Khóa luận Tác động của thuế xuất, nhập khẩu, GTGT, tiêu thụ đặc biệt đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam

Trước hết,phải tăng cường công tác tuyên truyền và tư vấn về thuế.Các chương trình thông tin,tư vấn cho đối tượng nộp thuế có thể tiến hành dưới các hình thức sau: Phát hành những ấn phẩm riêng về thuế và phát miễn phí cho đối tượng nộp thuế. Công khai hoá và kịp thời cung cấp những thông tin về thuế thông qua báo chí,đài phát thanh,truyền hình,hướng dẫn đối tượng nộp thuế kê khai thuế và nộp thuế thuận lợi nhất.Công bố một cách công khai và rộng rãi lịch trình cắt giảm thuế quan để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đánh giá đúng những cơ hội và những thách thức để có chương trình thích ứng và tận dụng những cơ hội có được. Thực hiện tư vấn miễn phí qua đường dây điện thoại đặc biệt.Ba đặc điểm quan trọng của hình thức tư vấn này,đó là tính chính xác của thông tin,tác phong lịch sự,nhã nhặn của người trả lời và khả năng dễ dàng tiếp cận với cơ quan thuế. Tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nộp thuế:để thực hiện được điều này,ngoài việc thành lập những văn phòng chính thức ở các địa phương,cũng có thể thực hiện thông qua bưu điện,ngân hàng và thư viện,. Ngoài ra,cũng có thể tiến hành tư vấn dưới các hình thức thư tín (đối với những trường hợp đặc biệt),tổ chức các buổi hội thảo,các lớp đào tạo. Như vậy,để có thể nâng cao ý thức về nghĩa vụ thuế của công dân,ý thức tự nguyện tuân thủ các luật thuế,giảm tối đa những trường hợp lơ là hoặc không tuân thủ do không hiểu rõ pháp luật về thuế,việc cung cấp thông tin,tiếp xúc,giải thích và tư vấn cho các đối tượng nộp thuế trở nên hết sức quan trọng và cần thiết.Đặc biệt trong giai đoạn tới,khi Việt Nam gia nhập WTO,để các luật thuế phát huy được tác dụng thì công tác tuyên truyền,tư vấn về thuế cần được coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa,tạo được sự đồng tình,nhất trí của mọi người dân.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tác động của thuế xuất, nhập khẩu, GTGT, tiêu thụ đặc biệt đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t quốc tế về cắt giảm thuế quan sau khi Việt Nam tham gia ký kết các điều ước quốc tế. Bảo đảm sự động viên,đóng góp hợp lý cho Ngân sách Nhà nước phù hợp với quá trình cải cách hệ thống thuế nước ta. 1.2_Những nguyên tắc cần quán triệt khi xây dựng chính sách thuế xuất khẩu,nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2010: Không bảo hộ một cách tràn lan đối với tất cả các ngành kinh tế,thực hiện sự bảo hộ có chọn lọc,có điều kiện và có thời hạn. Trong quá trình xây dựng chính sách thuế xuất khẩu,nhập khẩu phải xác định rõ lĩnh vực,ngành hàng cần được bảo hộ cũng như điều kiện và thời hạn bảo hộ cụ thể.Việc xác định các mức độ bảo hộ cao hay thấp phải được xác định trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của các ngành kinh tế và chủ trương phát triển đầu tư của Nhà nước trong 10 năm tới và theo hướng:đối với những ngành hàng sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động trong nước,giá trị gia tăng cao thì thực hiện sự bảo hộ cao,đối với những ngành hàng mà hiện tại và tương lai Việt Nam không có lợi thế thì đặt ngoài vấn đề bảo hộ. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta tham gia hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế,việc xác định các mức thuế bảo hộ cần phải tuân theo nguyên tắc giảm dần,chúng ta có hai mốc thời gian tương đối rõ để chấm dứt bảo hộ,đó là,thứ nhất vào năm 2006 sản xuất trong nước sẽ không còn được bảo hộ trước hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN,và mốc thứ hai là vào năm 2020 sẽ không còn bảo hộ trước hàng của APEC và mở rộng lâu dài cho các nước thành viên của WTO,do đó ta có thể coi năm 2020 là mốc hoàn toàn chấm dứt bảo hộ. Hàng rào thuế quan là hàng rào bảo hộ cuối cùng và duy nhất được phép bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Việc xây dựng các mức thuế bảo hộ trong điều kiện vẫn còn các rào cản thương mại phi thuế quan (NTB) sẽ không có ý nghĩa bởi vì các hàng rào phi quan thuế này đã làm giảm tính minh bạch và tăng tính không nhất quán của chính sách thuế xuất nhập khẩu và vi phạm một trong những nguyên tắc của WTO. Chính sách thuế xuất khẩu,nhập khẩu phải hướng tới tính trung lập,rõ ràng,minh bạch phù hợp với thông lệ quốc tế. 1.3_Nội dung cơ bản của việc điều chỉnh chính sách thuế xuất khẩu,nhập khẩu: Xây dựng một Biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ hiệu quả các ngành kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Xác định trị giá Hải quan theo yêu cầu của GATT/WTO. Thu hẹp diện miễn giảm thuế. Trong đó,vấn đề thiết kế một Biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ hiệu quả các ngành kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế được coi là nội dung quan trọng nhất của việc cải cách chính sách thuế xuất nhập khẩu. 1.3.1_Xây dựng Biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ hiệu quả các ngành kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế: Việc thiết kế lại biểu thuế bao gồm những nội dung sau: Xác định mức thuế bảo hộ hiệu quả cho từng ngành kinh tế theo từng cấp độ bảo hộ. Sắp xếp lại các mức thuế suất theo hướng thu hẹp số lượng mức thuế suất. Việc phân loại hàng hoá trong biểu thuế phải tuân theo cách phân loại của “Danh mục mô tả và mã hoá hàng hoá” (Danh mục HS) của Tổ chức Hải quan thế giới. a)Xác định mức thuế bảo hộ hiệu quả cho từng ngành kinh tế theo từng cấp độ bảo hộ. Đến cuối giai đoạn này Việt Nam hoàn thành việc giảm thuế nhập khẩu đối với ASEAN trừ những mặt hàng nằm trong danh mục GEL và SL.Ơ đây cần lưu ý là khả năng nhiều mặt hàng trong danh mục GEL hiện nay của Việt Nam đến lúc đó cũng sẽ được chuyển sang danh mục giảm thuế,đặc biệt là những mặt hàng nhạy cảm đối với kinh tế trong nước như:ô tô,xe máy,thuốc lá,xăng dầu,...Nhưng đây cũng là giai đoạn các doanh nghiệp trong nước sẽ tiến hành những chuyển đổi cơ cấu sản xuất của mình trên cơ sở chiến lược của từng ngành và phù hợp với việc Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới.Vì vậy,mức thuế suất thuế nhập khẩu được điều chỉnh lại theo hướng là mức thuế bảo hộ cần thiết không có các bảo hộ phi quan thuế để ngành đó phát triển một cách hiệu quả. Xuất phát từ định hướng phát triển của các ngành kinh tế trên cơ sở lợi thế khả năng của ngành đó hiện tại và tương lai từ những yêu cầu của các Tổ chức thương mại quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia hội nhập về các mức thuế ràng buộc,chúng ta có thể chia các mức độ bảo hộ thành 5 cấp độ.Việc phân định ngành nào vào cấp độ bảo hộ nào là tuỳ theo Hệ số bảo hộ hiệu quả và mức thuế suất bảo hộ danh nghĩa dự kiến cho ngành đó trong 10 năm tới. Hệ số bảo hộ hiệu quả được xác định theo công thức sau: ERP = (t - r x I)/(I - r) Trong đó: ERP:Hệ số bảo hộ hiệu quả cho một ngành hoặc một mặt hàng đặc thù. t:thuế quan bình quân đơn giản đánh vào sản phẩm đầu ra của ngành đó. I:thuế quan bình quân gia quyền đánh vào đầu vào đối với ngành đó (tính theo giá thế giới). r:tỷ lệ nguyên vật liệu sử dụng trên tổng giá trị đầu ra của ngành đó (tính theo giá thế giới). Bảo hộ ở cấp độ 1:các ngành thuộc nhóm bảo hộ ở cấp độ này dự kiến có Hệ số bảo hộ hiệu quả khoảng 11%,mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 10%,mức thuế cho sản phẩm đầu vào từ 0_3%,đó là những ngành mà Việt Nam thật sự có thế mạnh về xuất khẩu,lượng nhập khẩu không đáng kể.