Có nhiều người đã kết tội cho đó là bài thơ phản chiến, nhưng cũng có
nhiều người đã đứng về phía tác giả.
Nguyễn Sĩ Đạt nêu ý kiến: Chống chiến tranh mơ ước hòa bình vốn
là phẩm chất tạo nên giá trị nhân đạo của mọi văn học tiến bộ xưa
nay Nếu “Màu tím hoa sim” có gây cảm giác bi lụy trong một vài người
“vệ quốc quân” nào đó, thì “sòng phẳng” một cách máy móc, nó cũng làm
rã ngũ đối phương. [18 ;513]
Như vậy, nhà thơ Hữu Loan viết về sự mất mát, nỗi đau cá nhân như
một lẽ thường tình, như là một nhu cầu phản ánh đời sống, tình yêu, bi kịch
của thời đại. Chiến tranh luôn mâu thuẫn với ước mơ hạnh phúc của con
người.
Nhà thơ Hữu Loan tâm sự: Vệ quốc quân hồi ấy, ai cũng chép bài
thơ vào sổ tay. Họ yêu thơ chừng nào, tâm hồn càng phong phú thêm, quyết
tâm càng cao, ý chí càng mạnh. Có anh chép bài thơ xong thì hi sinh rất
dũng cảm. Bài thơ không hề làm cho các chiến sĩ yếu đuối và dao
động [17;11]. Rõ ràng, viết về cái tôi, sự mất mát đau thương nhưng bài
thơ vẫn đạt được những giá trị văn học nhất định. Dù viết về nỗi đau hạnh
phúc không trọn vẹn, bài thơ vẫn ánh lên màu sắc lí tưởng Người vợ hi
sinh còn người chồng vẫn tiếp tục cầm súng, tiếp tục hành quân diệt thù.
Giai đoạn 1945 – 1975, mỗi con người phải tìm cho mình một lí
tưởng sống. Những người yêu nhau, người vợ, người chồng đều tìm đến lí
tưởng cách mạng, tìm đến nhân dân, chung sức chung lòng chiến đấu vì độc
lập tự do. Đối với họ, hạnh phúc chính là chiến đấu, là có mặt khi Tổ quốc
cần:
Hạnh phúc là gì?
Bao lâu ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt
(Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
61 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừng được
Vương Hàn, một nhà thơ đời Đường trong bài “Lương châu từ” đề cập:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi
(Say khước sa trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về!)
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 34 -
Đó chính là sự thật, sự phi lí của chiến tranh không thể né tránh.
“Màu tím hoa sim” dẫn người đọc đến sự cảm thương vô cùng trớ trêu, bất
ngờ. Người nằm xuống lại là người vợ nơi hậu phương. Câu thơ dài ngắn
rớt nhịp nửa chừng diễn tả niềm đau quá lớn:
Nhưng không chết,
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe em nói
Không được nhìn nhau một lần
(Màu tím hoa sim)
Như không làm chủ được cảm xúc của mình, nỗi đau bộc lộ một
cách hết sức tự nhiên theo tiếng nấc, nghẹn, tiếng gọi trong vô vọng. Để
mỗi lần hành quân qua đồi sim tím, niềm đau nhức nhối, miên man nối tiếp
vô cùng vô tận trong màu loang của hoa, hoàng hôn và chiều tímAi biết
rằng biệt li là mãi mãi!
Ngày xưa, nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài
Trong chiều
Không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang
biền biệt
(Màu tím hoa sim – Hữu Loan)
Nỗi đau dồn nén bao ngày đã trào ra choáng hết không gian bao la của đất
trời, của cả lòng người. Mỗi dòng thơ được ngắt ra thể hiện nỗi đau đớn
như trùng điệp đè nén mỗi bước chân của người chiến sĩ. Đó là nỗi nhớ
thương khôn nguôi, những mất mát dài không hết.
Bài thơ “khóc thương vợ” của Hữu Loan ra đời năm 1949 – một năm
sau khi người vợ qua đời – quá sớm, xa lạ đối với mĩ học đương thời. Bởi lí
tưởng thẩm mĩ trong văn học thời đại chưa dễ dàng chấp nhận sự phơi bày
niềm đau cá nhân và cả những đau thương tổn thất trong chiến tranh.
Nhưng “Màu tím hoa sim” đã được khai sinh như một qui luật tất yếu. Nó
phản ánh đời sống nội tâm của con người, làm cho nền thơ kháng chiến bớt
đi tính phiến diện. Do đó, bài thơ ra đời đã được đông đảo bạn đọc đón
nhận. Tuy nhiên, dư luận xung quanh sự xuất hiện của bài thơ vẫn không ít.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 35 -
Có nhiều người đã kết tội cho đó là bài thơ phản chiến, nhưng cũng có
nhiều người đã đứng về phía tác giả.
Nguyễn Sĩ Đạt nêu ý kiến: Chống chiến tranh mơ ước hòa bình vốn
là phẩm chất tạo nên giá trị nhân đạo của mọi văn học tiến bộ xưa
nayNếu “Màu tím hoa sim” có gây cảm giác bi lụy trong một vài người
“vệ quốc quân” nào đó, thì “sòng phẳng” một cách máy móc, nó cũng làm
rã ngũ đối phương. [18 ;513]
Như vậy, nhà thơ Hữu Loan viết về sự mất mát, nỗi đau cá nhân như
một lẽ thường tình, như là một nhu cầu phản ánh đời sống, tình yêu, bi kịch
của thời đại. Chiến tranh luôn mâu thuẫn với ước mơ hạnh phúc của con
người.
Nhà thơ Hữu Loan tâm sự: Vệ quốc quân hồi ấy, ai cũng chép bài
thơ vào sổ tay. Họ yêu thơ chừng nào, tâm hồn càng phong phú thêm, quyết
tâm càng cao, ý chí càng mạnh. Có anh chép bài thơ xong thì hi sinh rất
dũng cảm. Bài thơ không hề làm cho các chiến sĩ yếu đuối và dao
động[17;11]. Rõ ràng, viết về cái tôi, sự mất mát đau thương nhưng bài
thơ vẫn đạt được những giá trị văn học nhất định. Dù viết về nỗi đau hạnh
phúc không trọn vẹn, bài thơ vẫn ánh lên màu sắc lí tưởng Người vợ hi
sinh còn người chồng vẫn tiếp tục cầm súng, tiếp tục hành quân diệt thù.
Giai đoạn 1945 – 1975, mỗi con người phải tìm cho mình một lí
tưởng sống. Những người yêu nhau, người vợ, người chồng đều tìm đến lí
tưởng cách mạng, tìm đến nhân dân, chung sức chung lòng chiến đấu vì độc
lập tự do. Đối với họ, hạnh phúc chính là chiến đấu, là có mặt khi Tổ quốc
cần:
Hạnh phúc là gì?
Bao lâu ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt
(Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Hạnh phúc đã được cụ thể hóa bằng một hình ảnh giản dị, đầy sức
sống mà bom đạn chiến tranh không hủy diệt được. Bông hoa cúc nở giữa
mảnh vườn tan tác bom na – pan:
Trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan
Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc
Và em gọi đó là hạnh phúc...
(Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Hạnh phúc không dừng lại ở đó khi những người yêu nhau cùng đứng trên
cùng một trận tuyến, chiến đấu cho lí tưởng cộng sản. Họ vừa là chồng vợ,
vừa là đồng đội, đồng chí. Dương Hương Ly đã sáng tác bằng tất cả niềm
xúc động khi phát hiện lẽ sống mới. Ở đây có tình yêu, hạnh phúc niềm tin,
sự hài hòa giữa tình yêu đôi lứa và lí tưởng đấu tranh:
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 36 -
Em lớn lên bên họ can trường
Giữa bom rào đạn réo
Em đã thấy những tâm hồn tuyệt vời trong trẻo
Những con người như ánh sáng lung linh
Mỗi đêm ra đi giản dị hiến mình
Để làm nên buổi mai đầy nắng
Em bối rối, em sửng sờ đứng lặng
Vẻ đẹp này em chưa biết đặt tên
Thức dậy bao điều mới mẻ trong em
Thức dậy bao điều cao quý trong em
Nơi ngọn bút nghe cuộc đời thôi thúc.
Và em gọi đó là hạnh phúc...
(Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Như vậy, hạnh phúc thời chiến tranh có thể hình thành khi con người
phát hiện ra những lẽ sống đẹp, bao hình ảnh cao cả của đồng đội, tuổi trẻ
quanh mình – vẻ đẹp giản dị từ trong lòng cuộc kháng chiến của nhân dân,
những người anh hùng bất tử, hi sinh thầm lặng cho sự nghiệp cách mạng.
Hạnh phúc là được quên mình sống nhiệt thành cho lí tưởng.
Chiến tranh luôn là thách thức lớn cho tình yêu. Thật khó có hạnh
phúc trong khi đất nước mãi đạn réo, bom rơi. Đồng cảnh ngộ với nhà thơ
Hữu Loan, nhà thơ Dương Hương Ly cũng đã mất đi người bạn đời, người
đồng chí cùng chí hướng. Nỗi đau này đã trở thành nỗi đau của toàn dân
tộc, nỗi đau của những đôi lứa đang yêu. Cái tôi trữ tình đã nhập vào nhân
vật “anh” để cất tiếng khóc thống thiết, đau nỗi đau tột cùng, quặn lòng:
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau không thể nói được bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu
xoáy
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc
( Bài thơ về hạnh phúc)
Nhà thơ cứ để cảm xúc tuôn trào, phơi bày chân thật nỗi niềm đau đớn của
mình. Thơ Dương Hương Ly đã nói những điều rất thật, không che giấu nỗi
đau, sự mất mát, hụt hẫng đang vò xé tâm can. Trong nỗi đau đớn không
cùng, con người biết biến đau thương thành sức mạnh. Anh đã tìm cho
mình một hướng đi và tình yêu của anh thấm đẫm lí tưởng anh hùng cách
mạng:
Súng nổ gấp.
Anh lên đường đuổi giặc
Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 37 -
(Bài thơ về hạnh phúc)
Hạnh phúc là được chiến đấu, là vượt lên trên nỗi đau để chiến thắng. Đó là
lẽ sống chung của cả thời đại, của những anh hùng thời đánh Mĩ.
Cùng với Hữu Loan, Dương Hương Ly, nhà thơ Vũ Cao, Giang Nam
cũng đã góp cho thơ hiện đại những dòng thơ một thời thấm đẫm niềm đau
li biệt:
Mới tới đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông
Nửa đêm bộ đội vây đồn Thửa
Em sống trung thành chết thủy chung.
(Núi đôi – Vũ Cao)
Tâm trạng đau đớn này cũng có thể bắt gặp qua bài “Quê hương”
của Giang Nam:
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Nỗi đau mất người yêu đã được hai nhà thơ kí thác qua nhiều hình
ảnh đau thương, tan tác:
Anh ngước nhìn lên / hai dốc núi
Hàng thông / bờ cỏ / con đường quen
Nắng lụi / bỗng dưng / mờ bóng khói
Núi vẫn đôi / mà anh mất em!
( Núi đôi – Vũ Cao)
Cảnh vật quen thuộc nhạt nhòa trong nước mắt, mờ mờ ảo ảo, khô
héo, hắt heo. Nắng thì lụi tàn, mây khói thì mờ mịt, hình ảnh núi đôi vẫn
còn đó nhưng người xưa thì không còn. Đó là hình ảnh đối lập mang sức
khái quát cao. Nhịp thơ chùng xuống, câu thơ cuối gảy đôi diễn tả nỗi đau
đột ngột như làm chết nửa con người.
“Núi đôi” và “Quê hương” đều nói về niềm đau, sự mất mát, nhưng
không yếu đuối, bi lụy. Ngược lại, còn mang đến cho người đọc đan xen
những cảm xúc thăng hoa trái ngược: đau đớn, cảm thông, niềm tin tương
lai và cả sự ngưỡng mộ tự hào. Bởi cái chết được hóa thân, chết không mất
đi, không chấm dứt mà biến thành sức mạnh, thành ánh sáng soi đường cho
lớp lớp thế hệ nối tiếp:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Núi đôi – Vũ Cao)
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 38 -
Tình yêu lứa đôi đã tìm được thế đứng vững chắc trong tình yêu quê
hương, đất nước. Sự mất mát đau thương đã tiếp thêm cho người chiến sĩ
sức mạnh để tiếp tục sự nghiệp cách mạng thay vì phải mãi đau đớn, bi lụy.
Họ chính là “tấm lòng trong vạn tấm lòng”, là “đôi hạt giữa nghìn đôi”. Vũ
Cao thật tài tình khi sáng tạo ra các cặp hình ảnh sóng đôi: “sao – hoa, ánh
sáng – mùi hương”. Phải chăng đó là sự tương quan giữa lí tưởng và tình
yêu. Ngôi sao sáng trên mũ sẽ dẫn đường cho người chiến sĩ thực hiện lí
tưởng. Còn cô gái, dù mất đi nhưng đã hóa thân thành tình yêu quê hương,
sẽ mãi là hoa trên đỉnh núi bốn mùa tỏa mùi hương quyện và nâng bước
chân của bao người đi tiếp trên mỗi dặm đường.
Với người chiến sĩ trong bài thơ “Quê hương”, anh cũng đã tìm được
cho mình một lẽ sống cao cả, một con đường đi và một chân lí mới:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
Đối lập giữa hai hình ảnh xưa và nay đã giúp chúng ta thấy được
một sự biến thiên dâu bể. Xưa là những hoài niệm về chuỗi ngày ấu thơ êm
đẹp với cô bé hàng xóm. Nay là hiện thực đau thương tang tóc vì em không
còn nữa. Nhưng em mất mà tất cả quê hương vẫn còn bởi em cũng chính là
một phần của non sông gấm vóc. Chúng tôi xin trích một số lời tâm sự giữa
nhà thơ Giang Nam và độc giả để từ đó thấy được sức mạnh của những bài
thơ viết về tình yêu, niềm đau, sự mất mát trong tình yêu ra đời những năm
kháng chiến.
Về bài “Quê hương”,“Bài thơ được chép tay, truyền tay trong học
sinh, sinh viên được làm tài liệu trong các cuộc đấu tranh. Tôi nhớ mãi lời
tâm sự của một sinh viên Sài Gòn, người Bắc di cư đã tham gia phong trào.
