Hiện nay phần lớn sản phẩm xuất khẩu hiện nay là hàng gia công xuất khẩu, làm theo mẫu mã đặt hàng, nên doanh nghiệp Việt Nam chưa phải lo cạnh tranh trực tiếp trên thị trường xuất khẩu về thiết kế, mẫu mã. Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lại thường mua theo phương thức FOB (nhập thẳng hàng thành phẩm) hơn. Hơn nữa, về lâu dài, muốn thoát khỏi tình trạng “ làm thuê”, tự chủ sản xuất, tiêu thụ và xác lập nhãn hiệu riêng cho sản phẩm của mình, thì ngành giày da Việt Nam cần sớm đầu tư nâng cao năng lực thiết kế mẫu mốt sản phẩm. Muốn làm được như vậy, phải xây dựng trung tâm nghiên cứu mẫu mốt, chuyên ngành giày dép với trang thiết bị tiên tiến, đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ. Đồng thời, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường Hoa Kỳ, cũng như học tập kinh nghiệm của các nước sản xuất giày dép trên thế giới như Thái Lan: khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các chủ sở hữu những nhãn mác quốc tế nỗi tiếng đầu tư vào các doanh nghiệp giày da trong nước, mời chuyên gia thời trang quốc tế đến tư vấn về mẫu mốt thời trang.
Ngoài ra, cũng như hàng dệp may, một khó khăn lớn trong sản xuất giầy dép xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là sự kém linh hoạt trong sản xuất do phải nhập một số lượng lớn và ngày càng tăng các nguyên phụ liệu từ bên ngoài, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực xuất khẩu giày dép sang Hoa Kỳ của các doanh nghiệp. Vì vậy, một trong những vấn đề quan trọng là phải phát triển nguyên vật liệu, dụng cụ, phụ tùng nội địa phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong sản phẩm còn là điều kiện bắt buộc để được hưởng Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP, cho nên để được hưởng chế độ này của Hoa Kỳ ngành giày dép Việt Nam không còn hướng đi nào khác. Cụ thể ngành giày dép cần phải kết hợp những ngành công nghiệp có liên quan hoặc thiết lập các xưởng công nghiệp nhỏ để đáp ứng đủ nguyên liệu, phụ tùng đa dạng cho sản xuất như ngành hoá chất dẻo, dệt may, hoá dầu để đáp ứng nguyên liệu cho mũi giày hay lập các xưởng cơ khí nhỏ để sản xuất khuôn mẫu, phụ tùng và phụ liệu bằng kim loại. Cần phải xây dựng chương trình và thiết lập thị trường nguyên, phụ liệu tại chỗ phong phú và đa dạng, có chất lượng cao để cung cấp đồng bộ và ổn định cho sản xuất.
85 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1688 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đến quan hệ thương mại giữa hai nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Kỳ. Hai trong những ví dụ điển hình cho trường hợp này là công ty chế tạo thiết bị vệ sinh lớn hàng đầu thế giới America Standard và hãng sản xuất giầy thể thao Nike của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Đối với America Standard Việt Nam, công ty này đã hoạt động tại Việt Nam từ năm 1997 nhưng chưa xuất khẩu sang Hoa Kỳ được một thiết bị nào vì sản phẩm của công ty như bồn cầu chẳng hạn, phải chịu mức thuế nhập khẩu lên tới 70%. Sau khi hiệp định có hiệu lực thì mức thuế sẽ giảm xuống chỉ còn 3%, tạo điều kiện thuận lợi cho American Standard Việt Nam xuất khẩu sản phẩm của mình về Hoa Kỳ. Năm tháng đầu năm 2002, American Standard Việt Nam đã xuất sang Hoa Kỳ khoảng 300.000 sản phẩm. Trong trường hợp của Nike, hãng này đã tạo việc làm cho 45.000 công dân Việt Nam, nhưng tính đến trước khi hiệp định có hiệu lực thì xuất khẩu rất ít sang Hoa Kỳ vì phải chịu mức thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ là 35%. Sau khi hiệp định có hiệu lực chỉ phải chịu mức thuế 10% và như thế hàng hoá của Nike ở Việt Nam sẽ có thể cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại từ các nước khác tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, sau khi hiệp định có hiệu lực, Hoa Kỳ sẽ có thể thiết lập quan hệ một hệ thống buôn bán ở Châu á Thái Bình Dương ngày càng rộng rãi và tự do hơn. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và năng động, chiếm hơn 50% GDP và mậu dịch thế giới, Châu á Thái Bình Dương đang dần trở thành một trung tâm kinh tế thế giới có xu hướng phát triển cao và bền vững nhất. Do vậy khi hiệp định thương mại Việt Hoa Kỳ có hiệu lực sẽ giúp cho Hoa Kỳ tham gia sâu rộng vào thị trường này. Quan trọng hơn cả đây là cơ hội nhằm lành mạnh nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam, hiệp định thương mại sẽ giúp cải thiện không khí kinh doanh của cả công ty Hoa Kỳ và Việt Nam. Hiệp định này sẽ đảm bảo việc Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đây là một bước quan trọng tiến tới tạo ra nền công nghiệp trong nước phụ thuộc vào sở hữu trí tuệ như công nghệ thông tin, và có những bước cơ bản hơn nhằm tạo ra một hệ thống làm ăn kinh doanh rõ ràng, minh bạch và công bằng hơn. Đây không phải là mối đe doạ đối với Việt Nam hay các công ty Việt Nam mà thực tế là một lợi ích rất lớn. Một hệ thống làm ăn minh bạch hơn sẽ tạo ra một môi trường hoạt động tốt cho các công ty Việt Nam kể cả Nhà nước hay tư nhân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước đổi mới, thương mại và hoạt động kinh tế tập thể như vậy sẽ tạo điều kiện công ăn việc làm và xoá đói, giảm nghèo.
Hơn thế nữa, tại mục 8 của điều 3 (Những nghĩa vụ chung về thương mại) đã nêu rõ: “ Hoa Kỳ sẽ xem xét khả năng giành cho Việt Nam Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập”. Theo đó, Việt Nam sẽ có cơ hội nhận được chế độ ưu đãi GSP của Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam đã được hưởng quy chế GSP của hầu hết các nước phát triển như các nước thành viên EU, Na Uy, Thuỵ Điển, Canada, Nhật Bản. Thậm chí một số nước có trình độ phát triển trung bình cũng đã giành GSP cho Việt Nam như Nga, Ba Lan, Hungary.. hay một số nước thuộc Liên Xô cũ. Vì thế việc Hoa Kỳ giành GSP cho Việt Nam là hoàn toàn hợp lý. Với chế độ ưu đãi này, nhiều loại mặt hàng của Việt Nam sẽ được miễn thuế vào thị trường Hoa Kỳ, và với lợi thế đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ phát triển mạnh hơn nữa.