Đây là nhóm ít bị ảnh hưởng tiêu cực của việc hội nhập quốc tế,mà ngược lại,có thể đây là cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế.Hơn nữa với lợi thế giá rẻ không nhất thiết phải bảo hộ cao,ngược lại với mức bảo hộ thấp vừa tỏ thiện chí của Việt Nam trong việc tham gia hội nhập quốc tế vừa tạo ra động lực cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy các ngành này phát triển hiệu quả hơn. Bảo hộ ở cấp độ 2:các ngành thuộc nhóm bảo hộ ở cấp độ này dự kiến có Hệ số bảo hộ hiệu quả khoảng 50%,mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 20%,mức thuế cho sản phẩm đầu vào từ 0_5%,bao gồm: Những ngành hàng là đầu vào của các ngành sản xuất và được định hướng đầu tư phát triển trong tương lai cần có sự bảo hộ thích đáng.Tuy nhiên mức thuế bảo hộ cho đầu ra đối với nhóm ngành này không nên cao hơn 20% để không làm tăng giá thành sản phẩm các ngành sản xuất khác một cách quá mức. Các ngành tuy đã được đầu tư sản xuất nhưng không có hiệu quả,khả năng cạnh tranh thấp cả hiện tại và tương lai do đó nên để mức bảo hộ ở cấp độ này vừa để tránh định hướng nhầm cho các luồng đầu tư vào các ngành này và cũng không tạo ra những biến động lớn về kinh tế,xã hội. Bảo hộ ở cấp độ 3:các ngành thuộc nhóm bảo hộ ở cấp độ này dự kiến có Hệ số bảo hộ hiệu quả khoảng từ 55%_80%,mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 30%,mức thuế cho sản phẩm đầu vào từ 5%_10%,đó là: Những ngành hàng trong nước đã sản xuất được thay thế hàng nhập khẩu mà ta không đặt mục tiêu đặc biệt khuyến khích tập trung phát triển.Phần lớn các ngành sản xuất của ta thuộc nhóm này. Những ngành hàng phần nào đã có thế mạnh xuất khẩu nhưng vẫn cần có sự bảo hộ nhất định để đảm bảo sự an toàn cần thiết. Bảo hộ ở cấp độ 4:các ngành thuộc nhóm bảo hộ ở cấp độ này dự kiến có Hệ số bảo hộ hiệu quả khoảng 85%_120%,mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 40%,mức thuế cho sản phẩm đầu vào là 10%. Thuộc nhóm này bao gồm các ngành hàng mà trong tương lai sẽ là ngành có lợi thế cạnh tranh do tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước,sử dụng nhiều lao động,có giá trị gia tăng trong nước lớn,tuy nhiên,hiện tại đang bị đe doạ cạnh tranh bởi hàng ngoại nhập nên cần có sự bảo hộ thích đáng của Nhà nước. Bảo hộ ở cấp độ 5:các ngành thuộc nhóm bảo hộ ở cấp độ này dự kiến có Hệ số bảo hộ hiệu quả khoảng 120%_130%,mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 50%,mức thuế cho sản phẩm đầu vào là 10%_15%. Thuộc nhóm này là những ngành công nghiệp “non trẻ” hoặc hiện nay trong nước vẫn chưa xuất hiện nhưng trong tương lai sẽ phát triển trở thành ngành “mũi nhọn” của nền kinh tế,một số ngành có ý nghĩa trọng yếu đảm bảo an toàn cho sự phát triển của nền kinh tế. Đối với các mặt hàng hiện nay đang được bảo hộ bằng biện pháp phi thuế quan (NTB) khi xây dựng mức thuế bảo hộ cho các ngành này nhất thiết phải tiến hành thuế quan hoá các biện pháp phi thuế quan. Để thực hiện được việc này trước hết,chúng ta phải lượng hoá mức độ bảo hộ của hàng rào phi thuế quan,theo công thức sau: Pd - Pw T = _________ x 100% Pw Trong đó: Pw:giá CIF bình quân của mặt hàng nhập khẩu. Pd:giá bán buôn bình quân của loại mặt hàng đó ở thị trường nội địa. Như vậy,sau khi tiến hành thuế quan hoá các biện pháp bảo hộ phi thuế quan thì mức thuế bảo hộ sẽ được nâng lên rất cao do giá trong nước thấp nhưng giá hàng nhập khẩu cùng loại rất cao.Tuy nhiên,để thực hiện sự bảo hộ hiệu quả các ngành kinh tế,đảm bảo cho Biểu thuế thuế nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện nền kinh tế tham gia hội nhập vào các Tổ chức kinh tế quốc tế thì mức thuế hoá không nên để cao hơn mức 100%. Đối với các ngành sản xuất các mặt hàng máy móc thiết bị kỹ thuật cao,nguyên vật liệu sử dụng là đầu vào của các ngành sản xuất trong nước,mà Việt Nam chưa sản xuất được và trong tương lai cũng không có tiềm năng phát triển không nên khuyến khích đầu tư,những mặt hàng mà trong nước đã đảm bảo hoàn toàn nhu cầu không có nhập khẩu thì phải được phân loại thành một nhóm riêng,đặt ngoài vấn đề bảo hộ,với mức thuế suất từ 0% đến 5% tuỳ theo từng trường hợp. Đi liền với việc bảo hộ bằng thuế quan nói trên thì cần kèm theo các điều kiện và thời hạn bảo hộ như sau: Điều kiện bảo hộ: Chất lượng sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn từ ISO 9000 đến ISO 14000. Giá bán sản phẩm phải tương đương với giá khu vực đối với hàng hoá tương tự. Tỷ trọng (%) tối thiểu khối lượng sản phẩm được xuất khẩu (đối với một số ngành hàng). Thời hạn bảo hộ:Hiện nay mức thuế nhập khẩu bình quân đơn giản của Việt Nam là 15,3% so với các nước có chế độ thương mại tương đối tự do là tương đương,nhưng so với các nước trong khu vực vào thời điểm bắt đầu tham gia hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế là tương đối thấp.Việc điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu như đã nêu trên ở những năm đầu của giai đoạn này là nhằm điều chỉnh lại mức thuế suất phù hợp với mức độ bảo hộ hiệu quả cho ngành sản xuất đó chứ không nhằm điều chỉnh tăng thuế.Căn cứ theo mức thuế nhập khẩu hiện nay và hướng điều chỉnh mức thuế theo các cấp độ bảo hộ nêu trên thì mức thuế nhập khẩu bình quân sau khi điều chỉnh có thể vẫn giữ như mức hiện hành là 15%. Đến năm 2006 có thể về cơ bản chúng ta thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế quan theo yêu cầu của AFTA,bước đầu phải giảm thuế với APEC và cũng để tránh mức thuế chênh lệch quá lớn giữa thuế suất với ASEAN và ngoài ASEAN dẫn đến méo mó luồng thương mại,mức thuế suất thuế nhập khẩu bình quân đơn giản sẽ có thể hạ xuống khoảng 13%_14%;năm 2007 là 12% và năm 2010 là 10%. b)Để Biểu thuế ngày càng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế,đi liền với việc điều chỉnh mức thuế suất phù hợp với chiến lược bảo hộ của từng ngành,các mức thuế suất của Biểu thuế thuế nhập khẩu sẽ được sắp xếp lại theo hướng thu hẹp lại các loại mức thuế suất chỉ còn 10 mức,đến năm 2007 sẽ bỏ qui định thuế suất thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá,vì vi phạm Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO. c)Việc phân loại hàng hoá trong Biểu thuế phải hoàn toàn tuân theo cách phân loại