nỗi đau thương mất mát, nhà thơ Dương Hương Ly cũng tìm đến thể thơ tự do: Anh mất em như mất nửa cuộc đời Nỗi đau anh không nói được bằng lời Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu xoáy Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương Anh nổ súng. ( Bài thơ về hạnh phúc) Đó là nỗi đau triền miên, dai dẳng nhưng lại thôi thúc vươn tới, vùng lên một cách quyết liệt, dữ dội. Dù diễn tả cảm xúc đau đớn hay hạnh phúc, câu thơ tự do cũng góp phần hỗ trợ việc biểu đạt cảm xúc trữ tình: Anh không dám xin Cô gái chẳng dám trao Chỉ mùi hương đằm ấm, thanh tao Không giấu được. Cứ bay dịu nhẹ. (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn) Những câu thơ không vần, cách ngắt câu tự do, giúp thể hiện sự ngập ngừng, thẹn thùng của đôi lứa yêu nhau khi thổ lộ tâm tình. Cũng có thể là sự bất ngờ hạnh phúc trong “Quê hương” – Giang Nam, cả hai đều xúc động ngậm ngùi: Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 54 - Vẫn khúc khích cười ( khó nói lắm anh ơi! ) Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng (Quê hương – Giang Nam ) Một thứ tình cảm đặc biệt dịu dàng, len nhẹ vào tâm hồn họ. Nhà thơ nữ Hoàng Thị Minh Khanh và Thúy Bắc đều có những câu thơ tự do rất thành công khi diễn tả nỗi nhớ nhiều lớp, nhiều tầng, trùng trùng như sóng cồn, biển dâng: Dù anh đi đâu đến đâu dù ta xa nhau biết mấy em vẫn tin anh như từng tin Đảng vậy trong gian lao anh có mặt hàng đầu. Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi em nhớ anh không chỉ đêm trăng tỏ Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi Mà em đã nhớ anh cả những lúc soi gương chảy tóc cả những lúc công tác bộn bề cả những lúc nghe đàn em trẻ học hay tiếng chim trời ríu rít bay đi (Nhớ - Hoàng Thị Minh Khanh) Những dòng thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ xen với các dòng thơ tám chữ, chín chữ góp phần thể hiện những biến động nhẹ nhàng nhưng không kém mãnh liệt trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Thúy Bắc còn dùng cả thể thơ ba chữ gãy gọn, cách ngắt dòng dứt khoát để diễn tả nội tâm phức tạp của người con gái đang yêu: Em dang tay Em xòe tay Chẳng thể nào Xua tan mây Chẳng thể nào Che anh được Rút sợi thương Chằm mái lợp Rút sợi nhớ Đan vòm xanh Nghiêng sườn Đông Che mưa anh Nghiêng sườn Tây Xòa bóng mát (Sợi nhớ sợi thương) Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 55 - Với những câu thơ trần trụi, phá vỡ những niêm luật, nhịp vần, không câu thúc vào số câu, số chữ đã tạo tâm thế thoải mái cho các nhà thơ trong việc thể hiện cảm xúc, góp phần làm nên sự thành công cho mảng thơ viết về đề tài tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 56 - PHẦN III: KẾT LUẬN Thơ tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 đã góp phần làm phong phú, đa dạng nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ tình yêu giai đoạn này là dòng riêng giữa nguồn chung, là bông hoa đầy hương sắc góp cho vườn thơ cách mạng. Các nhà thơ đã cho ra đời những thi phẩm biểu hiện sâu sắc cảm xúc cái tôi riêng tư bên cạnh những xúc cảm về cái ta của cộng đồng, dân tộc. Hai yếu tố “riêng”, “chung” đã tạo nên đặc điểm của thơ tình yêu thời kì này. Chiến tranh là kẻ thù của muôn nhà và là kẻ thù của tình yêu. Trong hoàn cảnh khó khăn, thơ tình yêu vẫn được khai sinh như nhu cầu tất yếu phản ánh đời sống tình cảm của con người. Những Kim - Kiều của thế kỉ XX cũng rụt rè, e thẹn khi đến với tình yêu, họ cũng nhớ thương da diết, cháy lòng khi xa cách, cũng đau đớn khi mất đi người bạn đời, người yêu. Các nhà thơ đã tái hiện hiện thực đời sống, tình yêu của con người trong chiến tranh khốc liệt bằng nhiều phương thức nghệ thuật đa dạng, độc đáo: từ các môtíp riêng – chung , các yếu tố không gian nghệ thuật, phương thức tự sự đến sự vận dụng linh hoạt thể thơ tự do. Tất cả đều góp phần thể hiện thành công hình tượng nhân vật, cái tôi trữ tình lãng mạn trong thơ tình yêu giai đoạn này. Thơ tình yêu thời kháng chiến không gợi vẻ bi lụy, nhụt chí ở người đọc, không làm con người quên đi nhiệm vụ thiêng liêng, lý tưởng đấu tranh; ngược lại, tình yêu là liều thuốc xoa dịu đi mọi mất mát, đau thương tạo niềm tin yêu cuộc sống dù hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt. Qua thơ tình yêu, người đọc vẫn có thể hình dung hiện thực ác liệt, tàn khốc đang diễn ra nơi chiến trường. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nói: “Người Việt Nam yêu để thêm được mạnh mẽ, yêu để được sống thêm hăng hái, tranh đấu thêm được vững bền, chứ không phải yêu để đắm đuối trong tình yêu và lãng quên cuộc sống”. Một lần nữa quan niệm trên lại được khẳng định. Thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975 đã góp phần điểm tô, làm phong phú đời sống tinh thần của người chiến sĩ, quần chúng nhân dân thời kháng chiến. Trải qua sự sàng lọc của thời gian đối với các giá trị, thành tựu văn học, chắc chắn những tác phẩm thơ tiêu biểu viết về đề tài tình yêu ra đời trong giai đoạn văn học này sẽ còn mãi sức sống, mãi hiện hữu, neo đậu lâu bền trong sự trân trọng, yêu mến cũng như đáp ứng thị hiếu, nhu cầu học tập, nghiên cứu của công chúng, bạn đọc muôn đời sau. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 57 - TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anh Ngọc. Năm 2001. Hồn Thơ thế kỉ (bình luận một số bài thơ nổi tiếng). Hà Nội: NXB Thanh niên. 2. Hoàng Kim Ngọc (Biên Soạn và tụyển chọn). Năm 2007. Những đóng góp của thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. NXB Đại học Sư phạm. 3. Lê Đình KỴ. Năm 1998. Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam. NXB Giáo dục. 4. Lê Lưu Oanh ( Tuyển chọn và giới thiệu nhà văn và tác phẩm trong nhà trường). Năm 2002. Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm. NXB Giáo dục. 5. Nhiều tác giả. Năm 2005. Giảng văn văn học Việt Nam. NXB Giáo dục. 6. Nhiều tác giả. Năm 1996. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia. 7. Nguyễn Duy Bắc. Năm 1998. Bản sắc đân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 – 1975). Hà Nội: NXB Văn hoá dân tộc. 8. Nguyễn Đức Quyền. Năm 1987. Tiểu luận những vẻ đẹp thơ. Hội văn nghệ Nghĩa Bình. 9. Nguyễn Thị Bích Hà. Năm 2003. Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian. Trần Đình Sử. Tự sự học (Một số vấn đề lí luận và lịch sử). NXB Đại học Sư phạm: 225 – 234. 10. Nguyễn Văn Long (chủ biên). Năm 2007. Văn học Việt nam hiện đại tập II (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945). NXB Đại học Sư phạm. 11. Nguyễn Văn Long. Năm 2001. Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám. NXB Giáo dục. 12. Phùng Hoài Ngọc. Năm 2006. Đề cương bài giảng Thi pháp học hiện đại. Đại học An Giang. 13. Thơ Việt Nam 1945 – 1985. Hà Nội: NXB Văn học. 14. Trần Đăng Xuyền. Năm 1996. Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975. Nhiều tác giả. 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia. 15. Trần Đình Sử. Năm 1997. Những thế giới nghệ thuật thơ (tiểu luận). Hà Nội: NXB Giáo dục. 16. Trần Đình Sử. Năm 1995. Thi pháp thơ Tố Hữu. NXB Giáo dục. Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975 - Trang 58 - 17. Trần Ngọc Dương. Năm 2006. Nhà thơ Hữu Loan và bài thơ Màu tím hoa sim. Tạp chí văn học và tuổi trẻ: 9 – 11 18. Văn Giá. Năm 2007. “Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy”.Tạp chí văn học và tuổi trẻ: 7 – 9 19. Việt Hùng - Thảo Trang – Nguyên Ngọc (Nhóm tuyển chọn và biên soạn). Năm 2000. Đến với những bài thơ hay. Hà Nội: NXB Văn hoá – thông tin. 20. Vũ Duy Thông. 1998. Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975. Hà Nôi: NXB Giáo dục. 21. Vũ Tiến Quỳnh. Năm 1998. Phê bình luận văn học Anh Thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Vân Đài, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn nghệ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1267.pdf