Sau khi hiệp định có hiệu lực, Việt Nam cũng đang đề nghị Hoa Kỳ xem xét bãi bỏ việc áp dụng Điều luật sửa đổi Jackson-Vanik đối với Việt Nam. Hoa Kỳ là nước duy nhất trên thế giới áp dụng điều luật này. Đây thực chất là một sản phẩm của chiến tranh lạnh, vốn không còn thích hợp với xu thế phát triển thương mại quốc tế ngày nay. Chính điều luật này làm phức tạp thêm quan hệ thương mại song phương giữa hai nước thông qua các tiêu chí phi thương mại. Sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực, việc Hoa Kỳ tiếp tục duy trì Đạo luật này là hoàn toàn trái với những nguyên tắc của hiệp định, vì thế trong thời gian sắp tới, Hoa Kỳ có thể sẽ bãi bỏ điều luật này. Hơn nữa, trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, Việt Nam đã cam kết sửa đổi bổ sung rất nhiều trong hệ thống pháp luật của mình để có thể phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của hiệp định thì không có lý do gì Hoa Kỳ lại duy trì một điều luật lỗi thời và trái với thông lệ quốc tế như vậy. Nếu điều luật này được bãi bỏ, Việt Nam sẽ nhận được quy chế tối huệ quốc vô điều kiện, điều này giúp cho quan hệ thương mại với Hoa Kỳ ổn định hơn.
Tuy nhiên, sau khi hiệp định có hiệu lực thì hàng dệt may của Việt Nam vẫn chưa được áp dụng Chế độ tối huệ quốc về hạn chế định lượng và cấp giấy phép khi nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Vì thế Hoa Kỳ có khả năng đơn phương áp đặt hạn ngạch khi Hoa Kỳ cảm thấy việc nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam làm ảnh hưởng đến thị trường Hoa Kỳ hoặc khi doanh nghiệp Hoa Kỳ khiếu nại. Mặt khác, theo luật Hoa Kỳ thì Hải Quan Hoa Kỳ có quyền đình chỉ nhập khẩu hàng dệt may bất kỳ lúc nào nếu Hiệp định hàng dệt may chưa được đàm phán ký kết. Do vậy, hiệp định thương mại có hiệu lực vẫn chưa tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho hàng dệt may của Việt Nam. Vì thế trong tương lai, chắc chắn Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ phải đàm phán một Hiệp định Hàng dệt may. Tuy nhiên cần phải thấy trường hợp của Campuchia trong khi đàm phán ký kết Hiệp định với Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã gắn việc thực hiện Hiệp định với những điều khoản về lao động. Đối với Việt Nam, rất có thể Hoa Kỳ cũng muốn gắn điều kiện hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may với việc áp dụng các tiêu chuẩn lao động quốc tế tại Việt Nam. Gần đây, bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã tài trợ cho tổ chức Trách nhiệm xã hội quốc tế (SAI) thực hiện dự án tập huấn, giới thiệu bộ tiêu chuẩn SA8000 tại Việt Nam. Đây là dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ có ý định áp dụng ở Việt Nam một tiêu chuẩn về lao động do Hoa Kỳ đề ra. Ngoài ra, trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Đoàn Lao động Việt Nam, phía Hoa Kỳ rất quan tâm liệu Việt Nam có cho phép tự do thành lập công đoàn hay không. Động thái này cho thấy trong tương lai không những Hoa Kỳ muốn áp đạt các tiêu chuẩn về lao động ở Việt Nam, Hoa Kỳ còn có tham vọng đa nguyên hoá các tổ chức công đoàn ở đây. Đây là vấn đề Việt Nam cần hết sức chú ý trong thời gian sắp tới.
2. Thách thức
Trong tương lai, trong quá trình triển khai Hiệp định, Việt Nam rất có thể còn phải đối mặt với vấn đề về Thuế chống trợ cấp hay còn gọi là Thuế đối kháng (Countervailing Duty) và vấn đề về Thuế chống phá giá. Theo quy định của Hoa Kỳ thì thuế chống phá giá được áp dụng khi hàng hoá bán tại Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bình thường ở nước sản xuất. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam không phải là một nước có nền kinh tế thị trường mà là một nền kinh tế chuyển đổi, vì thế khi xem xét về việc bán phá giá, Hoa Kỳ sẽ không so sánh giá hàng Việt Nam bán tại Hoa Kỳ với hàng của Việt Nam bán tại Việt Nam, mà so với giá mặt hàng đó tại các nước có điều kiện tương tự hoặc các nước trong khu vực. Điều này khiến cho doanh nghiệp Việt Nam không thể nào biết trước được liệu hàng hoá của mình có bị coi là bán phá giá hay không.
Về thuế chống trợ cấp thì Hoa Kỳ quy định không áp dụng với các nước có nền kinh tế phi thị trường. Bản thân trong hiệp định thương mại cũng không nói Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường. Song có quan điểm lại dựa vào cải cách kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế gần đây của Việt Nam để cho rằng Việt Nam có nền kinh tế thị trường, vì thế có thể áp dụng thuế chống trợ cấp. Hơn nữa, theo một số quan điểm từ Bộ Thương mại Hoa Kỳ thì việc Nhà nước cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước như ở Việt Nam có thể bị coi là hành vi trợ cấp. Đây là các vấn đề rất dễ nảy sinh trong tương lai.
Khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, với việc được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp từ quy chế Tối huệ quốc, Việt Nam có thể đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ hay không phụ thuộc trước hết vào khả năng sản xuất trong nước. Sản xuất trong nước phải được cải tiến về nhiều mặt không chỉ nhằm đáp ứng khối lượng xuất khẩu ngày càng lớn hơn mà quan trọng hơn là phải đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng hàng hóa trên thị trường Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một trong những thị trường lớn nhất và cũng “khó tính” nhất thế giới. Với mức sống cao, tầng lớp trung lưu và thượng lưu ở Hoa Kỳ khá cầu kỳ trong tiêu dùng và đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Đối với lớp người này, mối quan tâm hàng đầu của họ là chất lượng hàng hóa, tiếp đến là mẫu mã, kiểu dáng. Giá cả chỉ đóng vai trò thứ yếu. Họ sẵn sàng trả giá cao để có được chất lượng. Vì vậy, với trình độ công nghệ còn lạc hậu, hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ chế, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đương đầu với một thách thức lớn là đòi hỏi về chất lượng sản phẩm trên thị trường Hoa Kỳ.