của “Danh mục mô tả và mã hoá hàng hoá” (Danh mục HS) của Tổ chức Hải quan Thế giới. 1.3.2_Về xác định trị giá Hải quan: Để chuẩn bị cho việc gia nhập vào Tổ chức thương mại quốc tế WTO chúng ta phải thực hiện các qui định về xác định giá tính thuế theo GATT/WTO.Cụ thể theo định hướng sau: Trước mắt (1_2 năm tới) ta vẫn còn sử dụng Bảng giá tối thiểu,trong đó cần hạn chế danh mục các mặt hàng chịu sự định giá tối thiểu chỉ tập trung vào các mặt hàng sau: Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn. Các mặt hàng có giá trị lớn. Những mặt hàng nằm trong chiến lược bảo hộ cao của Nhà nước. Việc định giá phải được cập nhật thường xuyên và dựa trên các thông tin đầy đủ,chính xác trên thị trường về từng mặt hàng,tránh sự xác định chủ quan,xác định giá quá cao hay quá thấp so với giá thực tế gây khó khăn cho người nhập khẩu hoặc thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Đối với những mặt hàng không thuộc danh mục Nhà nước quản lý giá thì thực hiện tính giá theo hợp đồng. Về lâu dài,chúng ta phải tuân theo qui định về xác định giá tính thuế theo qui định của GATT/WTO,tức là theo giá giao dịch thực (giá hợp đồng) của hàng nhập khẩu. 1.3.3_Thu hẹp miễn giảm thuế: Chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện hành áp dụng chế độ miễn giảm thuế quá rộng rãi đối với hàng nhập khẩu phục vụ trực tiếp an ninh,quốc phòng,hàng phục vụ giáo dục đào tạo,phục vụ nghiên cứu khoa học đã tạo kẽ hở cho việc lách thuế,trốn thuế làm thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Theo qui định hiện nay,việc miễn thuế đối với hàng nhập khẩu phục vụ trực tiếp an ninh quốc phòng phải trên cơ sở Danh mục hàng chuyên dùng được duyệt từ đầu năm.Tuy nhiên,trong Danh mục hàng chuyên dùng ngoài những mặt hàng đặc biệt như:vũ khí,khí tài quân sự còn phần lớn là các mặt hàng tiêu dùng thông thường (như ô tô,xe máy) có thể sử dụng cho đối tượng khác rất phức tạp trong công tác quản lý.Để tránh tình trạng hàng nhập khẩu được miễn thuế nhưng sử dụng sai mục đích thì các Bộ có liên quan khi duyệt Danh mục hàng chuyên dùng nhập khẩu phục vụ an ninh,quốc phòng nên qui định trong đó chỉ bao gồm hàng hoá đặc biệt là vũ khí,khí tài quân sự.Đối với những mặt hàng khác không thuộc Danh mục hàng chuyên dùng thì phải nộp thuế hoặc xử lý ghi thu ghi chi qua Ngân sách Nhà nước. Đối với hàng miễn thuế phục vụ giáo dục đào tạo,chỉ miến thuế đối với những hàng hoá trong nước chưa sản xuất được còn những mặt hàng trong nước đã sản xuất được thì phải nộp thuế. Để bảo vệ sản xuất trong nước,trong hệ thống thuế xuất nhập khẩu cần nghiên cứu ban hành một số loại thuế khác như sau: a)Thuế chống bán phá giá:Loại thuế này nhằm mục đích bảo vệ thị trường nội địa khi nhập những hàng hoá phá giá.Hàng nhập phá giá là những hàng hoá được đưa vào thị trường trong nước với mức giá thấp hơn giá trị thông thường tại nước xuất khẩu.Nhờ thuế chống phá giá mà có thể nâng giá những hàng hoá này lên ngang bằng mức trung bình trên thị trường quốc tế và đảm bảo đem lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Tuy vậy,mức thuế chống bán phá giá cũng không thể vượt quá đại lượng chênh lệch giữa giá bán buôn hàng phá giá ở nước xuất tại thời điểm xuất hàng với giá nhập vào lãnh thổ hải quan của đất nước hoặc là giữa giá của hàng phá giá trong nước với giá trung bình của các nhà nhập khẩu cùng loại. b)Thuế đối kháng (đặc biệt):được áp dụng như một biện pháp bảo vệ trong những trường hợp như sau: Biện pháp bảo vệ thị trường nội địa nếu nhập những hàng hoá với một số lượng nhất định mà gây thiệt hại cho sản xuất trong nước. Hành vi trả đũa hoặc thực hiện trừng phạt đối với những biện pháp phân biệt đối xử của những nước tham gia vào mối quan hệ đối ngoại khi vi phạm lợi ích của nhau hoặc lợi ích của các doanh nghiệp trong nước. Là một phương thức ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không thiện chí của các công ty nước ngoài. Mặc dù trong Luật thuế xuất nhập khẩu đã qui định hình thức thu thuế nhập khẩu bổ sung đối với các trường hợp hàng bán phá giá,hàng được nước xuất khẩu trợ cấp làm cho giá hàng nhập khẩu thấp hơn giá hàng hoá cùng loại trong nước,hàng nhập khẩu từ các nước có phân biệt đối xử với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ Việt Nam.Đây là một hình thức sơ khai của thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng.Tuy nhiên,cần hoàn chỉnh hình thức pháp lý của hai loại thuế trên dưới dạng Luật thuế để điều chỉnh đúng hơn các đối tượng đánh thuế.Điều đó là hoàn toàn cần thiết khi thực hiện lộ trình thuế quan,đồng thời là biện pháp kinh tế mà các điều ước quốc tế công nhận để bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia quan hệ kinh tế quốc tế.Một trong những nguyên tắc quan trọng của tự do hoá thương mại cũng cho phép các nước thành viên được áp dụng một số biện pháp để đảm bảo quyền tự vệ trong một số trường hợp đặc biệt nhằm bảo hộ cho nền công nghiệp trong nước. 1.4_Những tác động tích cực và những thách thức của việc đổi mới chính sách thuế xuất khẩu,nhập khẩu: Tác động tích cực: Đối với sản xuất:Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng hiệu quả hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế và tận dụng những lợi thế,cơ hội của quá trình phân công lao động quốc tế khi Việt Nam tham gia hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế. Đối với xã hội:Thực hiện chính sách bảo hộ có chọn lọc,có điều kiện và có thời hạn đối với các ngành kinh tế sẽ là bước chủ động đưa cạnh tranh thâm nhập đời sống kinh doanh tạo ra sức ép đủ để doanh nghiệp sớm thích ứng với các thách thức không thể né tránh đang đến gần cả thị trường trong và ngoài nước.Ngoài ra,việc hạ thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng còn làm giảm giá bán hàng hoá trên thị trường nội địa đem lại lợi ích cho đa số người tiêu dùng trong nước. Đối với công tác quản lý thuế:Việc xây dựng mức thuế nhập khẩu cho các ngành hàng theo các cấp độ bảo hộ khác nhau (5 cấp độ) trên cơ sở đã thuế hoá các biện pháp phi thuế sẽ tạo ra một biểu thuế nhập khẩu đơn giản với số lượng các mức thuế suất là ít nhất;việc áp dụng giá tính thuế trên cơ sở giá trị giao dịch thực của hàng nhập khẩu theo nguyên tắc của GATT/WTO sẽ tạo ra một chính sách thuế quan đơn giản,rõ ràng,minh bạch phù hợp với thông lệ quốc tế vừa tạo ra tính khả thi khi Việt Nam tiến hành tham gia đàm phán về thuế quan với các tổ chức quốc tế vừa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế. Đối với thu Ngân sách Nhà nước:Từng bước hạ mức thuế suất bảo hộ danh nghĩa và bảo hộ thực tế đối với nhiều mặt hàng nhất là hàng tiêu dùng sẽ làm tăng một cách hợp lý lượng hàng nhập khẩu,làm giảm bớt nạn buôn lậu,hơn nữa với một chính sách bảo hộ hiệu quả sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,...những nhân tố đó sẽ làm tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Những thách thức đối với nền kinh tế: Đối với sản xuất:Việc xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế với mức thuế hoá không cao quá 100% cũng như việc xác định mức thuế bảo hộ hợp lý cho các ngành hàng sẽ tạo ra những thuận lợi cho hàng hoá của nước ngoài thâm nhập vào thị trường trong nước cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nội địa gây sức ép buộc các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải đổi mới công nghệ và sắp xếp lại quản lý để có thể đứng vững trên thị trường.Nền kinh tế đứng trước sự đòi hỏi về vốn rất lớn để đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ. Đối với xã hội:Một số ngành bị hạ thấp mức độ bảo hộ sẽ gặp khó khăn,các doanh nghiệp nếu không có sự năng động đổi mới kịp thời sẽ bị phá sản và xã hội đứng trước nguy cơ nạn thất nghiệp gia tăng. Đối với công tác quản lý:Thực hiện việc đổi mới chính sách thuế quan theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực về mọi mặt đặc biệt là phải có phẩm chất chính trị vững vàng.Tuy nhiên,trình độ cán bộ của ta nói chung còn thấp,chưa quen với cách làm mới,tính thích ứng chưa cao,rất yếu về ngoại ngữ,tin học,... Để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện đổi mới chính sách thuế quan theo những cam kết và thông lệ quốc tế thì cần phải hiện đại hoá công tác thu thập,xử lý và truyền tin.Tuy nhiên,hệ thống truyền dữ liệu và xử lý thông tin của ta hiện chưa được trang bị đồng bộ nên hiệu suất hoạt động thấp. 2_Phương hướng cải cách thuế giá trị gia tăng: 2.1_Nguyên tắc để hoàn thiện thuế giá trị gia tăng: Một loại thuế được coi là hoàn hảo lý tưởng có nghĩa là Luật thuế đó cho phép thu được nhiều về mặt tài chính,thể hiện tính công bằng xã hội,có tác dụng kích thích về kinh tế và đơn giản về nghiệp vụ.Dựa trên nguyên tắc chung đó,chúng ta có thể xác định một số nguyên tắc cụ thể cho việc hoàn thiện thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam như sau: Nguyên tắc hiệu quả: Tính hiệu quả là đòi hỏi quan trọng nhất đối với một sắc thuế,hiệu quả có nghĩa là phải phát huy hết những vai trò vốn có.Nguyên tắc này yêu cầu thuế giá trị gia tăng phải đảm bảo không những nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước mà cả sự ổn định xã hội;khuyến khích sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.Như vậy,thuế giá trị gia tăng phải có diện bao quát rộng,thuế suất giá trị gia tăng phải ảnh hưởng tích cực tới cơ cấu sản xuất,cơ cấu đầu tư,đồng thời phải tránh tình trạng thuế giết thuế (khi mức thuế cao quá mức cần thiết làm cho người sản xuất không có lãi nữa,dẫn đến việc doanh nghiệp ngừng hẳn sản xuất,số thuế đáng ra phải nộp cho Ngân sách không còn nữa). Nguyên tắc bình đẳng: Bình đẳng về thuế là một trong những mục tiêu quan trọng cần đạt tới của mọi chính sách thuế,nhằm làm cho người nộp thuế cảm thấy hợp lý và công bằng khi thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.Có hai mặt thể hiện sự bình đẳng về thuế,đó là: Bình đẳng về chiều ngang đòi hỏi mọi đối tượng có cùng thu nhập phải nộp thuế như nhau. Bình đẳng về chiều dọc yêu cầu các đối tượng có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều,người có thu nhập thấp thì nộp thuế ít. Quá trình hoàn thiện thuế giá trị gia tăng đặt ra yêu cầu là loại thuế này phải đảm bảo công bằng xã hội,thực hiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,mức động viên về thuế phải đảm bảo sự công bằng hợp lý giữa các ngành nghề,giữa các thành phần kinh tế,giữa các tổ chức cá nhân để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh về năng suất,chất lượng và hiệu quả. Nếu như trong sắc thuế có nhiều ưu đãi miễn giảm đối với khu vực kinh tế quốc doanh,doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gắn nhiều mục tiêu xã hội thì sẽ dẫn đến tình trạng hầu như ai cũng muốn được hưởng quyền lợi này và sẽ dẫn đến phản ứng tiêu cực trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.Mặt khác,trên thực tế việc qui định miễn giảm thuế theo chính sách xã hội thực chất là lấy tiền nộp thuế của Ngân sách để trợ cấp cho đối tượng được hưởng chính sách xã hội.Cách giải quyết đó nhìn bên ngoài là thuận tiện khỏi phải qua nhiều thủ tục phiền hà trong việc lấy túi này bỏ túi khác nhưng xét cho cùng,không phản ánh rõ ràng giữa chính sách động viên và chính sách xã hội.Do đó,cần hạn chế chính sách ưu đãi và lồng ghép chính sách xã hội trong sắc thuế giá trị gia tăng để đảm bảo tính trung lập của thuế. Nguyên tắc kế thừa: Vì Việt Nam là nước đi sau nhiều nước trên thế giới trong việc áp dụng thuế giá trị gia tăng (Đức 1968,Phần Lan 1969,Hàn Quốc 1977,Inđônêxia 1985,Đài Loan 1986,Nhật Bản 1988,...) và vì đây là một sắc thuế hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta,do đó,để đảm bảo tính hiệu quả của thuế giá trị gia tăng cần phải nghiên cứu,học tập các nước bạn trong khu vực để áp dụng thuế giá trị gia tăng phù hợp với điều kiện thực tế của nước nhà và từng bước hội nhập chắc chắn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nguyên tắc khả thi: Cơ sở cho việc áp dụng thành công sắc thuế giá trị gia tăng phải dựa trên những lý thuyết khoa học và thực tế kinh tế xã hội của đất nước.Các qui định của chính sách thuế phải phù hợp với khả năng quản lý của cán bộ thuế và khả năng trả thuế của người nộp thuế.Ơ Việt Nam,điều kiện phát triển sản xuất chưa cao,thu nhập của người dân còn thấp,năng lực và trang bị cho cán bộ thuế còn hạn chế,công tác thu thuế phải đơn giản,thích hợp.Như vậy,đảm bảo tính khả thi trong việc hoàn thiện thuế giá trị gia tăng nghĩa là phải hiểu rõ những vướng mắc nảy sinh,có một khuôn khổ thể chế phù hợp và không thể đi chệch hướng khả năng tài chính của đối tượng nộp thuế,đối tượng chịu thuế. Nguyên tắc thống nhất,nhất quán: Để đạt được mục đích áp dụng thuế giá trị gia tăng một cách tốt nhất thì cần phải đảm bảo tính thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau giữa thuế giá trị gia tăng và các sắc thuế khác đặc biệt là các chính sách thuế liên quan như thuế xuất nhập khẩu,thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế tài nguyên và thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặt khác,cần tránh tình trạng nhiều văn bản pháp qui dưới luật lại thiếu nhất quán với luật,gây thắc mắc,lúng túng,dẫn đến coi trọng vai trò thông tư hơn nghị định,pháp lệnh,luật thuế,coi trọng cơ quan hành pháp hơn cơ quan lập pháp và cuối cùng cho rằng chỉ cần thực hiện thông tư là đủ.Nếu không,việc thi hành luật thuế sẽ lỏng lẻo,khó đưa vào nề nếp kỷ cương. 