Khi biết tôi là tác giả bài thơ. Anh ấy đã xúc động nói:
“Em đã thuộc bài thơ này từ lâu, nhưng em không bao giờ nghĩ đó
là bài thơ của một người cộng sản. Khi được bạn cho biết Giang Nam là
nhà thơ, hiện ở chiến khu và là Đảng viên cộng sản, em như bị choáng
váng. Người cộng sản mà cũng có tình yêu, thậm chí một tình yêu cảm
động, xót xa đến thế ư? Em hiểu là em có thể đứng cùng trận tuyến với các
anh chống Mĩ và bọn tay sai. Và em đã tham gia phong trào. Em mơ ước
gặp anh.”
Tôi vô cùng xúc động, chỉ biết khẳng định với người bạn trẻ từng bị
kẻ địch lừa dối về người cộng sản nhiều năm rồi: “Nếu có người dân nào
yêu nước nhất, chịu hi sinh đau khổ nhiếu nhất thì đó chính là người cộng
sản. Quê hương là một phần của cuộc đời tôi, và có lẽ cũng là của nhiều
bạn bè tôi, em ạ!” ”[18 ;579]
Qua đây, chúng ta đã hiểu được vì sao các nhà thơ viết hay, xúc
động về tình yêu đến thế! Hẳn là vì trong họ có chất lửa. Tất cả đều là sống
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 39 -
thật và trải nghiệm, xuất phát từ cái tôi trữ tình luôn thiết tha sâu nặng với
làng xóm quê hương.
Như vậy, tình yêu cá nhân riêng tư đã hóa thân vào tình yêu đất
nước. Dù có ai mất đi hay gởi một phần xương thịt của mình nơi chiến
trường thì cũng là một nỗi đau lớn, tổn thất chung của dân tộc:
Giữ lấy giàn trầu
Giữ xanh mái tóc!
Hôm nay trở về, một chân anh mất
Nhưng quê hương tất cả vẫn còn...
(Hoa chanh – Nguyễn Bao)
Điệp từ “giữ” cùng câu thơ tự do tạo nên tinh thần quyết tâm, tự nhủ để
vượt lên số phận. Khi chiến tranh kết thúc, dù con người được tự do nhưng
họ cũng mang trên mình những vết tích của cuộc chiến. Đó là nỗi đau, song
họ vẫn có niềm an ủi, thấm thía về những đóng góp thầm lặng: “một chân
anh mất, nhưng quê hương tất cả vẫn còn”.
Lời thơ gợi nhớ đến một bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Tiến viết
về những người thương binh trở về sau trận chiến: “Vết chân tròn vẫn đi về
trên con đường mòn cát trắng quê tôi. Anh thương binh vẫn đến trường
làng, vẫn ôm đàn dạy các em thơ bài hát quê hương. Bài hát có ngọn núi
quê anh xa vời. Bài hát có đồng lúa miên man câu hò. Bài hát có người lính
đã hi sinh âm thầm. Cho hôm nay những vết chân son, vui quanh dấu chân
tròn”( Vết chân tròn trên cát – Trần Tiến). Trên đất nước này, qua chiến
tranh, đã có biết bao người lính hi sinh một phần xương máu để mang đến
sự bình yên, tương lai tươi sáng hôm nay cho dân tộc.
Những tình cảm tưởng chừng như rất riêng ấy nhưng lại rất chung,
bởi đó là sự mất mát, niềm đau của toàn dân tộc. Chính vì vậy mà những
bài thơ nêu trên đã có sức lay động rất lớn, khi cái riêng càng sâu thì cái
chung lại càng lớn. Người nghệ sĩ chân chính là biết khơi dậy từ cái riêng
của mình để biến thành cái chung, chỗ gặp gỡ, liên thông với mọi người.
Hàng loạt bài thơ đã ra đời trong hoàn cảnh khói lửa chiến tranh.
Những bài như: Màu tím hoa sim, Nhớ, Núi đôi, Quê hương, Hoa chanh,
Bài thơ về hạnh phúc, Cuộc chia li màu đỏ, Sóng,sẽ sống mãi với thời
gian bởi nó đã cho bạn đọc hôm nay và mai sau những hình ảnh đẹp về tình
yêu thời chiến – một tình yêu luôn lãng mạn, tươi tắn, đằm thắm, đau
thương nhưng rất đỗi hào hùng, biết hi sinh hạnh phúc riêng tư vì nhiệm vụ
thiêng liêng đối với Tổ quốc.
Chúng ta càng trân trọng, mến phục những chàng trai và cô gái đã
không tiếc máu xương hiến trọn tuổi xuân cho đất nước. Họ trở thành nhân
vật trung tâm, nguồn cảm hứng sáng tạo cho thơ ca cách mạng.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 40 -
CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC, NGHỆ
THUẬT BIỂU HIỆN
Thơ viết về tình yêu thời kháng chiến ra đời trong một hoàn cảnh đặc
biệt: chiến tranh. Chính trong hoàn cảnh khó khăn đó, thơ ca vẫn sinh sôi
nảy nở và tìm được chỗ đứng xứng đáng trong lòng bạn đọc. Bởi nó không
đơn thuần là thứ tình yêu vị kỉ thấm nhuần màu sắc lãng mạn thoát li như
trong Thơ mới. Mà nó là thứ tình yêu có đầy đủ những cung bậc nhớ
thương, đau đớn, gắn liền với vận mệnh chung của dân tộc Việt Nam. Làm
nên sự thành công của thơ tình yêu giai đoạn này, không chỉ qua nội dung
biểu hiện mà còn ở các phương diện phương thức nghệ thuật thể hiện. Với
một số phương thức nghệ thuật, các nhà thơ thời chiến đã góp phần thể hiện
thành công cảm xúc cái tôi trữ tình trong thơ tình yêu giai đoạn 1945 –
1975.
I. MÔTÍP RIÊNG – CHUNG:
Môtíp riêng – chung xuất hiện dày đặc trong thơ tình yêu giai đoạn
này, từ quan niệm thẩm mĩ nghệ thuật đến ngôn ngữ hình tượng thể hiện.
Tình yêu trong thơ ca giai đoạn này tìm được chỗ dựa vững chắc trong lòng
nhân dân, dân tộc, nên luôn có sự hòa quyện giữa tình yêu riêng tư với tình
yêu non sông, đất nước.
Giáo trình “Văn học Việt Nam hiện đại tập II” (từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945) có đoạn nói về tình cảm cộng đồng như sau: Lòng yêu
nước là tình cảm bao trùm và sâu rộng nhất, nó gắn bó mọi con người Việt
Nam trong một khối thống nhất của tình đồng bào đã có từ ngàn xưa, nay
lại càng thắm thiết hơn trong cách mạng và kháng chiến. [10;26] Như vậy,
tình yêu đối với quê hương đất nước chính là một tình cảm lớn đã gắn kết
mọi “con dân” Việt Nam.