Mặt khác, Hoa Kỳ là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều biện pháp phi thuế quan. Vì vậy, hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải vượt qua hàng rào phi thuế quan rất nghiêm ngặt này của Hoa Kỳ. Những rào cản kỹ thuật đó là qui chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm ..... Đây chính là những khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa Việt Nam bởi vì rất ít doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được những yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm do Hoa Kỳ đặt ra.
Về vấn đề tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: ISO là hệ thống quản lý chất lượng đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng sản phẩm như chính sách chỉ đạo về chất lượng trong các khâu nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối. Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thuộc các nước đang phát triển. Tuy vậy, tính đến cuối năm 1999, ở Việt Nam mới chỉ có khoảng 100 doanh nghiệp trong cả nước có chứng chỉ ISO 9000, một con số quá ít ỏi so với hàng trăm doanh nghiệp đang tham gia hoạt động xuất khẩu hiện nay.
Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: Các công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh một cách chặt chẽ. Hoa Kỳ yêu cầu các công ty chế biến thực phẩm trên lãnh thổ nước mình phải tuân thủ các quy định về HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point – Phân tích các nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu). Tuy nhiên, nếu các nhà nhập khẩu của Hoa Kỳ mua nguyên liệu từ nước ngoài thì họ phải chịu trách nhiệm về nguyên liệu đó theo các nguyên tắc của HACCP kể từ khi hàng đến cửa khẩu. Vô hình chung, cơ chế này buộc các doanh nghiệp nhập khẩu thực phẩm của Hoa Kỳ phải đòi hỏi các nhà xuất khẩu nước ngoài tuân thủ các nguyên tắc HACCP. Do vậy, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng này cũng được coi là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Tuy Hoa Kỳ là một trong những nước nhập khẩu nhiều nhất thế giới nhưng các doanh nghiệp trong nước vẫn chiếm thị phần đáng kể ở thị trường Hoa Kỳ, cho nên khi thâm nhập thị trường này các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh ngay cả với nền công nghiệp hùng hậu của nước chủ nhà.
Mặt khác, lực lượng cạnh tranh lớn thứ hai trên thị trường Hoa Kỳ là hàng hóa xuất khẩu từ các nước khác trên thế giới. Hiện nay, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ chủ yếu tập trung ở các mặt hàng như nông sản, thủy sản, dệt may, cà phê, giày dép với hàm lượng công nghệ không cao, chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và lực lượng lao động dồi dào. Đây cũng chính là những nhóm hàng mà rất nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới cũng hướng tới và đang nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, trong đó phải kể đến các nước ASEAN và Trung Quốc. Sau đây là một ví dụ cho thấy sự cạnh tranh của hàng hóa từ Trung Quốc trên thị trường Hoa Kỳ so với hàng hóa của Việt Nam.
Bảng 12: Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Trung Quốc đang cạnh tranh với hàng hóa của Việt Nam
trên thị trường Hoa Kỳ
(Đơn vị: triệu USD)
Stt
Nhóm hàng
1999
2000
3 tháng đầu năm 2001
Giày dép và ghệt và bộ phận của các sản phẩm trên
7838,0
9205,8
2536,7
Đồ gỗ, giường, và đồ dùng khác
5547,2
7201,9
1751,0
Hàng may mặc và đồ phụ kiện không dệt kim, đan móc
3749,0
4163,6
1140,9
Sản phẩm da, bộ yên ngựa, các mặt hàng du lịch
3009,8
3842,0
694,8
Hàng may mặc và đồ phụ kiện dệt kim, đan móc
2020,7
2028,9
419,7
Thủy sản
357,1
519,9
125,4
Cao su và sản phẩm từ cao su
290,2
468,9
101,4
Nguồn: USITC Database
Có thể thấy, kim ngạch xuất khẩu giày dép, dệt may, đồ da, thủy sản ... của Trung Quốc sang Hoa Kỳ là rất lớn, lớn gấp nhiều lần so với kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng của Việt Nam sang Hoa Kỳ hiện nay. Nguyên nhân do hầu hết hàng hóa Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với hàng cùng loại của Trung Quốc cả về chất lượng cũng như chưa phong phú, đa dạng về mẫu mã, chủng loại. Mặt khác, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như ngành dệt may, giày dép và đồ da chưa tự đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu mà phải nhập từ nước ngoài, trong khi đó hầu hết nguyên phụ liệu cho những ngành này của Trung Quốc được sản xuất trong nước. Vì vậy, so với hàng hóa cùng loại của Trung Quốc, hàng dệt may, giày dép và đồ da của Việt Nam không chỉ có giá cả cao hơn mà Việt Nam còn khó đảm bảo được nguồn hàng ổn định, thường xuyên cho xuất khẩu bởi bị phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu ngoại nhập.
II. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại với Hoa Kỳ
Để thúc đẩy quan hệ thương mại nói chung, và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng, phát triển tương xứng với tiềm năng cũng như tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định thương mại Việt Hoa Kỳ đã và đang mang lại cũng như đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
Nhóm giải pháp vĩ mô
1.1. Tiếp tục hoàn thiện mội trường pháp lý, hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nhằm tạo tính tương thích với những quy định của pháp luật Hoa Kỳ và Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ
+ Sửa đổi luật thương mại 1997
Luật thương mại ra đời đã đánh dấu một bước thay đổi lớn trong hoạt động thương mại ở nước ta. Luật thương mại đã tạo một khung pháp lý căn bản cho hoạt động thương mại Việt Nam. Luật thương mại Việt Nam 1997 không chỉ tạo điều kiện để phát triển các quan hệ thương mại trong phạm vi quốc gia mà còn tạo ra khuôn khổ pháp lý để phát triển các quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác trên thế giới, góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển của quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với các nước nói chung.
Tuy nhiên, thực tiễn Luật Thương mại Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy bên cạnh những thành tựu hết sức quan trọng mà Luật thương mại đã đạt được còn không ít những điểm hạn chế, bất cập làm giảm vai trò của Luật thương mại Việt Nam không những trong các quan hệ thương mại quốc gia mà còn trong các quan hệ thương mại quốc tế.