2.2_Hướng hoàn thiện luật thuế giá trị gia tăng đến năm 2005: Việc thực hiện cắt giảm thuế quan (CEPT),về cơ bản đã hoàn thành (đến năm 2006) thuế suất thuế nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu chỉ còn tối đa là 5%;Việt Nam tiếp tục mở rộng và tham gia hội nhập với khu vực và trên thế giới;trong giai đoạn này các ngành dịch vụ sẽ phát triển;đầu tư nước ngoài tăng,đặc biệt là ngành sản xuất,chế biến,chế tạo,...Tổng sản phẩm nông,lâm,ngư chiếm 20_25%/GDP,lao động trong ngành này chiếm 55_60% tổng lao động toàn xã hội.Vì vậy,mục tiêu cụ thể của chính sách thuế nói chung và thuế gián thu đặc biệt thuế giá trị gia tăng nói riêng trong giai đoạn này phải đảm bảo: Thu về thuế giá trị gia tăng là nguồn thu quan trọng trong Ngân sách Nhà nước,tăng về tỷ trọng trong tổng số thuế gián thu nói riêng và thu Ngân sách Nhà nước nói chung để đảm bảo phù hợp với tình hình cắt giảm thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập. Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ đặc biệt là xuất khẩu. Phù hợp với thông lệ quốc tế. Đơn giản hoá chính sách,tăng cường tính trung lập của thuế. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2005 sẽ sửa đổi,bổ sung để hoàn thiện Luật thuế giá trị gia tăng theo nội dung: Về đối tượng chịu thuế:Bổ sung các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất và nhập khẩu,một số sản phẩm,một số dịch vụ xuất khẩu,đảm bảo thực hiện khấu trừ và hoàn thuế đầu vào để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.Đồng thời giảm và hạn chế đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Về thuế suất:giảm số lượng tối đa còn 2 mức thuế suất.Điều chỉnh mức thuế suất để đảm bảo thu Ngân sách Nhà nước trong khi thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu.Mức thuế suất dự kiến (vào năm 2005) là 8% và 10%.Trong đó sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm,dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 8%,còn lại đa số sản phẩm,dịch vụ áp dụng mức thuế suất là 10%.Xem xét áp dụng thuế suất 0% đối với một số dịch vụ xuất khẩu và một số sản phẩm xuất khẩu. Về áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hoá đơn: Phân loại các hộ kinh doanh tư nhân có qui mô nhỏ,thu nhập thấp đưa ra khỏi diện phải nộp thuế giá trị gia tăng.Qui định mức doanh số để xác định đối tượng là hộ kinh doanh nhỏ.Đối với đối tượng này chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức (tỷ lệ %) ấn định trên doanh thu. Thực hiện chế độ kế toán đối với các hộ kinh doanh có qui mô lớn để chuyển dần các đối tượng này sang áp dụng tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế. Đối với các đối tượng khác như hợp tác xã,công ty,...bắt buộc thực hiện chế độ kế toán,hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Về hoá đơn:Giai đoạn đầu đối với đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng,Đối với hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp,hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức thuế ấn định sử dụng hoá đơn bán hàng không ghi thuế giá trị gia tăng.Tiến tới thực hiện qui định doanh nghiệp tự phát hành hoá đơn vào những năm cuối của giai đoạn này (2004_2005).Hoá đơn do các doanh nghiệp phát hành phải đảm bảo các nội dung theo qui định thống nhất của Bộ tài chính. Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:áp dụng việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo qui định khuyến khích việc sử dụng hoá đơn: Khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá dịch vụ mua vào có hoá đơn giá trị gia tăng. Khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá dịch vụ mua vào có hoá đơn bán hàng theo một tỷ lệ % cao hơn đối với trường hợp không có hoá đơn. Khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ % (thấp hơn trường hợp có hoá đơn bán hàng) áp dụng đối với hàng hoá là nông sản,lâm sản,thuỷ sản mua trực tiếp của người sản xuất,khai thác không có hoá đơn. Xoá bỏ các qui định ưu đãi miễn,giảm thuế giá trị gia tăng cho tất cả các đối tượng vào năm 2003. Về thủ tục kê khai,nộp thuế:bỏ qui định cơ quan thuế ra thông báo nộp thuế.Thực hiện qui định doanh nghiệp tự kê khai,tự nộp thuế theo đúng thời hạn qui định. Về hoàn thuế giá trị gia tăng:áp dụng qui định hoàn thuế cho hàng hoá dịch vụ xuất khẩu. 2.3_Hướng hoàn thiện thuế giá trị gia tăng trong giai đoạn 2005_2010: Giai đoạn từ 2005_2010,cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch lớn.Tổng sản phẩm các ngành nông,lâm,ngư chiếm 15_20%/GDP,lao động chiếm từ 40_50% tổng lao động xã hội. Mục tiêu:đảm bảo nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước trong đó thuế gián thu chiếm từ 30% đến 32% trong tổng số thu từ thuế và phí của Ngân sách Nhà nước.Luật thuế giá trị gia tăng đảm bảo thực hiện tham gia hoà nhập một cách đầy đủ (năm 2006 đã hoàn thành cắt giảm thuế nhập khẩu) và mang tính trung lập cao;đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp. Thuế giá trị gia tăng sẽ được hoàn thiện theo hướng: Đối tượng chịu thuế:Cuối giai đoạn này bổ sung đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng các mặt hàng là sản phẩm ở khâu sản xuất nông nghiệp để đảm bảo thực hiện thuế giá trị gia tăng liên hoàn và thống nhất ở tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng bao gồm cả các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt,có nghĩa là các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vừa chịu thuế giá trị gia tăng,đảm bảo bình đẳng giữa khâu khấu trừ thuế giá trị gia tăng với hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Về thuế suất:áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% đối với sản phẩm hàng hoá,dịch vụ (dự kiến vào năm 2003).Cần nói thêm rằng một mức thuế suất được hiểu là không tính đến mức thuế suất 0% dành cho hàng hoá,dịch vụ xuất khẩu. Về phương pháp tính thuế và sử dụng hoá đơn:thực hiện thống nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế;áp dụng chế độ tự phát hành hoá đơn.Hoá đơn được lập theo mẫu qui định thống nhất.Đối tượng các hộ kinh doanh nhỏ đưa ra khỏi đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng,áp dụng thu thuế thu nhập cá nhân. 2.4_Những khó khăn khi áp dụng thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất: Trong giai đoạn chuyển đổi thuế giá trị gia tăng từ hệ thống nhiều mức thuế suất sang hệ thống một mức thuế suất,bên cạnh những thuận lợi là đơn giản hơn và khắc phục được những hạn chế của một Luật thuế giá trị gia tăng nhiều mức thuế suất như đã nêu ở chương I,cũng không phải không có những khó khăn mới phát sinh do áp dụng một mức thuế suất. Khó khăn thứ nhất là do phân phối lại thuế phải thu trong các khâu bằng nhau,nên những khâu trước đây phải thu thấp hơn hiện nay sẽ bị một phần tác động.Số thuế kết chuyển vào gía của hàng hoá trong khâu này sẽ cao hơn trước,giá đầu ra có thuế của hàng hoá,dịch vụ sẽ cao hơn trong khâu này,vì vậy thoạt nhìn có thể nghĩ là giá cả cá biệt của hàng hoá trong khâu này sẽ tăng,làm ảnh hưởng đến doanh số bán hàng và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.Tuy nhiên việc này không hoàn toàn đúng như thế.Trong toàn cục với thuế