Bên cạnh những tình cảm chung, nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền
trong bài nghiên cứu “Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến
1975” đã đưa ra nhận định về tình cảm riêng tư như sau: Ngay cả đến tình
yêu, một thứ tình cảm riêng tư nhất cũng được nhìn nhận theo chiều hướng
hòa hợp với cái ta chung, theo hệ quy chiếu nhiệm vụ chung của cả cộng
đồng. [14 ;260]
Thấy được mối quan hệ khắng khít giữa tình cảm cá nhân và tình
cảm cộng đồng; giữa tình yêu và lí tưởng giáo sư Lê Đình Kỵ trong “Vấn
đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam”, nêu nhận định như sau:
Đặt tập thể và cá nhân vào một thế hài hòa sinh động, thể hiện cái chung
thông qua cái riêng, không gạt bỏ cái riêng, cái chung và cái riêng chuyển
hóa vào nhau[3;136]. Như vậy, mối quan hệ riêng – chung đã xuất hiện
và trở thành một môtíp quen thuộc trong văn học kháng chiến nói chung và
thơ tình yêu nói riêng, nó vừa là tình cảm cao đẹp, vừa chi phối phương
thức thể hiện của thơ ca thời kỳ này.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 41 -
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác đã đặt tình yêu lứa
đôi hòa trong tình yêu đất nước:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm, mỗi bữa anh ăn
(Nhớ)
tình yêu đã tìm được vị trí xứng đáng giữa cuộc đời:
Ngoài kia sao cũng từng đôi sáng
Từng cặp nhân vàng trong trái đêm
Bát ngát lòng anh giữa trái đời
Hai ta đôi hạt giữa nghìn đôi
(Anh viết bài thơ – Huy Cận)
Sáng tác thơ thời kì này, nhà thơ Tế Hanh cũng đồng cảm cho rằng:
Tình yêu và cuộc đời không tách rời nhau. Nếu không có tình yêu thì mất
hương, mất nhụy của cuộc đời, và nếu tình yêu không gắn với cuộc đời thì
thơ quá riêng tây, dễ rơi vào vụn vặt.
Tình yêu chính là sức mạnh vô tận tiếp thêm sức mạnh, nghị lực
nâng bước người chiến sĩ:
Đường anh đi
Nghe có cả nhịp chân em bước
......
Yêu em yêu cả nước non yêu mình
Trông lên trời mở thênh thênh
Mỗi vì sao biếc có hình hai ta
(Em phương xa – Thi Hoàng)
Người yêu đi chiến đấu, tình yêu của người ở lại trở nên đẹp lung linh. Hình
ảnh người yêu, biểu tượng của tình yêu trong lòng hiện ra thật gần gũi, thân
thuộc “Bông hoa chuối đỏ trên đỉnh dốc cao”, “ánh lửa hồng” đồng thời là
động lực đấu tranh, thôi thúc động viên xốc tới “Như chưa hề có cuộc chia
li”:
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy,
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người;
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm giá rét
(Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mĩ)
Tình yêu chính là hồi kèn xung trận, thôi thúc mọi người lên đường.
Tình yêu trải dài theo không gian của đất nước. Tình yêu càng đẹp hơn nếu
biết hòa vào mạch chảy của quê hương, đất nước, cảm hứng lãng mạn cách
mạng chi phối văn học kháng chiến: “hoa ngày thường” thành “hoa chiến
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 42 -
đấu”. Tình yêu trở thành nụ hoa của niềm tin lãng mạn: “dập tắt đạn lửa,
lấp bằng hố bom sâu”:
Em đây hoa những ngày thường
Yêu quá thành hoa chiến đấu
Dời chốn phòng riêng nho nhỏ
Theo anh lên tận chiến hào
Dập tắt muôn trùng đạn lửa
Lấp bằng những hố bom sâu
Chói lói tình yêu em nở.
(Hoa những ngày thường – Chế Lan Viên)
Mượn núi sông, trời đất làm cái cớ để nói chuyện con người, lại đem
tình riêng hòa vào sự nghiệp chung của đất nước, làm cho cái nhỏ bé trở
nên cao rộng, còn cái cao rộng lại không thể che khuất cái nhỏ bé. “Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây” của Phạm Tiến Duật là một bài thơ như thế. Ở
đó, tình cảm chung – riêng hòa hợp nối kết nhau:
Từ nơi em gởi đến nơi anh
Những quân đoàn trùng trùng ra rận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn
(Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây)
Bóng giặc thù tràn tới, làng xóm, quê hương tan hoang, cuộc sống
đời thường xáo trộn. Ly loạn chia rẽ lứa đôi. Tình riêng phải nhường chỗ
cho tình yêu Tổ quốc. Các bài thơ viết về niềm đau, sự mất mát trong chiến
tranh mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Bởi đó cũng là nỗi đau, mất mát chung.
Biểu hiện quan hệ riêng – chung chi phối đậm nét từ nội dung đến phương
thức ngôn ngữ thể hiện:
Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
(Núi đôi – Vũ Cao)
hay:
Anh nhớ ngày đi
Hai đứa nhìn nhau yên lặng
Chúng mình chưa hẹn một lời
(Hoa chanh – Nguyễn Bao)
Mặc dù tình yêu chung lớn lao cao cả nhưng trong cái chung đó ta
vẫn cảm nhận từng cái riêng ngọt ngào, ấm nóng, nồng nàn thương nhớ
khôn nguôi:
Hôm gặp em vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn ( thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 43 -
Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
(Quê hương – Giang Nam)
Chiến tranh gây chia cách đau thương, niềm đau vô tận. Tình yêu riêng
sống mãi trong tình yêu đất nước, tình yêu lứa đôi hóa thân vào tình yêu Tổ
quốc. Hình ảnh thơ hiện ra trong sự so sánh: “ngày xưa” và “bây giờ”; xưa
yêu quê hương vì ở đó có biết bao kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên trong sáng,
nay càng yêu quê hương vì quê hương ấp ủ, chôn giữ thân xác người
thương. Niềm đau được lý tưởng tiếp thêm sức mạnh vượt lên. Người mất
đành nằm lại, người còn sống tiếp tục cầm súng đấu tranh. Hi sinh không có
nghĩa là mất hết; chết để rồi hóa thân, tiếp sức cho người sống. Khuynh
hướng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn hòa chung, thơ ca ghi lại được khí
thế hào hùng của dân tộc trong kháng chiến:
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương – Giang Nam)
Môtíp riêng – chung được thể hiện qua giọng thơ sôi nổi, hào hùng:
Thôi em nằm lại
Với đất lành DuyXuyên
Súng nổ gấp.