- Trong luật thương mại Việt Nam, khái niệm về thương mại đã cho thấy một số bất cập, vốn dĩ như vậy bởi lẽ Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong giai đoạn chuyển đổi nên nhiều định chế kinh tế thị trường còn chưa phát triển. Nhiều quan hệ thương mại theo nghĩa hiện đại còn chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng chưa mang tính phổ biến. Chính vì vậy, khoản I Điều 5 Luật thương mại định nghĩa hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan bao gồm 14 hành vi thương mại được quy định tại Điều 45 Luật thương mại. Điều 5 Luật thương mại còn đưa ra định nghĩa hoạt động thương mại chỉ bao gồm các hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện những chính sách kinh tế xã hội. Như vậy, Luật Thương Mại Việt Nam khái niệm thương mại còn rất hẹp chỉ bao gồm việc mua bán hàng hoá và các dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của thương nhân. So với khái niệm “thương mại” theo thông lệ quốc tế, khái niệm thương mại theo Luật Thương mại Việt Nam là quá hẹp và chỉ bao gồm một phần nhỏ các quan hệ thương mại theo nghĩa rộng được đưa ra trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Hiệp định được xây dựng dựa trên các quy tắc và tiêu chuẩn thương mại quốc tế, do đó khái niệm “thương mại” trong Hiệp định này cũng được hiểu theo nghĩa rộng, hiện đại theo các quy định của WTO và các tiêu chuẩn quốc tế. Khái niệm “thương mại” theo các tiêu chuẩn quốc tế được hiểu là thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, các biện pháp đầu tư liên quan đến thươngmại, minh bạch hoá và giải quyết tranh chấp. Do vậy, mặc dù trong Hiệp định thương mại Việt Hoa Kỳ không đưa ra khái niệm hay định nghĩa về “thương mại” tại một điều cụ thể nào nhưng nội dung của Hiệp định thể hiện rõ khái niệm “thương mại” là theo nghĩa rộng ở trên. Hiệp định này được xây dựng có tính đến Việt Nam là nước đang phát triển có trình độ phát triển thấp. Do đó, tuy sử dụng khái niệm “thương mại” theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng Hiệp định vẫn có ngoại lệ giành cho Việt Nam. Tuy nhiên, trong tương lai Luật thương mại cần phải sửa đổi sao cho khái niệm “thương mại” có phạm vi rộng hơn để có thể phản ánh được tất cả các quan hệ thương mại theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Về hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài, Luật Thương mại Việt Nam chỉ quy định điều chỉnh hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài chỉ có ba điều: (Điều 80,81,82). Quan hệ thương mại với thương nhân nước ngoài có những đặc trưng riêng khác với quan hệ mua bán trong nước, nó mang tính chất quốc tế nhiều hơn và phức tạp hơn, do vậy nếu chỉ quy định quá đơn giản như vậy thì rõ ràng là chưa đầy đủ, cần phải được hoàn thiện.
-Giảm dần sự khác biệt của Luật Thương mại Việt Nam so với Luật thương mại các nước: Ví dụ Luật thương mại Anh-Hoa Kỳ không phân biệt hợp đồng thương mại trong nước và hợp đồng thương mại với thương nhân nước ngoài còn Luật thương mại Việt Nam lại chia 2 loại hợp đồng là hợp đồng thương mại giữa các thương nhân trong nước và hợp đồng thương mại với thương nhân nước ngoài và điều kiện hiệu lực của 2 loại hợp đồng này cũng có những điểm rất khác nhau. Luật Thương mại Anh-Hoa Kỳ cho phép hợp đồng có thể thành lập thông qua hành vi thực tế. Điều 49 Luật Thương mại Việt Nam chia qui định “ hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể”, nhưng Điều 81 qui định điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài phải được thành lập thành văn bản”. Như vậy, hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài theo Luật Việt Nam không được thực hiện bằng hành vi thực tế. Nếu như vậy sẽ có sự khác biệt lớn không chỉ với Luật Anh-Hoa Kỳ mà cả với các Điều ước quốc tế quan trọng như Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá làm cho khoảng cách luật nước ta với luật các nước khác là rất lớn. Chính vì vậy, có lẽ khoản 4 Điều 81 nên được sửa thành “hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài có thể làm thành văn bản hoặc bằng hành vi thực tế”
+ Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu
Điều 7 Luật Thương mại quy định “ Nhà nước đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của các thương nhân thuộc các thành phần kinh tế trong hoạt động thương mại. Thương nhân được hợp tác trong hoạt động thương mại theo các hình thức do pháp luật quy định”. Điều này có nghĩa là bất kỳ thương nhân nào, nếu có đầy đủ những điều kiện theo một quy định chung sẽ đương nhiên được hoạt động thương mại ở bất kỳ lĩnh vực nào mà họ mong muốn. Nhưng làm thế nào để có sự bình đẳng trước pháp luật khi các pháp nhân, tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại đang hoạt động trong những môi trường pháp lý khác nhau. Thương nhân là doanh nghiệp Nhà nước thì chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nước trong khi các doanh nghiệp Nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài thì chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, còn kinh tế ngoài quốc doanh thì hoạt động theo Luật doanh nghiệp (Trước 1/1/2000 là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân). Mỗi đạo luật nói trên đều có những mục tiêu khác nhau, có mục đích ưu đãi khác nhau đối với đối tượng được điều chỉnh. Một ví dụ điển hình là các doanh nghiệp tư nhân trong thực tế chưa được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp Nhà nước trong việc vay vốn tín dụng của ngân hàng. Các doanh nghiệp tư nhân thường phải chịu lãi suất cao hơn đối với tín dụng thương mại và gặp nhiều khó khăn hơn trong việc dùng đất đai và tài sản cố định làm thế chấp vay vốn ngân hàng.
+ Ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền
Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại của Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải có Luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo ra một “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp, chống khuynh hướng độc quyền hoặc lạm dụng vị thế trên thị trường để có lợi nhuận siêu nghạch. Nghị quyết Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã ghi: “ Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền là phù hợp với xu thế hội nhập chung của khu vực và toàn cầu. Hầu hết các nước phát triển trên thế giới đều đã có luật này và hiện có khoảng 40 nước đang phát triển cũng đang tiến hành xây dựng luật này.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn
ổn định hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Hiện nay, một trong những trở ngại trong kinh doanh của các doanh nghiệp là thuế suất đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu liên tục thay đổi. Với khung thuế rộng, quyền hạn thay đổi thuế suất của ngành hành pháp lớn nên thuế suất hay thay đổi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh.