giá trị gia tăng,nếu khâu này tăng thuế phải nộp thì khâu sau sẽ giảm thuế phải nộp,bởi lẽ thuế đầu ra của khâu trước là thuế đầu vào của khâu sau.Nếu thuế đầu ra của khâu sau ổn định thì thuế phải nộp của khâu sau sẽ giảm và hoàn toàn tương tự với trường hợp ngược lại,để người tiêu dùng cuối cùng cũng chỉ chịu một mức thuế không đổi khi sử dụng hàng hoá,dịch vụ.Một số quan điểm cho rằng khi áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất nên duy trì điều 28 như hiện nay để xử lý cho các doanh nghiệp bị lỗ do phải nộp thuế cao hơn mức cũ.Nhưng thực tế điều này hoàn toàn không cần thiết bởi lẽ như chúng ta đều biết,thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu được kết chuyển vào giá qua từng khâu luân chuyển theo giá trị tăng thêm của khâu đó và người chịu thuế cuối cùng là người tiêu dùng,vì vậy về nguyên lý,việc tăng thuế giá trị gia tăng kết chuyển trong từng khâu sẽ không làm cho doanh nghiệp lỗ đi hay lãi thêm.Kết quả lỗ của doanh nghiệp chỉ do một nguyên nhân đó là chi phí sản xuất cá biệt cao so với những doanh nghiệp cùng loại.Trong hệ thống thuế của chúng ta hiện nay,nếu do kinh doanh lỗ,các doanh nghiệp sẽ được chuyển lỗ sang trừ vào các năm sau,do vậy không nhất thiết phải giải quyết phần lỗ trong Luật thuế giá trị gia tăng bởi không phải nguyên nhân từ đây. Khó khăn thứ hai là tính luỹ thoái của thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất.Một tính chất luôn hiện rõ trong luật thuế gián thu khi tính trung lập tăng lên.Thuế gián thu hay thuế trực thu,suy cho cùng cũng buộc người tiêu dùng phải lấy thu nhập của mình ra trả cho Nhà nước.Trong một hạn định nhất định của các nhu cầu chi tiêu thiết yếu cho đời sống,thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất đã tạo nên hiện tượng người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế trên thu nhập càng thấp,nghĩa là gánh nặng thuế ở những người kiếm được nhiều tiền ít hơn những người kiếm được ít tiền.Người ta gọi hiện tượng này là tính luỹ thoái của thuế giá trị gia tăng.Ví dụ:Một người lao động có thu nhập 3 triệu đồng/tháng.Trong tháng anh ta mua hàng hoá,dịch vụ hết 3 triệu đồng.Giả sử mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là 10% thì số thuế anh ta phải chịu là 300 nghìn đồng.Như vậy anh ta phải bỏ ra 10% thu nhập để trả thuế cho nhu cầu của mình.Trong khi đó một người có thu nhập 20 triệu đồng/tháng,mua hàng hoá,dịch vụ hết 5 triệu đồng,anh ta phải chịu thuế 500 nghìn đồng.Như vậy anh ta chỉ lấy 2,5% thu nhập của mình để trả thuế.Rõ ràng nhu cầu của người có thu nhập cao cao hơn người có thu nhập thấp,song bao giờ tốc độ tăng thu nhập cũng có xu hướng cao hơn tốc độ tăng nhu cầu,vì vậy thu nhập càng cao thì tỷ lệ thuế phải trả so với thu nhập càng thấp.Trong Luật thuế giá trị gia tăng nhiều mức thuế suất thì những hàng hoá cao cấp sẽ chịu mức thuế suất cao hơn và như thế cũng phần nào điều tiết được thu nhập của những người có thu nhập cao,còn trong Luật thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất tính luỹ thoái càng thể hiện rõ. Vấn đề là có nên lưu ý đến tính luỹ thoái của thuế giá trị gia tăng hay không trong khi chúng ta đã có bên cạnh nó một luật thuế thu nhập cá nhân với thiết kế một hệ thống thuế suất luỹ tiến từng phần nhằm điều tiết trên diện rộng các cá nhân có mức thu nhập cao hơn mức bình quân trong cộng đồng?Thực tế,hệ thống thuế là một cơ cấu hoàn chỉnh bổ khuyết và bọc lót lẫn nhau trong việc điều tiết thu nhập phát sinh trong nền kinh tế nhằm mục đích mang lại sự bình đẳng tương đối trong cộng đồng dân cư từng khu vực và lãnh thổ nhất định.Tuy nhiên,mỗi luật thuế,sắc thuế có những đặc thù riêng,có đối tượng điều tiết riêng.Vì vậy sự bình đẳng phải được lưu tâm trong mỗi sắc thuế và trong cả hệ thống thuế.Nói như thế nghĩa là trong Luật thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất phải lưu ý khắc phục tính luỹ thoái của bản thân nó.Muốn vậy nên chăng đưa việc miễn,giảm thuế vào nội dung Luật thuế giá trị gia tăng.Đối tượng được miễn,giảm thuế giá trị gia tăng ở đây không phải là đối tượng nộp thuế,nghĩa là không phải doanh nghiệp hay các tổ chức,cá nhân có hoạt động kinh doanh mà là các đối tượng chịu thuế.Thông thường đối tượng chịu thuế trong Luật thuế giá trị gia tăng là người tiêu dùng cuối cùng,do vậy,việc miễn,giảm thuế cũng chỉ áp dụng cho người tiêu dùng cuối cùng mà thôi.Luật qui định đối tượng được miễn,giảm sẽ được miễn giảm theo định mức cho các hàng hoá,dịch vụ thiết yếu tiêu dùng cho đời sống.Hàng tháng người được miễn,giảm xuất trình các hoá đơn mua hàng thiết yếu có thuế giá trị gia tăng.Cơ quan thuế theo định mức miễn,giảm cho từng đối tượng,hoàn trả lại số thuế giá trị gia tăng mà họ đã nộp cho những hàng hoá thiết yếu mà họ đã mua trong định mức này.Đối tượng được hưởng chế độ miễn,giảm thường là người nghèo,người thất nghiệp và một số nơi còn áp dụng cho các đối tượng trong tiêu chuẩn ngoại giao.Việc miễn giảm này không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp,nó thúc đẩy người được miễn,giảm lấy hoá đơn khi mua hàng.Việc hoàn thuế tuy nhiều nhưng lại phân tán rộng trong nhiều đối tượng,nên lượng thuế hoàn cho mỗi đối tượng ít,do vậy tình trạng gian lận để được hoàn thuế cũng bị hạn chế cả về số lượng cũng như qui mô.Người chịu thuế thông qua việc hoàn thuế này thấy rõ sự quan tâm của xã hội đối với cá nhân mình.Các nhà quản lý có thể thông qua việc xét đối tượng miễn,giảm để đánh giá mức độ giàu nghèo của cộng đồng dân cư và có định hướng cụ thể về chính sách xã hội.Những nước chưa có điều kiện trợ cấp thất nghiệp hay trợ cấp người nghèo có thể thông qua đó mà giảm bớt khó khăn cho thành phần này.Về lâu dài,khi kinh tế đất nước phát triển,thu nhập bình quân của người dân được nâng lên,việc miễn,giảm thuế giá trị gia tăng cũng như việc khắc phục tính luỹ thoái cũng không cần phải đặt ra nữa. Thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất dường như không tạo nhiều cơ hội để Nhà nước thể hiện chính sách mặt hàng cũng như chính sách xã hội của mình.Việc ưu đãi các mặt hàng thuộc nhóm nguyên liệu hay nhóm có ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội nhạy cảm bằng cách đưa vào mức thuế suất thấp dường như không còn nữa.