Anh lên đường đuổi giặc
Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Và anh biết khi bất thần trúng đạn
Em đã ra đi với mắt cười thanh thản
Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai
Bởi biết mình có mặt ở tương lai
( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Có thể nói sự thể hiện môtíp riêng – chung là một đặc điểm đặc sắc
của thơ tình yêu thời kháng chiến. Chính đặc điểm này đã giúp thơ ca thời
kì này bộc lộ, thể hiện cái tôi trữ tình theo cách riêng, vừa lãng mạn vừa lí
tưởng, vừa bi, vừa hùng; sự chia li, mất mát cũng được thơ ca thể hiện
thành hình tượng với nhiều cung bậc mới. Thơ ca đã gửi gắm, giãi bày nhận
thức và tình cảm của quần chúng nhân dân trước hiện thực đời sống kháng
chiến.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 44 -
II. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT:
Từ chuyên luận “Thi pháp thơ Tố Hữu”, giáo sư Trần Đình Sử giải
thích vai trò của yếu tố không gian nghệ thuật như sau: Khó mà hiểu hết
đặc điểm trong quan niệm về thế giới và con người của một nhà thơ nếu
không tìm hiểu không gian nghệ thuật trong sáng tác đó. Bởi vì, nếu như
không gian cũng như thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, thì có thể
nói, trong cuộc đời, không gian và thời gian cũng là hình thức tồn tại của
con người. Khó mà hiểu được con người nếu không hiểu được không gian
tồn tại của nó. [16 ; 164]
Qua đề cương bài giảng “Thi pháp học hiện đại”, thạc sĩ Phùng Hoài
Ngọc cũng chỉ ra rằng: Không gian nghệ thuật thuộc hình thức nghệ thuật,
là phương thức tồn tại, triển khai thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ
thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Mỗi tác phẩm có
một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả.[12 ;13]
Như vậy, qua những vấn đề vừa dẫn trên, chúng ta có thể thấy được
tầm quan trọng của không gian nghệ thuật trong việc tìm hiểu quan niệm
của tác giả về thế giới và con người. Hay nói khác đi, không gian nghệ
thuật mang quan niệm của tác giả và tìm hiểu sự biểu hiện không gian nghệ
thuật của tác phẩm sẽ góp phần mở ra hướng hiểu một cách trọn vẹn về con
người và thời đại văn học.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, để diễn tả nỗi nhớ trong sự xa cách,
hay bộc lộ tình yêu tươi trẻ, hồn nhiên, đằm thắm, hay sự mất mát đau
thương, tình yêu lí tưởng, các tác giả đã chọn cho mình những không gian
riêng. Đó có thể là không gian mảnh vườn, góc phố, sân nhà gắn với không
gian chia tay không ảm đạm, u hoài như trong “chinh phụ ngâm”; ở đây có
“nắng vàng rực rỡ giữa vườn hoa thắm sắc”- không gian của niềm tin và
ánh lên sắc màu lạc quan, sắc màu của nỗi nhớ và sự chung thủy:
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
(Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn Mĩ)
Hay là cảnh những người yêu nhau tiễn nhau đồng thời cũng thổ lộ tình yêu
chưa một lần dám ngỏ. Lúc này, không gian căn nhà, góc phố - nơi chứng
kiến những mối tình chớm nở - giữ vai trò trung tâm:
Cửa sổ hai nhà cuối phố
Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa.
Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 45 -
(Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn)
Từ không gian nơi chốn (khu vườn, ngôi nhà), không gian nghệ thuật được
mở rộng ra thành không gian chiến trường - không gian xa cách. Chiến
trường mênh mông đạn bom ác liệt lại là nơi chất chứa bao nỗi nhớ niềm
thương, do hoàn cảnh chiến tranh con người khó có cơ hội gặp nhau. Do
vậy, không gian chiến trường trở thành không gian ý niệm: xa mà gần; cách
mà không ngăn; nỗi nhớ nối gần hai trận tuyến, không gian chia cách đã có
nỗi nhớ và lý tưởng đấu tranh liên thông, nối kết:
Vầng trăng sương muối
Cơn gió đầu ngàn;
Nhớ là tiếng nói
Tính là không gian
Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm xanh
Chúng ta cách nhau bao nhiêu dặm lửa
......
Hai trận tuyến hai đầu
Đang nhích lại gần nhau
(Em phương xa – Thi Hoàng)
Tình yêu nối liền không gian, dù xa cách muôn trùng nhưng họ vẫn
gần nhau:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Từ nơi em gởi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn.
(Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây)
Tình yêu của đôi trai gái ở rừng Trường Sơn trở nên to lớn, nó vượt
lên trên những cánh rừng đại ngàn và núi non hiểm trở, rút dần khoảng cách
xa xôi, nối liền sợi dây tình cảm bằng “Những đoàn quân trùng trùng ra
trận”. Họ chưa từng gặp nhau nhưng trái tim họ cùng đập chung một nhịp,
họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh gian khổ, từ xa mà
nhớ thương lại nối gần không gian xa cách. Từ không gian thực cách ngăn
trở thành không gian nghệ thuật – không gian tâm tưởng – nối kết hai tâm
hồn:
Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây
Bên nắng đốt
Bên mưa quây
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 46 -
Rút sợi thương
Chằm mái lợp
Rút sợi nhớ
Đan vòm xanh
Nghiêng sườn Đông
Che mưa anh
Nghiêng sườn Tây
Xòa bóng mát
( Sợi nhớ sợi thương – Thúy Bắc)
Không gian chiến trường là nơi chăng tơ cho những sợi dây yêu thương
đồng thời cũng là nơi chứng kiến những nỗi đau li biệt. Màu sắc cảnh vật
không gian ở đây thể hiện sự lạc quan: mùa xuân ở mãi, sắc trời, rừng cây
vẫn xanh nguyên nơi người nằm lại:
Trên mồ em có mùa xuân ở mãi
Trên chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên.
(Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Nhìn chung, không gian chia tay, không gian xa cách, không gian
chiến trường gắn liền với không gian tâm tưởng,giúp nhân vật trữ tình
bộc lộ cái tôi giàu xúc cảm, cùng bao lẽ sống yêu thương. Không gian cũng
là nơi con người sống hết mình vì nhiệm vụ và tình yêu của con người cũng
đơm hoa kết trái. Các nhà thơ viết về tình yêu đã khắc họa thành công hình
tượng không gian nghệ thuật trong thi ca.
III. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ:
Khi nói đến tác phẩm trữ tình là chủ yếu nói đến sự biểu hiện tâm
trạng, cảm xúc, những tưởng nó không có cốt truyện và ở đó cái tôi – nhân
vật trữ tình, giữ vị trí quan trọng trong việc phản ánh thế giới nội tâm. Tuy
nhiên, trên thực tế, thể loại trữ tình cũng có sự tham gia của yếu tố tự sự;
ngược lại, tự sự cũng có vai trò quan trọng nhất định trong việc phản ánh
cái tôi trữ tình.
Thơ mới do chỉ chú trọng khám phá, biểu hiện cái “tôi”cá nhân – cá
thể bằng những chất liệu nội cảm với những trạng thái đa dạng, tinh tế của
tình cảm, cảm xúc, cảm giác, ấn tượng, cho nên cái “tôi” trong Thơ mới
thường đánh mất mối liên hệ với cuộc đời bên ngoài và ngày càng chìm sâu
vào trong nỗi cô đơn, trống vắng. Ngược lại, thơ ca cách mạng đã tăng
cường chất liệu hiện thực, được khởi đầu từ thơ kháng chiến chống Pháp và
mãi đến những năm kháng chiến chống Mĩ và sau này. Tất nhiên, thơ viết
về tình yêu thời kì kháng chiến cũng đậm chất tự sự do không tách rời hiện
thực đấu tranh của dân tộc nên nó dễ dàng tìm được sự đồng điệu nơi người
đọc.
Phương thức tự sự được thể hiện bắt đầu có thể bằng việc kể. Người
kể chuyện thường không phải là người đứng ngoài cốt truyện hay sự kiện.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 47 -
Họ không kể chuyện của người khác một cách khách quan mà luôn luôn kể
chuyện của chính mình, lời kể chính là lời bộc bạch, tâm tình về cảnh ngộ
hay quan hệ nào đó của chính nhân vật, nhưng cuối cùng cũng là để biểu
hiện “cảm hứng trữ tình” của họ về những cảnh ngộ đó. [ 8 ;233]
“Bài thơ về hạnh phúc” của Dương Hương Ly là một minh chứng.
Tác giả cũng chính là nhân vật trữ tình và anh đang kể về câu chuyện của
chính cuộc đời mình. Cuộc đời kháng chiến gian khổ, vất vả nhưng rất đỗi
hạnh phúc bên người bạn đời, người đồng chí, người đồng nghiệp Xuân
Quý thân yêu. Nhưng tiếc thay, súng đạn quân thù không loại trừ một ai,
người vợ thân thương của nhà thơ đã vĩnh viễn ra đi:
Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên
Trên mồ em có mùa xuân ở mãi
Trên chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên
Trời chiến trường không một chút bình yên
Súng nổ gấp.