Miễn giảm thuế xuất khẩu: Chính sách thuế cần được điều chỉnh theo hướng miễn giảm đối với các sản phẩm xuất khẩu, chỉ đánh thuế với những sản phẩm không khuyến khích xuất khẩu hoặc đánh phụ thu khi có lợi nhuận cao. Đặc biệt , đối với hàng khuyến khích xuất khẩu thì nên miễn hoàn toàn. Mặt khác, cần có chính sách thuế phù hợp để bảo hộ sản xuất nông nghiệp khi diễn biến trên thị trường thế giới có tác động tiêu cực đến người sản xuất nông nghiệp.
Tăng cường hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro: Vừa qua chính phủ cho phép hình thành một quỹ tại Bộ Tài chính có tên gọi là là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhưng phưong thức hoạt động lại thiên về trợ cấp, hoàn toàn không phù hợp với Điều 10 của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Sửa đổi). Nên chăng, chúng ta hãy chuyển hướng sử dụng của Quỹ nêu trên vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu hàng hoá nhưng không có điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có thể đứng ra bảo lãnh các khoản vay hoặc cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài...Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẽ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Ngoài Quỹ hỗ trợ xuất khẩu ra các hiệp hội nghành hàng nên tự lập các quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành hàng của mình, nhất là trong những nghành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu lớn.
1.2. Phổ cập hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp
Như đã phân tích ở phần trên để có thể xâm nhập thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rất nhiều luật và quy định về thương mại của Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp phải nắm được những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và các thương nhân Hoa Kỳ trong Luật Thương mại của Hoa Kỳ cùng những điểm khác biệt so với Luật Thương mại Việt Nam. Mặt khác, luật và các quy định về thuế và hải quan của Hoa Kỳ như Danh bạ thuế thống nhất. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ hàng hóa...có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể thành công trên thị trường nếu không nghiên cứu hệ thống hàng rào phi thuế quan với những quy định chi tiết về danh mục hàng hoá hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, những quy định về vệ sinh dịch tễ đối với hàng hoá nhập khẩu...hay Luật chống phá giá, Luật bù thuế của Hoa Kỳ.
Với một hệ thống những luật và quy định phức tạp như vậy và một thực tế rằng đối với các bang khác nhau ở Hoa Kỳ nhiều luật hay quy định lại khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu và rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khoá đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với Hoa Kỳ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, Bộ, nghành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm hay băng đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình...nhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy cho các doanh nghiệp.
1.3. Hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại
Hoa Kỳ là thị trường hoàn toàn mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp hiện đang gặp khó nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Hoa Kỳ cũng như thực hiện các hoạt động xúc tiến bán sản phẩm. Vì vậy, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề này.
Thông qua thương vụ của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp. Đồng thời, với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính chất...của hàng hoá, Bộ thương mại và thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường để giúp các doanh nghiệp trong việc định hướng sản xuất và xây dựng chiến lược xuất khẩu cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản xuất và với chất lượng ra sao, với mức giá là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ...
Về công tác xúc tiến bán sản phẩm, Nhà nước cần nhanh chóng thành lập Cục xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị. Chức năng của Cục xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức, xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để giúp các doanh nghiệp đưa hàng hoá Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
2. Nhóm giải pháp vi mô
2.1. áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới
Sau khi đã nắm vững được các thông tin về thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp phải chủ động cải tiến sản phẩm cũng như dây chuyền sản xuất để có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cũng như những quy định hết sức khắt khe do Hoa Kỳ quy định.Trước mắt để có thể xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ thành công, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải áp dụng một trong những mô hình hệ thống đảm bảo chất lượng như :
+ISO 9000: Đây là hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế trong doanh nghiệp. Tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 đề cập đến các yếu tố chính sách trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, xem xét đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng, kiểm soát tài liệu, đào tạo.
+ ISO 9001: áp dụng khi doanh nghiệp muốn đảm bảo chất lượng trong sản phẩm, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật( phổ biến vì nó không bao gồm khâu thiết kế)
+ ISO 9003: áp dụng khi doanh nghiệp muốn bảo đảm chất lượng trong kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng giành cho doanh nghiệp làm ra sản phẩm, chủ yếu dùng quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm để đảm bảo sản phẩm hay dịch vụ đạt đúng yêu cầu đề ra.
Hệ thống trên có giá trị như thước đo chung có giá trị quốc tế về quản lý chất lượng. Ngoài ra, trong lĩnh vực chế biến thực phẩm cần hết sức lưu ý đến hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point- Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu). Hệ thống này tập chung vào vấn đề vệ sinh và đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống để phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ. Theo luật pháp Hoa Kỳ hệ thống này có tính chất bắt buộc đối với các công ty thực phẩm hoạt động trong lãnh thổ nước Hoa Kỳ. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nếu muốn thâm nhập thị trường Hoa Kỳ thì không còn cách nào khác là phải ứng dụng hệ thống HACCP trong sản xuất và thuyết phục các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ (bằng chứng chỉ hoặc bằng báo cáo kiểm tra) rằng mình đã tuân thủ đúng các nguyên tắc của hệ thống HACCP.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng công nghệ mã số, mã vạch vào hoạt động của mình. áp dụng công nghệ này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ thương mại có thể quản lý sản xuất, kinh doanh một cách khoa học, thuận tiện, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm trong khâu phân phối, lưu thông hàng hoá, kiểm kê, kiểm soát và thanh toán, góp phần bảo hộ bản quyền của hàng hoá một cách tích cực, chống sự làm giả, làm nhái...