Đây cũng là một hạn chế đương nhiên của một sắc thuế mang tính trung lập cao.Tuy nhiên cũng đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách,các nhà quản lý nên chú trọng đến việc dành những ưu đãi cho ngành,địa phương mình thông qua thuế bởi bất kể những ưu đãi nào cũng là nguyên nhân của các bất bình đẳng cho các đối tượng còn lại.Những ưu đãi phải được nhìn nhận trên bình diện tổng thể để tạo hợp lực mạnh nhất phát triển toàn bộ nền kinh tế đất nước và phải được cân nhắc trong những kế hoạch phân bổ nguồn lực tiết kiệm và hiệu quả theo chương trình nhất định.Không nên luật hoá những ưu đãi kinh tế,bởi lẽ những ưu đãi chỉ là nhất thời,không cố định theo không gian và thời gian. Những tồn tại nêu trên không phải là tất cả những khó khăn phát sinh khi chuyển sang thực hiện thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất.Trong quá trình thực hiện tất yếu sẽ nảy sinh những hạn chế mới so với tiến trình phát triển kinh tế.Trước mắt việc định dạng những khó khăn khi chuyển sang thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng một mức thuế suất sẽ giúp chúng ta có thêm những suy nghĩ khi hoạch định và có thể dự kiến được các động thái tiêu cực khi luật này đi vào cuộc sống để có biện pháp khắc phục tốt hơn những nhược điểm của nó. 3_Phương hướng cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt: 3.1_Hướng hoàn thiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đến năm 2005: Giai đoạn này đã hoàn thành cơ bản việc cắt giảm thuế nhập khẩu.Mục tiêu hoàn thiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt giai đoạn này là đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt giai đoạn này sẽ hoàn thiện theo hướng: Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt:Bổ sung vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt một số sản phẩm hàng hoá như:mỹ phẩm,nước hoa,đá quý,gas ô tô.Xăng ô tô chuyển sang áp dụng thuế giá trị gia tăng. Về thuế suất: Điều chỉnh thuế suất các mặt hàng cho phù hợp và đồng bộ với các Luật thuế xuất nhập khẩu,thuế giá trị gia tăng. Sửa đổi áp dụng một thuế suất thống nhất cho một nhóm sản phẩm,không phân biệt thuế suất theo tính chất,nguồn nguyên liệu hình thành,hình thức của từng loại sản phẩm. Giá tính thuế:Điều chỉnh sửa đổi giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng cho phù hợp để khắc phục bất hợp lý về mức thuế phải nộp chịu ảnh hưởng của yếu tố chi phí. Về miễn giảm thuế:tiến tới xoá bỏ các qui định về miễn giảm thuế cho các đối tượng. 3.2_Hướng hoàn thiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt trong giai đoạn 2005_2010: Giai đoạn này một số mặt hàng nhập khẩu trước đây thuộc danh mục loại trừ cắt giảm thuế nhập khẩu đến nay phải bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu như xăng ô tô,...Vì vậy,hướng hoàn thiện thuế tiêu thụ đặc biệt trong giai đoạn này là tiếp tục mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt,điều chỉnh tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt một số mặt hàng,điều tiết tiêu dùng,đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Về đối tượng chịu thuế:bổ sung vào đối tượng chịu thuế mặt hàng xe máy,đưa ra khỏi đối tượng chịu thuế mặt hàng máy điều hoà nhiệt độ. Về thuế suất:điều chỉnh thuế suất phù hợp với việc thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng,trong đó điều chỉnh tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô và xăng. Nghiên cứu sửa đổi căn cứ tính thuế:căn cứ tính thuế là số lượng sản phẩm và mức thuế tiêu thụ đặc biệt trên sản phẩm (Căn cứ tính thuế đang áp dụng dựa vào 3 yếu tố:số lượng hàng hoá,giá tính thuế và thuế suất). III_Những điều kiện cần thiết để thực hiện thành công sự cải cách trong chính sách thuế của Việt Nam: Trước hết,phải tăng cường công tác tuyên truyền và tư vấn về thuế.Các chương trình thông tin,tư vấn cho đối tượng nộp thuế có thể tiến hành dưới các hình thức sau: Phát hành những ấn phẩm riêng về thuế và phát miễn phí cho đối tượng nộp thuế. Công khai hoá và kịp thời cung cấp những thông tin về thuế thông qua báo chí,đài phát thanh,truyền hình,hướng dẫn đối tượng nộp thuế kê khai thuế và nộp thuế thuận lợi nhất.Công bố một cách công khai và rộng rãi lịch trình cắt giảm thuế quan để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đánh giá đúng những cơ hội và những thách thức để có chương trình thích ứng và tận dụng những cơ hội có được. Thực hiện tư vấn miễn phí qua đường dây điện thoại đặc biệt.Ba đặc điểm quan trọng của hình thức tư vấn này,đó là tính chính xác của thông tin,tác phong lịch sự,nhã nhặn của người trả lời và khả năng dễ dàng tiếp cận với cơ quan thuế. Tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nộp thuế:để thực hiện được điều này,ngoài việc thành lập những văn phòng chính thức ở các địa phương,cũng có thể thực hiện thông qua bưu điện,ngân hàng và thư viện,... Ngoài ra,cũng có thể tiến hành tư vấn dưới các hình thức thư tín (đối với những trường hợp đặc biệt),tổ chức các buổi hội thảo,các lớp đào tạo. Như vậy,để có thể nâng cao ý thức về nghĩa vụ thuế của công dân,ý thức tự nguyện tuân thủ các luật thuế,giảm tối đa những trường hợp lơ là hoặc không tuân thủ do không hiểu rõ pháp luật về thuế,việc cung cấp thông tin,tiếp xúc,giải thích và tư vấn cho các đối tượng nộp thuế trở nên hết sức quan trọng và cần thiết.Đặc biệt trong giai đoạn tới,khi Việt Nam gia nhập WTO,để các luật thuế phát huy được tác dụng thì công tác tuyên truyền,tư vấn về thuế cần được coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa,tạo được sự đồng tình,nhất trí của mọi người dân. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ,nhịp nhàng giữa các Bộ,Ngành trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển ngành rõ ràng,ổn định. Loại bỏ dần các kiểm soát ngoại hối và áp dụng một chính sách tỷ giá hối đoái có tính chất thị trường hơn,cùng với việc cơ cấu lại trên qui mô lớn hệ thống tài chính. Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ về mọi mặt để có được một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao và phẩm chất tốt. Tăng cường trang bị các phương tiện kỹ thuật một cách đồng bộ nhằm hiện đại hoá hệ thống thu thập,xử lý và truyền dẫn thông tin để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý và thu thuế.Tổ chức đăng ký thuế theo mã số riêng đối với mọi cơ sở kinh doanh thông qua hệ thống máy vi tính. Để áp dụng thành công hệ thống máy tính trong quản lý thuế,tạo điều kiện cho công tác tổ chức quản lý thuế đạt hiệu quả,cần phải có biện pháp thống nhất trong việc xác định đối tượng nộp thuế.Điều này có nghĩa là phải tổ chức đăng ký thuế theo mã số riêng cho mọi đối tượng nộp thuế thống nhất trên phạm vi cả nước.