Anh lên đường đuổi giặc
Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Lời thơ là lời tâm tình nhẹ nhàng đau thấu tâm can “Thôi / em nằm
lại” biết bao nỗi đau uất nghẹn sau từ “thôi” nhẹ nhàng đó. Trước kia,
Nguyễn Khuyến cũng từng khóc bạn Dương Khuê bằng từ “thôi” nhưng
đằng sau lại ẩn chứa một nỗi đau vô cùng, vô tận:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
(Khóc Dương Khuê)
Cũng không ra ngoài việc kể chuyện về cuộc đời mình, Hữu Loan đã
trải lòng mình qua bài thơ “Màu tím hoa sim”. Tác giả bắt đầu kể:
Nàng có ba người anh bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Thông qua việc kể lại chuỗi các sự việc, bài thơ cho người đọc cảm
nhận được những biến động, xáo trộn trong cuộc sống của người lính. Hi
sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu đất nước đã trở thành lí tưởng sống
của những đôi trai gái thời đó. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà cho rằng:
tự sự thường chính là cái cớ để nhân vật thông qua chuyện mà bộc lộ tâm
trạng của mình. [8 ; 233].Qua câu chuyện tình yêu dang dở, Hữu Loan kín
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 48 -
đáo bộc lộ tình yêu thương vợ tha thiết, cả nỗi đau thổn thức, giày vò trong
tim:
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài
Trong chiều
Không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang
Biền biệt!
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
“ Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu”
(Màu tím hoa sim – Hữu Loan)
Người vợ thân yêu của nhà thơ mất lúc còn rất trẻ khi “Tóc nàng xanh xanh
– Ngắn chưa đầy búi” và đây cũng chính là nỗi đau tột cùng, là sự bất hạnh
của người “đi” lẫn kẻ ở. Câu thơ “Nhìn áo rách vai” và “Tôi hát trong màu
hoa” cho người đọc tự nhủ: Tác giả đang hát phải chăng lòng cũng đang
thổn thức khi nhận ra cảnh ngộ hiện tại và gặp lại cảnh xưa!
Bằng giọng kể tâm tình, nhà thơ Giang Nam đã truyền đến người đọc
nỗi đau, mất mát lớn trong cuộc đời của chính mình. Bài thơ “Quê hương”
ra đời từ một kí ức buồn thương. Ba mươi câu đầu kể lại quãng thời gian
vui tươi, hạnh phúc của tuổi trẻ và tình yêu nhưng những câu còn lại là sự
sửng sờ trước hung tin, khác gì giông tố ập đến bao phủ:
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh chết nửa con người!
Nếu đoạn thơ đầu giọng thơ thong thả trìu mến, với những hình ảnh
thơ mộng thì đoạn sau gân guốc, quằn quại trong đau thương. Người đọc
như bị thu hút, theo dõi diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình bởi cả bài thơ
là một câu chuyện kể nhiều chi tiết vừa hấp dẫn vừa xúc động do sự đan
xen, kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 49 -
Các nhà thơ kể chuyện của đời mình mà như nghe chuyện của muôn
người. Những câu chuyện tình yêu vừa lãng mạn vừa bi thương làm xúc
động lòng người xảy ra giữa thời khói lửa chiến tranh.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ “Núi đôi” đang hồi tưởng lại những kỉ
niệm vừa đáng yêu, vừa cay đắng, chua xót của quá khứ:
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang.
Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Mới tới cầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông
( Vũ Cao)
Nỗi đau này không thể đặt tên, cách tác giả vừa hồi tưởng vừa kể dẫn dắt
người đọc vào câu chuyện đồng cảm nỗi đau như không còn là nỗi đau cá
nhân. Cả bài thơ (64 câu) là một câu chuyện dài về đời người: sống, chiến
đấu, yêu thương dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Nhân vật nữ du
kích được nhắc đến do tác giả hư cấu. Thế nhưng, hình ảnh cô gái chết khi
vây đồn giặc lại có sức ảnh hưởng lớn đến những người cầm súng lúc bấy
giờ. Cô là đại diện tiêu biểu cho phẩm chất anh hùng của cả một tầng lớp,
các cô nữ giao liên, du kích lúc bấy giờ trên khắp mọi miền đất nước.
Những bài thơ ra đời trong giai đoạn này đã đi sát cuộc chiến đấu
của nhân dân hai miền Nam, Bắc, bao quát, chiếm lĩnh hiện thực chiến
trường. Bằng cách khai thác riêng, các nhà thơ đã phản ánh từng mảng hiện
thực. Tất cả hợp thành bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện.
Trong những năm tháng đó, đất nước phải chịu biết bao vết thương
do chiến tranh để lại. Đó là hình ảnh:
Bỗng tới mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 50 -
Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay.
( Núi đôi – Vũ Cao)
Đất đai, cây cỏ, nhà cửa tan hoang sau những trận càn. Phương thức tự sự
trong thơ phát huy tác dụng vừa kể vừa tả vừa sâu lắng trữ tình. Người đọc
hình dung sau cuộc chiến, mọi thứ đều tan tác, mọi nơi đều nhuốm màu
tang thương. Dân tộc Việt Nam – một dân tộc anh hùng đã gánh chịu bao
mất mát từ cuộc chiến tranh phi nghĩa mà thực dân Pháp và đế quốc Mĩ tiến
hành. Chúng đã thả hàng ngàn, hàng triệu tấn bom trên khắp đất nước này.
Vậy mà giữa đạn bom, con người vẫn đường hoàng ung dung, nghĩ suy sâu
sắc, càng thêm trân trọng bao lẽ sống – tình yêu:
Trong ánh chớp nhoáng nhoàng cây cối ngả nghiêng
Tổ công binh đứng ngồi trong trạm gác
Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát
Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe.
(Vầng trăng và những quầng lửa – Phạm Tiến Duật)
hay:
Anh ngủ lại trên lá rừng và đếm những bom rơi
Nhưng tình yêu của em làm lòng anh yên tĩnh quá
Hạnh phúc là sau những chặng đường vất vả
Lại hiểu em nhiều trong muôn nẻo xa xôi.