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải quan tâm đầu tư vào một số lĩnh vực sau:
- Ngoài nguồn vốn đầu tư trong nước, các doanh nghiệp cần phải thu hút và tận dụng tối đa các nguồn đầu tư nước ngoài dưới hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc là vốn việc trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các nghành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng tốt và đồng đều, có sức cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải cố gắng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam, các doanh nghiệp cần tận dụng đến mức tối đa các nguyên phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể. Trong tương lai, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng cần được cải thiện nếu doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời làm gia tăng giá trị hàng xuất khẩu và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
2.3. Chủ động tiếp cận công nghệ thông qua việc tích cực sử dụng có hiệu quả hơn hệ thống internet
Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát triển rất nhanh và có tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với nhau, không hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử mà các doanh nghiệp xuất khẩu có thể lập các Web-site riêng của mình trên mạng, do đó có thể giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển đặc biệt là đối với hàng hoá là các ấn phẩm điện tử, giảm các loại chi phí khác như chi phí giao dịch...Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam phải có thời gian dài mới có thể tham gia xuất khẩu hàng hoá trên Internet, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này và chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng như các yếu tố kỹ thuật công nghệ thông tin...để sẵn sàng hoà nhập khi có thể.
3. Nhóm giải pháp đối với một số mặt hàng cụ thể
3.1.Thuỷ sản
Thứ nhất cần phải tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý việc đánh bắt cá xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản để một mặt đảm bảo dù nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, mặt khác đa dạng hoá chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ (Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu hiện nay là tôm và mực sơ chế)
Trước tình hình nguồn tài nguyên ven bờ đã cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua thì việc tăng sản lượng khai thác đánh bắt xa bờ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn những loại thuỷ sản mới đưa vào xuất khẩu.
Bên cạnh việc đánh bắt xa bờ, một lợi thế so sánh khác của Việt Nam để tham gia thương mại quốc tế thời gian tới là đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản. Tôm sú và tôm càng xanh là những giá trị có giá trị xuất khẩu cao và được người tiêu dùng Hoa Kỳ rất ưa chuộng. Tuy nhiên, để có thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến vốn, diện tích, kỹ thuật nuôi trồng như giống, thức ăn và những ràng buộc về môi trường sinh thái..ngành thuỷ sản chắc chắn rất cần sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, giá thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nhìn chung là vẫn thấp, chỉ bằng 70% mức giá cùng loại của Thái Lan và Indonesia nhưng vẫn không cạnh tranh được với hàng từ các nước xuất khẩu khác. Sỡ dĩ như vậy là do kỹ thuật chế biến hàng thuỷ sản Việt Nam còn hạn chế. Để khắc phục điểm bất lợi này, cần phải tăng cường hợp tác kinh tế-kỹ thuật với nước ngoài trong việc chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu.
Việc gia nhập Hiệp hội Nghề cá các nước Đông Nam á cũng như gia nhập các tổ chức khu vực và thế giới AFTA, APEC...sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội vô cùng to lớn để tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thuỷ sản, cũng như học hỏi những kinh nghiệm trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật của các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines...là những nước chế biến thuỷ sản khá tiên tiến và có sản phẩm thuỷ sản đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ ba, song song với việc phấn đấu giảm giá thành để có ưu thế trong cạnh tranh quốc tế thì vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam nói chung, hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Phân tích các nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là yêu cầu bắt buộc đối với hàng thuỷ sản Việt Nam khi xuất sang thị trường Hoa Kỳ. Để chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ, thì không còn cách nào khác ngoài việc các doanh nghiệp sản xuất chế biến thuỷ sản Việt Nam phải tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để đạt tiêu chuẩn HACCP.
Cuối cùng, do thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược sang thị trường Hoa Kỳ cho nên để giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thuỷ sản đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Hoa Kỳ đề nghị Nhà nước tăng cường các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thuỷ sản. Chẳng hạn, có chính sách hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này thông qua hình thức như tài trợ xuất khẩu thuỷ sản và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản...
3.2. Dệt May
Theo Luật Nhãn hiệu sản phẩm len năm 1993 đối với tất cả các sản phẩm có chứa sợi len nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và theo Luật Nhãn hiệu sản phẩm lông, da thú, thì tất cả các sản phẩm nhập khẩu có giá thành hay giá bán từ 7 USD trở lên phải ghi nhãn, mác và nước xuất xứ. Do đó tất cả hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đều phải được ghi nhãn, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước chế tạo, gia công sản phẩm. Do đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến thương hiệu cũng như nhãn mác của sản phẩm.
Hơn nữa, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đặc biệt lưu ý đến tập quán thương mại của Hoa Kỳ là thường yêu cầu mua hàng FOB tức là mua thẳng hàng thành phẩm và như vậy doanh nghiệp phải đảm nhiệm từ công đoạn tổ chức nguồn nguyên liệu, sản xuất cho tới bao bì, đóng gói giao cho khách hàng. Trong thực tế , nghành may mặc Việt Nam lại chủ yếu kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu vì một mặt, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tự đáp ứng được nguyên liệu chất lượng cao, thiết kế mẫu hàng phục vụ nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu, mặt khác, kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu ít rủi ro hơn. Vì vậy, muốn tăng cường xuất khẩu mặt hàng may mặc sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng khắc phục các trở ngại và xuất khẩu hàng may mặc sang Hoa Kỳ theo phương thức bán FOB. Muốn vậy, ngành may mặc Việt Nam cần phải tăng tốc đầu tư sản xuất nguyên liệu mới, phụ liệu may mặc đầy đủ chất lượng làm hàng xuất khẩu như nguyên liệu sản xuất hàng côtông, hoặc pha côtông...mà người tiêu dùng Hoa Kỳ rất ưa chuộng. Đồng thời, một số lượng lớn vốn cần được đầu tư vào trang thiết bị, máy móc sản xuất cũng như kỹ thuật thiết kế mẫu quần áo trên máy tính (cho sự chuẩn xác và đạt yêu cầu cao về mặt kỹ thuật)
Ngoài ra, đơn hàng nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ thường có giá trị lớn nên doanh nghiệp phải có lượng hàng lớn để kịp thời cung ứng. Số lượng hàng lớn mà thời gian cung ứng lại gắn nên bản thân từng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khó lòng đảm đương nổi. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sớm xem xét khả năng hợp tác với nhau, cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng một cách đồng bộ để có thể sản xuất những lô hàng có tiêu chuẩn giống nhau nhằm thực hiện đơn hàng lớn từ nước bạn.