Để đảm bảo hiệu quả thực tế,trước tiên có thể áp dụng cho các đơn vị kinh doanh lớn,sau đó mở rộng dần ra các đơn vị kinh doanh vừa và nhỏ.Mỗi đối tượng nộp thuế nhất thiết phải được mã hoá bằng một số hiệu được xác định một cách thống nhất và hoàn toàn không lệ thuộc vào hình thức hoạt động là doanh nghiệp quốc doanh,ngoài quốc doanh hay hộ cá thể,cũng như không phụ thuộc vào ngành nghề hoạt động. Việc lập mã số cho từng đối tượng nộp thuế cần đảm bảo một số nguyên tắc cơ bản sau đây: Một mã số riêng được sử dụng cho một đối tượng nộp thuế duy nhất,không phụ thuộc vào hình thức doanh nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh,...),không phụ thuộc vào các hoạt động kinh tế cũng như nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp đó. Một mã số được sử dụng liên tục. Một mã số được sử dụng vĩnh viễn,không thay đổi cho một đơn vị kinh doanh,kể cả trong trường hợp họ thay đổi ngành nghề,địa điểm hoạt động,... Một mã số sử dụng cho một doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp này có nhiều chi nhánh). Mã số nói trên được ghi vào sổ danh bạ và hồ sơ thuế và được sử dụng như chiếc chìa khoá trên máy vi tính.Nó giúp cơ quan thuế quản lý tốt các hồ sơ thuế,có thể tìm ra nhanh chóng,đầy đủ các tư liệu có liên quan đến đối tượng nộp thuế;đồng thời phát hiện kịp thời những đối tượng không khai báo thuế. Trước khi thực hiện máy tính hoá công tác thuế,cần phải có một số bước chuẩn bị về cơ cấu tổ chức quản lý thuế.Những vấn đề về mặt tổ chức cần được xem xét là: Việc xác định đối tượng nộp thuế được tiến hành như thế nào?Nên áp dụng cùng một mã số cho tất cả các loại thuế hay áp dụng mỗi mã số cho từng loại thuế? Người nộp thuế xác định và nộp số thuế của họ như thế nào?Liệu người nộp thuế được phép nộp tờ khai và tiền thuế tại cơ quan thuế,ngân hàng,Kho bạc Nhà nước hay chỉ được nộp một trong những nơi trên. Các thông tin về thuế được thu thập và kiểm tra như thế nào?Những thông tin về thuế được lưu trữ trong máy tính của cơ quan thuế địa phương hay tại nơi thanh toán thuế (nếu nơi này không phải là cơ quan thuế,ngân hàng,Kho bạc Nhà nước) hay tại trụ sở của cơ quan thuế.Những dữ liệu này được kiểm tra ở cấp địa phương,ở nơi thanh toán thuế hay tại trụ sở của cơ quan thuế?Các cục thuế tỉnh,thành phố và tổng cục thuế có cần theo dõi một số đơn vị điển hình không,theo ngành nghề,theo mức doanh thu,mức thuế hay theo thành phần kinh tế. Hệ thống xử lý tờ khai các loại thuế khác nhau được thiết kế như thế nào?Liệu hệ thống xử lý tờ khai thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế giá trị gia tăng,thuế xuất khẩu,nhập khẩu,... có giống nhau hay không? Để giải đáp được những câu hỏi nêu trên,cần phải căn cứ vào thực trạng của cơ chế quản lý thuế hiện hành.Tuy nhiên,những biện pháp tối ưu để đạt được mục tiêu dài hạn lại thường không phát huy hiệu quả trong ngắn hạn.Chẳng hạn,mục tiêu dài hạn là mỗi mã số chỉ được cấp cho một đối tượng nộp thuế;để đạt được mục tiêu này thì trước mắt nên phân đoạn cho việc áp dụng mã số:trước hết chỉ áp dụng đối với những đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng,sau đó mới áp dụng cho các đối tượng nộp các thứ thuế khác,... Khi có một cơ cấu quản lý thuế phù hợp,thì việc trang bị và sử dụng máy tính mới thực sự phát huy tác dụng.Hệ thống máy tính này sẽ bao gồm các bộ phận sau: Bộ phận đăng ký đối tượng nộp thuế. Bộ phận kế toán. Bộ phận kiểm soát những sai phạm về mặt số học. Bộ phận kiểm soát những đối tượng không đăng ký thuế. Bộ phận quản lý việc hoàn trả thuế. Bộ phận lựa chọn những đối tượng bị kiểm toán. Bộ phận kiểm soát và xử lý phạt các vi phạm. Kết luận Các Luật thuế và các chính sách thuế nói chung (Luật thuế xuất khẩu,nhập khẩu;Luật thuế tiêu thụ đặc biệt,...) cũng như các Luật thuế và chính sách thuế mới (Luật thuế giá trị gia tăng,...) được triển khai tích cực,đồng bộ,đưa nhanh vào cuộc sống và trên thực tế đã đưa lại những kết quả to lớn trên cả 3 mặt,đó là:góp phần phát triển sản xuất kinh doanh,đẩy mạnh xuất khẩu,đầu tư,tăng thu Ngân sách Nhà nước và từng bước đảm bảo bình đẳng,công bằng xã hội,cải thiện đời sống. Có thể thấy rõ,trong nhiều năm qua việc triển khai các luật thuế diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động,khó khăn và thách thức lớn,song kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.Xuất khẩu đạt khá,tổng giá trị hàng xuất khẩu năm 1999 tăng 23,3%,năm 2000 tăng 25%,năm 2001 tăng 4,5% và năm 2002 trong điều kiện nhiều khó khăn dự báo vẫn tăng 7%. Chính sách kinh tế nói chung,chính sách thuế nói riêng hình thành từ cuộc sống và thông qua thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh mà từng bước bổ sung,hoàn thiện.Các Luật và chính sách thuế mới,trong đó có Luật thuế lần đầu tiên áp dụng ở nước ta như Luật thuế giá trị gia tăng,được xây dựng,triển khai trong nền kinh tế chuyển đổi,hội nhập,không ít khó khăn,thách thức,rất cần được kịp thời bổ sung,hoàn thiện.Ngay sau gần một năm thực hiện,Quốc hội cũng đã yêu cầu sơ kết đánh giá một năm thực hiện các Luật thuế mới,nhất là thuế giá trị gia tăng nhằm phát huy mặt tích cực,xử lý kịp thời các khó khăn trong thực tế để tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển,...Một trong những Luật thuế có đối tượng điều chỉnh rộng,tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội là thuế giá trị gia tăng,hiện đã và đang được sửa đổi,bổ sung một số qui định,giải quyết cơ bản những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện.Nhưng cho đến nay vẫn còn những vấn đề tồn tại,bất cập,cần xem xét xử lý.Bên cạnh đó,các Luật thuế ra đời cách đây một thập kỷ (Luật thuế xuất khẩu,nhập khẩu,thuế tiêu thụ đặc biệt,...) đã có những tác động tích cực đến hoạt động sản xuất,kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp cũng như đóng góp một phần không nhỏ trong tổng thu Ngân sách Nhà nước và vẫn còn những kẽ hở_con đường cho “những kẻ làm ăn bất chính” lợi dụng,gây tổn thất không nhỏ cho Ngân sách,bóp méo nhiều tiến bộ trong các chính sách thuế.Chính vì vậy,các Bộ,Ngành cần phối hợp kịp thời có các biện pháp chỉnh sửa để bịt ngay các kẽ hở dễ bị lợi dụng,đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng để mọi đối tượng nộp thuế hiểu,thực hiện nghiêm và tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ thuế,hải quan,...,đi đôi với xử lý thật nghiêm những người vi phạm Luật thuế và chính sách thuế.Đó là yêu cầu của sự phát triển,là đòi hỏi của cuộc sống,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của mình. Danh mục tài liệu tham khảo 1_Các văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu,nhập khẩu;VAT;thuế tiêu thụ đặc biệt. 2_Tạp chí tài chính số 3,5,6,7 năm 2002. 3_Thời báo tài chính Việt Nam số 67,80,85,87,90,91,92,95,96,98,99, 101, 102,103,112,113,114,115,119,125,133,136 năm 2002. 4_Tạp chí thương mại số 3,4,8,9,17,19,26 năm 2002. 5_Báo Hải quan số 63,65,68 năm 2002. 6_Trần Xuân Thắng_Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001_2010,Tổng cục thuế,Hà Nội 2000. 7_Đỗ Đức Minh_Hoàn thiện chính sách thuế trong điều kiện hội nhập,Viện nghiên cứu tài chính,Hà Nội 2002. 8_Nguyễn Minh Phong_Chống thất thu thuế_Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn Việt Nam,Viện nghiên cứu tài chính,Hà Nội 2001. 9_Bùi Thiên Sơn_Sử dụng công cụ thuế góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững,Viện nghiên cứu tài chính,Hà Nội 2000. 10_Vũ Quỳnh Hương_Thuế giá trị gia tăng_Những vấn đề nảy sinh khi áp dụng và giải pháp xử lý,Viện nghiên cứu tài chính,Hà Nội 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19377.doc
Tài liệu liên quan