(Buổi hẹn hò lớn lao – Nguyễn Khoa Điềm)
hay:
B.52 bom nghìn tấn dội
Giặc mới lui càn khi em vừa đến
Bà mẹ già kể chuyện chặn xe tăng
Quanh những bờ dương giặc san bằng
Đã mở lại những chiến hào gan góc
Những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học
Trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan
Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc
(Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Hậu quả của những trận mưa bom thật khủng khiếp. Nó làm cho “cây cối
ngả nghiêng”, “những bờ dương giặc san bằng”, “góc vườn cháy khét lửa
na – pan” nhưng trước sự hủy diệt tàn khốc của chiến tranh, đất nước Việt
Nam vẫn cứ hồi sinh. Con người Việt Nam vẫn lạc quan: ca hát, nghĩ đến
người yêu nơi xa, vẫn “mở lại những chiến hào gan góc ; những em bé,
dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học” và cao hơn hết là sự sống nảy sinh từ
trong cái chết “trong một góc vườn cháy khét lửa na – pan; em sửng sốt gặp
một nhành hoa cúc”. Chính sức mạnh tinh thần đã giúp dân tộc Việt Nam
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 51 -
chiến thắng quân thù. Nếu không có lòng yêu nước thiết tha, lòng tin chắc
chắn ở tương lai đầy ánh sáng của chiến thắng thì dân tộc Việt Nam làm sao
có đủ sức mạnh tinh thần để vượt qua mọi thiếu thốn, mọi thử thách nặng
nề của chiến tranh
Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Hà nhận định xác đáng: Nếu không có
sự kiện, không có lí do bắt nguồn cho những cảm xúc, những tâm trạng thì
cảm xúc tâm trạng đó cũng trở nên lênh phênh, chung chung vì thế mà có lẽ
cũng mờ nhạt. Tự sự như cái mắc để treo bức tranh, như đôi bờ đất để dòng
sông chảy mà nếu không có cái mắc đó thì bức tranh không thể được treo
lên, không có bờ đất thì nước chẳng theo một dòng nhất định.[8 ; 232].Qua
đây, chúng ta thấy được vai trò của phương thức tự sự trong việc lót nền
dẫn dắt cảm xúc, làm cho cảm xúc được thăng hoa. Đồng thời, nó góp phần
xây dựng hình tượng, biểu hiện sâu sắc cái tôi trữ tình trong thơ tình yêu
thời kháng chiến.
IV. VẬN DỤNG THỂ THƠ TỰ DO:
Có nhiều phương thức biểu hiện tình yêu trong thơ ca thời kháng
chiến. Ngoài những môtíp riêng – chung, vai trò của hình tượng không gian
nghệ thuật, của chất tự sự còn phải kể đến hiệu quả biểu đạt của câu thơ tự
do.
Thơ tự do được dùng sớm nhất trong các sáng tác của Tản Đà, Phong
Hoa Lạc, Nguyễn Lang Quy Tản Đà được xem là “người của hai thế kỉ”,
là người có ý thức cách tân mạnh mẽ hình thức thơ đầu thế kỉ XX. Bài thơ
“Tống biệt” với những câu chữ dài ngắn không đều thích hợp thể hiện cảm
xúc ngậm ngùi luyến tiếc khi rời tiên cảnh, cứ bước đi rồi lại bước dừng,
hồi lâu cứ nhìn ngoái lại:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
( Tống biệt – Tản Đà)
Thơ tự do thực sự ra đời khi xuất hiện phong trào Thơ mới. Có thể
kể đến một số bài như: “Xuân về” của Lưu Trọng Lư, “Tiếng trúc tuyệt vời”
của Thế Lữ, và hàng loạt các bài thơ khác.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 52 -
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong căn nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới.
( Xuân về - Lưu Trọng Lư)
Không bị giới hạn, không bị câu thúc từ các quy định về cấu tạo của
khổ thơ, câu thơ, niêm luật, thể thơ tự do có ưu thế trong việc đi sâu vào các
đề tài rộng lớn của cuộc sống. Bên cạnh đó, hình thức phóng khoáng của
thơ tự do đã tạo điều kiện cho các tác giả biểu lộ một cách mạnh mẽ cảm
xúc, cái tôi trữ tình.
Chúng ta có thể hiểu khái niệm thơ tự do như sau: Thơ tự do là hình
thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ, không bị ràng buộc
vào quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối Do vậy mà nó mở ra
chân trời rộng rãi cho sự sáng tạo hình thức mỗi bài thơ. [2 ; 70]
Thể thơ tự do đã phát huy tác dụng mạnh làm nên thành tựu thơ ca
giai đoạn 1945 – 1975. Chính mảnh đất màu mỡ của hiện thực sôi động và
đời sống tình cảm phong phú của người Việt Nam thời kì này đã tạo điều
kiện cho thơ tự do sinh sôi và phát triển.
Để diễn tả nỗi đau li biệt, nhà thơ Hữu Loan đã sử dụng hình thức
thơ tự do với cách ngắt nhịp, ngắt câu mới lạ, đột ngột tạo ra chiều sâu
trong tâm tưởng – tâm trạng hụt hẫng, thất thểu, cô đơn khi bắt gặp hình
ảnh những đồi hoa sim, màu hoa của kí ức, của kỉ niệm buồn đau:
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài
Trong chiều
Không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang
biền biệt
( Màu tím hoa sim)
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 53 -
Hình ảnh hoa sim “màu tím”gợi nỗi buồn, sự vô vọng, được thể hiện trên
nền các câu thơ tự do, ngắt câu sáng tạo, Bài thơ như có sức ngân, vang xa
dài lâu giữa không gian đất trời, vào giữa lòng người yêu thơ.
Từ cách ngắt câu cuối mỗi dòng thơ 5/4/5/2/2/4/3/2 cùng thanh bằng trong
từ “biền” gợi sức vang xa; thanh trắc trong từ “biệt” gợi sức chùng. Tất cả
đã góp phần thể hiện sự biến động, mất cân bằng tâm lí trong tâm trạng của
nhân vật trữ tình. Như vậy, ưu thế của thể thơ tự do được nhà thơ tận dụng
triệt để.
Cùng diễn tả nỗi đau thương mất mát, nhà thơ Dương Hương Ly cũng tìm
đến thể thơ tự do:
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không nói được bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu
xoáy
Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc
Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc
Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường
Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương
Anh nổ súng.
( Bài thơ về hạnh phúc)
Đó là nỗi đau triền miên, dai dẳng nhưng lại thôi thúc vươn tới, vùng lên
một cách quyết liệt, dữ dội.
Dù diễn tả cảm xúc đau đớn hay hạnh phúc, câu thơ tự do cũng góp
phần hỗ trợ việc biểu đạt cảm xúc trữ tình:
Anh không dám xin
Cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đằm ấm, thanh tao
Không giấu được.
Cứ bay dịu nhẹ.
(Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn)
Những câu thơ không vần, cách ngắt câu tự do, giúp thể hiện sự ngập
ngừng, thẹn thùng của đôi lứa yêu nhau khi thổ lộ tâm tình.
Cũng có thể là sự bất ngờ hạnh phúc trong “Quê hương” – Giang
Nam, cả hai đều xúc động ngậm ngùi:
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 54 -
Vẫn khúc khích cười ( khó nói lắm anh ơi! )
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
(Quê hương – Giang Nam )
Một thứ tình cảm đặc biệt dịu dàng, len nhẹ vào tâm hồn họ. Nhà thơ nữ
Hoàng Thị Minh Khanh và Thúy Bắc đều có những câu thơ tự do rất thành
công khi diễn tả nỗi nhớ nhiều lớp, nhiều tầng, trùng trùng như sóng cồn,
biển dâng:
Dù anh đi đâu đến đâu
dù ta xa nhau biết mấy
em vẫn tin anh như từng tin Đảng vậy
trong gian lao anh có mặt hàng đầu.
Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ
em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi
em nhớ anh không chỉ đêm trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi
Mà em đã nhớ anh
cả những lúc soi gương chảy tóc
cả những lúc công tác bộn bề
cả những lúc nghe đàn em trẻ học
hay tiếng chim trời ríu rít bay đi
(Nhớ - Hoàng Thị Minh Khanh)
Những dòng thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ xen với các dòng thơ tám chữ,
chín chữ góp phần thể hiện những biến động nhẹ nhàng nhưng không kém
mãnh liệt trong tâm trạng nhân vật trữ tình.