Đồng thời, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần tăng cường hoạt động hơn nữa, từng bước góp phần khắc phục những điểm yếu hiện nay của ngành dệt may. Mặt khác, là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến lĩnh vực dệt may như Hiệp hội Dệt May ASEAN, diễn đàn ngành Dệt may vùng Châu á Thái Bình Dương...để trao đổi thông tin và truyền đạt những kiến nghị của ngành dệt may trong quá trình kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
Nhiệm vụ của nghành dệt may Việt Nam là rất nặng nề trong nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Phải cố gắng xâm nhập thị trường Hoa Kỳ càng nhanh càng tốt ngay trong một vài năm sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực mặc dù con đường còn nhiều “ chông gai”. Sỡ dĩ như vậy là do Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ có một hiệp định về hàng dệt may, trong đó hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ được xác định trên cơ sở thực tế xuất khẩu hàng dệt may trong một hoặc hai năm đầu sau khi Hiệp định có hiệu lực. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tương lai xuất khẩu lâu dài của ngành dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
3.3. Hàng nông sản
Tuy nghành nông sản đã có một số mặt hàng được thị trường Hoa Kỳ chấp nhận song hiện nay vẫn còn nhiều lợi thế chưa được khai thác và phát huy tương xứng với tiềm năng. Nhiều loại sản phẩm nông nghiệp chưa được khai thác đưa vào xuất khẩu như nhóm hàng hạt có dầu, các sản phẩm thịt gia cầm, một số loại hoa quả nhiệt đới (chuối, quả có mùi..). Những sản phẩm đã được khai thác xuất khẩu như cà phê, cao su, chè và gia vị thì hầu hết là ở dạng thô (chiếm tới 70-80%), do đó không có lợi thế trong cạnh tranh. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là:
Cơ sở hạ tầng yếu, thiếu tính đồng bộ của các yếu tố sản xuất (điện, nước, vốn, kỹ thuật...) tại các vùng tập trung chuyên canh sản xuất hàng nông sản. Công nghệ sau thu hoạch còn rất nhiều bất cập, máy móc thiết bị sản xuất còn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu chế biến tiêu hao nhiều nguyên liệu nhưng chất lượng còn thấp. Tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu còn yếu kém, không hiệu quả, lưu thông chồng chéo, tranh mua, tranh bán, gây tổn hại đến lợi ích chung trong kinh doanh xuất khẩu cũng như lợi ích người sản xuất.
Để tăng cường khả năng xuất khẩu của ngành nông sản sang thị trường Hoa Kỳ, cần phải thực hiện những biện pháp sau:
Đầu tư vốn và kỹ thuật để phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu: mục tiêu chủ yếu là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm.
Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị hàng xuất khẩu song song với việc tăng cường vốn đầu tư để nâng cấp máy móc thiết bị với khoa học công nghệ tiên tiến. Trong giải pháp này cần chú ý tới việc xây dựng một chương trình đồng bộ cho các sản phẩm có ưu thế xuất khẩu. Đồng thời cần tổ chức một ban chỉ đạo thống nhất nhằm mục đích liên kết các ngành sản xuất và cơ quan chức năng cùng phối hợp hành động xuyên suốt quá trình sản xuất-thu mua-chế biến-xuất khẩu các sản phẩm nông sản.
3.4. Giày dép
Hiện nay phần lớn sản phẩm xuất khẩu hiện nay là hàng gia công xuất khẩu, làm theo mẫu mã đặt hàng, nên doanh nghiệp Việt Nam chưa phải lo cạnh tranh trực tiếp trên thị trường xuất khẩu về thiết kế, mẫu mã. Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lại thường mua theo phương thức FOB (nhập thẳng hàng thành phẩm) hơn. Hơn nữa, về lâu dài, muốn thoát khỏi tình trạng “ làm thuê”, tự chủ sản xuất, tiêu thụ và xác lập nhãn hiệu riêng cho sản phẩm của mình, thì ngành giày da Việt Nam cần sớm đầu tư nâng cao năng lực thiết kế mẫu mốt sản phẩm. Muốn làm được như vậy, phải xây dựng trung tâm nghiên cứu mẫu mốt, chuyên ngành giày dép với trang thiết bị tiên tiến, đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ. Đồng thời, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường Hoa Kỳ, cũng như học tập kinh nghiệm của các nước sản xuất giày dép trên thế giới như Thái Lan: khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các chủ sở hữu những nhãn mác quốc tế nỗi tiếng đầu tư vào các doanh nghiệp giày da trong nước, mời chuyên gia thời trang quốc tế đến tư vấn về mẫu mốt thời trang.
Ngoài ra, cũng như hàng dệp may, một khó khăn lớn trong sản xuất giầy dép xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là sự kém linh hoạt trong sản xuất do phải nhập một số lượng lớn và ngày càng tăng các nguyên phụ liệu từ bên ngoài, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực xuất khẩu giày dép sang Hoa Kỳ của các doanh nghiệp. Vì vậy, một trong những vấn đề quan trọng là phải phát triển nguyên vật liệu, dụng cụ, phụ tùng nội địa phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong sản phẩm còn là điều kiện bắt buộc để được hưởng Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP, cho nên để được hưởng chế độ này của Hoa Kỳ ngành giày dép Việt Nam không còn hướng đi nào khác. Cụ thể ngành giày dép cần phải kết hợp những ngành công nghiệp có liên quan hoặc thiết lập các xưởng công nghiệp nhỏ để đáp ứng đủ nguyên liệu, phụ tùng đa dạng cho sản xuất như ngành hoá chất dẻo, dệt may, hoá dầu để đáp ứng nguyên liệu cho mũi giày hay lập các xưởng cơ khí nhỏ để sản xuất khuôn mẫu, phụ tùng và phụ liệu bằng kim loại. Cần phải xây dựng chương trình và thiết lập thị trường nguyên, phụ liệu tại chỗ phong phú và đa dạng, có chất lượng cao để cung cấp đồng bộ và ổn định cho sản xuất.
Kết luận
Trong thế giới ngày nay, không một quốc gia nào có thể tách rời khỏi quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ, một siêu cường kinh tế, khái niệm Quy chế Tối huệ quốc(MFN) trước đây đã được chuyển sang gọi là Quy chế Thương mại bình thường( NTR), điều này cho thấy nếu một quốc gia nào đó chưa được hưởng Quy chế Tối huệ quốc của Hoa Kỳ tức là quốc gia đó vẫn chưa có quan hệ thương mại bình thường với Hoa Kỳ và cũng có nghĩa là chưa thực sự tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Do đó có thể thấy được ý nghĩa cũng như tầm quan trọng to lớn của việc Việt Nam ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ. Sự kiện này đã có những tác động to lớn đến quan hệ song phương giữa hai nước nói chung và quan hệ thương mại-kinh tế nói riêng, đồng thời mở đường cho Việt Nam tiếp tục tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá.
Mặc dù mang tên là Hiệp định thương mại, song những nội dung trong đó bao trùm nhiều lĩnh vực, không chỉ về thương mại hàng hoá, dịch vụ mà còn cả về đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ cùng nhiều lĩnh vực khác. Vì thế việc Hiệp định đi vào thực thi sẽ có tác động to lớn đến đời sống mọi mặt của Việt Nam, đặc biệt là tình hình kinh tế .
Chúng ta một lần nữa khẳng định rằng Hiệp định có hiệu lực đang và sẽ tạo cơ hội tốt giúp cho Việt Nam đẩy mạnh thưong mại hàng hoá sang Hoa Kỳ- một thị trường lớn và đầy tiềm năng, do hàng hoá của chúng ta được hưởng mức thuế ngang bằng với các đối tác thương mại khác của Hoa Kỳ. Kết quả này đã được khẳng định dựa trên các tổng kết nghiên cứu thực tế cũng như tính toán kinh tế lượng trong thời gian qua. Trong các lĩnh vực tiềm năng khác như đầu tư, dịch vụ, Hiệp định này cũng hứa hẹn mang đến những thay đổi lớn lao. Thị trường VIệt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện, tạo động lực thúc đẩy những nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ nâng cao khả năng cạnh tranh và đạt được những tiêu chuẩn quốc tế chung trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ không chỉ đem đến những thuận lợi mà ngược lại, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình triển khai thực thi Hiệp định bởi đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị thực sự kỹ càng cho thị trường Mỹ, vì vậy khả năng đáp ứng cho các đơn hàng lớn còn rất hạn chế. Khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước chưa cao và chưa phong phú nên còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những rào cản của thị trường Hoa Kỳ đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt là những thách thức lớn đối với quốc gia, chẳng hạn nguy cơ mất chủ quyền... Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó thì chính những thách thức lại là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Cuối cùng, phải nhận thấy là Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ là một thành công lớn của Việt Nam trong nỗ lực mở rộng quan hệ kinh tế, hội nhập quốc tế. Việc hiệp định đi vào thực thi đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương hội nhập quốc tế mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Nhiệm vụ của Việt Nam trong giai đoạn tới là phải tiếp tục vận dụng chính sách, đường lối đúng đắn đó để phát huy hơn nữa những thuận lợi và tiếp tục vượt qua những thử thách mà Hiệp định thương mại đã đặt ra.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách , tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
Bộ thương mại. Báo cáo công tác của các tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua và phương hướng nhiệm vụ sắp tới (2001)
ấn phẩm của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Tái bản lần 2 năm 2002). Xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
ấn phẩm của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2002). Kinh doanh với Hoa Kỳ
Vụ Âu Mỹ, Bộ thương mại. Báo cáo Quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và triển vọng hợp tác (12-2000)
Dự án VIE/99/002. Báo cáo về hội nhập kinh tế và chiến lược phát triển của Việt Nam (5-2000)
Đề tài: “Bàn về tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ”. PGS.TS. Nguyễn Duy Bột
Đề tài 97-98-060, Bộ thương mại. Phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (8-1997)
Báo, tạp chí
Hiệp định thươngmại Việt Nam- Hoa Kỳ ngày 13/7/2000
Trần Lệ Thuỷ “Hiệp định giúp tăng đôi kim nghạch xuất khẩu”. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 50 (5-12-2002)
Ngô Phong “Một năm thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ”. Báo Thương mại số 109 (10/12/2002).
Phương Dung “ Kinh tế 11 tháng: Đà tăng trưởng cao dần lên”. Thời báo tài chính Việt Nam số 144 (2/12/2002).
Mai Phương-Bá Sửu “ Dệt May Việt Nam- Những thành tựu”. Báo Hà Nội mới số 1108 ( 21/11/2002).
Trần Văn Dũng “Thị trường Mỹ- Cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam”. Báo thị trường tài chính (12/2002).
Đỗ Lộc Điệp. “Bước tiến mới quan trọng trong quan hệ Việt-Mỹ”. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 2(1998)
Đỗ Đức Thịnh. “ Quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ từ khi bình thường hoá đến nay”. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 4 (2000)
Vũ Khoan. “Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ”. Tạp chí Cộng sản, số 15 (8-2000)
Hoàng Lan Hoa. “ Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam-Mỹ: Quá khứ và triển vọng”. Tạp chí Kinh tế Châu á, số 4 (12-1999)
Hội Đồng thương mại Mỹ-Việt. “ Bình thường hoá quan hệ kinh tế Mỹ-Việt Nam. Lịch trình các bước tiếp theo”. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6 (1999)
Nguyễn Tuấn Minh. “ Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ. Cơ hội và thách thức”. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 4 (2000)
Ngô Duy Ngọ. “ Những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại trong khuôn khổ WTO”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 20 (10-1997)
Nguyễn Đình Lương “ Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ dưới tác động của Hiệp định thương mại song phương”. Tạp chí quốc tế, số 11/2000
Douglas Peterson, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. “ Về triển vọng quan hệ Mỹ-Việt Nam”. Tạp chí Châu âu ngày nay, số 6 (1999)
Bùi Đường Nghiêu. “ Hiệp định thương mại Việt-Mỹ: Cơ hội và thách thức”. Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, số 3 (9-2000)
Nguyễn Trường Sơn. “ Chính sách thươngmại của Mỹ và việc Việt Nam gia nhập WTO”. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 263, 264 (2000)
Nguyễn Xuân Thắng. “ Triển vọng quan hệ kinh tế thương mại Việt-Mỹ”. Tạp chí Ngoại thương, số 12 (1997)
Nguyễn Thu Thuỷ. “ Những biến chuyển về chính sách thương mại Việt Nam trong giai đoạn đổi mới”. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 2 (2000)
Từ Thanh Thuỷ. “ Mười năm quan hệ thương mại Việt Nam-EU”. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 2 (2000)
Sách, tài liệu tham khảo nước ngoài
Emiko Fukase and Will Martin. The effect of The United States granting MFN status to VietNam. World Bank, Washington, DC, USA. August 11,1999
Van Grasstek Communications. Status and polices relevant to the normalization of trade relations between the United States and Viet Nam. A report for the UN Conference on Trade and Development.
Charlene Barshefsky. Speech on U.S trade priorities. Octorber 7, 1998
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ntt-lv.doc
- mucluc.doc