Thúy Bắc còn dùng cả thể thơ ba chữ gãy gọn, cách ngắt dòng dứt
khoát để diễn tả nội tâm phức tạp của người con gái đang yêu:
Em dang tay
Em xòe tay
Chẳng thể nào
Xua tan mây
Chẳng thể nào
Che anh được
Rút sợi thương
Chằm mái lợp
Rút sợi nhớ
Đan vòm xanh
Nghiêng sườn Đông
Che mưa anh
Nghiêng sườn Tây
Xòa bóng mát
(Sợi nhớ sợi thương)
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 55 -
Với những câu thơ trần trụi, phá vỡ những niêm luật, nhịp vần,
không câu thúc vào số câu, số chữ đã tạo tâm thế thoải mái cho các nhà thơ
trong việc thể hiện cảm xúc, góp phần làm nên sự thành công cho mảng thơ
viết về đề tài tình yêu giai đoạn 1945 – 1975.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 56 -
PHẦN III: KẾT LUẬN
Thơ tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 đã góp phần làm
phong phú, đa dạng nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ tình yêu giai đoạn này
là dòng riêng giữa nguồn chung, là bông hoa đầy hương sắc góp cho vườn
thơ cách mạng. Các nhà thơ đã cho ra đời những thi phẩm biểu hiện sâu sắc
cảm xúc cái tôi riêng tư bên cạnh những xúc cảm về cái ta của cộng đồng,
dân tộc. Hai yếu tố “riêng”, “chung” đã tạo nên đặc điểm của thơ tình yêu
thời kì này.
Chiến tranh là kẻ thù của muôn nhà và là kẻ thù của tình yêu. Trong
hoàn cảnh khó khăn, thơ tình yêu vẫn được khai sinh như nhu cầu tất yếu
phản ánh đời sống tình cảm của con người. Những Kim - Kiều của thế kỉ
XX cũng rụt rè, e thẹn khi đến với tình yêu, họ cũng nhớ thương da diết,
cháy lòng khi xa cách, cũng đau đớn khi mất đi người bạn đời, người yêu.
Các nhà thơ đã tái hiện hiện thực đời sống, tình yêu của con người trong
chiến tranh khốc liệt bằng nhiều phương thức nghệ thuật đa dạng, độc đáo:
từ các môtíp riêng – chung , các yếu tố không gian nghệ thuật, phương thức
tự sự đến sự vận dụng linh hoạt thể thơ tự do. Tất cả đều góp phần thể hiện
thành công hình tượng nhân vật, cái tôi trữ tình lãng mạn trong thơ tình yêu
giai đoạn này.
Thơ tình yêu thời kháng chiến không gợi vẻ bi lụy, nhụt chí ở người
đọc, không làm con người quên đi nhiệm vụ thiêng liêng, lý tưởng đấu
tranh; ngược lại, tình yêu là liều thuốc xoa dịu đi mọi mất mát, đau thương
tạo niềm tin yêu cuộc sống dù hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt. Qua thơ
tình yêu, người đọc vẫn có thể hình dung hiện thực ác liệt, tàn khốc đang
diễn ra nơi chiến trường. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nói: “Người
Việt Nam yêu để thêm được mạnh mẽ, yêu để được sống thêm hăng hái,
tranh đấu thêm được vững bền, chứ không phải yêu để đắm đuối trong tình
yêu và lãng quên cuộc sống”. Một lần nữa quan niệm trên lại được khẳng
định. Thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975 đã góp phần điểm tô, làm phong
phú đời sống tinh thần của người chiến sĩ, quần chúng nhân dân thời kháng
chiến.
Trải qua sự sàng lọc của thời gian đối với các giá trị, thành tựu văn
học, chắc chắn những tác phẩm thơ tiêu biểu viết về đề tài tình yêu ra đời
trong giai đoạn văn học này sẽ còn mãi sức sống, mãi hiện hữu, neo đậu lâu
bền trong sự trân trọng, yêu mến cũng như đáp ứng thị hiếu, nhu cầu học
tập, nghiên cứu của công chúng, bạn đọc muôn đời sau.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 57 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh Ngọc. Năm 2001. Hồn Thơ thế kỉ (bình luận một số bài thơ nổi
tiếng). Hà Nội: NXB Thanh niên.
2. Hoàng Kim Ngọc (Biên Soạn và tụyển chọn). Năm 2007. Những
đóng góp của thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước đối với nền văn
học Việt Nam hiện đại. NXB Đại học Sư phạm.
3. Lê Đình KỴ. Năm 1998. Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học
Việt Nam. NXB Giáo dục.
4. Lê Lưu Oanh ( Tuyển chọn và giới thiệu nhà văn và tác phẩm trong
nhà trường). Năm 2002. Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm. NXB Giáo
dục.
5. Nhiều tác giả. Năm 2005. Giảng văn văn học Việt Nam. NXB Giáo
dục.
6. Nhiều tác giả. Năm 1996. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia.
7. Nguyễn Duy Bắc. Năm 1998. Bản sắc đân tộc trong thơ ca Việt Nam
hiện đại (1945 – 1975). Hà Nội: NXB Văn hoá dân tộc.
8. Nguyễn Đức Quyền. Năm 1987. Tiểu luận những vẻ đẹp thơ. Hội văn
nghệ Nghĩa Bình.
9. Nguyễn Thị Bích Hà. Năm 2003. Tự sự trong loại hình trữ tình dân
gian. Trần Đình Sử. Tự sự học (Một số vấn đề lí luận và lịch sử).
NXB Đại học Sư phạm: 225 – 234.
10. Nguyễn Văn Long (chủ biên). Năm 2007. Văn học Việt nam hiện đại
tập II (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945). NXB Đại học Sư
phạm.
11. Nguyễn Văn Long. Năm 2001. Tiếp cận và đánh giá văn học Việt
Nam sau cách mạng tháng tám. NXB Giáo dục.
12. Phùng Hoài Ngọc. Năm 2006. Đề cương bài giảng Thi pháp học
hiện đại. Đại học An Giang.
13. Thơ Việt Nam 1945 – 1985. Hà Nội: NXB Văn học.
14. Trần Đăng Xuyền. Năm 1996. Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ
1955 đến 1975. Nhiều tác giả. 50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia.
15. Trần Đình Sử. Năm 1997. Những thế giới nghệ thuật thơ (tiểu luận).
Hà Nội: NXB Giáo dục.
16. Trần Đình Sử. Năm 1995. Thi pháp thơ Tố Hữu. NXB Giáo dục.
Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975
- Trang 58 -
17. Trần Ngọc Dương. Năm 2006. Nhà thơ Hữu Loan và bài thơ Màu
tím hoa sim. Tạp chí văn học và tuổi trẻ: 9 – 11
18. Văn Giá. Năm 2007. “Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy”.Tạp chí văn
học và tuổi trẻ: 7 – 9
19. Việt Hùng - Thảo Trang – Nguyên Ngọc (Nhóm tuyển chọn và biên
soạn). Năm 2000. Đến với những bài thơ hay. Hà Nội: NXB Văn
hoá – thông tin.
20. Vũ Duy Thông. 1998. Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945
– 1975. Hà Nôi: NXB Giáo dục.
21. Vũ Tiến Quỳnh. Năm 1998. Phê bình luận văn học Anh Thơ, Lâm
Thị Mỹ Dạ, Vân Đài, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn. Thành
phố Hồ Chí Minh: NXB Văn nghệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1267.pdf